Tải bản đầy đủ (.pdf) (168 trang)

Đầu tư phát triển kinh tế thủ đô viêng chăn giai đoạn 2007 2011 và tầm nhìn đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 168 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, khi xu hướng tồn cầu hố đang diễn ra mạnh
mẽ thì ranh giới giữa các quốc gia ngày càng trở nên ít quan trọng, các nhà
đầu tư dễ dàng hơn trong việc tiếp cận tới các thị trường của một quốc gia.
Nguy cơ tụt hậu kinh tế giữa các quốc gia nói chung, các địa phương trong
nước nói riêng ngày càng thể hiện rõ rệt, do đó để thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, tạo ra nhiều việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng như ổn
định và nâng cao đời sống của nhân dân các bộ tộc, một điều kiện cần thiết
và quan trọng là phải có sự đầu tư phát triển kinh tế cũng như phải sử dụng
hiệu quả nhất các nguồn vốn đầu tư cho công cuộc phát triển.
Nhận thức sâu sắc vấn đề này, Đảng bộ Thủ đô, Ủy ban nhân dân Thủ
đô Viêng Chăn đã đưa ra nhiều giải pháp để thu hút đầu tư phát triển kinh tếxã hội của Thủ đô, huy động tối đa mọi nguồn lực, tiếp tục đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo sự phát triển nhanh và bền vững, phấn đấu đến
năm 2015 cơ bản đưa Thủ đơ ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ
rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo tiền đề quan trọng để
Viêng Chăn cơ bản trở thành Thủ đô công nghiệp hóa hiện đại hóa trước năm
2020, tốc độ tăng trưởng kinh tế phấn đấu bình quân hàng năm tăng 12,62%.
Thực hiện chủ trương trên Thủ đô đã ban hành nhiều quyết định về thu hút
đầu tư, các quy trình đầu tư liên quan đến cấp phép đầu tư, báo cáo đánh giá
tác động mơi trường, thanh quyết tốn vốn đầu tư, dịch vụ hỗ trợ doanh
nghiệp, tổ chức hội nghị mời gọi đầu tư tại Viêng Chăn và đã có những thành
công nhất định như tạo môi trường đầu tư thuận lợi, giải quyết những vướng
mắc cho nhà đầu tư. Phát triển phải đứng trên quan điểm bền vững đảm bảo
hiệu quả của sự phát triển đó phát huy tác dụng lâu dài. Điều đó đặt ra cho đất
nước cũng như các Thủ đô, thành phố phải chủ động, sáng tạo, khai thác triệt


2



để các lợi thế để phát triển kinh tế. Quá trình này địi hỏi phải có sự nghiên
cứu, phân tích cho Thủ đơ, thành phố để tìm ra những đặc điểm, lợi thế riêng
từ đó xác định phương hướng, giải pháp phát triển kinh tế cho phù hợp. Trên
cơ sở lý luận và thực tiễn đó mà tơi chọn nghiên cứu đề tài: “Đầu tư phát
triển kinh tế Thủ đô Viêng Chăn giai đoạn 2007- 2011 và tầm nhìn đến
năm 2020”. Qua đề tài sẽ làm rõ những cơ sở lý luận, thực tiễn về hoạt động
đầu tư phát triển, đầu tư phát triển kinh tế, phân tích những điểm mạnh, yếu,
thuận lợi và khó khăn để đề xuất những giải pháp và phương hướng cho sự
phát triển kinh tế của Thủ đô Viêng Chăn.
2. Tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm về phát triển kinh tế tại các
nước trong khu vực và trên thế giới.
Lịch sử phát triển kinh tế cho thấy, mỗi quốc gia tuỳ theo quan niệm
khác nhau cả vấn đề chủ quan và khách quan của các nhà lãnh đạo đã lựa
chọn những con đường phát triển khác nhau: Nhấn mạnh vấn đề tăng trưởng
nhanh, nhấn mạnh vấn đề bình đẳng, cơng bằng xã hội và phát triển tồn diện.
- Theo học thuyết kinh tế chính trị học của Các Mác đã phản ánh bản
chất yếu tố tăng trưởng kinh tế như q trình tuần hồn, chu chuyển của tư
bản, cơ cấu kỹ thuật tái sản xuất xã hôi Các Mác đã đề cập đến quá trình hình
thành cơ sở vật chất tạo “Cái cốt” cho nền kinh tế phát triển qua các giai đoạn.
Hiệp tác và cơng trường thủ cơng là q trình chuyển sang chun mơn hố
lao động, góp phần làm tăng sức sản xuất. Q trình cơng nghiệp hố thay đổi
cơ cấu sản xuất là tác nhân tăng năng suất lao động và làm tăng hiệu quả của
nền sản xuất xã hôi, mở rộng sản lượng tiền năng của nền kinh tế. Do đó tăng
tích luỹ đầu tư vốn, thay đổi cơ cấu kỹ thuật của sản xuất là cơ sở của tăng
trưởng và động thái tăng trưởng trong nền kinh tế phát triển. ( tr118 – 119)
* Ở Việt Nam đã có nhiều nhà nghiên cứu viết về vấn đề liên qua đến
đầu tư phát triển kinh tế thể hiện như sau:
- Luận án tiễn sĩ, Nguyễn Phương Bắc ,Trường đại học Kinh tế Quốc
dân Hà Nội. “Định hướng và giải pháp đầu tư phát triển kinh tế tỉnh Bắc



3

Ninh” : Luận án cũng đã nêu ra Một số vấn đề lý luận về đầu tư phát triển
trong nền kinh tế của một quốc gia. Thực trạng đầu tư phát triển kinh tế và
định hướng, giải pháp chủ yếu về đầu tư phát triển kinh tế ở Bắc Ninh, nhưng
về phạm vi, thời gian và mức độ nghiên cứu và đánh giá của luận án là có sự
khác nhau.
- Đề tài luận án tiến sỹ: “ Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát
triển kinh tế – xã hội vùng đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2001 –2010”, của
NCS Trần Đức Lộc, năm 2005. Đề tài đã đề xuất các nhóm giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, nghiên cứu sâu và tương đối kỹ vào
lĩnh vực hiệu quả việc sử dụng vốn đầu tư. Làm rõ thêm các cơ sở lý luận về
đầu tư phát triển nói chung và việc sử dụng vốn đầu tư như thế nào là hợp lý
nhất. Hiệu quả nhất, nhưng tác giả cũng chưa nghiên cứu sâu về đầu tư phát
triển kinh tế của một vùng hoặc địa phương nhất định;
- Luận án tiến sĩ : Từ Quang Phương (hiện tại là PGS.TS), Hiệu quả
đầu tư và các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển của doanh nghiệp
nhà nước/ Từ Quang Phương, 2003. Tác giả đã làm rõ thêm những vấn đề lý
luận chung về hiệu quả đầu tư phát triển của doanh nghiệp, nêu ra thực trạng
hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước ở thời điểm
nghiên cứu, những quan điểm định hướng và một số giải pháp chủ yếu;
- Luận án tiến sĩ: Nguyễn Thị Thu Hương, “ Hồn thiện cơng tác xúc
tiến đầu tư nhằm phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam” ; 2005. Luận án
đã đưa ra những vấn đề lý luận cơ bản về công tác xúc tiến đầu tư nhằm phát
triển các khu công nghiệp. Thực trạng của công tác xúc tiến đầu tư nhằm phát
triển các khu công nghiệp ở Việt Nam trong thời gian qua. Sau đó định hướng
và đề ra một số giải pháp để thực hiện công tác xúc tiến đầu tư nhằm phát
triển các khu công nghiệp ở Việt Nam trong thời gian tới. Đề tài nghiên cứu

sâu về công tác xúc tiến đầu tư phát triển với góc độ của doanh nghiệp;
- Luận văn thạc sĩ: Nguyễn Ngọc Tú, “ Đầu tư phát triển kinh tế tỉnh
Yên Bái thực trạng và giải pháp” , 2010. Luân văn đã nêu ra các vấn đề về


4

đầu tư phát triển kinh tế và từ đó phân tích các khía cạnh như nguồn vốn;
- Luận văn thạc sĩ : Phạm Thị Mai Anh, “ Nghiên cứu thống kê mối
quan hệ giữa vốn đầu tư phát triển với tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn
1995 – 2001”, 2003. Lý luận chung về vốn đầu tư phát triển và tăng trưởng
kinh tế. Lựa chọn hệ thống chỉ tiêu thống kê mối quan hệ giữa vốn đầu tư
phát triển với tăng trưởng kinh tế, phân tích mối quan hệ giữa vốn đầu tư phát
triển với tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1995 – 2001;
- Đầu tư phát triển kinh tế tỉnh Bắc Ninh - Thực trạng và giải pháp,
Nguyễn Trọng Bình, 2008.
- Đầu tư phát triển kinh tế tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2001-2015: Thực
trạng và giải pháp/ Hoàng Thị Ngọc Huệ, 2008.
- Giải pháp thu hút vốn đầu tư phát triển kinh tế nông nghiệp tỉnh Bắc
Giang đến năm 2010/ Nguyễn Văn Dũng, 2008
- Một số giải pháp tăng cường huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh
tế Hà Nội giai đoạn 2006-2010 / Hoàng Quốc Thắng, 2006.
- Các nghiên cứu trên mặc dù tên của đề tài có sự tương đồng nhưng,
đều được nghiên cứu với nội dung, khía cạnh và góc độ tiếp khác nhau.
- Riêng ở nước CHDCND Lào việc nghiên cứu chủ đề này là rất ít và
phần lớn là các cơ quan có thẩm quyền như sở kế hoạch đầu tư, bộ kế hoạch
và đầu tư đứng ra nghiên cứu và nghiên cứu một cách tổng quát tức là quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội 5 năm của các tình thành phố và cả
nước trong từng giai đoạn.
3. Mục tiêu nghiên cứu

Hệ thống hóa và góp phần hồn thiện lý luận về đầu tư trong phát triển
kinh tế, trong đó xác định rõ vai trị của đầu tư đối với sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế, nội dung, các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư để vận
dụng vào điều kiện cụ thể của Thủ đô Viêng Chăn.
Phân tích thực trạng đầu tư phát triển kinh tế trên địa bàn Thủ đô, đánh
giá những ưu nhược điểm, làm rõ những cơ sở khoa học và thực tiễn, từ đó đề


5

xuất những giải pháp cho đầu tư phát triển kinh tế trên địa bàn Thủ đô Viêng
Chăn trong thời gian tới đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đáp
ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu những cơ sở khoa
học và thực tiễn trong nội dung của hoạt động đầu tư phát triển kinh tế, giải
pháp đầu tư phát triển kinh tế trên địa bàn Thủ đô Viêng Chăn.
Phạm vi nghiên cứu: Về mặt lý luận: Chủ yếu đề cập đến những vấn đề
lý luận về đầu tư và đầu tư phát triển, các lý thuyết về đầu tư và phát triển
kinh tế.
Về mặt thực tiễn: Tìm hiểu, phân tích, đánh giá về thực trạng đầu tư
phát triển kinh tế Thủ đô Viêng Chăn, đưa ra những giải pháp chủ yếu về đầu
tư phát triển kinh tế Thủ đô Viêng Chăn trong thời gian tới.
Phạm vi về không gian và thời gian: Đề tài thực hiện nghiên cứu trong
phạm vi các đối tượng và hoạt động đầu tư phát triển trên địa bàn Thủ đô
Viêng Chăn, các số liệu phục vụ cho nghiên cứu tập trung trong thời gian từ
năm 2007- 2011.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phương pháp biện
chứng duy vật, kết hợp với phương pháp lịch sử và logic, phân tích và tổng

hợp, phương pháp thống kê, mơ hình tốn và tiếp cận hệ thống.
- Phương pháp duy vật lịch sử và phương pháp hệ thống: Việc nghiên
cứu hoạt động huy động vốn đầu tư phát triển tại Thủ đô Viêng Chăn được
thực hiện một cách đồng bộ, gắn với hoàn cảnh, điều kiện và các giai đoạn cụ
thể. Huy động vốn đầu tư phát triển được xem xét trong mối liên hệ chặt chẽ
với nhau cả về không gian và thời gian, đồng thời được đặt ra trong bối cảnh
chung của toàn bộ nền kinh tế trong quá trình đổi mới và mở rộng quan hệ đối
ngoại của Thủ đô Viêng Chăn.
- Phương pháp thống kê: Luận án sử dụng các số liệu thống kê thích


6

hợp để phục vụ cho phân tích q trình hoạt động huy động vốn đầu tư phát
triển ở Thủ đô Viêng Chăn.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Huy động vốn đầu tư phát triển của
Thủ đô Viêng Chăn được xem xét trên cơ sở có sự so sánh tác động của nó
đối với sự tăng trường và phát triển kinh tế của Thủ đô Viêng Chăn qua từng
giai đoạn huy đông, cũng như thực việc huy động vốn đầu tư phát triển của
một số nước trong khu vực.
6. Những đóng góp mới của luận án:
- Luận giải cơ sở lý luận của quá trình đầu tư phát triển kinh tế các yếu
tố tác động đến tăng trưởng và phát triển kinh tế thủ đô Viêng Chăn, đưa ra hệ
thống các chỉ tiêu đo lường hiệu quả của quá trình đầu tư phát triển kinh tế.
- Vận dụng lý thuyết để đo lường và đánh giá hoạt động đầu tư phát
triển kinh tế ở thủ đô Viêng Chăn
- Đề xuất các giải pháp cho sự phát triển kinh tế thủ đô Viêng Chăn từ
đầu tư phát triển theo chiều rộng đến đầu tư phát triển theo chiều sâu, đảm
bảo phát triển ổn định và biền vững.
7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, mục lục bảng biểu, các tài liệu tham khảo và kết
luận, nội dung luận án được chia làm 3 chương:
Chương 1: Đầu tư phát triển kinh tế địa phương- cơ sở lý luận, thực
tiễn.
Chương 2: Thực trạng đầu tư phát triển kinh tế Thủ đô Viêng Chăn giai
đoạn 2007 – 2011
Chương 3: Một số giải pháp tăng cường đầu tư phát triển kinh tế Thủ
đô Viêng Chăn đến năm 2020.


7

CHƯƠNG 1: ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
ĐỊA PHƯƠNG CƠ SỞ LÝ LUẬN - THỰC TIỄN
1.1.

Khái niệm đầu tư phát triển kinh tế địa phương và tác động của

đầu tư phát triển kinh tế đến tăng trưởng và phát triển
1.1.1. Các khái niệm
1.1.1.1 Đầu tư
Theo từ điển kinh tế học hiện đại thì đầu tư theo nghĩa rộng có nghĩa là
sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm
đem lại cho nhà đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai mà kết quả này
thường phải lớn hơn các chi phí về các nguồn lực đã bỏ ra. Nguồn lực bỏ ra
có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là tài sản vật chất khác hoặc sức lao
động. Sự biểu hiện bằng tiền tất cả các nguồn lực đã bỏ ra trên đây gọi là vốn
đầu tư .
Theo khái niệm trên thì những kết quả của đầu tư đem lại là sự tăng
thêm tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường xá, của cải

vật chất khác), tài sản trí tuệ (trình độ văn hố, chuyên môn, khoa học kỹ
thuật,... của người dân). Các kết quả đã đạt được của đầu tư đem lại góp phần
tăng thêm năng lực sản xuất của xã hội.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các
nguồn lực ở hiện tại nhằm đem lại cho nhà đầu tư hoặc xã hội kết quả trong
tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được kết quả đó.[16]
Theo Luật khuyến khích đầu tư năm 2009 của Lào, định nghĩa đầu tư là
việc nhà đầu tư đưa các loại tài sản của mình có thể là tài sản hữu hình hoặc
tài sản vơ hình để tiến hành các hoạt động đầu tư tại Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Lào[19].
Nếu xem xét trên giác độ đầu tư thì đầu tư là những hoạt động sử dụng


8

các nguồn lực hiện có để làm tăng thêm các tài sản vật chất, nguồn nhân lực
và trí tuệ để cải thiện mức sống của dân cư hoặc để duy trì khả năng hoạt
động của các tài sản và nguồn lực sẵn có.
1.1.1.2 Đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển có vai trị quan trọng đến tăng trưởng và phát triển
kinh tế địa phương. Trước khi đánh giá vai trò này, chúng ta sẽ nghiên cứu
khái niệm tăng trưởng và phát triển kinh tế, cụ thể:
• Tăng trưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một
khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Sự gia tăng thường được thể
hiện ở quy mô và tốc độ. Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay
ít, cịn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản
ánh sự tăng trưởng nhanh hay chậm của các thời kỳ.
Như vậy, bản chất của tăng trưởng là phản ánh sự thay đổi về lượng
của nền kinh tế. Ngày nay, yêu cầu tăng trưởng được gắn liền với tính bền

vững hay việc đảm bảo chất lượng tăng trưởng càng cao..
• Phát triển kinh tế:
Phát triển được hiểu là quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế.
Phát triển kinh tế được xem như quá trình biến đổi cả về mặt lượng và chất,
nó là sự kết hợp chặt chẽ q trình hồn thiện của hai vấn đề kinh tế và xã
hội. Theo cách hiểu như vậy, phát triển phải là một quá trình lâu dài và do các
nhân tố nội tại của nền kinh tế quyết định.[16]
Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn
trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra
những tài sản vật chất (nhà xưởng, thiết bị...) và tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ
năng...), gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát
triển.


9

Loại đầu tư đem lại các kết quả không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh
tế xã hội được thụ hưởng, không chỉ trực tiếp làm tăng tài sản của người chủ
đầu tư mà cả của nền kinh tế chính là đầu tư phát triển.
Đầu tư phát triển địi hỏi rất lớn nhiều loại nguồn lực. Theo nghĩa hẹp,
nguồn lực sử dụng cho đầu tư phát triển là tiền vốn. Theo nghĩa rộng, nguồn
lực đầu tư bao gồm cả tiền vốn, đất đai, lao động, máy móc thiết bị, tài
nguyên. Như vậy khi xem xét lựa chọn dự án đầu tư hay đánh giá hiệu quả
hoạt động đầu tư phát triển cần tính đúng tính đủ các nguồn lực tham gia.
Đối tượng của đầu tư phát triển là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư
bỏ vốn thực hiện nhằm đạt những mục tiêu nhất định.
Kết quả của đầu tư phát triển là sự tăng thêm về tài sản vật chất (nhà
xưởng, thiết bị...) và tài sản trí tuệ (trình độ văn hóa, chun mơn, khoa học
kỹ thuật...) và tài sản vơ hình (những phát minh sáng chế, bản quyền...). Các
kết quả của đầu tư góp phần làm tăng thêm năng lực sản xuất của xã hội. Hiệu

quả của đầu tư phát triển phản ánh quan hệ so sánh giữa kết quả kinh tế xã hội
thu được với chi phí chi ra để đạt kết quả đó. Kết quả và hiệu quả đầu tư phát
triển cần được xem xét cả trên phương diện chủ đầu tư và xã hội, đảm bảo kết
hợp hài hịa giữa các lợi ích, phát huy vai trò chủ động sáng tạo của chủ đầu
tư, vai trò quản lý, kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước các cấp.
Do đó trong thực tế có những khoản đầu tư khơng trực tiếp tạo ra tài sản cho
hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng lại rất quan trọng để nâng cao chất
lượng cuộc sống như đầu tư cho y tế, giáo dục, xóa đói giảm nghèo...và vì
mục tiêu phát triển đó cũng được xem là đầu tư phát triển.
Mục đích của đầu tư phát triển là vì sự phát triển bền vững, vì lợi ích
quốc gia, cộng đồng và nhà đầu tư.
Hoạt động đầu tư phát triển là một quá trình, diễn ra trong thời kỳ dài
và tồn tại vấn đề “độ trễ thời gian”. “Độ trễ thời gian” là sự không trùng khớp


10

giữa thời gian đầu tư và thời gian vận hành các kết quả đầu tư, đầu tư hiện tại
nhưng kết quả đầu tư thường thu được trong tương lai. Đặc điểm này của đầu
tư cần được quán triệt khi đánh giá kết quả, chi phí và hiệu quả hoạt động đầu
tư phát triển.
Nội dung đầu tư phát triển ở phạm vi doanh nghiệp và phạm vi nền
kinh tế có thể khác nhau. Trên góc độ nền kinh tế, đầu tư phát triển phải làm
gia tăng tài sản cho nền kinh tế chứ không phải hiện tượng chu chuyển tài sản
giữa các đơn vị.
1.1.1.3 Đầu tư phát triển kinh tế
Trên cơ sở quan niệm về đẩu tư như trên, đầu tư phát triển kinh tế được
hiểu là hoạt động chi dùng vốn cùng các nguồn lực khác trong giai đoạn hiện
tại nhằm duy trì sự hoạt động và làm tăng thêm tài sản (các tài sản vật chất
hữu hình và tài sản vơ hình) và giá trị khác của nền kinh tế, tạo thêm việc làm

và nâng cao đời sống của các bộ phận dân cư.
Với khái niệm này, đầu tư phát triển kinh tế được xem xét ở các giác
độ: Thứ nhất, hoạt động đầu tư phát triển kinh tế là hoạt động chi dùng vốn
cho phát triển kinh tế. Vốn đầu tư phát triển kinh tế không chỉ giới hạn trong
phạm vi vốn ngân sách mà nó bao gồm cả vốn của các thành phần kinh tế
khác... do vậy, khi đánh giá hiệu quả đầu tư phát triển kinh tế cũng không giới
hạn ở việc xem xét hiệu quả của một nguồn vốn nhất định.
Thứ hai, mục tiêu của đầu tư phát triển kinh tế. Một trong những mục
tiêu của đầu tư phát triển kinh tế là nhằm duy trì hoạt động đầu tư và làm tăng
thêm tài sản, giá trị kinh tế cho nền kinh tế. Các giá trị kinh tế bao gồm cả tài
sản vật chất, tài sản trí tuệ, hữu hình và vơ hình, cố định và lưu động, cho cả
hoạt động sản xuất kinh doanh và phi sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, nội dung đầu tư phát triển kinh tế. Do, mục đích đầu tư phát
triển kinh tế là duy trì hoạt động đầu tư và làm tăng giá trị kinh tế, tạo ra việc


11

làm và nâng cao đời sống của các tầng lớp dân cư, nên nội dung đầu tư phát
triển kinh tế bao gồm nhiều lĩnh vực như đầu tư phát triển hoạt động sản xuất
kinh doanh, đầu tư xây dựng cơ bản, đầu tư cho khoa học công nghệ...
Luận án nghiên cứu trong phạm vi quản lý nhà nước về đầu tư phát
triển kinh tế, do vậy nội dung nghiên cứu về đầu tư phát triển kinh tế giới hạn
trong các vấn đề như lượng vốn đầu tư theo thành phần kinh tế, khu vực kinh
tế, nguồn đầu tư, hình thức quản lý và theo ngành kinh tế.
1.1.1.4 Đầu tư phát triển kinh tế địa phương
Cũng từ quan niệm đầu tư và đầu tư phát triển đề cập ở trên, đầu tư
phát triển kinh tế địa phương được hiểu là hoạt động chi dùng vốn cùng các
nguồn lực khác trong từng giai đoạn nhằm khai thác một cách hợp lý các
nguồn lực địa phương, làm tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế địa

phương, góp phần làm tăng trưởng kinh tế, tạo thêm việc làm và nâng cao đời
sống của các bộ phận dân cư trong địa bàn địa phương quản lý. Như vậy, đầu
tư phát triển kinh tế địa phương được hiểu là toàn bộ các hoạt động chi vùng
vốn của Trung ương và địa phương nhằm đảm bảo thực hiện các mục tiêu
phát triển kinh tế địa phương trong từng giai đoạn, từng thời kì.
Có thể hiểu "đầu tư phát triển kinh tế địa phương" trên các nội dung
sau:
- Đầu tư phát triển kinh tế địa phương trước hết bao hàm các hoạt động
đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế địa phương. Nghĩa là đầu
tư phải đảm bảo phát triển kinh tế thể hiện ở khía cạnh mỗi suất đầu tư tăng
lên mang lại mức tăng lượng của cải (tài sản) tính bằng hiện vật, hay giá trị
trong một thời kỳ nhất định. Những chỉ tiêu quan trọng nhất để đo mức độ
phát triển kinh tế do đầu tư mang lại có thể là: ICOR, GDP, tốc độ tăng
GDP; GDP/người; tốc độ tăng GDP/người... Mức độ phát triển này phải
được duy trì theo thời gian, dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động và hiệu


12

quả cao, chứ không phải chỉ dựa trên cơ sở gia tăng lượng vốn đầu tư một
cách thuần tuý.
- Đầu tư phát triển kinh tế địa phương là hoạt động đầu tư, theo đó bao
hàm đầu tư phát triển theo các ngành nghề, lĩnh vực tạo ra giá trị sản phẩm
hàng hóa hoặc phi hàng hóa tại địa phương nhằm khai thác các nguồn lực,
phát huy thế mạnh và mối liên kết ngành trong và ngoài địa phương. Sự thay
đổi cơ cấu đầu tư phát triển kinh tế địa phương phản ánh mức độ thay đổi của
phương thức sản xuất theo hướng ngày càng hiện đại và tính hiệu quả của đầu
tư tại nền kinh tế địa phương. Những ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh có
hiệu quả, lĩnh vực kinh tế có năng suất lao động cao, có giá trị gia tăng cao tại
địa phương sẽ hấp dẫn và thu hút đầu tư phát triển kinh tế nhanh và nhiều hơn

các ngành khác.
- Đầu tư phát triển kinh tế địa phương cũng bao hàm hai khía cạnh đầu
tư tạo ra của cải hàng hóa hoặc đầu tư phi tạo ra hàng hóa của địa phương.
Đầu tư nhằm làm tăng sản lượng hàng hóa dựa trên thế mạnh của địa phương
là loại đầu tư có tầm quan trọng đối với bất cứ địa phương nào, theo đó một
đơn vị vốn đầu tư được bỏ ra nhằm mang lại một lượng giá trị sản phẩm hàng
hóa lớn hơn nhằm đáp ứng nhu cầu dân cư và xuất khẩu sang các địa bàn
khác. Đầu tư phi hàng hóa cũng gắn liền với đầu tư tạo hàng hóa, bao hàm
khía cạnh tạo ra các giá trị tinh thần, giá trị hỗ trợ hoặc gián tiếp tạo ra giá trị
hàng hóa. Cái đích của đầu tư phát triển kinh tế là tạo ra của cải hàng hóa
nhằm phục vụ con người. Mức sống cũng được hiểu theo nghĩa rộng không
chỉ là thu nhập cao hay thiếu đói mà cịn bao hàm hàng loạt vấn đề như nước
sạch, quyền lợi học tập, các vấn đề bảo vệ bà mẹ trẻ em, chữa bệnh, nhà ở...
Đầu tư cho các lĩnh vực này cũng gọi là đầu tư phát triển kinh tế.
Cùng với mức sống còn vấn đề bình đẳng; vấn đề xã hội văn minh (con
người sống tin cậy, hài hồ, xã hội an tồn...). Do đó, đầu tư phi hàng hóa là


13

loại đầu tư có vai trị đặc biệt quan trọng nhằm đáp ứng nhu cầu bậc cao của
con người.
- Đầu tư phát triển kinh tế địa phương trong giai đoạn hiện nay phải đi
liền và đảm bảo việc phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, bảo tồn và tái
sinh các hệ sinh thái; bảo đảm chất lượng môi trường địa phương cho hiện tại
và cho tương lai; bảo đảm các nguồn lực, cơ sở vật chất hiện tại và tương lai.
Những yêu cầu này phải được quán triệt trong xây dựng và thực thi các kế
hoạch, dự án đầu tư cụ thể trong từng thời kì, từng giai đoạn.
Với khái niệm đầu tư phát triển kinh tế địa phương như trên, các hoạt
động đầu tư phát triển kinh tế địa phương được hiểu với những quan niệm

khác nhau.
- Hoạt động đầu tư phát triển kinh tế địa phương bao gồm các hoạt
động đầu tư cho sản xuất, tiêu thụ hàng hòa, xây dựng lợi thế cạnh tranh của
các doanh nghiệp trong vùng, nhằm tạo việc làm và mở rộng thu nhập. Các
hoạt động này có sự tham gia hỗ trợ của chính quyền địa phương, các hiệp hội
doanh nghiệp, các doanh nghiệp, các đối tượng khác nhằm khắc phục các cản
trở và giảm chi phí cho doanh nghiệp, nâng cao khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp, khai thác có hiệu quả các lợi thế đang có và tạo lập các lợi thế
mới cho địa phương và doanh nghiệp vùng đó.
- Hoạt động đầu tư phát triển kinh tế địa phương bao gồm các hoạt
động đầu tư và khuyến khích đầu tư tại một vùng, lãnh thổ địa phương nhất
định. Thực chất của các hoạt động là thu hút các chủ đầu tư ngoài vùng vào
đầu tư tại địa phương (quan niệm này có lẽ khơng đầy đủ bởi chưa tính đến
hoạt động đầu tư của các chủ đầu tư đang sống hoặc đang là chủ các doanh
nghiệp đang hoạt động tại địa phương).
- Hoạt động đầu tư phát triển kinh tế địa phương bao gồm tất cả các
hoạt động đầu tư nhằm cải thiện và tăng phúc lợi của dân cư địa phương. Đầu


14

tư phát triển kinh tế bao hàm ý nghĩa đầu tư nhằm cải thiện phúc lợi của nhân
dân. Tuy nhiên, để cải thiện phúc lợi dân cư có thể cịn do nhiều loại hoạt
động ở các lĩnh vực khác nhau tác động, trong đó đầu tư phát triển kinh tế chỉ
là một loại hoạt động.
- Hoạt động đầu tư phát triển kinh tế địa phương cũng bao gồm: hoạt
động đầu tư của các doanh nghiệp nhằm tăng cường khai thác các tiềm năng
lợi thế sẵn có, tạo lập các lợi thế mới, hoạt động đầu tư của chính quyền và
các tổ chức liên quan nhằm tạo lập môi trường cạnh tranh, thúc đẩy các doanh
nghiệp chủ động, sáng tạo trong kinh doanh.

Nghiên cứu quan niệm trên cho thấy các hoạt động đầu tư phát triển
kinh tế địa phương phải bao gồm các hoạt động sau: hoạt động điều tra,
nghiên cứu cơ hội đầu tư để có phương án đầu tư phát triển các ngành nghề
kinh doanh một cách có hiệu quả; các hoạt động đầu tư khai thác có hiệu quả
các lợi thế hiện có, đầu tư tạo lập các lợi thế cạnh tranh mới; đầu tư tạo môi
trường kinh doanh thuận lợi, khuyến khích đầu tư (từ tất cả các nguồn) phát
triển doanh nghiệp tại địa phương; các hoạt động phối hợp hài hoà trong xây
dựng kế hoạch, cung cấp thị trường tổ chức phối hợp thực thi kế hoạch.
Các tác nhân tham gia các hoạt động trên là: chính quyền, các doanh
nghiệp, các hội nghề nghiệp, khu vực tư nhân và đối tác khác. Với tất cả các
hoạt động trên, để đạt hiệu quả cao cần có sự quản lý nhà nước gọi là quản lý
nhà nước về đầu tư phát triển kinh tế địa phương.
1.1.2. Tác động của đầu tư phát triển kinh tế đến tăng trưởng và phát triển
1.1.2.1 Tác động đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế
Tác động đến cầu: Để tạo ra sản phẩm cho xã hội, trước hết cần đầu tư,
đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh
tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm từ 24 đến 28%
trong cơ cầu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Với tổng cầu, tác động


15

của đầu tư thể hiện rõ trong ngắn hạn, khi tổng cung và các yếu tố khác không
thay đổi gia tăng đầu tư (I) làm cho tổng cầu (AD) tăng.
AD = C + I + G + X + M
Trong đó:
I: Đầu tư

X: Xuất khẩu


G: Tiêu dùng chính phủ

M: Nhập khẩu

C: Tiêu dùng

P
S
E1

S’

E0

E2
D
D’

Q0

Q1

Q2

Biểu đồ 1.1. Tác động của đầu tư đến tổng cung và tổng cầu
Theo đồ thị đường cầu dịch chuyển từ D sang D’, kéo sản lượng cân
bằng tăng từ Q0 sang Q1 và giá cả đầu vào của đầu tư tăng từ P0 lên P1, điểm
cân bằng dịch chuyển từ E0 đến E1.
Tác động đến tổng cung: Tổng cung của nền kinh tế gồm 2 nguồn
chính là cung trong nước và cung từ nước ngoài. Cung trong nước thể hiện

qua phương trình sau:
Q = F(K,L,T,R.....)
K: Vốn đầu tư

L: Lao động

R: Nguồn tài nguyên

T: Công nghệ

Như vậy tăng qui mô vốn đầu tư là nguyên nhân trực tiếp làm tăng tổng
cung của nền kinh tế, nếu các yếu tố khác không đổi. Mặt khác, tác động của
vốn đầu tư cịn được thực hiện thơng qua hoạt động đầu tư nâng cao chất


16

lượng nguồn nhân lực, đổi mới cơng nghệ...do đó đầu tư lại gián tiếp làm tăng
tổng cung của nền kinh tế[16].
1.1.2.2 Tác động đến tăng trưởng kinh tế
Đầu tư vừa tác động đến tốc độ tăng trưởng vừa tác động đến chất
lượng tăng trưởng. Tăng qui mô vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư hợp lý là
những nhân tố rất quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng năng
suất nhân tố tổng hợp, tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng CNH-HĐH, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế....do đó nâng cao
chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Biểu hiện của mối quan hệ giữa đầu tư phát triển với tăng trưởng kinh
tế thể hiện ở cơng thức tính hệ số ICOR (Incremental Capital Output Ratio- tỷ
số gia tăng của vốn so với sản lượng: là tỷ số giữa qui mô đầu tư tăng thêm
với mức gia tăng sản lượng, hay là suất đầu tư cần thiết để tạo ra một đơn vị

sản lượng (GDP) tăng thêm).
ICOR

=

I Vphtd
∆ GDP ( ∆ VA )

Trong đó
IVphtd: là vốn đầu tư kỳ trước có tính đến giả định độ trễ 1 năm
∆GDP : là giá trị sản lượng gia tăng.

Từ công thức trên cho thấy: Nếu ICOR khơng đổi, mức tăng GDP hồn
tồn phụ thuộc vào vồn đầu tư, theo các nhà nghiên cứu kinh tế, muốn giữ tốc
độ tăng trưởng khá cao và ổn định thì tỷ lệ đầu tư phải chiếm khoảng trên
25% so với GDP, tùy thuộc vào GDP của mỗi nước[16].
1.1.2.3 Tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế là cơ cấu của tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế,
có quan hệ chặt chẽ với nhau, được biểu hiện cả về mặt chất và mặt lượng tùy
thuộc mục tiêu của nền kinh tế.


17

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế được hiểu là sự thay đổi tỷ trọng của các bộ
phận cấu thành nền kinh tế. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế xảy ra khi có sự
phát triển khơng đồng đều về qui mơ, tốc độ giữa các ngành, vùng.
Đầu tư có tác động quan trọng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đầu tư
góp phân làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp qui luật và chiến lược phát
triển kinh tế xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ, tạo ra sự cân đối mới trên

phạm vi nền kinh tế quốc dân và giữa các ngành, vùng phát huy nội lực của
nền kinh tế trong khi vẫn coi trọng yếu tố ngoại lực.
Đối với cơ cấu ngành, đầu tư vốn vào ngành nào, qui mơ vốn nhiều hay
ít, việc sử dụng vốn hiệu quả cao hay thấp....đều ảnh hưởng đến tốc độ phát
triển, khả năng tăng cường cơ sở vật chất của từng ngành, tạo tiền đề vật chất
phát triển ngành mới...do đó làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngành.
Đối với cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân
đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thốt
khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên,
địa thế, kinh tế, chính trị...của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn,
làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
1.1.2.4 Tăng cường khoa học và công nghệ
Công nghệ là yếu tố trung tâm của cơng nghiệp hóa, đầu tư là nhân tố
quan trọng ảnh hưởng đến quyết định đổi mới và phát triển khoa học, cơng
nghệ. Nếu trình độ cơng nghệ lạc hậu, q trình CNH- HĐH sẽ gặp nhiều khó
khăn và khơng bắt kịp được với trình độ cơng nghệ của thế giới là rào cản của
q trình hội nhập.
Có hai cịn đường cơ bản để có cơng nghệ là: Nhập công nghệ và tự
nghiên cứu, phát minh. Dù tiến hành bằng con đường nào thì yếu tố quyết
định cũng là phải có tiền- đầu tư. Điều quan trọng là cần phải có bước đi phù
hợp để lựa chọn cơng nghệ thích hợp. Trên cơ sở đó, đầu tư có hiệu quả để


18

phát huy lợi thế so sánh của từng đơn vị cũng như toàn nền kinh tế quốc dân.
1.1.2.5 Tăng khả năng cạnh tranh và xuất khẩu của nền kinh tế
Đầu tư không chỉ nhằm gia tăng sản lượng mà cần chú trọng tới việc
nâng cao năng suất, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Khuyến khích đầu
tư vào các dự án đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hóa, khuyến

khích phát triển cơng nghệ sạch.
Đầu tư và phát triển hợp lý các khu công nghiệp, khu chế xuất, ưu đãi
cho doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu.
Đầu tư của nhà nước tập trung cho các khâu đòi hỏi vốn lớn có tác
dụng hỗ trợ cho doanh nghiệp phát triển như: Hệ thống cơ sở hạ tầng điện,
đường... nghiên cứu khoa học.
1.1.2.6 Nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân
Mục tiêu của Đảng và Nhà nước Lào được cụ thể hóa trong Văn kiện
đại hội Đảng là: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”. Vì vậy mà mục tiêu phát triển kinh tế ln được gắn liền với đảm bảo
an tồn xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng. Nhà nước ưu tiên đầu tư vào cơ
sở hạ tầng, mơi trường, chính sách tạo tiền đề phát triển kinh tế như các
chương trình: Phổ cập giáo dục, xóa đói giảm nghèo, nước sạch nơng thơn,
phát triển hệ thống giao thơng...do đó mà chất lượng cuộc sống của người dân
đã được nâng cao, đặc biệt là góp phần phát triển kinh tế tạo ra bộ mặt nông
thôn mới, rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, giàu và nghèo.
Đầu tư phát triển kinh tế là “cú huých” phá vỡ “cái vòng luẩn
quẩn” của sự nghèo đói ở các nước đang phát triển
Vào những năm 50 của thế kỷ XX, Nurkse đã đưa ra lý thuyết về vòng
luẩn quẩn ở các nước đang phát triển. Lý thuyết này chỉ ra rằng sự nghèo đói
tự nó kéo dài mãi trong các vịng luẩn quẩn tăng cường lẫn nhau trên cả hai
phía cung và cầu.


19

Về phía cung: Do thu nhập thấp tiêu dùng khơng thể chuyển sang tiết
kiệm để thành vốn được. Việc thiếu vốn sẽ dẫn tới năng suất và năng suất tính
trên đầu người thấp và duy trì mãi mức thu nhập thấp. Như vậy vịng trịn đó
khơng thể chấm dứt, một nước nghèo, khơng có tăng trưởng là bởi vì vốn dĩ

nó đã q nghèo khơng thể tiết kiệm và đầu tư được.
Về phía cầu: Vì thu nhập thấp nên người dân phải hạn chế tiêu dùng
làm cho quy mô thị trường là q nhỏ khơng thể kích thích những người đầu
tư có tiềm năng. Việc thiếu người đầu tư có nghĩa là năng suất thấp và thu
nhập thấp tiếp diễn. Một đất nước nghèo là bởi vì vốn dĩ nó đã quá nghèo
không thể tạo ra thị trường để thúc đẩy đầu tư.
Như vậy ở cả phía cung và phía cầu q trình đó cứ lặp đi lặp lại mà
khơng có được bước phát triển cao hơn, khơng thốt ra khỏi vịng luẩn quẩn
của nghèo đói.
Điều này địi hỏi các nước phát triển phải phá vỡ cái vòng luẩn quẩn
này cả về phía cung và phía cầu bằng việc tăng cường tiềm lực cho đầu tư.
Đầu tư cả nguồn lực trong nước và ngoài nước sẽ cho phép tái sản xuất mở
rộng để tăng tích lũy và đầu tư tiếp tục lại cho phép mở rộng năng lực sản suất
nâng cao năng lực sử dụng các nguồn lực sản xuất. Đầu tư cho phép tạo ra
năng lực sản xuất mới theo đó sẽ góp phần tăng thu nhập. Thu nhập cao sẽ
cho phép và kích thích tiêu dùng. Nhờ đó mà nhu cầu về sản phẩm cũng được
mở rộng tạo sức hút cho việc đầu tư tiếp theo. Như vậy, đầu tư với sự tác
động cả về phía cung và phía cầu là nhân tố cần thiết để phá vỡ “cái vịng
luẩn quẩn” của sự nghèo đói ở các nước đang phát triển tạo ra một vòng mở
cho phép các nước đó tăng trưởng khơng ngừng.
1.2.

Nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế

1.2.1. Bản chất của nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế
Nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tích lũy được thể hiện dưới


20


dạng giá trị được chuyển hóa thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của
xã hội. Như vậy nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích
lũy nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội.
Điều này được cả kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị học Mác- Lênin và
kinh tế học hiện đại chứng minh.
Trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc” (1776), Adam Smith, một
đại diện điển hình của trường phái kinh tế học cổ điển đã khẳng định: “Tiết
kiệm là nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích
lũy cho q trình tiết kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa, nhưng
khơng có tiết kiệm thì vốn khơng bao giờ tăng lên” [20].
Sang thế kỷ XIX, khi nghiên cứu về cân đối kinh tế, về các mối quan hệ
giữa các khu vực của nền sản xuất xã hội, về các vấn đề có liên quan trực tiếp
đến tích lũy, C.Mác đã chứng minh: Trong một nền kinh tế với hai khu vực,
khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng.
Cơ cấu tổng giá trị của từng khu vực đều bao gồm (c+v+m) trong đó c là phần
tiêu hao vật chất, (v+m) là phần giá trị mới sáng tạo ra. Khi đó, điều kiện để
đảm bảo tái sản xuất mở rộng không ngừng thì nền sản xuất xã hội phải đảm
bảo (v+m) của khu vực I lớn hơn tiêu hao vật chất (c) của khu vực II, tức là:
(v+m)I > cII

(1.1)

Hay nói cách khác
(c+v+m)I > cII + cI
Điều này có nghĩa rằng, tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I khơng
chỉ bồi hồn tiêu hao vật chất của tồn bộ nền kinh tế (của cả hai khu vực) mà
còn phải dư thừa để đầu tư làm tăng quy mô tư liệu sản xuất trong quá trình
sản xuất tiếp theo.
Đối với khu vực II cần phải đảm bảo
(c+v+m)II < (v+m)I + (v+m)II


(1.2)


21

Có nghĩa là tồn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị
sản phẩm sản xuất ra của khu vực II. Chỉ khi điều kiện này được thỏa mãn,
nền kinh tế mới có thể dành một phần thu nhập để tái sản xuất mở rộng, từ đó
quy mơ vốn đầu tư cũng sẽ tăng. Như vậy theo quan điểm của C.Mác con
đường cơ bản và quan trọng về lâu dài để tái sản xuất mở rộng là phát triển
sản xuất và thực hành tiết kiệm ở cả trong sản xuất và tiêu dùng.
Tuy nhiên, điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh tế đóng.
Trong đó, phần tiết kiệm của nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực tư
nhân và tiết kiệm của chính phủ. Nhưng tiết kiệm và đầu tư xem xét trên góc
độ tồn bộ nền kinh tế khơng nhất thiết tiến hành bởi cùng một cá nhân hoặc
doanh nghiệp nào. Có thể có cá nhân, doanh nghiệp tại một thời điểm nào đó
có tích lũy nhưng khơng trực tiếp tham gia đầu tư. Trong khi đó, có một số cá
nhân, doanh nghiệp lại thực hiện đầu tư khi chưa hoặc tích lũy chưa đủ. Khi
đó, thị trường vốn sẽ tham gia giải quyết vấn đề bằng việc điều tiết khoản vốn
từ nguồn dư thừa hoặc tạm thời dư thừa sang cho người có nhu cầu sử dụng.
Ví dụ, nhà đầu tư có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu (nếu đáp ứng đủ các
điều kiện theo quy trình, thủ tục) để huy động vốn thực hiện một dự án đầu tư
nào đó từ các doanh nghiệp, hộ gia đình hay các cá nhân- người dư thừa vốn.
Trong nền kinh tế mở, đẳng thức đầu tư bằng tiết kiệm của nền kinh tế
không phải bao giờ cũng được thiết lập. Phần tích lũy của nền kinh tế có thể
lớn hơn nhu cầu đầu tư tại nước sở tại, khi đó vốn có thể được chuyển sang
nước khác để thực hiện đầu tư. Ngược lại, vốn tích lũy của nền kinh tế có thể
ít hơn nhu cầu đầu tư, khi đó nền kinh tế phải huy động tiết kiệm từ nước
ngoài. Trong trường hợp này, mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư được

thể hiện trên tài khoản vãng lai
CA = S – I
Trong đó: CA (current account): tài khoản vãng lai

(1.3)


22

Như vậy, trong nền kinh tế mở, nếu nhu cầu đầu tư lớn hơn tích lũy nội
bộ của nền kinh tế và tài khoản vãng lai bị thâm hụt thì có thể huy động vốn
đầu tư từ nước ngồi. Khi đó, đầu tư nước ngồi hoặc vay nợ có thể trở thành
một trong những nguồn vốn đầu tư quan trọng của nền kinh tế. Nếu tích lũy
của nền kinh tế lớn hơn nhu cầu đầu tư trong nước trong điều kiện thặng dư
tài khoản vãng lai thì quốc gia đó có thể đầu tư vốn ra nước ngồi hoặc cho
nước ngoài vay vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.
1.2.2. Nguồn vốn đầu tư trong nước
Nguồn vốn đầu tư trong nước là phần tích lũy của nội bộ nền kinh tế
bao gồm tiết kiệm của khu vực dân cư, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp
và tiết kiệm của Chính phủ được huy động vào quá trình tái sản xuất của xã
hội, bao gồm:
* Nguồn vốn Nhà nước: Bao gồm nguồn vốn của ngân sách Nhà nước,
nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát
triển của doanh nghiệp nhà nước.
- Nguồn vốn NSNN: Là nguồn chi của NSNN cho đầu tư. Đó chính là
một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội
của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu
hạ tầng kinh tế- xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ các dự án của doanh
nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của Nhà nước, chi cho các dự án
lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng,

lãnh thổ, qui hoạch xây dựng đô thị và nông thôn.
- Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước: Là một hình thức
quá độ chuyển từ phương thức cấp phát vốn ngân sách sang phương thức tín
dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Với cơ chế tín dụng,
các đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay.
Chủ đầu tư là người vay vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết


23

kiệm hơn. Bên cạnh đó, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cịn phục
vụ cơng tác quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô. Thông qua nguồn tín dụng đầu
tư, Nhà nước thực hiện khuyến khích phát triển kinh tế xã hội của ngành,
vùng, lĩnh vực, khuyến khích phát triển những vùng kinh tế khó khăn, giải
quyết các vấn đề xã hội như xóa đói, giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng CNH- HĐH.
- Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước. Chủ yếu từ khấu
hao tài sản cố định và thu nhập giữ lại tại doanh nghiệp Nhà nước. Theo Bộ
Kế hoạch và Đầu tư nguồn vốn này thường chiếm 14- 15% tổng vốn đầu tư
toàn xã hội, chủ yếu là đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị,
hiện đại hóa dây chuyền cơng nghệ của doanh nghiệp.
* Nguồn vốn của dân cư và tư nhân: Bao gồm phần tiết kiệm của dân
cư và phần tích lũy của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo Bộ
Kế hoạch và Đầu tư tiết kiệm trong dân cư và các doanh nghiệp dân doanh
thường chiếm khoảng 15% GDP. Với số lượng doanh nghiệp ngày càng lớn
phần tích lũy của các doanh nghiệp này cũng sẽ đóng góp đáng kể vào tổng
quy mơ vốn của tồn xã hội. Nguồn vốn này còn phụ thuộc vào thu nhập và
chi tiêu của các hộ gia đình, trình độ phát triển của đất nước, tập quán tiêu
dùng của dân cư, chính sách động viên của Nhà nước thơng qua chính sách
thuế thu nhập và các khoản đóng góp của xã hội.

1.2.3. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài
Nguồn vốn đầu tư nước ngồi bao gồm tồn bộ phần tích lũy của cá
nhân, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, chính phủ nước ngồi có thể huy
động vào q trình đầu tư phát triển của nước sở tại. Trên phạm vi rộng hơn
đó là dịng lưu chuyển vốn quốc tế (là biểu hiện cụ thể của quá trình chuyển
giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế giới. Nguồn vốn đầu tư
nước ngồi có các loại sau:


24

- Nguồn tài trợ phát triển chính thức: (ODF- Official Development
Fianance) bao gồm nguồn Viện trợ phát triển chính thức (ODA- Official
Development Assistance) và các hình thức tài trợ khác. Trong ODF thì ODA
chiếm tỷ trọng chủ yếu.
Nguồn vốn ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các
chính phủ nước ngồi cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát
triển. So với các hình thức tài trợ khác ODA mang tính ưu đãi cao như: Ưu
đãi về lãi suất, thời hạn cho vay dài, khối lượng vốn vay lớn, bao giờ trong
ODA cũng có yếu tố khơng hồn lại (cịn gọi là thành tố tài trợ) đạt ít nhất
25%. ODA thường đi kèm với các ràng buộc về chính trị, xã hội tương đối
khắt khe, đặc biệt là tính hiệu quả của nguồn vốn. Nguồn vốn ODA chủ yếu
dành hỗ trợ các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng như giao thơng vận tải, giáo
dục, y tế, xóa đói giảm nghèo....
- Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế: Điều kiện
ưu đãi của loại vốn này không dễ dàng như đối với nguồn vốn ODA và nó
cũng khơng gắn với các ràng buộc về chính trị, xã hội. Nhưng thủ tục vay vốn
tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, lãi suất cao lại là trở ngại
với các nước nghèo. Do đó nó được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất
nhập khẩu và thường là ngắn hạn.

- Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI- Foreign Directed
Investment): Là vốn của các doanh nghiệp, các cá nhân người nước ngoài đầu
tư sang các nước khác và trực tiếp quản lý quá trình sử dụng và thu hồi vốn
bỏ ra. Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư và phát triển không chỉ đối với
các nước nghèo mà kể cả các nước công nghiệp phát triển. Nguồn vốn đầu tư
trực tiếp nước ngồi có đặc điểm cơ bản khác với các nguồn vốn nước ngoài
khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không làm phát sinh nợ cho nước tiếp
nhận vốn. Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần


25

lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp
nước ngồi mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên
nó có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi
hỏi cao về kỹ thuật, cơng nghệ hay cần nhiều vốn. Vì vậy nguồn vốn này có
vai trị cực kỳ quan trọng đối với q trình cơng nghiệp hóa, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở các nước nhận đầu tư.
- Thị trường vốn quốc tế: Với xu hướng tồn cầu hóa, mối liên kết ngày
càng tăng của các thị trường vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã
tạo nên vẻ đa dạng về các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối
lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu. Thực tế cho thấy, trong vòng 30
năm qua tất cả các nguồn vốn đều có sự gia tăng về khối lượng. Ở CHDCND
Lào, để thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững nhằm mục tiêu cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa Nhà nước rất coi trọng và huy động mọi nguồn vốn
trong và ngoài nước để đầu tư phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm, cải
thiện đời sống nhân dân. Trong đó, nguồn vốn huy động qua thị trường vốn
cũng được Chính phủ quan tâm, các đề án cũng đã và đang được triển khai.
Nhưng để phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế Lào phải nghiên cứu
kỹ, lựa chọn loại hình trái phiếu phát hành, thời gian đáo hạn, số lượng và thị

trường phát hành. Bên cạnh đó cần cân nhắc giữa việc huy động vốn qua phát
hành trái phiếu và vay nợ qua hệ thống ngân hàng và xây dựng kế hoạch để
việc sử dụng vốn có hiệu quả.
1.2.4. Mối quan hệ tác động qua lại giữa hai loại nguồn vốn
Trong sự nghiệp phát triển của đất nước, Lào không thể chỉ dựa vào nội
lực, bởi trong thời điểm hiện tại, nội lực của Lào còn yếu, không đủ để tạo
sức bật đưa Lào nhanh ra khỏi tình trạng nghèo và lạc hậu. Ngoại lực – nguồn
vốn đầu tư nước ngoài – là chất xúc tác quan trọng, giúp tạo lực đẩy cho nền
kinh tế và giúp nội lực phát huy hiệu quả.


×