Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

THỰC TRẠNG QUẢN lý RỪNG bền VỮNG ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.1 KB, 19 trang )

Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng là tài nguyên quý báu của quốc gia, là bộ phận quan trọng của môi
trường sinh thái, có giá trị to lớn về kinh tế-xã hội. Do vậy tài nguyên rừng cần
được quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững và đây cũng là xu thế phát triển lâm
nghiệp của thế giới hiện nay.
Việt Nam có tổng diện tích tự nhiên 33,12 triệu ha, trong đó diện tích có
rừng 12,61 triệu ha và 6,16 triệu ha đất trống đồi núi trọc là đối tượng của sản
xuất lâm nông nghiệp. Như vậy, ngành Lâm nghiệp đã và đang thực hiện hoạt
động quản lý và sản xuất trên diện tích đất lớn nhất trong các ngành kinh tế quốc
dân. Diện tích đất lâm nghiệp phân bố chủ yếu ở trên các vùng đồi núi của cả
nước, đây cũng là nơi sinh sống của 25 triệu cư dân thuộc nhiều dân tộc ít
người, có trình độ dân trí thấp, phương thức canh tác lạc hậu, kinh tế chậm phát
triển và đời sống còn nhiều khó khăn.
Tuy diện tích rừng có tăng nhưng chất lượng rừng tự nhiên cũng như rừng
trồng còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất và phòng hộ. Hiện trạng diện tích
đất chưa sử dụng toàn quốc còn 6,76 triệu ha, trong đó đất trống đồi núi trọc là
6,16 triệu ha chiếm 18,59% diện tích của cả nước; chủ yếu là đất thoái hóa. Đây
là nguồn tài nguyên tiềm năng nhưng đồng thời cũng là thách thức cho phát triển
sản xuất lâm nghiệp. Hoạt động sản xuất lâm nghiệp trong giai đoạn vừa qua đã
đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đặc biệt công tác bảo vệ và phát triển rừng
trên phạm vi toàn quốc đã ngăn chặn được tình trạng suy thoái về diện tích và
chất lượng rừng, diện tích rừng tăng từ 9,30 triệu ha năm 1995 lên 11,31 triệu ha
năm 2000 và 12,61 triệu ha năm 2005 (bình quân tăng 0,3 triệu ha/năm). Hiện
nay bình quân mỗi năm trồng mới được khoảng 200.000 ha rừng. Sản lượng
khai thác gỗ rừng trồng đạt khoảng 2.000.000 m3/năm để cung cấp nguyên liệu
cho chế biến hàng lâm sản xuất khẩu và tiêu dùng trong nước.
Hoạt động sản xuất của ngành lâm nghiệp đang chuyển đổi mạnh mẽ từ
nền lâm nghiệp quốc doanh, theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền lâm
nghiệp xã hội hoá với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và hoạt động theo cơ chế


của nền kinh tế sản xuất hàng hoá. Do đó, ngành lâm nghiệp đã tham gia tích


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

cực tạo việc làm, cải thiện đời sống cho gần 25% dân số của Việt Nam sống trên
địa bàn rừng núi, góp phần bảo đảm an ninh chính trị xã hội, tạo đà phát triển
chung cho đất nước trong các năm qua.
Tuy nhiên, thực tế vẫn còn những tồn tại, đặc biệt diện tích rừng tuy có
tăng nhưng chất lượng và tính đa dạng sinh học của rừng tự nhiên vẫn tiếp tục bị
suy giảm, ở một số nơi diện tích rừng tiếp tục bị tàn phá. Vì vậy, trong Chiến
lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2006 – 2020 đã xác định: Quản lý, sử dụng
và phát triển rừng bền vững là nền tảng cho phát triển lâm nghiệp. Theo đó, mục
tiêu đến năm 2020 được xác định là: Thiết lập, quản lý, bảo vệ, phát triển và sử
dụng bền vững 16,24 triệu ha đất quy hoạch cho lâm nghiệp; nâng tỷ lệ đất có
rừng lên 42 - 43% vào năm 2010 và 47% vào năm 2020.
Trong bối cảnh lâm nghiệp Việt Nam như đã nêu trên, quản lý rừng bền
vững là định hướng chiến lược quan trọng nhằm phát huy tối đa tiềm năng của
ngành góp phần đóng góp vào nền kinh tế quốc dân; cải thiện đời sống người
dân vùng rừng núi; bảo tồn đa dạng sinh học và hệ sinh thái rừng. Nhận thức rõ
điều này, Nhà nước đã và đang từng bước hoàn thiện khuôn khổ thể chế chính
sách và thúc đẩy các hoạt động thực tiễn để quản lý rừng được bền vững.


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
1. Nhận thức về quản lý rừng bền vững
Trong khi khái niệm “bền vững” được thế giới bắt đầu sử dụng từ những
năm đầu thế kỷ 18 để chỉ lượng gỗ lấy ra khỏi rừng không vượt quá lượng gỗ

mà rừng có thể sinh ra, tạo tiền đề cho quản lý rừng bền vững sau này thì ở Việt
Nam mãi đến cuối thế kỷ 20 mới dùng khái niệm “Điều chế rừng” để quản lý,
kinh doanh lâm nghiệp với hy vọng sản lượng rừng được duy trì ở những lần
khai thác tiếp theo. Phương án điều chế rừng đầu tiên của Việt Nam (được thực
hiện 7/1989) là Phương án điều chế rừng lâm trường Mã Đà (Đồng Nai) với sự
trợ giúp của chuyên gia nước ngoài (Dự án VIE/82/002 do UNDP/FAO trợ
giúp) để phát triển
Phương thức điều chế rừng ở Việt Nam. Nhiệm vụ chính là xây dựng một
mẫu phương án tiêu chuẩn; hướng dẫn lập kế hoạch điều chế và đưa ra những đề
xuất cho việc điều chế rừng lâm trường Mã Đà. Cho đến nay, ngành lâm nghiệp
vẫn đang dùng thuật ngữ “Điều chế rừng”, coi nó như một công cụ, một phương
pháp truyền thống để quản lý rừng của các chủ rừng. Nghĩa là, tất cả các chủ
rừng cho đến nay đều quản lý rừng theo cách lập phương án điều chế được thực
hiện theo những quy định tại Quyết định 40/2005/QĐ-BNN, ngày 7/7/2005 của
Bộ NN-PTNT về Quy chế khai thác gỗ và lâm sản khác.
Mặc dù khái niệm quản lý rừng bền vững đã có từ những năm cuối thập
kỷ 80 của thế kỷ 20 và không ngừng phát triển nhưng đến nay đối với cán bộ
lâm nghiệp khái niệm này vẫn còn khá mơ hồ về mục đích và các hoạt động của
quản lý rừng bền vững. Thật vậy, một kết quả điều tra mới đây của ORGUT cho
thấy: có 85% số người được phỏng vấn trả lời là có biết về thuật ngữ Quản lý
rừng bền vững. Nhưng khi hỏi tiếp theo là: Những hoạt động chính để tiến tới
quản lý rừng bền vững là gì? thì có tới 75 % trong số đó trả lời là không biết.
Ngoài ra, việc chuyển đổi từ quản lý rừng truyền thống sang quản lý rừng
bền vững hiện nay đang được thúc đẩy bởi một công cụ thị trường là “Chứng chỉ
rừng”. Ý tưởng cấp chứng chỉ rừng do Hội đồng Quản trị Rừng (FSC) đề cập


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

đến từ những năm đầu thập kỷ 90 như là một “công cụ hữu hiệu, giúp cải thiện

quản lý rừng của thế giới”; “là công cụ chính sách mạnh mẽ nhất” trong quản lý
rừng. Nhiều nước trên thế giới đã khá thành công trong việc cấp chứng chỉ rừng
nên đã góp phần đáng kể quản lý rừng bền vững. Tính đến 11/2007, Hội đồng
quản trị rừng quốc tế (FSC) đã cấp 913 chứng chỉ rừng cho 78 nước với tổng
diện tích 93.898.717 ha. Trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, FSC đã cấp
81 chứng chỉ với diện tích 3.144.345 ha trong đó Trung Quốc, Newzelands,
Indonesia, Úc là các nước dẫn đầu về diện tích rừng được cấp chứng chỉ..
Như trên đã nêu, Chứng chỉ rừng đã được các nước trên thế giới biết đến
và sử dụng từ gần 20 năm nay; trong khi đó, ở Việt nam hiện nay khái niệm
Chứng chỉ rừng đang còn là rất mới mẻ với cán bộ, người dân hoạt động trong
lĩnh vực lâm nghiệp. Tại cuộc điều tra đánh giá nhu cầu đào tạo về quản lý rừng
bền vững do ORGUT thực hiện vào tháng 9/2007 tại các cơ quan lâm nghiệp ở
trung ương và địa phương cho thấy: 45 % số người được phỏng vấn có biết về
khái niệm chứng chỉ rừng. Nhưng trong số này chỉ có 34 % có hiểu biết rất mơ
hồ về điều kiện được cấp chứng chỉ rừng.
Thực tế hiện nay cho thấy: Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng là
những khái niệm rất mới mẻ, chưa có tiền lệ và chưa có thực tế nên chưa hề có
kinh nghiệm. Thậm chí đang có sự tranh cãi về những điểm khác nhau của hai
khái niệm này; nhiều người cho rằng: Tiêu chuẩn cấp chứng chỉ rừng là tiêu
chuẩn quản lý rừng bền vững; khi một đơn vị được cấp chứng chỉ rừng thì có
nghĩa là ở đơn vị đó đạt quản lý rừng bền vững. Đây là những vấn đề cần được
tiếp tục thảo luận trên các diễn đàn lâm nghiệp.
2. Các chính sách liên quan đến quản lý rừng bền vững
Các chính sách cam kết của Chính Phủ là nhân tố quan trọng để quản lý
rừng bền vững. Các chính sách liên quan đến quản lý rừng bền vững được hiểu
là những chính sách điều tiết, chi phối trực tiếp và có tác động đến việc quản lý
và sử dụng nguồn tài nguyên rừng và đất rừng một cách bền vững. Cho đến nay
đã có 25 văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quản lý rừng bền vững.
Trong đó, số văn bản thuộc các cấp ban hành là: Quốc hội: 3, Chính phủ: 7, Thủ



Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

tướng Chính phủ: 5, Bộ NN-PTNT: 10 (Chi tiết xem Phụ biểu 1). Các đạo luật
lâm nghiệp và Chiến lược lâm nghiệp quốc gia thể hiện cam kết thực hiện quản
lý rừng bền vững. Các vấn đề về Quản lý rừng bền vững là một yếu tố chủ chốt
trong các chính sách, chiến lược và kế hoạch hành động của Việt Nam. Điều này
được thể hiện trong các văn bản pháp quy dưới đây:
- Luật bảo vệ và phát triển rừng, năm 2004: Việc sửa đổi Luật Bảo vệ và
phát triển rừng năm 2004 dựa trên quan điểm áp dụng quản lý rừng bền vững
với tất cả các khu rừng ở Việt Nam. Đây là đạo luật quan trọng nhất về lâm
nghiệp. Trong đó tại Điều 9 đã quy định các hoạt động để đảm bảo quản lý rừng
bền vững: Các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng phải đảm bảo phát triển bền
vững về kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh; phù hợp với chiến
lược phát triển kinh tế-xã hội, chiến lược phát triển lâm nghiệp; đúng quy hoạch,
kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của cả nước và địa phương; tuân theo quy
chế quản lý rừng do Thủ tướng Chính phủ quy định.
- Luật Bảo vệ môi trường, năm 2005; trong Chương IV: Bảo tồn và sử
dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, có 7 điều (từ Điều 28 đến Điều 34) đã đưa
ra những quy định liên quan tới quản lý rừng bền vững thuộc các lĩnh vực, như:
Điều tra, đánh giá, lập quy hoạch sử dụng tài nguyên thiên nhiên; Bảo vệ thiên
nhiên; Bảo vệ đa dạng sinh học; Bảo vệ và phát triển cảnh quan thiên nhiên; Bảo
vệ môi trường trong khảo sát, thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên
nhiên; Phát triển năng lượng sạch.
- Luật Đất đai, năm 2003 đã quy định: Việc sử dụng đất phải tôn trọng
các nguyên tắc sau đây: Tiết kiệm, có hiệu quả, bảo vệ môi trường và không làm
tổn hại đến lợi ích chính đáng của người sử dụng đất xung quanh (Điều 11).
- Chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2006-2020: Có thể nói cam
kết của Việt Nam về quản lý rừng bền vững được chính thức hóa vào năm 2006
khi mà Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược lâm nghiệp. Trong bản

Chiến lược, Việt nam đã khẳng định quan điểm phát triển lâm nghiệp là: Quản
lý, sử dụng và phát triển rừng bền vững là nền tảng cho phát triển lâm nghiệp.
Các hoạt động sản xuất lâm nghiệp phải dựa trên nền tảng quản lý bền vững


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

thông qua quy hoạch, kế hoạch bảo vệ phát triển rừng nhằm không ngừng nâng
cao chất lượng rừng. Phải kết hợp bảo vệ, bảo tồn và phát triển với khai thác
rừng hợp lý... Đồng thời, trong Chiến lược cũng đã đề ra 5 chương trình hành
động, trong đó Chương trình quản lý và phát triển rừng bền vững là Chương
trình trọng tâm và ưu tiên số 1. Trong Chiến lược này, nhiệm vụ được đặt ra là:
Quản lý bền vững và có hiệu quả 8,4 triệu ha rừng sản xuất, trong đó 4,15 triệu
ha rừng trồng và 3,63 triệu ha rừng tự nhiên. Phấn đấu ít nhất có được 30% diện
tích rừng sản xuất có chứng chỉ rừng.
3. Những tồn tại của các chính sách hiện nay
- Như trên đã nêu, mặc dù Việt Nam đã có định hướng rõ ràng về quản lý
rừng bền vững được thể hiện trong Luật Bảo vệ và phát triển rừng và Chiến lược
lâm nghiệp quốc gia. Nhưng các chính sách cụ thể dưới các đạo luật này (Nghị
định, Quyết định, Thông tư ...) lại chưa có hướng dẫn đầy đủ, nhất là chưa đưa
ra các tiêu chuẩn để đánh giá rừng được quản lý bền vững nhằm đảm bảo mọi
tác động đối với rừng đạt được sự bền vững.
- Chính sách, thể chế, trình độ, năng lực của Việt nam vẫn chưa phù hợp
với tiêu chuẩn cấp chứng chỉ rừng của Hội đồng quản trị rừng thế giới (FSC),
cần nâng cấp, sửa đổi, thay thế.
- Các chính sách bảo tồn rừng của Việt Nam mới chỉ chú trọng vào rừng
đặc dụng mà ít quan tâm tới sản xuất là chưa phù hợp với tiêu chuẩn số 9 của
FSC về các khu rừng có giá trị bảo tồn cao.
- Chưa có chính sách đào tạo, giáo dục và phổ cập về quản lý rừng bền
vững cho học sinh, sinh viên. Nên cán bộ sau khi tốt nghiệp đại học lâm nghiệp

hoặc các chuyên ngành liên quan chưa được giới thiệu về quản lý rừng bền vững
và chứng chỉ rừng, chưa biết lập kế hoạch quản lý rừng bền vững, chưa biết xây
dựng cơ sở dữ liệu, công tác giám sát và đánh giá….
- Thực tế cho thấy, tại các cơ quan lâm nghiệp ở trung ương và địa
phương phần lớn (68%) số người được phỏng vấn cho rằng khung chính sách
hiện nay chưa phù hợp với yêu cầu của quản lý rừng bền vững; chỉ có rất ít
(32%) số người được phỏng vấn nói là khá phù hợp (Kết quả điều tra đánh giá


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

nhu cầu đào tạo về quản lý rừng bền vững do ORGUT thực hiện vào tháng
9/2007).
Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng thiếu hiểu biết về quản lý rừng bền
vững nêu trên là do:
- Thiếu các văn bản quy phạm pháp luật lâm nghiệp mà trong đó đưa ra
các tiêu chí để quản lý rừng bền vững; các hướng dẫn kỹ thuật để thực hiện các
hoạt động liên quan đến quản lý rừng bền vững.
- Các nhà hoạch định chính sách lâm nghiệp chưa đề ra các giải pháp cụ
thể và mạnh mẽ để chuyển đổi từ quản lý rừng truyền thống sang quản lý rừng
bền vững; thiếu sự học hỏi kinh nghiệm các nước, nhất là các nước trong khu
vực Châu Á-Thái Bình Dương.
- Các trường đại học lâm nghiệp hoặc đại học nông lâm chưa đổi mới kịp
thời giáo trình cho phù hợp với phương pháp tiếp cận tiên tiến trong quản lý
rừng nên trong chương trình giảng dạy của nhà trường chưa coi Quản lý rừng
bền vững là môn học độc lập mà thường được lồng ghép với các môn chuyên
môn khác như: Quy hoạch sử dụng đất; Thiết kế kinh doanh rừng; Trồng rừng
và Khai thác rừng....
- Ngành lâm nghiệp chưa đưa ra được lộ trình của quá trình đạt được quản
lý rừng bền vững đối với các loại rừng, mà trước mắt là hơn 10 triệu ha rừng

được quy hoạch là lâm phận ổn định quốc gia. Nhưng lại ít chú trọng và đầu tư
xây dựng mô hình quản lý rừng bền vững để rút kinh nghiệm.
Vì vậy, việc xây dựng và bổ sung để hoàn thiện khuôn khổ chính sách và các
quy định về kỹ thuật liên quan đến quản lý rừng bền vững đang là yêu cầu cấp
bách hiện nay. Chỉ có như thế thì chủ trương quản lý rừng bền vững trong sản
xuất kinh doanh lâm nghiệp mới trở thành hiện thực.
4. Kết quả hoạt động quản lý rừng bền vững
4.1. Ở cấp Trung ương
4.1.1. Tuyên truyền, tập huấn đào tạo về quản lý rừng bền vững: Ở Việt Nam,
công tác tuyên truyền về quản lý rừng bền vững bắt đầu được tiến hành từ đầu
năm 1998 chủ yếu do Tổ công tác quốc gia thực hiện với sự hỗ trợ của các tổ


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

chức như: Quỹ rừng nhiệt đới (TFT), Dự án cải cách hành chính (REFAS) của
GTZ, WWF Đông dương…Hình thức phổ cập về quản lý rừng bền vững rất
phong phú, gồm: hội nghị, hội thảo quốc gia, vùng, tỉnh; giảng dạy, tập huấn và
phổ cập kiến thức
4.1.2. Xây dựng kế hoạch chiến lược và các hoạt động quản lý rừng bền vững,
bao gồm:
a./ Trong Chiến lược phát triển lâm nghiệp, giai đoạn 2006-2020 có 5 chương
trình trọng điểm là:
(1) Quản lý và phát triển rừng bền vững
(2) Bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển dịch vụ môi trường
(3) Chế biến thương mại lâm sản
(4) Nghiên cứu, giáo dục, đào tạo và khuyến lâm
(5) Đổi mới thể chế, chính sách, kế hoạch, giám sát ngành
4.1.3. Xây Xây dựng lộ trình thực hiện quản lý rừng bền vững: Theo đề xuất của
Viện Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng thì sẽ có hai giai đoạn: Giai

đoạn 1 (2006-2010): Xây dựng các điều kiện cần và đủ để tiến hành quản lý bền
vững rừng tự nhiên và rừng trồng. Giai đoạn 2 (sau năm 2010): Tiến hành quản
lý rừng bền vững.
4.1.4. Xây dựng các điều kiện để quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng
- Ở Việt Nam hiện nay, do diện tích lâm phận ổn định chưa được xác định trên
thực địa, quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp chưa hoàn chỉnh; chất lượng rừng
thấp; độ che phủ rừng thấp…Vì vậy, để tiến hành quản lý bền vững rừng tự
nhiên và rừng trồng; trước mắt cần xây dựng “các điều kiện cần và đủ”; việc làm
này được thực hiện trong giai đoạn 2006-2010; với các hoạt động sau:
+ Tiếp tục dự án 661 để có đủ diện tích rừng phòng hộ và rừng sản xuất.
+ Rà soát và quy hoạch lại 3 loại rừng (rừng phòng hộ và rừng sản xuất và rừng
đặc dụng).
+ Quy hoạch sử dụng đất vĩ mô


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

- Đồng thời với việc “xây dựng các điều kiện cần và đủ”, tại những khu rừng đã
có đủ điều kiện như: có quy hoạch sử dụng đất lâu dài đã hợp lý, có diện tích và
ranh giới rừng ổn định thì vẫn tiến hành việc quản lý rừng bền vững.
4.1.5. Thực hiện chứng chỉ rừng:
- Hiện nay, Viện Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng (thuộc Hội KH-KT
Lâm nghiệp Việt Nam) đã dự thảo xong Tiêu chuẩn cấp chứng chỉ rừng, đang
trình Tổ chức chứng chỉ rừng của thế giới công nhận. Do vậy, việc cấp chứng
chỉ rừng ở Việt Nam chưa được thực hiện mà đang trong quá trình thí điểm cấp
chứng chỉ và xây dựng lộ trình để cấp chứng chỉ rừng. Đến năm 2006, ở Việt
Nam mới có một đơn vị duy nhất được cấp chứng chỉ rừng của FSC với diện
tích 9.904 ha rừng trồng của Công ty liên doanh trồng rừng New O.J tại Quy
Nhơn (Bình Định).
Theo đề xuất của Viện quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng thì lộ trình cấp

chứng chỉ rừng từ 2006 đến 2020, như sau:
- Xây dựng bộ tiêu chuẩn Quản lý rừng bền vững quốc gia: Đã hoàn thành dự
thảo tiêu chuẩn quốc gia với 10 nguyên tắc, 55 tiêu chí và 158 chỉ số và các
kiểm chứng phản ánh đặc thù về chính sách và tập quản sản xuất lâm nghiệp của
Việt nam, đã trình FSC và đang chờ thẩm định.
- Tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức về Chứng chỉ rừng cho các chủ
rừng và các bên liên quan, cho cộng đồng dân cư sống trong rừng và gần rừng.
- Đào tạo năng lực về nghiệp vụ cấp chứng chỉ rừng cho cán bộ lâm nghiệp
- Đánh giá chất lượng quản lý từng khu rừng do chủ rừng thực hiện (20082010)
- Tổ chức mạng lưới các mô hình Quản lý rừng bền vững tự nguyện (20062015)
- Cấp chứng chỉ rừng (2008-2020).
4.6. Các hoạt động khác liên quan đến thực hiện quản lý rừng bền vững:
- Hợp pháp hóa lâm nghiệp cộng đồng; ví dụ: giao các quyền sử dụng và quản lý
rừng cho cộng đồng theo Luật Bảo vệ và PTR năm 2004.


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

- Các hoạt động về xây dựng các hướng dẫn, thủ tục, tài liệu đào tạo, chương
trình khuyến lâm….hỗ trợ công tác quản lý rừng cộng đồng.
- Xây dựng các phương pháp tiếp cận lập kế hoạch quản lý rừng bền vững.
- Sự tham gia vào các sáng kiến “Thực thi pháp luật lâm nghiệp và thương mại
gỗ” - FLEGT và nỗ lực để giảm khai thác gỗ và săn bắn bất hợp pháp các loài
động vật hoang dã.
4.2. Ở cấp địa phương
Một số hoạt động liên quan đến quản lý rừng bền vững đã và đang diễn ra
ở cấp địa phương , bao gồm:
4.2.1. Hiện nay các chủ rừng đang sử dụng “Điều chế rừng” như một công cụ,
một phương pháp truyền thống để quản lý rừng: “Điều chế rừng là xây dựng
một kế hoạch tác nghiệp cụ thể, chỉ rõ thời gian và các biện pháp kỹ thuật thích

hợp cho từng khoảnh, tiểu khu rừng, trong một hay nhiều luân kỳ khai thác, để
tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều hành và thực thi sản xuất, nhằm đảm bảo
cho rừng sản xuất được lâu dài, liên tục với năng suất, chất lượng cao, bền
vững” (Điều 2, QĐ 40/2005/QĐ-BNN). Thực chất của Phương án điều chế rừng
là xây dựng kế hoạch tác nghiệp cụ thể, trong đó đưa ra thời gian và các biện
pháp kỹ thuật thích hợp cho từng khoảnh, tiểu khu trong một hay nhiều chu ký
khai thác.
Tuy nhiên, khi sử dụng “Điều chế rừng” để quản lý rừng cũng bộc lộ
nhiều hạn chế nhất định, rõ nét nhất là nội dung phương án điều chế (Điều 8 của
Quyết định 40), chủ yếu là xây dựng kế hoạch khai thác, kinh doanh rừng từng
năm, 5 năm của đơn vị. Trong khi đó, hàng loạt các hoạt động liên quan đến
mục tiêu bảo vệ môi trường và mục tiêu xã hội lại chưa được Phương án điều
chế quy định một cách cụ thể. Từ đó dẫn đến phương án điều chế rừng hiện nay
của các chủ rừng thường tập trung vào việc đảm bảo mục tiêu kinh tế của rừng,
nghĩa là rừng cho nhiều sản phẩm, có năng suất cao và lâu dài liên tục. Nên các
mục tiêu quan trọng khác như môi trường và xã hội lại chưa được chú ý đúng
mức đến trong phương án điều chế rừng của các đơn vị sản xuất.


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

Khảo sát tình hình tại 5 tỉnh: Hòa Bình, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Đắc lắc
và Ninh Thuận, gần đây cho thấy các đơn vị quản lý cơ sở (lâm trường, công ty
lâm nghiệp, ban quản lý rừng phòng hộ...) chỉ tập trung vào việc lập kế hoạch
khai thác hoặc trồng rừng theo các chỉ tiêu kế hoạch được giao từ cấp trên còn
các nội dung xã hội và môi trường thường làm sơ sài. Nguyên nhân của tình
trạng trên là thiếu một văn bản hướng dẫn lập kế hoạch quản lý rừng bền vững
trên cả ba phương diện kinh tế, xã hội và môi trường cho một đơn vị quản lý
rừng cấp cơ sở
4.2.2. Thí điểm về quản lý rừng bền vững tại lâm trường: Trong khuôn khổ hoạt

động của “Chương trình sử dụng và quản lý rừng bền vững rừng tự nhiên và tiếp
thị lâm sản” do GTZ tài trợ, thí điểm về quản lý rừng bền vững được thực hiện
tại 5 lâm trường thuộc Thanh Hóa, Ninh Thuận, Yên Bái, Hòa Bình và Đắc Lắc.
Ngoài ra, WWF cũng đang thí điểm quản lý rừng bền vững tại 2 lâm trường.
4.2.3. Thí điểm Cấp chứng chỉ rừng “theo nhóm” tại Yên Bái do Viện Quản lý
rừng bền vững và chứng chỉ rừng thực hiện nhằm giúp các chủ rừng quy mô nhỏ
tiếp cận được với việc cấp chứng chỉ rừng. Theo thí điểm này, một số tổ chức
địa phương đóng vai trò “trung gian” giữa tổ chức cấp chứng chỉ và những nhà
sản xuất gỗ nhỏ để để giúp họ nhận chứng chỉ “theo nhóm”. Cấp chứng chỉ
“theo nhóm” đã được áp dụng thành công ở các nước Đông và Tây nước Anh và
Papua New Guinea trong khuôn khổ chương trình sinh thái lâm nghiệp do EU
tài trợ.
4.2.4. Quỹ rừng nhiệt đới (TFT) tại Việt nam đang tiến hành hỗ trợ thực hiện
quản lý rừng và chững chỉ rừng cho các đơn vị quản lý rừng sau: Công ty lâm
nghiệp Lơ Ku và Công ty lâm nghiệp Hào Quang tỉnh Đăk Nông; Trạm Lập tỉnh
Gia Lai; Công ty lâm nghiệp Long Đại tỉnh Quảng Bình; Công ty lâm nghiệp
Bảo Yên tỉnh Lào Cai.
Tóm lại: Mặc dù trong Chiến lược phát triển lâm nghiệp đã được đặt ra là: sử
dụng bền vững 8,4 triệu ha rừng sản xuất (phấn đấu ít nhất có được 30% diện
tích có chứng chỉ rừng); 5,6 triệu ha rừng phòng hộ và 2,16 triệu ha rừng đặc
dụng. Nhưng đến nay vẫn chưa xác định được diện tích lâm phận ổn định quốc


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

gia nêu trên đế có kế hoạch quản lý rừng bền vững. Cho nên có thể nói một cách
tổng quát: Tại các địa phương đến nay chưa có nơi nào tiến hành quản lý rừng
bền vững; chưa có một diện tích rừng nào được quy hoạch và có kế hoạch đưa
vào quản lý rừng bền vững.
5. Những khó khăn, trở ngại khi thực hiện quản lý rừng bền vững

Việc chuyển đổi các phương thức quản lý thông thường sang phương thức
quản lý rừng bền vững đòi hỏi một loạt thay đổi về khuôn khổ chính sách ở cấp
trung ương; thái độ, quan điểm và sự đồng thuận của các sơ sở sản xuất kinh
doanh lâm nghiệp và ngay cả người dân địa phương. Do tính phức tạp này nên
khi thực hiện quản lý rừng bền vững thường gặp những khó khăn, trở ngại; được
thể biện ở các khía cạnh sau đây:
Về chính sách và công nghệ: Như trên đã phân tích và dẫn chứng, khuôn
khổ chính sách thường lạc hậu lại không đồng bộ; các chính sách không theo kịp
với nhu cầu và phương thức quản lý tiến bộ trong phát triển lâm nghiệp. Hiện
nay chúng ta còn thiếu các chính sách, những hướng dẫn kỹ thuật và tiêu chuẩn
cụ thể về quản lý rừng bền vững. Ngoài ra, Quy trình kỹ thuật điều tra, thiết kế
kinh doanh rừng lạc hậu, chậm áp dụng các thiết bị và công nghệ tiên tiến.
Về sinh thái: Rừng của Việt Nam có tính đa dạng và phức tạp rất cao
củacác hệ sinh thái. Việc xác định các tiêu chuẩn để quản lý bền vững mỗi một
hệ sinh thái là điều rất khó khăn.
Về kinh tế: Thiếu nguồn vốn cho chuẩn bị, thực hiện và giám sát các kế
hoạch quản lý rừng bền vững. Chưa xác định nguồn vốn cụ thể cho các hoạt
động quản lý rừng bền vững của các công ty lâm nghiệp, các lâm trường và của
các chủ rừng. Thiếu cơ chế đảm bảo sự tham gia của các đối tượng hữu quan
vào quản lý nguồn tài nguyên rừng. Các điều kiện thị trường, nhu cầu về sản
phẩm có chứng chỉ chưa rõ ràng.
Về xã hội: Quyền sở hữu và sử dụng rừng và đất rừng của người dân sống
trong vùng rừng đã được thể hiện trong các chính sách hiện hành. Nhưng lợi ích
đem lại từ quản lý và bảo vệ rừng hiện tại chưa thực sự hấp dẫn với họ. Người


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

dân địa phương chưa thực sự tham gia vào các quá trình ra quyết định liên quan
đến môi trường sống của họ.

Về chứng chỉ rừng. Mặc dù Chứng chỉ rừng là một công cụ hữu hiệu để
quản lý rừng bền vững. Nhưng những điều kiện để được cấp chứng chỉ rừng lại
rất khắt khe, khó khăn mà chúng ta phải đối mặt, đó là: Tiêu chuẩn cấp chứng
chỉ của FSC quá cao, đây là lo ngại chính của các nhà sản xuất gỗ. Chi phí để
đạt được tiêu chuẩn chứng chỉ rừng thường cao hơn nhiều so với giá bán gỗ đã
được cấp chứng chỉ. Tất cả những khó khăn trở ngại nêu trên sẽ là những thách
thức đối với các nhà lâm nghiệp trong quá trình chuyển đổi quản lý rừng theo
hướng bền vững mà trong đó nghiên cứu để tìm tòi một phương pháp lập kế
hoạch quản lý rừng bền vững là bước ban đầu rất quan trọng.
6. Bài học kinh nghiệm
Trong quá trình thực hiện quản lý rừng bền vững ở Việt Nam, mặc dù mới
được thực hiện trong những năm gần đây nhưng có thể rút ra một số kinh
nghiệm chính sau đây:
- Các chủ rừng cần xây dựng một phương án quản lý rừng bền vững và
chững chỉ rừng tuân theo tiêu của của FSC thay cho phương án điều chế rừng
đơn giản hiện nay. Có sự hỗ trợ từ phía Chính Phủ khi triển khai thực hiện
phương án quản lý rừng bền vững và chững chỉ rừng.
- Xây dựng một lộ trình cho sản phẩm lâm nghiệp quốc gia tiếp cận một
cách vững chắc với các yêu cầu khắt khe của thị trường gỗ quốc tế.
- Các chủ rừng cần nhận thức được tầm quan trọng của việc thực hiện
quản lý rừng bền vững và cấp chứng chỉ rừng.
- Tăng cường sự tham gia tích cực của các bên liên quan trong quá trình
thực hiện quản lý rừng bền vững thông qua việc thường xuyên giải thích, tuyên
truyền lợi ích của việc thực hiện cấp chứng chỉ rừng đối với các chủ rừng. Xây
dựng năng lực quản lý của các chủ rừng để có thể nhanh chóng tiếp cận được
các tiêu chuẩn của thế giới.
- Sự tham gia của người dân, của cộng đồng là một trong những yếu tố
căn bản giúp cho việc quản lý rừng bền vững được tốt hơn. Kinh nghiệm thực tế



Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

cho thấy: Cộng đồng là người trực tiếp tác động đến tài nguyên rừng theo hai
hướng tích cực và tiêu cực: được hưởng lợi từ rừng đồng thời cũng chịu các tác
động do suy thoái rừng. Trong quản lý rừng, cộng đồng là lực lượng trực tiếp
quyết định đến việc thành công của bảo vệ và phát triển rừng; là nhân tố ảnh
hưởng quan trọng trong tiến trình quản lý rừng bền vững.
- Thông thường đào tạo giáo dục quản lý rừng hiện nay chủ yếu thực hiện
tại các trường đaị học, chưa quan tâm tới đối tượng cộng đồng - liên quan trực
tiếp và chặt chẽ với quản lý rừng bền vững. Vì vậy, thiết lập một hệ thống giáo
dục đào tạo đến cộng đồng để nâng cao nhận thức về rừng, môi trường, kỹ năng
quản lý rừng cho cộng đồng sẽ góp phần thúc đẩy có hiệu quả tiến trình quản lý
rừng bền vững dựa vào cộng đồng
7. Một số kiến nghị đối với thực hiện quản lý rừng bền vững ở Việt nam
(1). Cần nhà quản lý rừng có nhiều kinh nghiệm thực tiễn: Nhân tố cơ bản
góp phân thành công trong quản lý rừng nhiệt đới là những nhà quản lý rừng
được đào tạo rất cơ bản và giàu kinh nghiệm thực tiễn. Thực tế cho thấy, sự yếu
kém trong quản lý gây tác hại nhiều hơn bất kỳ nhân tố nào khác trong việc quản
lý rừng nhiệt đới. Kiến thức tốt về kỹ thuật, tổ chức, điều phối, lập kế hoạch, lập
dự toán và theo dõi giám sát các hoạt động là các nhân tố quan trọng giúp nhà
quản lý có thể ra quyết định và ứng phó với những biến động thường xuyên của
quá trình phát triển.
(2). Xây dựng lâm phận ổn định để bảo vệ rừng tự nhiên: Một yêu cầu đặc
biệt quan trọng giúp quản lý rừng bền vững thành công là xây dựng lâm phận ổn
định, cho cả mục tiêu phòng hộ và mục tiêu sản xuất. Việc thành lập lâm phận
ổn định sẽ giúp thường xuyên kiềm chế được mức độ khai thác và có thể đảm
bảo cung cấp một lượng gỗ thường xuyên cố định cho ngành công nghiệp. Sự ổn
định đó cũng củng cố niềm tin cho doanh nghiệp, giúp họ có những quyết định
đầu tư dài hạn để phát triển sản xuất. Xác định ranh giới rừng ổn định lâu dài, rõ
ràng trên hiện trường là rất cần thiết, là bước đi quan trọng trong việc xác định

và lập bản đồ lâm phận ổn định. Đây là yếu tố quyết định đến hiện trạng rừng.
Thực tế cho thấy là không thể xác định được diện tích rừng được quản lý bền


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

vững hoặc diện tích, vị trí, hình dạng của khu rừng dự định khai thác hàng năm
nếu không có ranh giới rõ ràng trên hiện trường.
(3). Trao quyền sử dụng đất rừng lâu dài cho chủ sử dụng: Trao quyền sử
dụng tài nguyên rừng và đất rừng lâu dài cho các cơ quan quản lý lâm nghiệp,
các hợp tác xã, các công ty lâm nghiệp tham gia vào thực hiện, quản lý các
chương trình lâm nghiệp, không chỉ là nguyên tắc chính sách cơ bản mà còn là
bước đi mang tính thực tiễn cao cần phải thực hiện để thúc đẩy quản lý rừng bền
vững. Sự cam kết chính sách rõ ràng là rất cần thiết để các chủ rừng có quyền sử
dụng đất rừng lâu dài, yên tâm đầu tư kinh doanh sản xuất gỗ hoặc bảo vệ đầu
nguồn và đa dạng sinh học, đồng thời giúp các cộng đồng địa phương, những
người có cuộc sống phụ thuộc vào rừng, phát triển các loài cây thuốc và các loại
lâm sản ngoài gỗ khác một cách ổn định lâu dài. Đối với những nơi đã có sự
cam kết về mặt chính sách cho mục tiêu quản lý rừng bền vững, bước đi tiếp
theo trong việc cụ thể hóa chính sách là xây dựng các hình thức trao quyền sử
dụng rừng và đất rừng hợp lý đáng tin cậy. Ban hành chính sách lâm nghiệp là
một bước đi quan trọng nhằm:
+ Xác định loại rừng và quyền sử dụng là tư nhân hay công cộng, quyền
lợi và nghĩa vụ của các chủ rừng đối với từng loại rừng.
+ Bảo vệ rừng và hệ sinh thái rừng tự nhiên để duy trì năng suất lập địa,
sự đa dạng sinh học, cảnh quan và tạo cơ sở cho phát triển kinh tế xã hội.
+ Xây dựng, phê duyệt và thực hiện các kế hoạch quản lý rừng.
+ Xây dựng và hỗ trợ phát triển kinh tế rừng đa chức năng trong sự kết
hợp giữa bảo tồn hệ sinh thái và sử dụng tài nguyên cho mục tiêu kinh tế.
(4). Cân bằng giữa mục tiêu sản xuất gỗ, môi trường và xã hội: Rừng cho

rất nhiều lợi ích cho cả cấp địa phương và quốc gia. Sản xuất gỗ là mục tiêu
chính mang lại thu nhập cho Chính Phủ, công ty và chủ sử dụng rừng và đó
cũng là động lực chính của việc khai thác rừng nhiệt đới. Thu nhập từ khai thác
gỗ cũng là nguồn lực tài chính để tái đầu tư lâu dài trong quản lý rừng bền vững.
Lâm sản ngoài gỗ như mây, các loài cây làm thuốc, cây thực phẩm, nhựa cây và
thú hoang dã cũng đóng vai trò quan trọng không kém. Rừng nhiệt đới là nguồn


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

sống cho hàng triệu người dân nông thôn có cuộc sống phụ thuộc vào rừng và
cũng là nguồn cung cấp năng lượng cho cộng đồng. Rừng còn là nơi điều tiết
nguồn nước vùng đầu nguồn cung cấp nước cho các nhà máy thủy điện. Rừng
cũng là nơi lưu giữ các giá trị đa dạng sinh học, là nơi vui chơi, giải trí, tham
quan nghỉ dưỡng cho dân. Chính vì vậy, khi xây dựng kế hoạch quản lý rừng
cần có cái nhìn lâu dài, cân bằng được giữa các mục tiêu lấy gỗ, bảo vệ môi
trường và xã hội. Cụ thể là, các nhà lập kế hoạch và quản lý rừng phải nhận ra
giá trị của rừng đối với nhiều thành phần xã hội và làm thế nào đó để lập và thực
hiện các kế hoạch, các chương trình trong mối cân bằng và phải đảm bảo tính
bền vững của một tổng thể.
(5). Quản lý rừng bền vững phải theo kế hoạch rõ ràng: Mục tiêu của bản
kế hoạch quản lý là cụ thể hóa các chính sách quốc gia để điều phối và thực hiện
các hoạt động tác nghiệp để đạt được mục tiêu cụ thể, cho một địa phương cụ
thể và, trong một giai đoạn cụ thể. Đối với rừng sản xuất, một bản kế hoạch cần
phải tính được sản lượng gỗ có thể khai thác là bao nhiêu, khai thác ở đâu, khi
nào, với điều kiện nào. Đối với các khu rừng bảo vệ, một bản kế hoạch phải thể
hiện được các biện pháp quản lý rừng tự nhiên cho mục tiêu điều tiết nguồn
nước, bảo vệ đa dạng sinh học, hoặc cho mục tiêu nghỉ dưỡng, du lịch. Quá trình
lập kế hoạch cần chỉ ra các yêu cầu kỹ thuật, xác định cụ thể các hoạt động ưu
tiên, và trả lời câu hỏi làm cái gì, ở đâu, khi nào, làm như thế nào và ai làm là tốt

nhất. Bản kế hoạch cần xác định rõ mục tiêu, hoạt động nhưng phải có tính linh
hoạt, mềm dẻo nhằm thích ứng với các hoàn cảnh đổi thay còn chưa lường trước
được. Kế hoạch có thể được lập bằng nhiều phương pháp khác nhau, nhưng
thường có những tiêu chuẩn:
+ Kế hoạch phải tránh được những vấn đề trước đó gặp phải, bằng cách
đưa ra những giải pháp có thể thực hiện được.
+ Bản kế hoạch không lên lập cho một giai đoạn quá dài nhằm tránh
những gì đưa ra không phù hợp với thực tiễn.


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

+ Trong bản kế hoạch, mục tiêu cần được nêu thật rõ ràng, ngắn gọn, dễ
hiểu. Không nên đưa ra qúa nhiều mục tiêu để rồi cuối cùng không thực hiện
được.
+ Tránh đưa ra quá nhiều ưu tiên cần hành động. Kế hoạch cần xác định
những hoạt động phù hợp với thực tiễn nhưng cũng cần cân nhắc trên cơ sở kinh
phí có thể sử dụng.
(6). Cần điều tra rừng liên tục: Điều tra rừng liên tục là cơ sở để lập kế
hoạch quản lý rừng, và đặc biệt quan trọng trong lập kế hoạch quản lý rừng bền
vững cho mục tiêu sản xuất gỗ. Xu hướng gần đây, người ta còn chú ý đến việc
điều tra lâm sản ngoài gỗ.
(7). Xác nhận vai trò và giúp đỡ cộng đồng: Như một nguyên tắc cơ bản,
quản lý rừng bền vững đòi hỏi những người và các tổ chức tham gia quản lý
rừng cần xác nhận vai trò và quyền lợi của cộng đồng trong quản lý rừng nhiệt
đới, chia sẻ kiến thức chuyên môn và lợi ích với người dân địa phương, nằm hỗ
trợ họ phát triển cuộc sống. Quản lý rừng dựa vào cộng đồng cũng là cách cải
thiện sinh kế cho người dân, đặc biệt cho những người có cuộc sống phụ thuộc
vào rừng. Như vậy, cộng đồng dân cư địa phương và các chủ rừng là những
người đầu tiên hưởng lợi trong các hoạt động quản lý rừng bền vững. Đối thoại

giữa đại diện của cộng đồng và các chủ rừng đóng vai trò cực kỳ quan trọng
trong quá trình thương thảo, hiểu biết lẫn nhau, tìm hiểu nguyện vọng của mỗi
bên trong việc quản lý và sử dụng rừng.
(8). Quản lý rừng cần có sự phối hợp liên ngành và gắn với phát triển
nông thôn: Trước hết phải thấy rằng có rất nhiều nguyên nhân gây ra mất rừng,
xuyên suốt nhiều ngành khác nhau trong nền kinh tế quốc gia. Vì vậy, không
nên nhìn nhận lâm nghiệp trên quan điểm tách rời với các ngành khác. Ví dụ,
chính sách nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc giảm sức ép vào tài
nguyên rừng; ngành công nghiệp tạo cơ hội việc làm, tăng thu nhập cho dân;
ngành giáo dục nâng cao nhận thức bảo vệ rừng.
(9). Bảo vệ hệ sinh thái cần hài hòa với sinh kế bền vững: Bảo vệ hệ sinh
thái cần được thực hiện hài hòa với việc xây dựng sinh kế bền vững. Điều kiện


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

sống tại nhiều quốc gia Châu Á đã được cải thiện nhiều nhưng cái đói, cái nghèo
vẫn còn đeo đẳng trên diện rộng và việc cải thiện đời sống của người dân nông
thôn mà không tổn hại đến tài nguyên thiên nhiên vẫn còn là thách thức trong
những năm tới. Vậy rõ ràng là các chính sách bảo vệ hệ sinh thái mà chưa chú ý
đến nhu cầu sinh kế của người dân/cộng đồng dân cư địa phương là không công
bằng, và thực tế cho thấy các chính sách đó là chưa hiệu quả. Sinh kế thông qua
việc sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên, chẳng hạn như nông lâm kết hợp,
xây dựng vườn rừng được xem là có nhiều tiềm năng và nên được mở rộng và
phát triển. Huy động người dân tham gia hướng dẫn du lịch sinh thái cũng là
một phương pháp tiếp cận mới cần được nghiên cứu, ứng dụng.
(10). Theo dõi và giám sát các hoạt động quản lý rừng : Một nhiệm vụ
quan trọng trong quản lý rừng là duy trì việc theo dõi thường xuyên liên tục kết
quả thực hiện các hoạt động đã được xác định trong bản kế hoạch. Các báo cáo
theo dõi giám sát là cơ sở kiểm soát các hoạt động có được thực hiện như kế

hoạch một cách minh bạch hay không và cũng là cơ sở để điều chỉnh kế hoạch
khi cần thiết.


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

KẾT LUẬN
Lâm nghiệp thế giới đang trong giai đoạn chuyển biến với nhiều
quan niệm và cách tiếp cận, tiến bộ nhằm tới phát triển bền vững.
Hiện tại Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi về kinh tế và xã
hội trên cơ sở các chính sách đổi mới. Do đó, Lâm nghiệp của Việt
Nam cũng phải chuyển đổi mạnh mẽ cho phù hợp. Tuy nhiên, ngành
Lâm nghiệp cũng đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức
lớn là làm thế nào để có thể hài hòa giữa phát triển rừng bền vững với
dân số, nguồn tài nguyên, môi trường, bảo tồn và đói nghèo.
Ở Việt Nam, quản lý rừng bền vững có tiềm năng rất lớn, cùng
với sự nỗ lực của Chính phủ trong cải cách nền kinh tế, nó có thể dự
kiến rằng ngành Lâm nghiệp có thể phát triển hơn nữa. Một mặt, sự
phát triển quản lý rừng bền vững ở Việt Nam dựa vào sự ổn định
chính sách, chiến lược của Chính phủ; mặt khác, Lâm nghiệp Việt
Nam được cộng đồng các đối tác quốc tế quan tâm và ủng hộ mạnh
mẽ thông qua các cam kết song phương, đa phương và chương trình
hỗ trợ ngành lâm nghiệp…



×