Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Cảm nhận về khổ thơ 2,3 bài thơ Đồng chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (44.97 KB, 3 trang )

Trong những năm kháng chiến chống Pháp, hình ảnh những người nông dân mặc
áo lính là nguồn cảm hứng lớn cho các nhà văn, nhà thơ. Một trong những tác phẩm tiêu
biểu viết về người lính trong thời kì này là “Đồng chí” của Chính Hữu. Bằng sự trải
nghiệm của người trong cuộc, bằng cảm xúc thơ dạt dào và bằng những biện pháp nghệ
thuật đặc sắc, qua bài thơ “Đồng chí”, Chính Hữu đã tái hiện thành công hiện thực cuộc
kháng chiến gian khổ và thiếu thốn, đồng thời làm nổi bật hình tượng người nông dân
mặc áo lính với vẻ đẹp bình dị mà cao cả, tình cảm đồng chí, đồng đội gắn bó thiêng
liêng sâu nặng.
Chính Hữu thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp .Đề
tài sáng tác chính của ông là chiến tranh và người lính. “Đồng chí” được viết vào đầu
năm 1948, lúc tác đang cùng đơn vị chiến đấu tại Việt Bắc. Có lẽ vì thế mà hình ảnh
những chiến sĩ vệ quốc quân - những người nông dân mặc áo lính với nét nổi bật là tình
đồng chí, đồng đội keo sơn đã được khắc họa rất thành công trong “Đồng chí”.
Bài thơ đồng chí gồm có 4 khổ. Mỗi khổ có một cái hay riêng, nhưng khổ 2, khổ 3
có thể xem là hai khổ thơ hay nhất.
Khổ thơ thứ hai là những dòng tái hiện nỗi niềm, tâm sự người lính:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
Ý thức được dân tộc là máu thịt, là cuộc đời, trước Lời Kêu Gọi của Bác Hồ: “Hỡi
đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ,
không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh
thực dân Pháp, cứu Tổ quốc..” - cũng là tiếng gọi thiêng liêng của non sông, những người
nông dân đã quyết tâm gác lại tình riêng để bước ra chiến trường cầm súng chiến đấu,
bảo vệ tổ quốc. Từ “mặc kệ” đã cho thấy thái độ dứt khoát của họ. Thái độ ấy thật đáng
trân trọng:
“Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy!”
Thế nhưng, đằng sau sự dứt khoát ấy là cả một tình quê hương sâu nặng. ở chiến
khu, những người nông dân mặc áo lính, ai cũng nhớ thương quê hương, luôn bận tâm lo
lắng về ruộng nương “gửi bạn thân cày”, về “căn nhà không” bị gió lung lay. Dường như


họ cũng cảm nhận được sự nhớ nhung của hậu phương: “giếng nước gốc đa nhớ người ra
lính”. Hình ảnh thơ hoán dụ mang tính nhân hoá “giếng nước gốc đa” càng tô đậm sự gắn
bó yêu thương của người lính đối với quê nhà. Giếng nước gốc đa kia nhớ người ra lính
hay chính tấm lòng người lính đang đau đáu nhớ quê hương? Quả thực giữa người chiến


sĩ và quê hương đã có 1 mối giao cảm vô cùng sâu sắc đậm đà. khổ thơ chỉ vẻn vẹn 3 câu
thơ với những hình ảnh thân thuộc: ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa và lời thơ
lắng đọng cảm xúc đã tái hiện lại nỗi nhớ gia đình, quê hương da diết của những ng chiến
sĩ, đồng thời cho thấy sự thấu hiểu nỗi lòng nhau của họ. Đó cũng là những cơ sở xây đắp
nên 1 tình đồng chí, đồng đội gắn bó sâu sắc.
Những người lính càng hiểu và gắn bó với nhau hơn trong những tháng ngày bên
nhau chiến đấu, cùng nhau nếm trải những gian nan, vất vả.
Đó là câu chuyện ốm đau, bệnh tật:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”
Là sự thiếu thốn về những trang phục tối thiểu:
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”
Một loạt những câu thơ mang tính chất liệt kê đã cho ta thấy được hoàn cảnh gian
khổ, thiếu thốn trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Bước chân vào cuộc chiến
đấu, những người nông dân mặc áo lính đã phải đối mặt với bao khó khăn thử thách. Họ
phải đương đầu với những cơn sốt rét rừng nguy hiểm, phải nếm trải “ từng cơn ớn lạnh”
và cả những lúc “sốt run người vầng trán ướt mồ hôi". Hai câu thơ như nhắc lại hình ảnh
người lính Tây Tiến với cơn sốt rét đến xanh da,trụi tóc:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm"
Thiếu thuốc men điều trị, nhưng họ đã vượt qua được bằng sự sẻ chia, đồng cam

cộng khổ. Không chỉ phải vật lộn để chiến thắng bệnh tật đã rất gian khổ, họ còn phải đối
mặt với sự thiếu thốn về quân trang quân dụng: áo “rách vai", quần “có vài mảnh
vá","chân không giày". Những câu thơ gợi nhớ đến sự thiếu thốn của những người lính
trong bài thơ "Nhớ" của Hồng Nguyên:
"Lột sắt đường tàu
Rèn thêm đao kiếm
Áo vải chân không
Đi lùng giặc đánh"
Người đọc chúng ta càng thấm thía hơn sự gian lao vất vả của người lính, và chắc
hẳn không ai không chạnh lòng thương xót cho họ. Tuy phải sống và chiến đấu trong
hoàn cảnh đầy vất vả, gian lao nhưng họ vẫn lạc quan mỉm cười: “miệng cười buốt giá”.


Nụ cười ấy tuy là “nụ cuời buốt giá” nhưng cũng chính là nụ cười của sự lạc quan, yêu
đời, là nụ cười làm ngời sáng lên phẩm chất tốt đẹp của những người lình, là nụ cười khơi
dậy niềm xúc động và sự cảm phục nơi người đọc. Cảm xúc dồn nén len lỏi trong từng
câu thơ, và kết tụ lại ở câu thơ cuối: “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Trong cái giá
lạnh, những người lính chỉ có thể nắm lấy bàn tay nhau. trong cử chỉ nắm tay thân
thương ấy ẩn chứa bao xúc động nghẹn ngào không nói lên lời. Nắm tay nhau, họ truyền
cho nhau sức mạnh, niềm tin, ý chí, nghị lực để vượt qua tất cả. Dường như hơi ấm từ đôi
bàn tay ấy đã lan tỏa, làm ấm cả bài thơ và cả trái tim người đọc. Có thể nói,bằng những
dòng thơ ngắn gọn, hình ảnh thơ chọn lọc , lời thơ ngồn ngộn hơi thở của cuộc sống, ở
khổ thơ thứ ba, nhà thơ Chính Hữu đã tái hiện thành công những gian khổ thiếu thốn của
chiến tranh,đồng thời cũng cho ta thấy được biểu hiện của tình đồng chí , đồng đội thiêng
liêng và cao cả.
Hai khổ thơ với những hình ảnh chân thực,bình dị được chắt lọc từ cuộc sống thực
của người lính, lời thơ mộc mạc,giản dị, giàu cảm xúc đã thể hiện một cách xúc động
hình ảnh người lính và vẻ đẹp tinh thần của họ.
Cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc ta đã kết thúc, kỉ nguyên của độc lập, tự
do của ấm no, hạnh phúc đã được mở ra. Đất nước ta đã không còn bóng kẻ thù và đã

lặng im tiếng súng. Đồng chí của chính hữu như trở thành lời nhắc nhở ta phải không
ngừng học tập, rèn luyện, sống để xây dựng đất nước, để không phụ công ơn hi sinh bảo
vệ nền độc lập, tự do của những anh bộ đội cụ Hồ.



×