Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Vấn đề dân tộc, vấn đề giai cấp trong tưởng của hồ chí minh và sự giải quyết vấn đề này của đảng và nhà nước hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.23 KB, 26 trang )

Vấn đề dân tộc đã được Mác , Ăng ghen và lê nin quan tâm rất
nhiều . Nhưng có sự khác nhau trong quan điểm của Hồ Chí Minh
và quan điểm của Mác-Ăngghen-Lê Nin. Chủ nghĩa Mác –Lê Nin
đề cao vấn đề giai cấp, xem vấn đề dân tộc chỉ là thứ yếu . Theo
Mác , Ăngghen chỉ có giai cấp vô sản mới thống nhất được lợi ích
dân tộc- lợi ích của mình và lợi ích của nhân dân lao động và của cả
dân tộc , chỉ có xóa bỏ áp bức bóc lột, đem lại độc lập cho dân tộc
mình và cho dân tộc khác . Mác và Ăngghen không đi sâu vào
nghiên cứu vấn đề dân tộc. Còn ở Hồ Chí Minh :Vấn đề dân tộc gắn
bó mật thiết với vấn đề giai cấp , không có giai cấp chung chung
đúng ngoài dân tộc , hai vấn đề này liên hệ mật thiết với nhau một
cách biện chứng,Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc , đề cao
sức mạnh chủ nghĩa yêu nước, nhưng Người luôn đứng trên lập
trường giai cấp để giải phóng vấn đề dân tộc .Dựa trên cơ sở quan
điểm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin và mối quan hệ biện chứng giữa
dân tộc và giai cấp , Hồ Chí Minh đã đưa ra những quan điểm sáng
tạo , góp phần bổ sung và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê
Nin .Theo Người thì ở các nước thuộc địa thì “chủ nghĩa dân tộc là
một động lực lớn của đất nước” đối với Hồ Chí Minh chủ nghĩa dân
tộc chân chính và chủ nghĩa dân tộc vô sản quốc tế thống nhất với
nhau. Đầu tiên ta sẽ sơ lược quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin
về vấn đề dân tộc . Dân tộc là vấn đề rộng lớn, bao gồm những
quan hệ về chính trị, kinh tế, lãnh thổ, pháp lý, tư tưởng và văn hoá
giữa các dân tộc, các nhóm dân tộc và bộ tộc. Theo quan điểm của
Chủ nghĩa Mác-Lênin, dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển
lâu dài của lịch sử. Mác-Ăngghen đã đặt nền móng tư tưởng cho
việc giải quyết vấn đề dân tộc một cách khoa học. Hình thức cộng
đồng tiền dân tộc như thị tộc, bộ tộc, bộ lạc. Sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản dẫn đến sự ra đời của các dân tộc tư bản chủ nghĩa.
Chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các nước
đế quốc thi hành chính sách vũ trang xâm lược,cướp bóc, nô dịch


các dân tộc nhỏ từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa. Mác và
Ăngghen nêu lên quan điểm cơ bản có tính chất phương pháp luận
để nhận thức và giải quyết vấn đề nguồn gốc, bản chất của dân tộc,
những quan hệ cơ bản của dân tộc, thái độ của giai cấp công nhân
và Đảng của nó về vấn đề dân tộc. Lênin đã phát triển quan điểm
này thành hệ thống lý luận toàn diện và sâu sắc về vấn đề dân tộc,
1


làm cơ sở cho cương lĩnh, đường lối, chính sách của các Đảng
Cộng sản về vấn đề dân tộc. Trong đó đáng chú ý là các vấn đề:
Thứ nhất là sự thức tỉnh ý thức dt, phong trào đấu tranh chống áp
bức dt sẽ dẫn đến hình thành các quốc gia dt độc lập.Thứ hai là với
việc tăng cường và phát triển các mối quan hệ giữa các dt sẽ dẫn tới
việc phá hủy hàng rào ngăn cách giữa các dt, thiết lập sự thống nhất
quốc tế của CNTB, của đời sốngKT-CT-XH . . .
Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh đã dành trọn cho nhân dân, cho
đất nước, cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng con người, giải phóng
nhân loại cần lao, thoát khỏi mọi áp bức, bất công, vươn tới cuộc
sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Cũng chính vì vậy mà vần đề
dântộc và giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam đã
được Người quan tâm, nung nấu suốt cả đời. Vấn đề dân tộc theo tư
tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề dân tộc thuộc địa. Khi các nước đế
quốc đi xâm chiếm thuộc địa để mở rộng thị trường, chúng thực
hiện sự áp bức về chính trị, bóc lột về kinh tế, nô dịch về văn hoá
đối với các nước bị xâm chiếm- thì vấn đề dân tộc trở thành vấn đề
dân tộc thuộc địa.Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu
tranh giải phóng dân tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của
nước ngoài, giành độc lập dân tộc, xoá bỏ ách áp bức, bóc lột thực
dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước dân tộc

độc lập. Vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại
cách mạng vô sản đầu thế kỷ XX có mấy luận điểm cơ bản sau:
Thứ nhất là độc lập, tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm
của các dân tộc. Thứ hai là giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam một nước thuộc địa nửa phong kiến, trước hết phải tiến hành cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đuổi quân xâm lược, đánh đổ
bọn tay sai, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hoà bình
và thống nhất đất nước. Độc lập, tự do, hoà bình và thống nhất đất
nước là khát vọng cháy bỏng của người dân mất nước. Bởi, mất
nước là mất tất cả. Sống trong cảnh nước mất, nhà tan, mọi quyền
lực nằm trong tay quân xâm lược và bọn tay sai thì quyền sống của
con người cũng bị đe doạ chứ nói gì đến quyền bình đẳng, tự do,
dân chủ của mọi người. Nếu có, đó chỉ là thứ tự do cướp bóc, bắt
bớ, giết hại và tù đày của quân xâm lược và bọn tay sai. Chính vì
vậy mà “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, một trong những tư

2


tưởng lớn của Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam đã trở thành
chân lý của dân tộc Việt Nam và của cả nhân loại có lương tri. Độc
lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân – tư tưởng đó của Hồ Chí Minh
đã trở thành mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng
đó được quán triệt trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam và
nó được thể hiện nổi bật trong các thời điểm có tính bước ngoặt lịch
sử. Tất cả các dân tộc trên thế giới phải được độc lập hoàn toàn và
thật sự. Độc lập trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại
giao, toàn vẹn lãnh thổ. Mọi vấn đề của chủ quyền quốc gia do dân
tộc đó tự quyết định. Theo Hồ Chí Minh độc lập tự do là khát vọng
lớn nhất của các dân tộc thuộc địa và theo nguyên tắc: Nước Việt
Nam là của người Việt Nam, do dân tộc Việt Nam quyết định, nhân

dân Việt Nam không chấp nhận bất cứ sự can thiệp nào từ bên
ngoài. Trong nền độc lập đó mọi người dân đều ấm no, tự do, hạnh
phúc, nếu không độc lập chẳng có nghĩa gì. Hồ Chí Minh nói:
“chúng ta đã hy sinh, đã giành được độc lập, dân chỉ thấy giá trị của
độc lập khi ăn đủ no, mặc đủ ấm”. Tư tưởng này thể hiện tính nhân
văn cao cả và triệt để cách mạng của Hồ Chí Minh. Độc lập tự do là
quyền tự nhiên của dân tộc, thiêng liêng và vô cùng quý giá. Hồ
Chí Minh đã tiếp xúc với Tuyên ngôn độc lập của Mỹ 1776 và
Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp 1791, Người đã
khái quát chân lý: “Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều có
quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung
sướng và quyền tự do”. Trong hành trình tìm đường cứu nước cho
dân tộc khi còn ở Pháp Nguyễn Ái Quốc đấu tranh để đòi các quyền
cho nhân dân An Nam:
Một là đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản
xứ Đông Dương như đối với châu Âu, xoá bỏ chế độ cai trị bằng
sắc lệnh, thay thế bằng chế độ đạo luật.
Hai là, đòi quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân, tự do
ngôn luận, tự do báo chí, hội họp, tự do cư trú ... Ngày 18/6/1919,
Nguyễn Ái Quốc thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại
Pháp gửi đến hội nghị Véc-xây bản yêu sách của nhân dân An-nam
đòi quyền bình đẳng cho dân tộc Việt Nam. Bản yêu sách không
được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc rút ra bài học: Muốn bình đẳng
3


thực sự phải đấu tranh giành độc lập dân tộc- làm cách mạng, muốn
giải phóng dân tộc chỉ có thể trông cậy vào chính mình, vào lực
lượng của bản thân mình. Điều này thể hiện ở mục tiêu của cách
mạng Việt Nam là: Đánh đổ Đế quốc Pháp và phong kiến, làm cho

nước Nam hoàn toàn độc lập. Sau Cách mạng Tháng 8 thành công,
Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập và khẳng định: “Nước
Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một
nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả
tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ quyền tự do độc
lập ấy”. Hoà bình chân chính trong nền độc lập dân tộc để nhân
dân xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cũng là quyền cơ bản của
dân tộc. Hoà bình không thể tách rời độc lập dân tộc, và muốn có
hoà bình thật sự thì phải có độc lập thật sự. Hồ Chí Minh đã nêu:
“Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hoà bình. Nhưng nhân
dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ độc
lập và chủ quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc
và độc lập cho đất nước”. Chân lý có giá trị cho mọi thời đại:
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Độc lập dân tộc phải gắn
liền với sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Như chúng ta thấy rằng chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn
ở các nước đang đấu tranh giành độc lập. Do kinh tế lạc hậu, sự
phân hoá giai cấp chưa triệt để, vì thế “cuộc đấu tranh giai cấp
không diễn ra giống như ở phương Tây”, điều này có ý nghĩa đối
với các dt phương đông: có sự tương đồng lớn, dù là ai, cũng đều là
nô lệ mất nước. Chủ nghĩa dt bản xứ là chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa dt chân chính, động lực to lớn để phát triển đất nước. Khác
với chủ nghĩa xô vanh, chủ nghĩa dt hẹp hũi của các nước tư bản.
Do kinh tế chưa phát triển, nên sự phân hóa giai cấp ở Đông Dương
chưa triệt để, sự dấu tranh gc không giống như ở Phương Tây.
NAQ kiến nghị quốc tế cộng sản "phát động chủ nghĩa dt bản xứ
nhân danh quốc tế cộng sản ...KHi chủ nghĩa dt của họ thắng
lợi...nhất định chủ nghĩa dt ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế".
Nói về vấn đề giai cấp, bằng quan điểm duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, một cách khoa học vai trò của các giai cấp trong

lịch sử loài người,trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, vấn đề giai
4


cấp được trình bày rõ ràng và rất toàn diện. Ở đây toàn bộ các nội
dung khác nhau của quan niệm duy vật về lịch sử đã kết tinh trong
học thuyết về giai cấp, được vận dụng vào việc vạch ra, chứng
minh quy luật đấu tranh giai cấp đã tất yếu đưa đến cuộc đấu tranh
giữa vô sản và tư sản trong xã hội tư bản.
*Học thuyết giai cấp chỉ ra rằng, đấu tranh giai cấp bao giờ cũng là
đấu tranh giữa những kẻ áp bức và những người bị áp bức, chúng
luôn đối kháng và tiến hành một cuộc đấu tranh không ngừng, lúc
công khai, lúc ngấm ngầm. Đó là đấu tranh giữa “người tự do và
người nô lệ, qúi tộc và bình dân, chúa đất và nông nô, thợ cả và
phường hội thợ bạn, giữa vô sản và tư sản”.
* Đấu tranh giai cấp trải qua những giai đoạn khác nhau và mang
những hình thức khác nhau. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ thì đó là
cuộc đấu tranh giữa “nô lệ và người tự do” trong xã hội phong kiến
thì đó là cuộc đấu tranh giữa quí tộc và bình dân, giữa chúa đất và
nông nô, trong chế độ tư bản chủ nghĩa là cuộc đấu tranh giữa vô
sản và tư sản. Mác và Ănghen khẳng định “Tất cả những giai cấp
trước kia sau khi chiếm được chính quyền đều ra sức củng cố địa vị
mà họ đã nắm được bằng cách bắt toàn bộ xã hội phải tuân theo
những điều kiện đảm bảo cho phương thức chiếm hữu của chính
chúng”.
* Nguyên nhân trực tiếp của đấu tranh giai cấp được Mác và
Ănghen chỉ ra là do đối kháng về lợi ích giữa giai cấp áp bức, thống
trị và giai cấp bị áp bức, bị thống trị. Tất cả những cuộc đấu tranh
giai cấp diễn ra trong các xã hội trước kia đều mưu lợi ích cho thiểu
số, đều nhằm bảo vệ, củng cố, thực hiện địa vị, lợi ích, phương thức

chiếm hữu của thiểu số. Còn trong xã hội tư sản, cuộc đấu tranh của
giai cấp chống lại giai cấp tư sản là vì lợi ích của đại đa số của
những người bị áp bức. Tuy nhiên “nguyên nhân sâu xa của đấu
tranh giai cấp là do sự phát triển của lực lượng sản xuất” trong điều
kiện nhất định đã làm thay đổi các mối quan hệ giữa người và
người trong sản xuất, quy định những hình thức khác nhau chế độ
tư hữu

5


* Đấu tranh giai cấp được xem là động lực, qui luật phát triển của
xã hội có giai cấp. Qui luật ấy vạch ra con đường chung, tất yếu của
sự phát triển lịch sử, xét về phương diện xã hội, con người. Mác và
Ănghen khẳng định “Lịch sử của tất cả các xã hội tồn tại từ trước
đến ngày nay đều diễn ra trong những đối kháng giai cấp” Và
“Những đối kháng ấy mang những hình thức khác nhau tùy từng
thời đại”. Quá trình ấy diễn ra thông qua các kết cấu xã hội nhất
định, những giai đoạn kế tiếp nhau theo xu hướng đi lên, dựa trên
sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, phương thức sản
xuất và bao giờ cũng kết thúc hoặc bằng một cuộc cải tạo cách
mạng toàn bộ xã hội, hoặc bằng sự diệt vong của hai giai cấp đấu
tranh với nhau trong toàn bộ quá trình ấy, cuộc đấu tranh giữa vô
sản và tư sản là kết quả hợp quy luật, hợp logic của nó
Vậy có thể nói học thuyết về giai cấp trong Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản có nội dung cơ bản là học thuyết về quy luật đấu tranh giai
cấp với tư cách là một trong các qui luật xã hội quan trọng nhất của
sự phát triển lịch sử loài người nói chung. Ở đây đấu tranh giai cấp
được giải thích gắn liền với mỗi giai đoạn phát triển của sản xuất
vật chất, phương thức sản xuất, cụ thể hơn là lực lượng sản xuất và

chế độ sở hữu với ống nhất, một lợi ích dân tộc thống nhất mang
tính giai cấp và một hàng rào thuế quan thống nhất”
Tuy nhiên do bản chất giai cấp vốn có, giai cấp tư sản khi đã thành
giai cấp thống trị luôn luôn dùng mọi thủ đoạn để bóc lột giá trị
thặng dư đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động nói
chung. Chủ nghĩa dân tộc do giai cấp tư sản khởi xướng đã trở
thành chủ nghĩa dân tộc cực đoan, dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi,
phân biệt kỳ thị dân tộc. Vì vậy giai cấp tư sản không thể đại diện
cho lợi ích của toàn thể nhân dân và của toàn thể dân tộc.
Bên cạnh đó kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa
quốc tế là điều rất quan trọng . Dưới ánh sáng của CNMLN khi Hồ
Chí Minh bàn đến vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
thì độc lập dân tộc phải gắn với CNXH, mối quan hệ dân tộc và giai
cấp được đặt ra. Vấn đề dân tộc bao giờ cũng được nhận thức và
6


giải quyết theo lập trường của một giai cấp nhất định. Theo quan
điểm của CNMLN, chỉ trên lập trường của giai cấp vô sản, cách
mạng vô sản mới giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc. Trong Tuyên
ngôn Đảng cộng sản, Mác-Ăngghen đã đề cập mối quan hệ dân tộc
và giai cấp: cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nhằm lật đổ ách
thống trị của giai cấp tư sản, ở giai đoạn đầu của nó là mang tính
chất dân tộc. Mác kêu gọi “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải
giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải
tự mình trở thành giai cấp dân tộc,... không phải theo cái nghĩa như
giai cấp tư sản hiểu”. Cũng theo Mác –Ăngghen, chỉ có giai cấp vô
sản mới thống nhất được lợi ích dân tộc- lợi ích của mình với các
lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Chỉ có xoá bỏ áp

bức, bóc lột giai cấp thì mới xoá bỏ áp bức dân tộc, đem lại độc lập
thật sự cho dân tộc mình và cho dân tộc khác. Tuy nhiên, Mác và
Ăngghen không đi sâu nghiên cứu vấn đề dân tộc vì ở Tây Âu vấn
đề dân tộc đã được giải quyết trong cách mạng tư sản, đối với Mác,
vấn đề dân tộc chỉ là thứ yếu so với vấn đề giai cấp. Thời đại Lênin,
khi CNĐQ đã trở thành một hệ thống thế giới, cách mạng giải
phóng dân tộc trở thành bộ phận của cách mạng vô sản, Lênin mới
phát triển vấn đề dân tộc thành học thuyết về cách mạng thuộc địa.
Lênin cho rằng, cách mạng vô sản ở chính quốc không thể giành
thắng lợi nếu không liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị
áp bức ở thuộc địa. Khẩu hiệu của Mác được bổ sung: “vô sản toàn
thế giới và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại.” Lênin đã thực sự
“đặt tiền đề cho một thời đại mới, thật sự cách mạng trong các nước
thuộc địa.”
Hồ Chí Minh, từ chủ nghĩa yêu nước đến với CNMLN, đã
nhận thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa dân tộc và giai cấp, dân
tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lựa chọn cách
mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Hồ Chí
Minh nêu, các nước thuộc địa phương Đông không phải làm ngay
cách mạng vô sản, mà trước hết giành độc lập dân tộc. Có độc lập
dân tộc rồi mới bàn đến cách mạng XHCN. Từ thực tiễn của đấu
tranh cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã phê phán quan điểm của các
đảng cộng sản Tây Âu không đánh giá đúng vai trò, vị trí, tương lai
của cách mạng thuộc địa, và Nguyễn Ái Quốc đi đến luận điểm:
7


“Các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức mình là chính, đồng thời
biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân
lao động thế giới để phải đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, từ

cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên làm cách mạng XHCN.” Tư
tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp dân tộc với giai cấp, dân tộc với
quốc tế, độc lập dân tộc với CNXH thể hiện một số điểm
sau:
Độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh thấy rõ mối
quan hệ giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với sự nghiệp giải phóng
giai cấp của giai cấp vô sản.“Cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể
là sự nghiệp của CNCS và của cách mạng thế
giới”.
Năm 1930, trong chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, Hồ Chí
Minh xác định con đường của cách mạng Việt Nam phải trải qua
hai giai đoạn: làm “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Năm 1960, Hồ Chí Minh xác
định “chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được các dân tộc bị áp
bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó giữa độc lập dân tộc và CNXH
vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc
trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng
khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với các mục tiêu giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Do đó “giành
được độc lập rồi phải tiến lên CNXH, vì mục tiêu của CNXH là
“làm sao cho dân giàu, nước mạnh”, “là mọi người được ăn no, mặc
ấm, ai cũng được học hành”
Thực hiện được ước nguyện đó, theo Hồ Chí Minh chính là
nhằm giải quyết một cách triệt để và thiết thực vấn đề dân tộc ở một
nước thuộc địa nửa phong kiến. Thế nhưng đi về đâu và xây dựng
một xã hội như thế nào để thực hiện được ước nguyện đó nhân dân
các dân tộc Việt Nam cũng như cho cả nhân loại bị áp bức, bóc lột?
Đó là điều trăn trở, ưu tư không chỉ ở Hồ Chí Minh mà ở tất cả

những người có lương tri, trọng đạo lý, trọng nghĩa tình khác. Sự
bắt gặp và điểm tương đồng trong tư duy giữa Hồ Chí Minh với
8


những người sáng lập ra học thuyết cách mạng và khoa học của thời
đại cũng chính là ở chỗ đó. Chứng kiến cảnh sống lầm than, khổ
cực, bị bóc lột tới thậm tệ của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động ở thuộc địa và chính quốc, chứng kiến cảnh sống trái ngang
của bọn tư sản, thực dân giàu có và gian ác, nên con đường giải
phóng xã hội, giải phóng con người mà cả Hồ Chí Minh và C. Mác,
Ph. Ăngghen, V. I. Lênin đều khẳng định là phải tiến lên chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản, chứ không phải là đi theo con đường
tư bản chủ nghĩa, càng không phải là quay trở lại chế độ phong
kiến. Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định trước sau như
một, là chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có đủ cơ sở và điều kiện để
thực hiện công cuộc giải phóng con người một cách triệt để và thiết
thực. Tức là thực hiện được đầy đủ các quyền của con người, trong
đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của tất
cả mọi người.
Cũng chính vì vậy mà con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và độc lập
phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, và là mục tiêu chiến lược trong sự nghiệp
cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam suốt hai phần ba thế kỷ và
mãi mãi về sau. Xuất phát từ hoàn cảnh của Việt Nam, đi lên chủ
nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, hậu quả của bọn
thực dân, phong kiến để lại rất nặng nề nên Hồ Chí Minh cho rằng:
“Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày
càng sung sướng, ai nấy được học hành, ốm đau có thuốc, già
không lao động thì được nghỉ, những phong tục tập quán không tốt

dần dần được xoá bỏ… tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày
càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”
Ngoài ra phải thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc và
đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ trong đại gia đình các dân
tộc Việt Nam.
Lịch sử của Việt Nam đã chứng minh trong cộng đồng các dân tộc
ở nước ta khồng hề có dân tộc lớn (dân tộc nhiều người) đi áp bức,
bóc lột dân tộc nhỏ (dân tộc ít người), mà quan hệ giữa các dân tộc
với nhau là quan hệ anh em, ruột thịt. Truyền thống quý báu đó của
dân tộc Việt Nam như Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Đồng bào
Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Giarai hay Êđê, Xơđăng hay
9


Bana… đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng
ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, nó đói giúp nhau.”
Bên cạnh việc lên án thủ đoạn đê hèn của bọn thực dân, phong kiến
dùng chính sách “chia để trị” nhằm chia rẽ các dân tộc Việt Nam và
để kìm hãm các dân tộc trong vòng nghèo nàn và dốt nát, Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ tính ưu việt của chế độ mới để nhằm giải quyết đúng
đắn vấn đề dân tộc ở Việt Nam: “Chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước ta là: Các dân tộc đều bình đẳng và phải đoàn kết chặt
chẽ, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em. Đồng bào miền xuôi
phải ra sức giúp đỡ đồng bào miền ngược cùng tiến bộ về mọi mặt.”
Hậu quả của chế độ thực dân phong kiến và các thế lực thù địch
chống phá cách mạng để lại ở Việt Nam là rất nặng nề; để khắc
phục hậu quả đó nhằm thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc
và xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho đồng bào miền xuôi
cũng như miền ngược, Hồ Chí Minh luôn coi trọng tình đoàn kết,
thương yêu giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc anh em ở trong nước.

Bởi, chỉ có trên cơ sở đoàn kết mới tạo nên sức mạnh to lớn cho
cách mạng Việt Nam để thực hiện thắng lợi các mục tiêu của cách
mạng đã đề ra.
Sau khi chủ trì Hội nghị Trung ương lần thức Tám (5 – 1941), nhận
thấy cơ hội cứu nước đang đến gần, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho
đồng bào cả nước, trong thư Người viết: “…Hỡi các bậc phú hào
yêu nước, thương nòi! Hỡi các bạn công nông, binh, thanh niên,
phụ nữ, công chức, tiểu thương! Trong lúc này quyền lợi dân tộc
giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ
bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi
lửa bỏng.”
Hồ Chí Minh chẳng những là người quan tâm đến đoàn kết dân tộc,
mà chính Người là hiện thân của sự đoàn kết đó, là người trực tiếp
tổ chức khối đại đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống lại
mọi biểu hiện gây chia rẽ, hiềm khích, kỳ thị dân tộc để thực hiện
tình đoàn kết trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Bài học kinh
nghiêm về đoàn kết trong cách mạng Việt Nam được Người tổng
kết thành 14 chữ vàng như sau:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết

10


Thành công, thành công, đại thành công”
Để thực hiện quyền bình đẳng và xây dựng tình đoàn kết, giúp đỡ
lẫn nhau cùng tiến bộ trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, xuất
phát từ hoàn cảnh và điều kiện sống của các dân tộc ở Việt Nam,
Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến đồng bào dân tộc ít người,
sống ở miền núi, vùng sâu và vùng xa của đất nước. Bởi, theo
Người so với đồng bào sống ở miền xuôi, vùng đồng bằng và đô

thị, thì đời sống của đồng bào ở miền núi, xét trên mọi phương
diện, còn thấp và gặp rất nhiều khó khăn. Thực tế cho thấy, miền
núi và vùng sâu, vùng xa của đất nước ta, là nơi có điều kiện tự
nhiên không thuận lợi, trình độ sản xuất và văn hoá của nhân dân
nơi đây còn rất thấp. Nơi ăn, chốn ở, trường hợc, cơ sở y tế và giao
thông đi lại còn nhiều khó khăn và thiến thốn. Bên cạnh đó, do trình
độ dân trí thấp nên những thủ tục lạc hậu, mê tín, di đoạn còn rất
nặng nề. Hơn nữa, khu vực miền núi nước ta – nơi làm ăn sinh sống
chủ yếu của đồng bào các dân tộc ít người, là nơi giáp biên giới với
số nước láng giềng, xa đồng bằng, địa bàn hiểm trở, dân cư thưa
thớt, nhiều vùng vốn là căn cứ địa cách mạng quan trọng của cách
mạng Việt Nam trước đây. Bởi vậy, quan tâm đến đồng bào dân tộc
ít người vừa thể hiện tính nhân văn sâu sắc của Hồ Chí Minh trong
chế độ mới, vừa có ý nghĩa kinh tế và quốc phòng to lớn đối với cả
hiện tại và tương lai của đất nước. Sự quan tâm, giúp đỡ đối với
đồng bào các dân tộc ít người theo Hồ Chí Minh, là trách nhiệm của
toàn Đảng và toàn dân, của tất cả các cấp, các ngành, từ Trung
ương đến địa phương, bằng những việc làm cụ thể và thiết thực.
Đoàn kết, thương yêu người Việt Nam sống ở nước ngoài và
thân thiện với người nước ngoài sống ở Việt Nam là điều cũng hết
sức quan trọng Vì nhiều lý do khác nhau, dẫn đến một thực tế của
đời sống thế giới, là người dân của nước này đến cư trú và làm ăn
sinh sống ở nước khác và ngược lại. Giải quyết thực trạng đó ở mỗi
quốc gia, dân tộc và mỗi chính đảng, thậm chí với từng nhà lãnh
đạo có những quan điểm và chủ trương chính sách khác
nhau.
*Đối với người Việt Nam sống xa Tổ quốc, Hồ Chí Minh chủ
trương đoàn kết, thương yêu họ, kêu gọi họ hướng về quê hương
đất nước, nơi quê cha, đất tổ của mình, vì tất cả bà con đều là “con
11



Lạc cháu Hồng” của đất Việt. Đồng thời, Người cũng kêu gọi và
khuyên nhủ bà con phải giữ mối quan hệ thân thiện với nhân dân
các nước và thực hiện tốt luật pháp của họ. Trong những năm chiến
tranh và cách mạng, với lòng yêu nước, thương dân, Hồ Chí Minh
đã thu phục được nhiều trí thức tài ba về nước phục vụ Tổ quốc,
phục vụ nhân dân, trong đó
có người đã trở thành anh hùng của Việt
Nam
*Đối với người nước ngoài sống ở Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn
thể hiện thái độ ôn hoà và thân thiện với họ. Trong Lời tuyên bố với
quốc dân sau khi đi Pháp về (23 tháng 10 năm 1946), Hồ Chí Minh
nêu rõ:
“Người Pháp ở Pháp đối với ta rất thân thiện, thì người Việt ở Việt
đối với người Pháp cũng nên thân thiện. Đối với quân đội Pháp ta
phải lịch sự. Đối với kiều dân Pháp ta phải ôn hoà. Để tỏ cho thế
giới biết rằng ta là một dân tộc văn minh. Để cho số người Pháp
ủng hộ ta càng thêm đông, sức ủng hộ càng thêm mạnh. Để cho
những kẻ thù khiêu khích muốn chia rẽ, không có thể và không có
cớ mà chia rẽ. Để cho công cuộc thống nhất và độc lập của chúng ta
chóng thành công.”
Đối với người Hoa sống ở Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng thể hiện
quan điểm trước sau như một là đoàn kết, thân thiện và bảo vệ tài
sản, tính mạng cũng như quyền làm ăn chính đáng của họ trên đất
nước Việt Nam, như công dân Việt Nam. Theo Người, chẳng phải
hôm qua hôm nay người Hoa kiều mới đến Đông Dương. Họ đã ở
đây, họ đã luôn giữ một địa vị rất quan trọng trong đời sống kinh tế
của Đông Dương. Nhưng chưa bao giờ lại có những cuộc xung đột
giữa người Việt Nam với người Hoa trên đất nước Việt Nam.

Trong “Thư gửi anh em Hoa kiều” nhân ngày Độc lập 2 – 9 –
1945, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Hai dân tộc Trung - Việt chúng ta,
mấy ngàn năm nay, huyết thống tương thông, chung nền văn hoá,
trong lịch sử vẫn được gọi là hai nước anh em; hơn nữa, đất nước
liền kề, núi sông kế tiếp, càng như môi vớI răng che chở cho nhau.
Ngót trăm năm nay, đế quốc xâm lược Viễn Đông, giặc Pháp cưỡng
chiếm nước ta, lấy đó làm bàn đạp xâm lược Trung Quốc. Hai dân
tộc anh em phương Đông chúng ta lại chịu chung nổi khổ cực bị áp

12


bức và xâm lược.” Xuất phát từ quan hệ đặc biệt giữa hai dân tộc và
hai nước anh em, trong thư, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh đến chính
sách cơ bản của Đảng và Nhà nước ta đối với bà con Hoa Kiều
đang làm ăn, sinh sống ở Việt Nam: “Chính phủ nhân dân lâm thời
Việt Nam đã lập tức tuyên bố xoá bỏ mọi luật pháp của Pháp trước
đây áp đặt lên Hoa kiều, xác định chính sách cơ bản là bảo đảm tự
do, hoan nghênh Hoa kiều cùng nhân dân Việt Nam chung sức xây
dựng nước Việt Nam mới. Mong rằng anh em hai nước chúng ta
thân mật đoàn kết, có việc gì thì giải quyết với nhau theo nguyên
tắc hợp pháp lý với thái độ kính trọng nhường nhịn lẫn nhau, không
được vì những việc tranh chấp nhỏ của cá nhân mà gây điều bất
hạnh ngăn cách giữa hai dân tộc…”
Ngoài ra, đối với các dân tộc và quốc gia khác trên thế giới, quan
điểm của Hồ Chí Minh là tôn trọng nền độc lập dân tộc, không can
thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia, dân tộc khác, đồng
thời thực hiện quyền bình đẳng giữa các quốc gia, dân tộc với nhau.
Quan điểm đó của Người được khẳng định trong bản Tuyên ngôn
Độc lập bất hủ, ngày 2 – 9 – 1945 rằng: “… tất cả các dân tộc trên

thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do”
Chẳng đường lịch sử hơn 70 năm qua kể từ ngày ra đời đến nay,
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn trung thành với những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và những quan điểm tư tưởng của
Hồ Chí Minh về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc đề ra chính
sách dân tộc đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Chính sách đó vừa
phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, vừa phù
hợp với xu thế phát triển tiến bộ của nhân loại, nên nó đã được cộng
đồng 54 dân tộc Việt Nam đón nhận với niềm phấn khởi và đầy tin
tưởng, cũng bởi lẽ đó mà cách mạng Việt Nam có được sức mạnh
to lớn để hoàn thành thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc trước đây cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay.
Là một chiến sĩ quốc tế chân chính , Hồ Chí Minh không chỉ
đấu tranh cho độc lập dân tộc Việt Nam mà còn đấu tranh cho độc
lập của tất cả các dân tộc bị áp bức . Nêu cao tinh thần độc lập , tự
chủ , thực hiện theo nguyên tắc về quyền dân tộc tự quyết , nhưng
13


Hồ Chí Minh không quên nghĩa vụ quốc tế trong việc ủng hộ các
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới . Người nhiệt liệt
ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc ,
các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ
xâm lược của nhân dân Lào và Campuchia , đề ra khẩu hiệu : “ giúp
bạn là tự giúp mình” và chủ trương phải bằng thắng lợi của cách
mạng mỗi nước và đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng
thế giới .Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc mang tính khoa
học và cách mạng sâu sắc , thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa

dân tộc và giai cấp , chủ nghĩa yêu nước cân chính với chủ nghĩa
quốc tế trong sáng . Đúng như lời Ăng ghen từng nói : Những tư
tưởng dân tộc chân chính trong phong trào công nhân bao giờ cũng
là những tư tưởng quốc tế chân chính .
Hồ Chí Minh coi mục tiêu đấu tranh vì độc lập của Tổ quốc , tự do
của đồng bào là lẽ sống của mình . Quyền độc lập dân tộc không
tách rời quyền con người và coi lập là điều kiện tiên quyết để mang
lại hạnh phúc cho mọi người dân của đất nước mình .Đồng thời độc
lập dân tộc còn là điều kiện để dân tộc Việt Nam được quyền sống
bình đẳng với các dân tộc khác trên thế giới và các dân tộc trong
nước ta được chung sống với nhau một cách bình đẳng , hòa thuận
và cùng nhau tiến tới một cuộc sống ấm no hạnh phúc
Tư tưởng Hồ Chí Minh là "kết quả sự vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế
thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng,
nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là sự kế thừa, phát triển các giá
trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nổi bật là chủ nghĩa yêu nước,
tinh thần đoàn kết dân tộc, và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, cả
phương Đông và phương Tây. Hồ Chí Minh đã từng tỏ rõ thái độ
của mình đối với việc học tập, tiếp thu những học thuyết của các
lãnh tụ chính trị, xã hội, tôn giáo trong lịch sử. Người nói: "Học
thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn
giáo Giê-su có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả.Chủ nghĩa Mác có ưu
điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên
14


có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước .Như

vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong hệ tư tưởng Mác - Lê-nin,
bắt nguồn chủ yếu từ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nhưng không hoàn
toàn đồng nhất với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, mà là sự tổng hòa, sự
kết hợp giữa tinh hoa văn hóa truyền thống Việt Nam, tinh hoa văn
hóa nhân loại với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trên nền tảng chủ nghĩa
Mác – Lê .Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin... Việc tiếp thu, vận
dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin của Hồ Chí Minh là cả quá
trình gắn với hoạt động thực tiễn, kết hợp lý luận với thực tiễn, xuất
phát từ những yêu cầu của thực tiễn. Người nhấn mạnh rằng, việc
học tập, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trước hết phải nắm vững
"cái cốt lõi", "linh hồn sống" của nó là phương pháp biện chứng;
học tập "tinh thần, lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương
pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác
cách mạng của chúng ta". Người còn chỉ rõ: "Hiểu chủ nghĩa Mác Lê-nin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu
sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa
Mác - Lê-nin". Từ những vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận thể
hiện tư duy độc lập, sáng tạo, Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời của
mình đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn
cách mạng Việt Nam và tạo ra một hệ thống luận điểm mới, sáng
tạo, hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
Qua những vấn đề trên , Bác đã trở thành vĩ nhân, đi vào cõi bất
tử trong lòng nhân dân Việt Nam cũng như nhân thế giới .Người là
tượng trưng cho văn hóa dân tộc Việt Nam , cho ý chí kiên cường,
bất khuất của dân tộc Việt Nam suốt bốn nghìn năm lịch sử . Người
được ghi nhớ không chỉ là người giải phóng cho Tổ Quốc và nhân
dân bị đô hộ mà còn là nhà hiền triết hiên đại đã mang lại một hy
vọng và viễn cảnh mới cho những ngườ đang đấu tranh không
khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng khỏi trái đất này.

Tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Xô đã viết : “Hồ Chí Minh là một
tượng đài cách mạng (…) đó là sự chính trực của một người cộng
sản chân chính và đức độ của một con người luôn trung thành với lí
tưởng và những nền tảng cốt lõi …Hồ Chí Minh thực sự là một vị
15


thánh của Chủ nghĩa Cộng sản”. Có lẽ hiếm có nhân vật nào ở thời
đại chúng ta , ngay từ khi sinh thời và sau khi qua đời , tên tuổi và
sự nghiệp lại được biết đên rộng rãi , được đánh giá cao , được ca
ngợi bằng những lời lẽ đẹp đẽ và cao quý như Hồ Chí Minh Là
người Việt Nam chúng ta thật sự tự hào về điều đó
Ngày nay , Đảng và nhà nước ta đang tích cực giải quyết vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp .Hiện nay, ở nước ta, đồng bào các dân
tộc thiểu số chiếm khoảng 14% dân số cả số sinh sống ở vùng đặc
biệt khó khăn, miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng nước; cư trú trên
52 tỉnh, thành phố; phần lớn đồng bào các dân tộc thiểu xa, biên
giới và hải đảo. Đây là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về
kinh tế, quốc phòng, an ninh và môi trường sinh thái.
Quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng và Nhà nước ta luôn
xác định vấn đề dân tộc, đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược
lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta; giải quyết đúng đắn vấn
đề dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa; công tác dân tộc là một bộ phận quan trọng của đường lối
cách mạng Việt Nam; chính sách dân tộc là một bộ phận hữu cơ
trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước
ta. Chủ trương nhất quán và đúng đắn về chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước ta là: đoàn kết, bình đẳng, thương yêu, tôn trọng

giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, cùng xây dựng cuộc sống ấm no,
hạnh phúc; đồng thời, giữ gìn và phát huy bản sắc tốt đẹp của mỗi
dân tộc; chống kỳ thị dân tộc, nghiêm trị những âm mưu, hành động
chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hiến pháp năm
1992, quy định: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
Nhà nước thống nhất của cả dân tộc cùng sinh sống trên đất nước
Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ
dân tộc. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản
sắc văn hoá dân tộc và phát huy những phong tục tập quán truyền
thống và văn hoá tốt đẹp của mình”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng đã khẳng định: “Vấn đề dân tộc và đoàn
kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách

16


mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Quán triệt và thực hiện Nghị quyết Đại hội X về vấn đề dân tộc,
chính sách dân tộc và miền núi, với sự quyết tâm của các ngành ở
Trung ương và các ngành, các cấp ở địa phương cùng với sự nỗ lực
vươn lên của đồng bào các dân tộc đã tạo ra được những chuyển
biến đáng kể về phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng
và giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc ở miền núi, vùng đồng
bào các dân tộc thiểu số. Nhiều mô hình sản xuất kinh doanh có
hiệu quả đã được hình thành và phát triển; đời sống của đại đa số
đồng bào các dân tộc đã được cải thiện và nâng lên; cơ cấu kinh tế

miền núi đã có bước chuyển biến tích cực, tạo đà phát triển mới
theo hướng sản xuất hàng hoá và từng bước chuyển dịch theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cùng với quá trình phát triển
kinh tế - xã hội, nhìn chung, vấn đề ổn định chính trị và an ninh,
quốc phòng ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi đã
được thực hiện tốt; đồng bào các dân tộc luôn tin tưởng vào đường
lối đổi mới, thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, nâng cao cảnh giác trước mọi âm mưu phá hoại của các
thế lực thù địch.
Trong các chương trình mục tiêu quốc gia, Đảng và Nhà nước luôn
ưu tiên cho vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi, như:
Chương trình xoá đói giảm nghèo, Chương trình nước sạch cho
nông thôn miền núi, Chương trình 135 hỗ trợ phát triển cho các xã
miền núi đặc biệt khó khăn. Những Chương trình trên đã đạt được
kết quả tốt, góp phần tích cực giúp đồng bào các dân tộc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng có hiệu quả hơn, tạo thêm việc làm,
tăng cường bảo vệ rừng, môi trường sinh thái, hạn chế thiên tai,
từng bước chuyển sang sản xuất hàng hoá để thoát đói, giảm nghèo,
vươn lên làm giàu.
Dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị,
các cấp uỷ Đảng và sự quản lý điều hành của bộ máy nhà nước, sự
tập hợp và động viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đồng bào các
dân tộc đã nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, thực hiện thắng lợi

17


Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng, thể hiện trên các mặt sau
đây:
*Một là, xây dựng được cơ sở hạ tầng với diện rộng và đều khắp

trên các vùng dân tộc thiểu số, đó là điều kiện vật chất cần thiết để
thu hẹp dần khoảng cách giữa các vùng và các dân tộc.
*Về giao thông, một số tỉnh phía Bắc địa hình rất khó khăn như
Hà Giang, Lào Cao, Lai Châu, Điện Biên, Lạng Sơn, Thái Nguyên,
các tỉnh Tây Nguyên, … đã có đường ô tô đến các trung tâm xã và
đến phần lớn các buôn làng; phần lớn đã có đường nhựa đến trung
tâm huyện.
*Về giáo dục, đa số xã vùng cao đã có lớp mẫu giáo; trường phổ
thông (tiểu học) đã được xây dựng ở tất cả các xã. Phần lớn các xã
và cụm xã có trường trung học cơ sở toàn cấp. 100% huyện có ít
nhất 1 trường trung học phổ thông. Trường phổ thông dân tộc nội
trú đã được xây dựng thành hệ thống với gần 50 trường tỉnh, gần
300 trường huyện được trang bị phương tiện dạy và học khá tốt.
Hàng vạn con em đồng bào dân tộc thiểu số đến học ở các trường
này được Nhà nước nuôi, dạy hoàn toàn miễn phí, nhằm đào tạo
cán bộ là người dân tộc cho nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Ngoài ra,
còn có hàng trăm trường bán trú dân lập hoặc trường nội trú dân
nuôi tại các xã và cụm xã . Các tỉnh miền núi đã hoàn thành phổ cập
giáo dục tiểu học.
*Về phát triển khoa học - công nghệ ở miền núi, Nhà nước đã
đầu tư hàng ngàn tỷ đồng cho công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa
học - công nghệ ở miền núi. Hàng ngàn cán bộ khoa học ở các viện
nghiên cứu, các trường đại học thuộc các Bộ, ngành và địa phương
được huy động để nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ
thích hợp cho miền núi thông qua các chương trình nghiên cứu
khoa học và công nghệ, các dự án hỗ trợ hoạt động khoa học và
công nghệ cho miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
*Về y tế, 100% số xã ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số đã có
trạm y tế xã, trên 80% trạm y tế xã đã được xây dựng kiên cố, gần
70% số trạm có đủ trang thiết bị; hệ thống khám, chữa bệnh từ tỉnh

đến huyện được xây dựng mở rộng, cơ bản đã đáp ứng được nhu
cầu chăm sóc sức khoẻ của đồng bào các dân tộc.
*Về điện, điện lưới đã đến được 100% số huyện và 95% số xã.

18


Nhiều nơi ở vùng sâu, vùng xa đã có điện lưới như Điện Biên
Đông, Pha Long (Lào Cai). Đã có hơn 70% số hộ được dùng điện,
nhiều tỉnh đã có 100% số xã có điện.
*Về Bưu chính -Viễn thông, hầu hết các xã vùng sâu, vùng xa đã
có bưu điện văn hoá xã, 100% số xã ở vùng dân tộc thiểu số đã có
máy điện thoại. Điện thoại đã lên đến xã Lãng Cú, nơi cực Bắc của
Tổ quốc.
*Về phát thanh - truyền hình, đã phủ sóng phát thanh được trên
90% và truyền hình đạt gần 80% lãnh thổ quốc gia. Đài Trung ương
và các đài địa phương đã có chương trình tiếng dân tộc thiểu số, đã
thông tin kịp thời chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước đến với đồng bào khắp mọi miền của đất nước; đồng
thời, cũng phản ánh được những thành tựu về kinh tế - xã hội, tâm
tư tình cảm và nguyện vọng chính đáng của đồng bào các dân tộc
thiểu số đến với các cơ quan, cán bộ lãnh đạo Đảng và Nhà nước.
*Chương trình phát triển kinh tế - xã hội giành cho các xã vùng
dân tộc thiểu số, miền núi đặc biệt khó khăn (Chương trình 135) đã
đi nhanh vào cuộc sống. Một số trung tâm cụm xã được xây dựng
thành những trung tâm chính trị, thương mại, giao lưu văn hoá ở
các vùng sâu, vùng xa, đã kích thích sản xuất, theo hướng sản xuất
hàng hoá, thực hiện xoá đói, giảm nghèo có hiệu quả rõ rệt, làm
tăng thêm lòng tin của đồng bào các dân tộc đối với Đảng và Nhà
nước.

*Hai là, ở tất cả các vùng, các dân tộc, các địa phương đã xuất
hiện những mô hình hộ gia đình, trang trại, hợp tác xã sản xuất giỏi,
vươn lên làm giàu.
*Sản xuất nông nghiệp miền núi đã có bước phát triển mới, từng
bước chuyển từ kinh tế tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá, hình
thành nhiều vùng sản xuất hàng hoá chuyên canh qui mô lớn, làm
thay đổi cơ bản phương thức canh tác nông nghiệp truyền thống.
Sản lượng lương thực ở miền núi không ngừng tăng lên. Nhiều
vùng đã đảm bảo được an ninh lương thực trên địa bàn, nhiều cánh
đồng miền núi đã trở thành điển hình về thâm canh lúa đạt năng
suất cao nhất cả nước như cánh đồng Mường Thanh (Lai Châu);
cánh đồng Lak (Đăk Lăk). Đã xuất hiện mô hình xã làm ăn giỏi có
thể tiến kịp miền xuôi như xã Tân Châu, huyện Di Linh, tỉnh Lâm
19


Đồng.
*Ba là, hệ thống chính trị vùng đồng bào dân tộc thiểu số được
xây dựng, củng cố ngày càng vững mạnh. Đội ngũ cán bộ trí thức
người dân tộc thiểu số đã được hình thành và trưởng thành rõ rệt.
Hơn 40 dân tộc thiểu số đã có con em của mình tốt nghiệp cao
đẳng và đại học. Tất cả các dân tộc thiểu số đều có người của dân
tộc mình là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hầu hết cán bộ
chủ chốt người dân tộc thiểu số từ cấp huyện trở lên đều có trình độ
đại học, cán bộ chủ chốt cấp xã có trình độ cấp phổ thông cơ sở trở
lên. Số học sinh ở các tỉnh miền núi, vùng cao dự thi học sinh giỏi
các môn ngày càng tăng, hàng năm đã có nhiều học sinh đạt giỏi
cấp tỉnh và cấp quốc gia. Số lượng học sinh người dân tộc thiểu số
thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng và các trường chuyên
nghiệp ngày càng tăng.

Có thể khẳng định rằng, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới là
người đem đến cho đồng bào các dân tộc thiểu số ở Việt Nam
quyền bình đẳng và sự phát triển về mọi mặt như ngày nay. Cũng từ
đó mà khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố và tăng cường mạnh
mẽ hơn bất cứ lúc nào; không kẻ thù nào có thể chia rẽ, phá vỡ khối
đại đoàn kết mà Bác Hồ và Đảng ta thường xuyên chăm lo xây
dựng. Sự thất bại nhục nhã của bọn phản động gây rối ở Tây
Nguyên tháng 2-2001 đã chứng minh điều đó. Đồng bào các dân
tộc đã cực lực lên án và vạch mặt bọn phản động lợi dụng vấn đề
dân tộc để lừa dối một số người nhẹ dạ, cả tin nhằm hoạt động trái
với chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước ta, hòng kích
động chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
Tuy nhiên, so với vùng đồng bằng và vùng đã phát triển tương
đối khá thì miền núi và vùng dân tộc thiểu số còn là vùng khó khăn
nhất. Tỷ lệ nghèo ở các vùng dân tộc thiểu số còn cao so với mặt
bằng chung cả nước. Số người mù chữ còn nhiều. Trình độ dân trí,
mức hưởng thụ văn hoá của đồng bào ở một số vùng dân tộc thiểu
số còn thấp. Việc chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào vùng dân tộc
thiểu số còn hạn chế. Tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn
xã hội trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn tiềm ẩn những
nhân tố gây mất ổn định. Vẫn còn nhiều kẽ hở cho các thế lực thù
20


địch dễ lợi dụng vấn đề dân tộc để “diễn biến hoà bình - bạo loạn
lật đổ” chống phá cách mạng Việt Nam.
Trong thời gian tới, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch sẽ
tiếp tục thông qua chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, tăng cường
lợi dụng vấn đề dân tộc để tạo cớ can thiệp nhằm thực hiện “diễn
biến hoà bình - bạo loạn lật đổ” đối với Việt Nam. Chúng sẽ lợi

dụng những sơ hở, thiếu sót của ta, sự thoái hoá, biến chất, tình
trạng tham nhũng trong một số cán bộ, đảng viên để tuyên truyền
kích động, phá hoại tư tưởng, gây hoang mang dao động, làm giảm
lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội, tạo xu hướng chống đối từ bên trong.
Chúng tìm cách xây dựng khu vực “tự trị” của người dân tộc thiểu
số, hình thành lực lượng đối lập, đối trọng với chính quyền nhằm
tạo ra một cơ sở xã hội không ổn định, suy yếu từ bên trong để khi
có điều kiện sẽ thực hiện “diễn biến hoà bình - bạo loạn lật đổ” đối
với chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Các thế lực thù địch sẽ
tăng cường hỗ trợ, kích động, chỉ đạo lực lượng phản động trong và
ngoài nước tổ chức móc nối, tập hợp lực lượng nhằm tạo thế và lực
cả bên trong và bên ngoài, đặc biệt là lực lượng chống đối từ bên
trong, từng bước đẩy một số người trong đồng bào dân tộc thiểu số
công khai đối đầu với chính quyền theo hướng “hợp pháp hoá” và
“quốc tế hoá”, sau đố phối hợp với lực lượng phản động khác để
thực hiện “diễn biến hoà bình - bạo loạn lật đổ”, xoá bỏ chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch sẽ tiếp tục thông qua nhiều hình thức, nhiều lực lượng để tăng
cường “điều tra”, nắm bắt tình hình dân tộc để hỗ trợ, kích động,
chỉ đao lực lượng phản động trong người dân tộc thiểu số tổ chức
hoạt động chống đối, tạo ra những “điểm nóng dân tộc”, lấy cớ can
thiệp để hướng, lái Việt Nam đi chệch khỏi quĩ đạo của chủ nghĩa
xã hội.
Thực tế đã chứng minh, dù bất kỳ tình hình nào, thủ đoạn và biện
pháp có thể thay đổi, nhưng âm mưu và mục tiêu của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch nhằm xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là
không hề thay đổi. Hiện nay phương pháp hoạt động của chúng chủ
yếu vẫn là đẩy mạnh “diễn biến hoà bình - bạo loạn lật đổ” tạo ra


21


những nhân tố đối lập bên trong, thúc đẩy nhân tố này phát triển
thành lực lượng đối lập với Đảng, đối trọng với chính quyền, qua
đó làm cho Việt Nam suy yếu về mọi mặt, sau đó gây sức ép (kể cả
sức ép quân sự) để lái Việt Nam đi chệch khỏi quĩ đạo chủ nghĩa xã
hội. Khi thực hiện phương pháp trên, chúng triệt để lợi dụng vấn đề
dân tộc, tìm cách gây ra những “điểm nóng” dân tộc để can thiệp
trực tiếp và Việt Nam. Nếu chúng ta không nhận rõ âm mưu của
chúng, không kiên quyết khắc phục tình trạng xa dân, tham nhũng,
thoái hoá, biến chất trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; không
thực hiện tốt quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về vấn
đề dân tộc; lơ là mất cảnh giác, không quan tâm đến việc đấu tranh
chống các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc để phá hoá cách
mạng; không thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, mở
rộng và phát huy dân chủ, không làm tốt công tác tư tưởng đối với
quần chúng, không chủ động các biện pháp phòng ngừa thì sẽ rất
nguy hiểm, các thế lực thù địch có thể thực hiện được ý đồ của
chúng.
Chúng ta có đủ điều kiện để thực hiện thắng lợi cuộc đấu tranh
chống các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc để phá hoá cách
mạng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã và đang đạt được
những thành tựu to lớn trong sự nghiệp đổi mới; kinh tế tiếp tục
phát triển, chính trị ổn định, đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân trong đó có đồng bào dân tộc thiểu số từng bước được cải thiện,
nâng cao; vị trí, vai trò nước ta trên trường quốc tế ngày càng lớn.
Đó là nguồn động viên, cổ vũ lớn lao đối với quần chúng nhân dân,
củng cố lòng tin của quần chúng nhân dân nói chung, của đồng bào

các dân tộc thiểu số nói riêng đối với Đảng, với Nhà nước và sự
nghiệp đổi mới.
Tuy nhiên, chúng ta không được chủ quan, mất cảnh giác; phải
xác định rõ cuộc đấu tranh chống “diễn biến hoà bình - bạo loạn lật
đổ” trong lĩnh vực dân tộc là một bộ phận quan trọng của cuộc đấu
tranh giai cấp trong điều kiện mới. Cuộc đấu tranh này sẽ ngày càng
gay go, quyết liệt và phức tạp hơn. Để làm thất bại âm mưu “diễn
biến hoà bình - bạo loạn lật đổ” của các thế lực thù địch trong vấn
đề dân tộc, đòi hỏi chúng ta phải thực hiện tốt các giải pháp chiến
lược về xây dựng và bảo vệ Đảng, củng cố trận địa tư tưởng - văn

22


hoá, đẩy mạnh công cuộc đổi mới kinh tế theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, hoàn thiện cơ chế dân chủ, giải quyết tốt những vấn đề
kinh tế - xã hội, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân
vững mạnh, xây dựng và hoàn thiện các kế hoạch, phương án xử lý
trong mọi tình huống có thể xảy ra.
Để thực hiện thắng lợi cuộc đấu tranh chống “diễn biến hoà bình
- bạo loạn lật đổ” của các thế lực thù địch trong vấn đề dân tộc,
chúng ta cần thực hiện tốt những vấn đề cơ bản sau đây:
*Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
dân tộc, phát huy trách nhiệm của các cấp, các ngành và đội ngũ
cán bộ trực tiếp làm công tác dân tộc.
Để phát huy vai trò lãnh đạo của các tổ chức Đảng, trách nhiệm của
các cấp chính quyền, các ngành và đội ngũ cán bộ làm công tác dân
tộc, cần quán triệt sâu sắc các quan điểm, đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhất là những quan
điểm, đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật liên quan đến

vấn đề dân tộc và công tác dân tộc; các đối sách và các mặt công
tác đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc để
phá hoại cách mạng. Lãnh đạo các cấp, các ngành thường xuyên
quan tâm đến các mặt công tác đối với vấn đề dân tộc; chăm lo xây
dựng, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ làm công tác dân tộc hoặc
liên quan đến vấn đề dân tộc; quan tâm chăm lo đời sống vật chất,
tinh thần, tạo điều kiện thuận lợi cho họ hoàn thành tốt nhiệm vụ.
*Thứ hai, thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế, văn hoá, xã
hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, xây dựng môi trường lành
mạnh, ngăn chặn kịp thời mọi âm mưu, hoạt động lợi dụng vấn đề
dân tộc để phá hoại cách mạng của các thế lực thù địch.
*Cần phải phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội ở vùng dân tộc thiểu
số với tốc độ cao hơn mức bình quân chung của cả nước mới có thể
từng bước thu hẹp khoảng cách giữa các dân tộc và các vùng; quan
tâm đến từng vùng và từng dân tộc, tiến tới sự bình đẳng thật sự
trên bình diện kinh tế, chính trị, xã hội. Thông qua phát triển kinh
tế, văn hoá, xã hội tạo sự ổn định và nâng cao đời sống đồng bào
các dân tộc thiểu số, củng cố lòng tin của quần chúng đối với sự
lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, góp
phần động viên đồng bào các dân tộc thiểu số tham gia các phong
23


trào cách mạng; qua đó ngăn chặn âm mưu của các thế lực thù địch
lợi dụng họ vào việc chống phá cách mạng.
*Thứ ba, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá tốt đẹp của các dân
tộc; giữ gìn và làm giầu tiếng nói của mỗi dân tộc là cốt lõi của văn
hoá, phát triển văn học, nghệ thuật của các dân tộc đóng góp vào
xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Để thực hiện tốt vấn đề trên cần phải có quy hoạch bồi dưỡng, đào

tạo, sử dụng, hình thành đội ngũ cán bộ ở vùng dân tộc thiểu số, sao
cho đội ngũ này có phẩm chất đạo đức, năng lực công tác, số lượng
cán bộ tỷ lệ thuận với dân tố của các dân tộc thiểu số. Phát huy dân
chủ, thực hiện công khai, minh bạch trong việc thực hiện các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu số để
nhân dân biết, giám sát chặt chẽ việc thực hiện các chủ trương,
chính sách đó. Phát huy tinh thần tự lực, tự cường của các dân tộc;
củng cố, tăng cường đoàn kết các dân tộc xung quanh Đảng Cộng
sản Việt Nam; thi đua, giúp đỡ nhau cùng phát triển, chống tư
tưởng ỷ lại vào Nhà nước.
*Thứ tư, triển khai sâu rộng phong trào quần chúng, nhất là
phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc ở vùng dân tộc thiểu số, chăm lo
cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của quần chúng, tạo thuận lợi
cho việc đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân
tộc để chống phá cách mạng.
Các phong trào quần chúng ở vùng dân tộc thiểu số cần có nội dung
và hình thức phong phú, thiết thực, phù hợp với đặc điểm tâm lý
đồng bào các dân tộc, cuốn hút được đông đảo quần chúng tham
gia, tạo ra khí thế cách mạng trong nhân dân, động viên họ tích cực
tham gia vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển đất
nước, chấp hành tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, cảnh giác với âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề
dân tộc để chống phá cách mạng của các thế lực thù địch, không bị
các thế lực thù địch lôi kéo, lợi dụng.
*Thứ năm, xây dựng phương án đấu tranh, kịp thời phát hiện và
kiên quyết đấu tranh với những đối tượng ngoan cố, lợi dụng vấn đề
dân tộc để phá hoại cách mạng; tích cực đấu tranh với những hoạt
động can thiệp từ bên ngoài vào vấn đề dân tộc của Việt Nam.
Cần có phương án tổng thể và phương án cụ thể đối với từng địa


24


bàn, với từng đối tượng, từng vụ việc, có sự thống nhất giữa các
cấp, các ngành, các lực lượng. Các phương án đó phải trên cơ sở
chủ trương, quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng, đúng pháp
luật của Nhà nước và thực tiễn tình hình và đặc điểm từng địa bàn,
từng đối tượng; phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các
lực lượng, có sự phối hợp nhịp nhàng của các cấp, các ngành, dưới
sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng để ngăn chặn, giải quyết tốt các vụ
việc lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá cách mạng của các thế
lực thù địch.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch không ngừng thông qua
cái gọi là “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc tự quyết”, “dân tộc tự
trị” để thực hiện “diễn biến hoà bình - bạo loạn lật đổ” đối với Việt
Nam. Chúng đã dung túng, tiếp tay cho bọn phản động người Việt ở
Hải ngoại; hỗ trợ, kích động, chỉ đạo các phần tử phản động trong
các dân tộc thiểu số ở trong nước tổ chức hoạt động chống phá cách
mạng nước ta. Hoạt động phá hoại của chúng đã gây không ít khó
khăn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta. Thủ
đoạn hoạt động chống phá của chúng thông qua vấn đề dân tộc
ngày càng gia tăng, tinh vi, sảo quyệt. Trong quá trình hội nhập
quốc tế, các thế lực thù địch tiếp tục lợi dụng vấn đề dân tộc để
chống phá cách mạng Việt Nam. Lợi dụng các chính sách mở rộng
hợp tác đầu tư phát triển của Đảng, Nhà nước ta, các thế lực thù
địch có xu hướng gia tăng các hoạt động chia rẽ dân tộc, kích động
ly khai tự trị, lợi dụng vấn đề dân tộc gắn với tôn giáo, dân chủ,
nhân quyền, lợi dụng những khó khăn về đời sống của đồng bào
dân tộc thiểu số, những thiếu sót trong việc thực hiện chính sách và
một số yếu kém của hệ thống chính trị cơ sở ở một số nơi để chống

phá và gây mất ổn định vùng dân tộc thiểu số. Vì vậy, đòi hỏi toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân ta, nhất là lực lượng vũ trang cách mạng
phải không ngừng nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, tỉnh táo,
kịp thời phát hiện và chủ động đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn hoạt
động lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá cách mạng Việt Nam
của các thế lực thù địch, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Như vậy trên đây chúng ta đã làm rõ vấn đề dân tộc , vấn đề
giai cấp trong tưởng của Hồ Chí Minh và sự giải quyết vấn đề này
25


×