Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Nghiên cứu khả năng tiếp cận dịch vụ công cho sản xuất nông nghiệp của các hộ nông dân ở xã thái an, huyện thái thụy, tỉnh thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.64 MB, 112 trang )

Phần I: Đặt vấn đề
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế hộ gia đình là loại hình kinh tế tương đối phổ biến và được phát triển ở
nhiều nước trên thế giới. Sự trường tồn của hình thức sản xuất này đang tự chuyển
mình để trở thành một thành phần kinh tế của xã hội phát triển, góp phần quan trọng
vào sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. Ở Việt Nam, kinh tế hộ gia đình cũng
có vai trò và ý nghĩa to lớn, đây là mô hình kinh tế có vị trí quan trọng trong quá trình
chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế vĩ mô, nhằm huy động mọi nguồn lực tiến hành sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong hoạt động kinh tế, gia đình có
thể tiến hành tất cả các khâu của quá trình sản xuất và tái sản xuất. Các hợp tác xã và
tổ chức quốc doanh nông nghiệp chuyển sang làm dịch vụ cho kinh tế hộ gia đình. Với
tư cách là một chủ thể kinh tế, nhiều hộ nông dân sử dụng đất đai, nguồn vốn, sức lao
động một cách hiệu quả. Có rất nhiều hộ làm ăn giỏi, hộ khá ngày càng tăng lên, hộ
nông dân đã cải thiện về thu nhập. Tuy nhiên, sự khác nhau về trình độ tiếp cận về các
loại dịch vụ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp giữa các nhóm hộ đã dẫn tới hộ gặp
khó khăn trong sản xuất và không theo kịp với thời đại dẫn tới sự phân hoá giàu nghèo
khá rõ nét trong nông thôn hiện nay.
Nghị quyết về nông nghiệp, nông dân và nông thôn được Hội nghị lần thứ Bảy
(khoá X) thông qua ngày 17/7/2008, trong đó tăng cường dịch vụ công là giải pháp đột
phá cho phát triển nông nghiệp nông thôn từ nay đến năm 2020. Để kinh tế hộ gia đình
phát triển, Nhà nước đã có những dịch vụ hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế hộ nói riêng
và phát triển sản xuất nông nghiệp nói chung mà doanh nghiệp tư nhân không thể hoặc
không muốn cung cấp là những dịch vụ công như: khuyến nông, thuỷ lợi, bảo vệ thực
vật, thông tin thị trường… Tuy nhiên, hiện nay không phải hộ nông dân nào cũng có
khả năng hoặc dễ dàng tiếp cận được với các dịch vụ công đó.
Thái An là một xã có điều kiện kinh tế tương đối phát triển của huyện Thái Thụy,
tỉnh Thái Bình. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, sản xuất nông nghiệp của xã đạt năng
suất cao, ngành nghề mây tre đan truyền thống phát triển, đặc biệt xã có trung tâm chợ

1



Bái hoạt động sôi nổi, nên bộ mặt kinh tế, văn hoá xã hội của địa phương đã được phát
triển khá mạnh mẽ, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân được nâng lên. Nhìn
chung, khả năng tiếp cận các dịch vụ công phục vụ cho sản xuất nông nghiệp của
người dân trong xã được nâng lên, tuy nhiên còn thấp so với cư dân các vùng ven đô
khác. Khả năng tiếp cận với thông tin và các dịch vụ công khác phục vụ trong sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp đang là những rào cản làm cho năng lực tiếp cận,
năng lực sử dụng các dịch vụ công của hộ nông dân còn yếu.
Những vấn đề đặt ra cần quan tâm giải quyết là:
- Thực trạng về khả năng tiếp cận dịch vụ công của hộ nông dân ở xã Thái An?
- Những mong muốn của người dân trong việc tham gia tiếp cận dịch vụ công?
- Làm thế nào để giúp người dân có thể tham gia tiếp cận dịch vụ công đó tốt
hơn?
Việc nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ công cho hô nông dân có ý nghĩa rất
quan trọng với phát triển sinh kế và CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn vì tham gia
tiếp cận và sử dụng một cách tốt nhất các dịch vụ công này, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cũng như hiểu biết hơn về thông tin thị trường, giúp
sản xuất nông nghiệp đạt hiệu quả cao. Chính vì vậy, nâng cao khả năng tiếp cận dịch
vụ công cho sản xuất nông nghiệp cho hộ nông dân là biện pháp quan trọng để thực
hiện được điều đó. Xuất phát từ yêu cầu đó, em tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Nghiên
cứu khả năng tiếp cận dịch vụ công cho sản xuất nông nghiệp của các hộ nông dân
ở xã Thái An, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở đánh giá khả năng tiếp cận dịch vụ công cho sản xuất nông nghiệp
của hộ nông dân xã Thái An, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, đề xuất một số giải
pháp chủ yếu tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ công cho sản xuất nông nghiệp
cho hộ nông dân trong xã.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể


2


- Góp phần hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về hàng hóa công, dịch vụ
công, dịch vụ công trong sản xuất nông nghiệp, đầu tư công, các yếu tố ảnh hưởng đến
khả năng tiếp cận dịch vụ công cho sản xuất nông nghiệp của các hộ nông dân.
- Đánh giá thực trạng về khả năng tiếp cận dịch vụ công cho sản xuất nông
nghiệp của các hộ nông dân xã Thái An, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
- Bước đầu đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng tiếp cận
dịch vụ công cho sản xuất nông nghiệp cho nông dân trên địa bàn xã Thái An, huyện
Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về khả năng tiếp cận dịch vụ công cho hộ
nông dân, tập trung vào các dịch vụ công phục vụ cho sản xuất nông nghiệp chủ yếu
như: khuyến nông, thủy lợi, dịch vụ thông tin, dịch vụ đầu vào - đầu ra, dịch vụ tín
dụng chính thống. Với chủ thể là các hộ nông dân trên địa bàn xã Thái An, huyện Thái
Thụy, tỉnh Thái Bình.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
1.3.2.1 Về nội dung nghiên cứu
Đề tài tập trung xem xét, đánh giá mức độ tiếp cận các loại dịch vụ công phục
vụ cho sản xuất nông nghiệp của các hộ nông dân trong xã như: Thuỷ lợi, khuyến
nông, dịch vụ thông tin, dịch vụ đầu vào – đầu ra, dịch vụ tín dụng chính thống. Đề
xuất giải pháp tiếp cận tốt hơn tới các dịch vụ công đó trong sản xuất nông nghiệp đối
với hộ nông dân.
1.3.2.2 Về không gian
Nghiên cứu được tiến hành tại xã Thái An, huyện Thái Thuỵ, tỉnh Thái Bình.
1.3.2.3 Về thời gian
Nghiên cứu sử dụng số liệu thứ cấp thu thập trong 3 năm từ 2007 đến 2009, số
liệu sơ cấp thu thập trong năm 2009, các định hướng giải pháp đến 2011.


3


PHẦN II: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Một số khái niệm
2.1.1.1 Khái niệm về hàng hoá công cộng
Hàng hoá công cộng là những hàng hoá mà việc một cá nhân này đang hưởng
thụ lợi ích do hàng hoá đó tạo ra không ngăn cản những người khác cùng đồng thời
hưởng thụ lợi ích của nó.
Hàng hóa công cộng là hàng hóa và dịch vụ mang hai tính chất: không cạnh
tranh và không thể loại trừ. Đối lập với hàng hóa công cộng là hàng hóa tư nhân không
mang hai tính chất trên.
* Tính chất của hàng hóa công cộng
- Không thể loại trừ: tính chất không thể loại trừ cũng được hiểu trên giác độ
tiêu dùng, hàng hóa công cộng một khi đã cung cấp tại một địa phương nhất định thì
không thể hoặc rất tốn kém nếu muốn loại trừ những cá nhân không trả tiền cho việc
sử dụng hàng hóa của mình. Ví dụ: quốc phòng là một hàng hóa công cộng nhưng
quân đội không thể chỉ bảo vệ những người trả tiền còn không bảo về những ai không
làm việc đó. Đối lập với hàng hóa công cộng, hàng hóa cá nhân có thể loại trừ một
cách dễ dàng.
- Không cạnh tranh: tính chất không cạnh tranh được hiểu trên giác độ tiêu
dùng, việc một cá nhân này đang sử dụng hàng hóa đó không ngăn cản những người
khác đồng thời cũng sử dụng nó. Điều này ngược lại hoàn toàn so với hàng hóa cá
nhân. Chính vì tính chất này mà người ta cũng không mong muốn loại trừ bất kỳ cá
nhân nào trong việc tiêu dùng hàng hóa công cộng.
Tuy vậy chỉ có hàng hoá công cộng thuần tuý (pure public goods) mới có đầy
đủ hai thuộc tính đó, còn trong thực tế đa số hàng hoá công cộng là không thuần tuý
(impure public goods) chỉ có phần nào các thuộc tính trên.

Theo ý nghĩa kinh tế học, hàng hóa công cộng có một số đặc tính cơ bản như:

4


1. Là loại hàng hóa mà khi đã được tạo ra thì khó có thể loại trừ ai ra khỏi việc
sử dụng nó.
2. Việc tiêu dùng của người này không làm giảm lượng tiêu dùng của người
khác.
3. Và không thể vứt bỏ được, tức là ngay khi không được tiêu dùng thì hàng
hóa công cộng vẫn tồn tại. Nói một cách giản đơn, thì những hàng hóa nào thỏa mãn
cả ba đặc tính trên được gọi là hàng hóa công cộng thuần túy, và những hàng hóa nào
không thỏa mãn cả ba đặc tính trên được gọi là hàng hóa công cộng không thuần túy.
2.1.1.2 Khái niệm về dịch vụ công
* Khái niệm dịch vụ công
Trong thực tế không có định nghĩa nào về dịch vụ công có thể bao quát và được
chấp nhận một cách hoàn hảo. Có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau để hiểu về dịch vụ
công.
Khái niệm “dịch vụ công” được sử dụng phổ biến rộng rãi ở châu Âu sau Chiến
tranh thế giới lần thứ hai. Theo quan niệm của nhiều nước, dịch vụ công luôn gắn với
vai trò của nhà nước trong việc cung ứng các dịch vụ này.
Từ giác độ chủ thể quản lý Nhà nước, các nhà nghiên cứu hành chính cho rằng
dịch vụ công là những hoạt động của cơ quan Nhà nước trong việc thực thi chức năng
quản lý hành chính nhà nước và bảo đảm cung ứng các hàng hóa công cộng phục vụ
nhu cầu chung, thiết yếu của xã hội. Cách hiểu này nhấn mạnh vai trò và trách nhiệm
của nhà nước đối với những hoạt động cung cấp hàng hóa công cộng.
Cách tiếp cận khác xuất phát từ đối tượng được hưởng hàng hóa công cộng cho
rằng đặc trưng chủ yếu của dịch vụ công là hoạt động đáp ứng nhu cầu thiết yếu của
xã hội và cộng đồng, còn việc tiến hành hoạt động ấy có thể do nhà nước hoặc tư nhân
đảm nhiệm.

Từ điển Petit Larousse của Pháp xuất bản năm 1992 đã định nghĩa: “dịch vụ
công là hoạt động vì lợi ích chung, do cơ quan nhà nước hoặc tư nhân đảm nhiệm”.

5


Phạm vi dịch vụ công có sự biến đổi tùy thuộc vào bối cảnh của mỗi quốc gia.
Chẳng hạn, ở Canada, có tới 34 loại hoạt động được coi là dịch vụ công, từ quốc
phòng, an ninh, pháp chế, đến các chính sách kinh tế- xã hội (tạo việc làm, quy hoạch,
bảo vệ môi trường, và các hoạt động y tế, giáo dục, văn hoá, bảo hiểm xã hội,…).
Trong khi đó, Pháp và Italia đều quan niệm dịch vụ công là những hoạt động phục vụ
nhu cầu thiết yếu của người dân do các cơ quan Nhà nước đảm nhiệm hoặc do các tổ
chức tư nhân thực hiện theo những tiêu chuẩn, quy định của Nhà nước. Tuy vậy, ở mỗi
nước lại có nhận thức khác nhau về phạm vi của dịch vụ công. Ở Pháp, khái niệm dịch
vụ công được hiểu rộng, bao gồm không chỉ các hoạt động phục vụ nhu cầu về tinh
thần và sức khoẻ của người dân (như giáo dục, văn hoá, y tế, thể thao…, thường được
gọi là hoạt động sự nghiệp), các hoạt động phục vụ đời sống dân cư mang tính công
nghiệp (điện, nước, giao thông công cộng, vệ sinh môi trường...thường được gọi là
hoạt động công ích), hay các dịch vụ hành chính công, bao gồm hoạt động của cơ quan
hành chính về cấp phép, hộ khẩu, hộ tịch… mà cả hoạt động thuế vụ, trật tự, an ninh,
quốc phòng…; còn ở Italia dịch vụ công được giới hạn chủ yếu ở hoạt động sự nghiệp
(y tế, giáo dục) và hoạt động kinh tế công ích (điện, nước sạch, vệ sinh môi trường) và
các hoạt động cấp phép, hộ khẩu, hộ tịch do cơ quan hành chính thực hiện.

6


Hộp 1: Hàng hóa và dịch vụ công cốt lõi và mở rộng
Khu vực công cốt lõi bao gồm các dịch vụ (chủ yếu là hàng hóa và dịch vụ công
thuần túy – pure public goods and services) mà chính phủ là người duy nhất cung cấp và

mọi công dân bắt buộc phải nhận khi có nhu cầu về chúng. Chính phủ cung cấp các loại
dịch vụ này dựa trên cơ sở pháp lý và nguyên tắc quản lý nhà nước cơ bản. Có thể liệt kê
một số dịch vụ đó như: pháp luật, an ninh, quốc phòng, các nguồn phúc lợi xã hội, môi
trường và phòng dịch, cấp giấy sở hữu (tài sản, nhà đất), giấy tờ tùy thân (hộ chiếu, visa,
chứng minh thư), giấy chứng nhận (khai sinh, khai tử, hôn thú), đăng ký thành lập (doanh
nghiệp, hiệp hội, tổ chức)…
Khu vực công mở rộng bao gồm các dịch vụ công (chủ yếu là hàng hóa và dịch vụ
công không thuần khiết- impure) mà người tham gia cung cấp có thể là nhà nước và nhiều
tổ chức khác (tư nhân, các tổ chức xã hội, cộng đồng). Sự cung cấp các loại dịch vụ này
rất linh hoạt, tùy thuộc vào nhu cầu người tiêu dùng, không mang tính độc quyền và có thể
miễn phí hoặc trả phí. Đó là các dịch vụ như: y tế, giáo dục, giao thông đô thị, thông tin,
cơ sở hạ tầng,…
(Nguồn: World Bank, World Development Report 1997)

Đối với Việt Nam, dịch vụ công được chia thành 5 lĩnh vực bao gồm: dịch vụ
hành chính công (cấp phép, đăng ký, chứng thực…); sự nghiệp công (cung cấp phúc
lợi y tế, văn hoá, bảo hiểm, chăm sóc sức khoẻ, phòng chống bệnh dịch); dịch vụ công
ích (xây dựng đường sá, cầu cống, vệ sinh môi trường…); dịch vụ pháp lý (cung cấp
thông tin, tư vấn về giao dịch nhân sự, mua bán nhà cửa, đất đai, thi hành án dân sự…)
và dịch vụ công ích phục vụ sản xuất (thuỷ lợi, khuyến nông, khuyến lâm, cung cấp
giống, thông tin thị trường…).
Trách nhiệm chính của việc cung cấp dịch vụ công thuộc về Nhà nước, nhưng
việc cung cấp dịch vụ có thể do Nhà nước trực tiếp làm hoặc do các đối tác xã hội làm
trong khuôn khổ pháp luật dưới sự giám sát, quản lý của Nhà nước. Ngay cả khi Nhà
nước chuyển giao một phần việc cung ứng dịch vụ công cho khu vực tư nhân thì nhà
nước vẫn có vai trò điều tiết nhằm đảm bảo sự công bằng trong phân phối các dịch vụ
này và khắc phục các bất cập của thị trường.

7



Có thể thấy rằng khái niệm và phạm vi các dịch vụ công cho dù được tiếp cận ở
nhiều góc độ khác nhau, chúng đều có tính chất chung là nhằm phục vụ cho nhu cầu
và lợi ích chung thiết yếu của xã hội, của cộng đồng dân cư và nhà nước có trách
nhiệm đảm bảo các dịch vụ này cho xã hội.
Từ những tính chất trên đây, trong nghiên cứu này khái niệm dịch vụ công được
hiểu là: những hoạt động phục vụ nhu cầu thiết yếu của xã hội, vì lợi ích chung của
cộng đồng, của xã hội, do nhà nước trực tiếp đảm nhận hay ủy quyền và tạo điều kiện
cho khu vực tư nhân thực hiện.
* Các đặc trưng cơ bản của dịch vụ công
- Các hoạt động không vụ lợi, không nhằm mục đích lợi nhuận; phục vụ nhu
cầu, lợi ích chung thiết yếu của công dân, của toàn xã hội, bảo đảm công bằng và ổn
định xã hội.
- Các dịch vụ này thực hiện trên cơ sở pháp luật, do nhà nước trực tiếp tổ chức
thực hiện hoặc uỷ quyền cho các tổ chức xã hội hoặc tư nhân thực hiện nhưng nhà
nước vẫn phải chịu trách nhiệm.
- Khi cung ứng dịch vụ công, các cơ quan nhà nước, các tổ chức được uỷ quyền
cung ứng tiến hành sự giao dịch với khách hàng ở những mức độ khác nhau.
- Việc trao đổi dịch vụ công không thông qua quan hệ thị trường đầy đủ, thông
thường. Người sử dụng dịch vụ công không trực tiếp trả tiền hay nói đúng hơn là đã
trả tiền dưới hình thức đóng thuế vào ngân sách nhà nước. Cũng có những dịch vụ mà
người sử dụng vẫn phải trả một phần hoặc toàn bộ kinh phí. Tuy nhiên, nhà nước vẫn
có trách nhiệm bảo đảm cung ứng các dịch vụ này không nhằm vào mục tiêu lợi
nhuận.
- Mọi người dân đều có quyền ngang nhau trong việc tiếp cận các dịch vụ công
với tư cách là đối tượng phục vụ của chính quyền.
- Khác với các loại dịch vụ thông thường, dịch vụ công là những hoạt động
phục vụ các nhu cầu thiết yếu của xã hội, bất kể các sản phẩm được tạo ra có hình thái
hiện vật hay phi hiện vật.


8


* Dịch vụ công ích phục vụ sản xuất nông nghiệp ở nước ta
Dịch vụ công ích là hoạt động cung cấp các hàng hoá, dịch vụ có tính chất kinh
tế đáp ứng nhu cầu vật chất thiết yếu cho sinh hoạt của người dân, gắn liền với việc
cung ứng của các cơ sở hạ tầng kỹ thuật cơ bản.
Trong các loại hình dịch vụ công ích phục vụ các nhu cầu cơ bản thiết yếu của
người dân, dịch vụ công ích phục vụ cho sản xuất nông nghiệp có vai trò rất quan
trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ngành và đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế khu vực nông thôn, nâng cao đời sống cho khu vực nông thôn nói riêng và toàn
xã hội nói chung.
Dịch vụ công ích phục vụ sản xuất nông nghiệp nhằm cung ứng các hàng hoá
dịch vụ công cho khu vực nông nghiệp nông thôn nhằm đáp ứng các nhu cầu tối thiểu
gắn với đời sống vật chất hàng ngày của người dân như điện, nước, giao thông, dịch
vụ nông nghiệp… Do nông thôn nước ta nhiều vùng còn rất khó khăn, cơ sở hạ tầng
kém phát triển, trình độ dân trí thấp, sản xuất với tập quán cũ không năng suất… nên
nhu cầu về cải thiện đời sống của người dân là rất lớn, đặc biệt là khu vực khó khăn và
các đối tượng dễ bị tổn thương.
Là loại hình dịch vụ công chịu ảnh hưởng ít hơn về vai trò điều tiết của Nhà
nước so với hai loại dịch vụ công là sự nghiệp công và hành chính công. Đây là loại
hình dịch có khả năng thu hút sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế song thực tế
hiện nay, dịch vụ này vẫn chư thu hút sự tham gia của nhiều thành phần tư nhân do
vốn đầu tư lớn nhưng khả năng thu hồi vốn, lợi nhuận không cao nên rất ít tổ chức,
doanh nghiệp tư nhân muốn tham gia cung ứng. Do đó, Nhà nước vẫn là chủ thể cung
ứng các dịch vụ công cho khu vực này.
Chất lượng của các dịch vụ này tuỳ thuộc vào trình độ phát triển, các vấn đề xã
hội và khả năng thực hiện của mỗi nước. Các nước có nền kinh tế càng phát triển, các
dịch vụ công ích càng đặt ra một cách rõ ràng và đòi hỏi sự quan tâm nhiều hơn nữa
của các quốc gia nhằm đảm bảo công bằng xã hội và phân phối lại thu nhập giữa các

khu vực, giảm sự chênh lệch giàu nghèo.

9


Dịch vụ công ích phục vụ cho sản xuất nông nghiệp có vai trò quan trọng, sản
phẩm hàng hoá, dịch vụ này khi tạo ra sẽ được cung ứng đến mọi người dân, không
loại trừ một ai, tác động trực tiếp đến kết quả sản xuất nông nghiệp của người dân,
nâng cao năng suất lao động từ đó nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của người
dân, thúc đẩy kinh tế phát triển.Tuy nhiên, đối tượng tiếp cận các loại dịch vụ công ích
phục vụ cho sản xuất nông nghiệp là nông dân với trình độ dân trí thấp, tính bảo thủ
cao… thì việc tiếp cận và sử dụng các có hiệu quả các loại dịch vụ này là một điều
đáng quan tâm.
*Vai trò và chức năng của Nhà nước trong cung ứng các dịch vụ công ích phục
vụ sản xuất nông nghiệp
Cũng như những hàng hoá dịch vụ công nói chung, Nhà nước có vai trò quan
trọng trong việc cung ứng các dịch vụ này. Ngoài những chức năng nhiệm vụ chính,
Nhà nước còn cần phải thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau đối với quá trình cung ứng
dịch vụ công ích phục vụ sản xuất nông nghiệp như sau:
Thứ nhất, Hoàn thiện các cơ chế chính sách đối với việc cung ứng các dịch vụ
công ích này, nhằm thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân vào lĩnh vực này.
Thứ hai, Nhà nước cần phải giám sát, quản lý chặt chẽ quá trình cung ứng các
hàng hoá dịch vụ công ích cho sản xuất nông nghiệp, liên tục đánh giá chất lượng và
hiệu quả tác động của các sản phẩm hàng hoá dịch vụ công cộng, từ đó xây dựng các
kế hoạch đầu tư cho hợp lý, cân đối các nguồn lực.
Thứ ba, Thống nhất sự phân cấp quản lý và cung ứng giữa các cấp từ trung
ương cho tới địa phương tránh sự chồng chéo làm giảm hiệu quả cung ứng.
2.1.1.3 Khái niệm về đầu tư công
Đầu tư công là đầu tư từ nguồn vốn của Nhà nước vào ngành, lĩnh vực phúc lợi
phục vụ lợi ích chung, không nhằm mục đích kinh doanh. Đây là phần đầu tư quan

trọng nhằm hình thành và hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo điều kiện phát triển
kinh tế - xã hội chung của đất nước.

10


Ở Việt Nam, phần vốn đầu tư công chủ yếu từ nguồn ngân sách Nhà nước,
chiếm khoảng 22% tổng mức đầu tư xã hội trong giai đoạn 2000 – 2005 và dự tính xấp
xỉ 20% trong giai đoạn 2006 – 2010.(Cao Văn Bản, Vụ trưởng vụ Giám sát đầu tư Bộ kế hoạch Đầu tư).
Thực hiện Nghị quyết số 72/2006/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2006 của Quốc
hội về Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2007 và Quyết định số 291/QĐTTg ngày 7/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc phân công cơ quan chủ trì, phối
hợp soạn thảo các dự án luật, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các Bộ, ngành liên
quan đã dự thảo Luật Đầu tư công để báo cáo Chính phủ trình Quốc hội ban hành.
Những nội dung chủ yếu của dự thảo luật đầu tư công (phụ lục 1.1: Những nội dung
chủ yếu của dự thảo luật đầu tư công).
2.1.2 Các loại dịch vụ công chủ yếu cho sản xuất nông nghiệp của hộ nông dân
Có nhiều loại dịch vụ công phục vụ cho sản xuất nông nghiệp: Khuyến nông,
dịch vụ thủy lợi, dịch vụ thông tin, dịch vụ đầu vào – đầu ra, dịch vụ cung cấp tín dụng
chính thống.
2.1.2.1 Khuyến nông
Do khuyến nông hoạt động trong lĩnh vực rộng, cho nhiều đối tượng khác nhau
nên đến nay trên thế giới có khá nhiều định nghĩa khuyến nông khác nhau:
Theo Peter Oakley & Cristopher Garferth: Khuyến nông là cách đào tạo thực
nghiệm dành cho những người dân sống ở nông thôn. Đem lại cho họ những lời
khuyên và những thông tin cần thiết giúp giải quyết vấn đề khó khăn trở ngại của họ.
Khuyến nông cũng nhằm mục đích nâng cao năng suất, phát triển sản xuất, làm tăng
mức sống cho người nông dân.
Theo Adams: Khuyến nông là tư vấn cho nông dân giúp họ tìm ra những khó
khăn trở ngại trong cuộc sống và sản xuất, đồng thời đề ra những giải pháp khắc phục.
Khuyến nông còn giúp cho nông dân nhận biết những cơ hội của sự phát triển.

Theo A.H. Mauder: “Khuyến nông như một dịch vụ hay hệ thống giúp đỡ nông
dân thông qua giáo dục, nhằm nâng cao các phương pháp và kỹ thuật canh tác, tăng

11


hiệu quả sản xuất và thu nhập, cải thiện mức sống của người nông dân và đưa ra các
chuẩn mực giáo dục và xã hội lên tầm cỡ quốc gia”. Hay có thể hiểu đơn giản hơn thì
khuyến nông bao gồm các hệ thống giáo dục không chính thức và đối tượng hướng tới
đó là nông dân nông thôn, với các hoạt động cơ bản là nông nghiệp.
Theo quan điểm của Cục Khuyến Nông Việt Nam (2006) tổng hợp từ nhiều
khái niệm của các quốc gia, các tác giả đúc kết lại và đưa ra khái niệm: “Khuyến nông
là cách đào tạo và rèn luyện tay nghề cho nông dân, đồng thời giúp cho họ hiểu được
những chủ trương chính sách về nông nghiệp, những kiến thức về kỹ thuật, kinh
nghiệm về quản lý kinh tế, những thông tin về thị trường, để họ có đủ khả năng tự giải
quyết được các vấn đề của gia đình và cộng đồng nhằm đẩy mạnh sản xuất, cải thiện
đời sống, nâng cao dân trí, góp phần xây dựng và phát triển nông thôn mới”.
2.1.2.2 Dịch vụ thuỷ lợi
Phát triển bền vững đã và đang trở thành phương châm trong chiến lược phát
triển của mỗi quốc gia. Để có một nền nông nghiệp bền vững thì trước hết phải nâng
cao hiệu quả và tính bền vững của các hệ thống tưới, tiêu. Đây cũng chính là mục tiêu
của công tác quản lý thuỷ nông. Khái niệm hiệu quả tưới được hiểu đầy đủ là mức độ
đạt được của các mục tiêu ban đầu đề ra của các hệ thống tưới, tiêu. Sự nhìn nhận
không toàn diện và không đầy đủ về hiệu quả tưới đã ảnh hưởng lớn tới việc tìm ra các
biện pháp để nâng cao hiệu quả của các hệ thống tưới hiện nay. Bởi lẽ sẽ không đưa ra
được một cách đầy đủ các chỉ số biểu thị hiệu quả tưới cùng các phương pháp đánh giá
các chỉ tiêu đó. Còn sự bền vững của một hệ thống tưới được biểu hiện ở chỗ: Phải có
một tổ chức quản lý thuỷ nông hoạt động tốt, công trình phát huy được hiệu quả, tài
chính đáp ứng được các yêu cầu hoạt động về vận hành và quản lý, người dùng nước
thoả mãn dịch vụ dùng nước.

Hiện nay, Chính phủ rất ưu tiên, dành các nguồn đầu tư tập trung cho phát triển
thuỷ lợi ở khu vực nông thôn, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp nhằm thúc đẩy sản
xuất, hỗ trợ một phần chi phí sản xuất nông nghiệp cho nông dân nhằm xoá đói giảm

12


nghèo, tăng thu nhập từ nông nghiệp, nâng cao chất lượng cuộc sống khu vực nông
thôn.
2.1.2.3 Dịch vụ thông tin
Cùng với xu hướng phát triển mạnh mẽ của nề kinh tế thị trường đặc biệt khi
Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thì việc tiếp
cận với các thông tin là đặc biệt quan trọng không chỉ đối với các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh mà nó còn có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của
hộ nông dân. Dựa vào những nguồn thông tin hữu ích mà hộ có thể ra quyết định sử
dụng yếu tố đầu vào gì? sử dụng bao nhiêu? Sản phẩm làm ra tiêu thụ ở đâu?...
Trong điều kiện thị trường nông sản trong nước và thế giới ngày càng có nhiều
diễn biến phức tạp, sự tăng giảm giá thất thường, việc cập nhật thông tin trở nên vô
cùng cần thiết và là điều kiện sống còn để bảo đảm cho nông dân bán được sản phẩm
với giá tốt nhất. Từ đó tránh được việc bị ép giá, hay sự giảm sút của thị trường tiêu
thụ, hay đơn giản là chọn địa điểm bán không hợp lý nên chịu thiệt thòi về giá cả...
Chính vì vậy, việc phát triển việc cung cấp thông tin cho hộ nông dân là vô cùng quan
trọng.
Hiện nay, có các tổ chức cung cấp dịch vụ thông tin cho nông dân chủ yếu như
HTX, khuyến nông và các phương tiện truyền thông.
* Tiếp cận thông tin
- Tiếp cận thông tin là sử dụng một số phương pháp, phương tiện trong tiếp cận
để đến gần nắm bắt các dữ liệu, số liệu về thị trường trong một bối cảnh không gian,
thời gian cụ thể từ đó hình thành cách lý giải các luận điểm về thông tin.
Có nhiều phương pháp và cách tiếp cận thông tin khác nhau tùy vào đối tượng

tiếp cận và thông tin cần tiếp cận. Đối với người sản xuất, khi tiếp cận thông tin
thường với mục đích tìm hiểu thông tin về kỹ thuật sản xuất, thông tin về thị trường
đầu vào, đầu ra để họ đưa ra các quyết định trong sản xuất tùy vào lợi nhuận mà họ đạt
được khi quyết định sản phẩm đó. Đối với người tiêu dùng khi tiếp cận thông tin thông

13


thường mục đích của họ để đưa ra quyết định trong tiêu dùng sản phẩm đó và có nên
tìm sản phẩm thay thế hay không tùy thuộc vào độ thỏa dụng mà họ đạt được.
Nói đến thông tin đối với người nông dân là nói đến tất cả các thông tin về thị
trường đầu vào và thị trường đầu ra và thông tin về kỹ thuật sản xuất. Tiếp cận thông
tin là tiếp cận về cả hai thị trường đầu vào, đầu ra và kỹ thuật sản xuất đó. Đối với thị
trường đầu vào thì người nông dân thường tiếp cận các thông tin về từng mảng thị
trường mà họ quan tâm như: Thị trường phân bón, thị trường giống, thị trương thuốc
BVTV, thị trường vốn… Thông tin mà họ quan tâm là tại thời điểm họ đang sản xuất
thì biến động của các mảng thị trường đó như thế nào. Còn đối với kỹ thuật sản xuất
người nông dân sẽ tìn hiểu thông tin về kỹ thuật sản xuất, tìm hiểu những kỹ thuật mới
để áp dụng vào sản xuất nhằm đem lại kết quả sản xuất tốt nhất.
2.1.2.4 Dịch vụ đầu vào – đầu ra
Dịch vụ đầu vào ở đây có thể hiểu là dịch vụ cung cấp cho nông dân những yếu
tố đầu vào cần thiết cho sản xuất nông nghiệp như vật tư nông nghiệp (có rất nhiều đầu
vào cho sản xuất nông nghiệp nhưng trong báo cáo này chỉ nghiên cứu đầu vào là vật
tư nông nghiệp).
Dịch vụ đầu ra ở đây có thể hiểu là dịch vụ giúp nông dân tiêu thụ sản phẩm
nông nghiệp do hộ sản xuất ra.
HTX là một trong những tổ chức cung cấp dịch vụ đầu vào – đầu ra cho hộ
nông dân. HTX sẽ đứng ra liên kết với các tổ chức khác như khuyến nông, các doanh
nghiệp nông nghiệp… để cung cấp đầu vào phục vụ cho sản xuất nông nghiệp của hộ
và bao tiêu sản phẩn đầu ra cho hộ.

2.1.2.5 Dịch vụ cung cấp tín dụng chính thống
Nhà kinh tế Pháp Louis Baudin đã định nghĩa tín dụng là một sự trao đổi tài hóa
hiện tại lấy một tài hóa tương lai. Ở đây yếu tố thời gian đan xen lẫn vào đó, do đó có
sự bất trắc rủi ro xảy ra và cần có sự tín nhiệm của hai bên định sự đối với nhau. Hai
bên định sự dựa vào tín nhiệm của nhau cho nên mới có hai từ tín dụng. Những hành
vi tín dụng có thể do bất cứ ai, với thời gian chúng ta thấy sự chuyên nghiệp đã xảy ra

14


và ngày nay khi nói đến tín dụng người ta nghĩ ngay đến ngân hàng, vì các cơ quan
này chuyên làm việc cho vay, bảo lãnh triết khấu.
Tín dụng chính thống là hình thức tín dụng được pháp luật công nhận như ngân
hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng kinh doanh, ngân hàng cổ phần, HTX tín
dụng, quỹ tín dụng nhân dân… đồng thời chịu sự quản lý của Nhà nước.
2.1.3 Những yếu tố ảnh hưởng chủ yếu đến khả năng tiếp cận dịch vụ công cho sản
xuất nông nghiệp của hộ nông dân
2.1.3.1 Dịch vụ khuyến nông
Mặc dù khuyến nông giữ vai trò quan trọng trong việc nâng cao trình độ, kiến
thức cho nông dân, tăng hiệu quả sản xuất nhưng vẫn còn một số hộ nông dân vẫn
chưa tiếp cận được hoặc khó tiếp cận khuyến nông.
Tiếp cận các dịch vụ khuyến nông hay gọi tắt là tiếp cận khuyến nông là quá
trình hoạt động trong hệ thống khuyến nông được diễn ra từ hai phía ngược chiều, một
là các tổ chức cung cấp dịch vụ khuyến nông, hai là hộ nông dân - người có nhu cầu sử
dụng các dịch vụ khuyến nông. Một số yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến khả năng tiếp
cận các dịch vụ khuyến nông của nông dân như:
(1) Điều kiện kinh tế của hộ: Người nghèo khó tiếp cận khuyến nông. Hiện nay,
công tác khuyến nông mới chỉ “phủ sóng” đến những người có điều kiện, còn người
nghèo, vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu vùng xa vẫn khó tiếp cận ( TS. Tống Khiêm,
Giám đốc Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư Quốc gia). Nguyên nhân là do cơ

chế tài chính, bởi khuyến nông hoạt động theo hình thức Nhà nước và nông dân cùng
đóng góp. Chẳng hạn, mức hỗ trợ bình quân của Nhà nước cho khu vực đồng bằng là
30%, trung du miền núi là 50%, vùng miền núi, vùng sâu vùng xa, hải đảo là 80%...
Muốn làm mô hình, bà con phải đóng góp, vì thế người nghèo ít có cơ hội hưởng lợi.
(2) Một yếu tố khác cũng ảnh hưởng điến việc tiếp cận với dịch vụ khuyến
nông của nông dân là sự quan tâm của chính quyền các cấp đến công tác này và trình
độ cũng như tính yêu nghề của cán bộ khuyến nông viên cơ sở. Chính quyền các cấp
quan tâm sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận của hộ nông dân với dịch vụ

15


khuyến nông. Cán bộ khuyến nông viên cơ sở có trình độ và yêu nghề sẽ tạo cho nông
dân lòng tin và họ sẽ dễ dàng tiếp cận hơn. Trình độ của cán bộ khuyến nông thể hiện
qua sự hiểu biết về kiến thức; kỹ năng giao tiếp và hành vi ứng xử của họ với người
dân. Cán bộ khuyến nông có hiểu biết rộng không chỉ về kỹ thuật, về thị trường, về
chính sách, môi trường, xã hội… lại nhiệt tình và thân thiện với nông dân thì khả năng
tiếp cận của nông dân với dịch vụ khuyến nông sẽ thuận lợi hơn.
(3) Trình độ văn hóa của nông hộ cũng là một yếu tố quan trọng có ảnh hưởng
đến việc tiếp cận dịch vụ khuyến nông. Trình độ của chủ hộ và các thành viên trong hộ
thể hiện về nhận thức, khoa học kỹ thuật, về kiến thức kinh tế, thị trường, xã hội môi
trường do khuyến nông cung cấp. Họ sẵn sàng tham gia hỗ trợ và giúp đỡ nông dân
khác. Khi người nông dân có trình độ văn hóa càng cao thì nhận thức về việc tiếp cận
với các phương thức sản xuất mới, giống mới… sẽ cao hơn, cũng có nghĩa là tính bảo
thủ của họ sẽ giảm. Từ đó, họ sẽ nhận thấy được những mặt có lợi mà dịch vụ khuyến
nông mang lại (như quyết định áp dụng những tiến bộ kỹ thuật mới…). Ngược lại, với
những hộ nông dân còn hạn chế về trình độ văn hóa thì họ sẽ khó khăn trong việc tiếp
cận dịch vụ khuyến nông chính vì tính bảo thủ của mình, sợ và không muốn tiếp cận
với những cái mới. Ngoài ra, các hộ có trình độ văn hóa thấp thường không tự tin,
không dám mạo hiếm đầu tư sản xuất, họ sợ rủi ro (rủi ro thời tiết, giá cả…).

(4) Giới tính của chủ hộ cũng ảnh hưởng phần nào đến tiếp cận dịch vụ khuyến
nông. Nhìn chung, những chủ hộ là nam giới thì thường mạnh dạn hơn những hộ là nữ,
nam giới thường quyết đoán và mạo hiểm hơn, dám làm, dám chịu… Nữ giới thường
thận trọng hơn, không dám mạo hiểm. Như vậy, chủ hộ là nữ thường khó khăn trong
việc tiếp cận khuyến nông, đặc biệt là việc áp dụng các mô hình sản xuất mới.
(5) Nội dung và chất lượng của các dịch vụ khuyến nông. Các chương trình, dự
án, hoạt động khuyến nông phải xuất phát từ nhu cầu của nông dân, phù hợp với khả
năng của họ, các nguồn hỗ trợ tuy ít nhưng có chất lượng mới đảm bảo uy tín và khích
lệ nông dân tham gia.

16


(6) Cơ chế chính sách. Đây là nhóm nhân tố ảnh hưởng ở tầm vĩ mô, ngoài các
chính sách về khuyến nông thì các chính sách khác có liên quan như, chính sách đất
đai, chính sách tín dụng, chính sách thuế cũng có những tác động ảnh hưởng đến họat
động khuyến nông [VUFO – Trung tâm Tư liệu NGO (11/2004), các vấn đề về giới và
dân tộc thiểu số trong khuyến nông. NXB Hà Nội].
(7) Điều kiện tự nhiên. Các vùng miền núi, trung du do điều kiện địa hình khó
khăn, nông dân ở đây trình độ thấp, khả năng tiếp cận thấp hơn ở các vùng đồng bằng.
Điều kiện tự nhiên là yếu tố mang tình chất khách quan, các hoạt động sản xuất
nông nghiệp đều chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện thời tiết, khí hậu, do đó các
chương trình dự án khuyến nông có đạt hiệu quả cao hay không cũng phụ thuộc rất
nhiều vào điều kiện thời tiết tốt hay xấu.
(8) Phong tục tập quán. Đây là một yếu tố mang tính truyền thống ở các địa
phương, nếu một chương trình dự án khuyến nông triển khai không phù hợp với phong
tục tập quán và điều kiện sản xuất của địa phương thì sẽ rất dễ bị thất bại. Các phong
tục tập quán cần chú ý là tập quán canh tác, chăn nuôi, tập quán tổ chức sản xuất, sử
dụng các yếu tố như đất đai, lao động, quản lý trong hộ.
(9) Nguồn vốn cho hoạt động khuyến nông. Vốn là nhân tố rất quan trọng cần

thiết cho sản xuất, các chương trình được triển khai cần có đủ vốn để thực hiện, đặc
biệt với người nông dân họ rất cần vốn để đưa tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất.
2.1.3.2 Dịch vụ thủy lợi
Một số yếu tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận của hộ với dịch vụ thủy lợi:
Thứ nhất, nguồn nước tự nhiên: Hiện nay tình trạng thiếu nước sinh hoạt và
nước cung cấp cho sản xuất nông nghiệp lâm vào tình trạng đáng báo động. Nhiều nơi
không cung cấp đủ nước tưới cho sản xuất nông nghiệp do mực nước tại các sông đã
xuống thấp khiến các trạm bơm không thể bơm nước lên được. Chính vì thế, nguồn
nước có vai trò rất quan trọng trong hoạt động của dịch vụ thủy lợi, không có nước thì
dịch vụ thủy lợi sẽ gặp rất nhiều khăn trong việc cấp nước tưới cho sản xuất nông
nghiệp.

17


Thứ hai, điều kiện địa hình: Địa hình cao quá hay thấp quá thì nông dân khó có
thể có cơ hội tiếp cận được với dịch vụ thủy lợi vì nước không thể lên đến những nơi
cao hoặc nếu có lên đến những nơi có thì những người có ruộng ở trũng sẽ bị ngập lụt.
Do vậy địa hình cũng gây khó khăn cho khả năng tiếp cận dịch vụ thủy lợi của hộ
nông dân.
Thứ ba, cơ sở vật chất tại: Cơ sở vật chất ở đây bao gồm hệ thống máy bơm, hệ
thống mương máng... và những trang thiết bị khác phục vụ cho việc cấp nước và thoát
nước tại địa phương. Cơ sở vật chất tốt sẽ bảo đảm chất lượng dịch vụ được tốt hơn,
người dân sẽ được tiếp cận với dịch vụ thủy lợi dễ dàng hơn. Ngược lại nếu cơ sở vật
chất kém, máy bơm công suất kém, hệ thống mương máng chưa được bê tông hóa…
sẽ làm cho chất lượng dịch vụ kém hiệu quả, người dân không được cấp đủ và thoát
nước không đúng lúc gây ảnh hưởng đến việc sản xuất của người dân.
2.1.3.3 Dịch vụ cung cấp thông tin
Khả năng tiếp cận thông tin của hộ nông dân là mức độ nông dân có thể có
những khả năng nào hay cách nào để đến gần nắm bắt và luận giải các thông tin đó.

Hiện nay nông dân có rất nhiều khả năng để tiếp cận thông tin thông qua các dịch vụ
cung cấp thông tin như: Tiếp cận qua báo chí, tiếp cận qua các kênh truyền thanh,
truyền hình, qua Internet… Tuy nhiên, không phải hộ nông dân nào cũng tiếp cận
được với các dịch vụ cung cấp thông tin và sử dụng những thông tin có hiệu quả nhất.
Sau đây là một số yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận dịch vụ cung cấp thông tin
của hộ nông dân:
(1) Trình độ học vấn và trình độ chuyên môn.
Đây là yếu tố rất quan trọng đánh giá trình độ của nông dân và mức độ tiếp cận
cũng như xử lý các thông tin. Thông thường những người có trình độ học vấn cao
thường sẽ quan tâm nhiều hơn đến các hệ thống thông tin hơn là những người có trình
độ thấp. Những người có trình độ học vấn cao sẽ có cơ hội tiếp cận được với các
nguồn thông tin từ sách báo, đài, ti vi… và các kênh thông tin khác.

18


Đặc biệt những người có trình độ chuyên môn cao thì thường có xu hướng sản
xuất lớn theo hướng hàng hóa. Có thể họ sản xuất trang trại hoặc kinh doanh lớn.
Những người này thường có xu hướng tìm hiểu về thông tin thị trường sản phẩm của
mình hơn những người khác. Họ có điều kiện tiếp xúc về trình độ chuyên môn cùng
với thông tin thị trường mà họ tìm hiểu giúp họ có những quyết định đúng đắn trước,
trong và sau quá trình sản xuất sản phẩm.
(2) Cơ sở vật chất và điều kiện kinh tế xã hội của địa phương và gia đình.
Một địa phương có điều kiện kinh tế xã hội phát triển và hệ thống cơ sở vật chất
đầy đủ, đó là địa phương có thể cung cấp các dịch vụ như truyền thanh, bưu điện, lắp
đặt internet, xây dựng thư viện, đầu tư cho công tác khuyến nông khuyến lâm, xây
dựng đường giao thông… Một khi cơ sở hạ tầng đầy đủ thì nông dân sẽ có khả năng
cao hơn trong việc tiếp cận với hệ thống thông tin.
Điều kiện kinh tế gia đình đảm bảo, tức là gia đình có thể mua sắm các trang
thiết bị phục vụ nghe nhìn trong gia đình cũng như tiếp cận với sách báo và các nguồn

thông tin khác. Với điều kiện như thế, những người trong gia đình có điều kiện và khả
năng nhiều hơn trong tiếp cận các thông tin.
(3) Hệ thống kênh thông tin và chất lượng truyền bá thông tin thị trường cho
nông dân trong địa phương.
Nếu chính quyền địa phương quan tâm đến hệ thống thông tin cho nông dân,
trang bị đầy đủ hệ thống kênh thông tin cho nông dân thì người nông dân có khả năng
tiếp cận thông tin cao hơn. Bên cạnh đó, hệ thống thông tin cung cấp cho nông dân có
chất lượng cao, thông tin chính xác, đầy đủ và kịp thời cho nông dân thì sẽ thúc đẩy họ
tìm đến thông tin nhiều hơn, họ sẽ có khả năng tiếp cận đến dịch vụ cung cấp thông tin
cao hơn.
(4) Nhận thức của bản thân nông dân về vấn đề sản xuất và tiêu thụ nông sản.
Sản xuất là khâu cốt lõi của quá trình sản xuất, một yếu tố quan trọng đó là
nhận định của bản thân nông dân về vấn đề này. Khi nông dân cho rằng sản xuất là để
bán thì họ sẽ quan tâm nhiều hơn đến các thông tin về kỹ thuật sản xuất, thông tin về

19


đầu vào cũng như thông tin về thị trường đầu ra. Nếu nông dân sản xuất để tiêu dùng
trong gia đình thì họ ít quan tâm đến thị trường đầu ra mà chỉ quan tâm đến vấn đề
thông tin thị trường đầu vào và kỹ thông tin về kỹ thuật sản xuất. Và khi đó khả năng
tiếp cận thông tin của họ cũng bị ảnh hưởng.
Tiêu thụ là khâu quan trọng của quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, đối
với nông dân nói chung thì khâu này không đạt lợi ích tối ưu nhất. Người nông dân
thông thường sản xuất nhỏ lẻ, thường chỉ sản xuất những sản phẩm mà gia đình cần
cho tiêu dùng, nếu thừa mới đem bán. Nếu sản xuất hàng hóa thì cũng chỉ là sản xuất
theo nhau hoặc theo chỉ đạo của Hợp tác xã mà không có sự chủ động. Chính cách sản
xuất này của nông dân đã dẫn đến tình trạng tiêu thụ ồ ạt theo mùa vụ, không có người
mua, giá cả thấp, bán cho thương lái, gặp mua thì bán rất ít có hợp đồng, bị ép giá…
Chính vì vậy, việc nâng cao khả năng tiếp cận thông tin cho nông dân là việc rất quan

trọng, nó có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh của hộ nông dân.
2.1.3.4 Dịch vụ đầu vào – đầu ra
Đối với đầu vào là vật tư nông nghiệp thì một số yếu tố ảnh hưởng đến việc tiếp
cận dịch vụ vật tư nông nghiệp của hộ nông dân như:
- Hình thức thanh toán khi mua hàng: Khi được trả chậm thì hộ sẽ mua nhiều
hơn và hộ dễ dàng tiếp cận với dịch vụ hơn khi điều kiện nguồn vốn của hộ có hạn.
- Sự thuận tiện khi mua hàng: Hầu hết nông dân không có phương tiện vận
chuyển, do đó họ sẽ thường hay chọn mua ở những nơi thuận tiện, gần nhà hơn.
Đối với dịch vụ đầu ra, yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận dịch vụ đầu ra
như chất lượng sản phẩm: Trong nền kinh tế thị trường, chất lượng sản phẩm là một
trong những vũ khí cạnh tranh sắc bén, là một yếu tố góp phần vào việc khẳng định vị
trí của người sản xuất trên thị trường. Chất lượng sản phẩm tốt hộ sẽ có khả năng tiếp
cận với dịch vụ đầu ra tốt hơn.
Một yếu tố cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tiếp cận dịch vụ đầu vào – đầu
ra chính là sự hoạt động có hiệu quả hay không các của tổ chức cung cấp dịch vụ. Nếu
tổ chức này hoạt động có hiệu quả thì hộ sẽ tiếp cận dễ dàng hơn.

20


2.1.3.5 Dịch vụ cung cấp tín dụng chính thống
- Trình độ văn hóa của người nông dân là một yếu tố quan trọng tác động đến
sự tiếp cận nguồn vốn của người nông dân. Khi người nông dân có trình độ văn hóa
càng cao thì nhận thức về việc vay vốn đầu tư phát triển sản xuất và sử dụng vốn của
họ sẽ tốt hơn. Ngoài ra, các hộ có trình độ văn hóa thấp thường không tự tin, không
dám mạo hiểm đầu tư sản xuất, sợ rủi ro nên họ thường có tâm lý không dám vay vốn.
- Điều kiện kinh tế của hộ: Những hộ khá và trung bình thường hay dám vay
vốn hơn hộ nghèo, họ có giá trị tài sản lớn để thế chấp vay vốn, thậm chí họ còn vay
vốn lớn để sản xuất kinh doanh, với những hộ có điều kiện kinh tế. Người lại, với
những hộ nghèo, phần vì không có tài sản thế chấp giá trị để vay vốn, nhưng một phần

vì những hộ nghèo thường rất mặc cảm, họ thường lo vay vốn mà không làm ăn được
sẽ không trả được nợ hoặc sẽ tiêu dùng hết.
- Sự sẵn có của các tổ chức tín dụng trên địa bàn: Những nơi nào có các tổ chức
tín dụng hoạt động thì người nông dân sẽ tiếp cận được nguồn vốn nhiều hơn. Thường
những nơi sẵn có các tổ chức tín dụng thì người nông dân ở đó sẽ có điều kiện tìm hiểu
về các thủ tục để vay vốn.
- Thủ tục và phương pháp cho vay của các tổ chức tín dụng: Hộ nông dân vốn
có tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, lại bận việc đồng áng, hộ nông dân có thể không muốn
vay vốn vì họ rất sợ thủ tục rườm rà và phương pháp cho vay cứng nhắc của cán bộ tín
dụng.
- Chính sách của Nhà nước về tín dụng: Chính sách tín dụng ưu đãi, tín dụng hỗ
trợ phát triển cho các hộ nông dân thì hộ nông dân có cơ hội để vay vốn đầu tư sản
xuất kinh doanh và mở rộng quy mô sản xuất nhằm tăng thu nhập. Chính vì vậy, Nhà
nước ngày càng có những chính sách tín dụng phù hợp hơn cho người dân và đặc biệt
ưu tiên nguồn vốn cho phát triển nông nghiệp – nông thôn.
2.2 Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn tiếp cận dịch vụ công cho sản xuất nông nghiệp của hộ nông dân ở
Việt Nam:

21


Chính phủ nhận thức rõ vai trò quan trọng của nông nghiệp trong phát triển bền
vững đất nước là động lực để giảm nghèo, tăng thu nhập cho đại bộ phận người lao
động. Đặc biệt chính phủ coi chế biến nông sản và dịch vụ phi nông nghiệp ở nông
thôn là phương tiện để đạt mục tiêu phát triển dài hạn. Chính vì thế, việc đầu tư cung
cấp các dịch vụ công luôn được Nhà nước quan tâm.
* Đối với dịch vụ khuyến nông
Ngày 2/3/1993, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 13/CP-NĐ về khuyến
nông, khuyến nông Việt Nam chính thức được thành lập. Để đáp ứng đầy đủ và kịp

thời những yêu cầu phong phú và đa dạng của người dân và cộng đồng, đặc biệt trong
điều kiện nền nông nghiệp nước ta bước vào hội nhập với thế giới, ngày 26/4/2005,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 56/2005/NĐ-CP về công tác khuyến nông,
khuyến ngư nhằm thay thế NĐ 13/CP. (Chính phủ, 2005, Nghị định số 56/2005/NĐCP về công tác khuyến nông, khuyến ngư).
Tính đến cuối năm 2007, 64 tỉnh thành trong cả nước đã có Trung tâm khuyến
nông tỉnh, có 400 trạm khuyến nông huyện. Toàn quốc có 25228 cán bộ khuyến nông
và khuyến nông viên, trong đó cấp trung ương có 43 người, cấp tỉnh có 1414 người,
cấp huyện có 3176 người và cấp xã có 20595 người. Bình quân khoảng 530 hộ nông
dân có 1 khuyến nông viên. Tỷ lệ này được cải thiện so với các năm trước, tuy nhiên
vẫn chưa đáp ứng nhu cầu của người dân, đặc biệt tại những nơi địa hình phức tạp,
vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. (Trung tâm khuyến nông, khuyến ngư
quốc gia, 2008, Báo cáo tổng kết công tác khuyến nông khuyến ngư năm 2007 và định
hướng khuyến nông khuyến ngư 2008, Hà Nội).
* Đối với dịch vụ thủy lợi
Nước là yếu tố thiết yếu đối với phát triển và xóa đói, giảm nghèo. Khả năng
tiếp cận với nguồn nước tưới là nhu cầu căn bản và trọng tâm phát triển của ngành
nông nghiệp. Nông nghiệp là ngành sử dụng nước nhiều nhất, chiếm hơn 70% lượng
nước của các hồ chứa, kênh rạch và từ nguồn nước ngầm trên thế giới. Trong khi đó,
60% lượng nước này bị sử dụng không hiệu quả. Tính trung bình, để sản xuất 1 tấn

22


gạo cần tới 1.000 tấn nước. Do tình trạng thiếu nước, đến năm 2030, sẽ có tới 45 triệu
ha canh tác sẽ không đủ nước tưới.
Ðể giải quyết thách thức trên, các chuyên gia kinh tế kêu gọi tăng cường các kỹ
thuật tưới tiêu hợp lý hơn và hiệu quả hơn. Ngoài ra, việc canh tác các loại cây trồng
có sức đề kháng cao với khô hạn và nước mặn có thể hạn chế được việc sử dụng nước.
Nâng cấp và hiện đại hóa hệ thống phân phối nước sẽ giảm khối lượng nước thất thoát
trong quá trình tưới tiêu. Một trong những giải pháp đối phó khan hiếm nguồn nước là

áp dụng các biện pháp kỹ thuật như thu nước mưa, giảm lượng nước lãng phí trong
tưới tiêu, tăng hiệu suất sử dụng nước, thay đổi mùa vụ và chế độ tưới.
Theo cảnh báo của WWAP (chương trình đánh giá nguồn nước toàn cầu), hầu
hết các con sông lớn trên thế giới hiện nay đều nằm trong tình trạng ô nhiễm. Tới năm
2020, lượng nước trung bình được cung cấp cho mỗi người dân trên thế giới sẽ chỉ
bằng một phần ba so với hiện nay. Mục tiêu giảm một nửa số người nghèo cùng cực
trên toàn thế giới khó có thể đạt được trước năm 2030 bởi những ước tính trước kia về
sản lượng lương thực không đạt được do thiếu nước tưới tiêu. LHQ cho biết, cuộc
khủng hoảng nước của thế giới nghiêm trọng tới mức có thể phải mất 30 năm để xóa
đói nghèo.
Tại hội nghị thường niên Ban điều hành Chương trình Nghiên cứu Lúa có tưới
tổ chức tại Hà Nội tháng 10/2007, khan hiếm nước là vấn đề chính được thảo luận và
đang trở thành vấn đề quan tâm trên toàn cầu. Cùng với sự gia tăng về dân số và cạnh
tranh về nhu cầu từ ngành nông nghiệp và những khu vực thành thị, nước nhanh chóng
trở thành nguồn tài nguyên bị hạn chế. Vấn đề này càng bị làm tồi tệ thêm bởi khí hậu
bất thường và chất lượng nước giảm sút. Dự báo đến năm 2025, 2/3 thế giới sẽ nếm
trải sự khan hiếm nước. Theo nghiên cứu của Bas Bouman và T.P.Tuong, những nhà
nghiên cứu nguồn nước của Viện nghiên cứu lúa gạo thế giới (IRRI), 90% nước sạch ở
Châu Á được sử dụng cho những vùng đất cần tưới tiêu. Nếu dự báo này đúng, sản
xuất lương thực ở Châu Á sẽ bị tổn thương nghiêm trọng.

23


Ở Ấn Độ, những dấu hiệu khan hiếm nước thể hiện rất rõ trong những vùng
nông nghiệp. Đối với người nông dân Ấn Độ, lúa gạo là loại cây trồng kinh tế cao, đặc
biệt là giống lúa thơm. Họ mong chờ phương pháp trồng trọt có thể giảm những chi
phí bơm tưới và nhu cầu tưới tiêu. Điều quan trọng với họ là giảm chi phí sản xuất và
tăng lợi nhuận mùa màng. Ấn Độ đã áp dụng phương pháp canh tác theo hệ thống lúa
tiểu vùng đồi xen kẽ (hệ thống lúa trên cạn). Đây là hệ thống gieo trồng lúa sử dụng

các giống lúa có thể tăng trưởng mà không cần có nước (giống như lúa vùng cao),
nhưng có thể cho năng suất chỉ thấp hơn 20 – 30% so với hệ thống canh tác lúa ở vùng
đất thấp (loại lúa tăng trưởng cần có nước). Với phương pháp quản lý tốt, năng suất và
sự bền vững của hệ thống lúa trên cạn sẽ được đảm bảo phát triển.
* Đối với dịch vụ thông tin
Năm 2007, việc nghiên cứu của Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông
nghiệp Nông thôn đã đưa ra một kết quả đáng quan tâm đó là : đa số bà con nông dân
ít tiếp cận thông tin về báo chí mà chủ yếu là thông qua kênh truyền hình, truyền
thanh. Điều này có thể do đặc thù địa lý của từng vùng tạo ra những khó khăn cho việc
tiếp cận. Năm 2009, theo khảo sát của Viện về nhu cầu thông tin nông nghiệp nông
thôn của bà con cho thấy mức cầu là rất lớn nhưng mức cung lại chưa đáp ứng kịp
thời.
Mô hình Trung tâm thông tin nông thôn ở huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa đã và
đang phát huy tính năng, tác dụng và từng bước được nhân rộng. Qua hai năm hoạt
động có 1.068 lượt người đến trung tâm khai thác thông tin về chính sách pháp luật, kỹ
thuật trồng trọt, chăn nuôi, giá vật tư, nguyên liệu đầu vào, hoạt động thu hoạch, chế
biến nông sản. Trung tâm còn tổ chức các lớp tập huấn, hội nghị đầu bờ chuyển giao
tiến bộ khoa học - kỹ thuật cho hơn 1.300 lượt người, hỗ trợ nhân rộng nhóm cùng sở
thích đồng thời xây dựng cơ chế thỏa thuận, hợp tác với các cơ quan, ban ngành các
cấp về xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung và phổ biến thông tin. Hoạt động của Trung
tâm thông tin nông thôn đã góp phần nâng cao trình độ nhận thức, kỹ năng thực hành

24


cho nông dân nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng đất đai, nhân, vật lực ở địa phương,
tăng thu nhập cho người lao động.
* Đối với dịch vụ cung cấp tín dụng chính thống
Hơn 80% dân số Việt Nam sống ở khu vực nông thôn với nguồn sống chính
dựa vào các hoạt động nông nghiệp. Sau 20 năm đổi mới, nền kinh tế đã có những

thành công đáng ghi nhận. Nhờ sản xuất phát triển và thu nhập tăng, nhiều hộ đã có
tích lũy tuy còn rất nhỏ. Tính trung bình mỗi hộ nông dân tích lũy được 3.2 triệu
đồng/năm, tính chung cho toàn nông thôn (Đặng Kim Sơn, 2005). Đây là nội lực hết
sức quan trọng để nông dân đổi mới trang bị và áp dụng công nghệ, chuyển đổi cơ cấu
sản xuất. Tuy nhiên nguồn lực cho sản xuất của hộ còn rất hạn hẹp, bình quân cả nước
mỗi hộ chỉ có 0.49ha đất canh tác chia thành 6-7 mảnh khác nhau, vốn cho sản xuất rất
thiếu. Khoảng 90% số hộ có nhu cầu vay vốn để đầu tư chiều sâu. Trước tình hình đó,
chính phủ đã có nhiều chính sách nhằm tăng tiếp cận đến tín dụng của hộ tuy nhiên
vẫn tồn tại một bộ phận lớn nông dân thiếu vốn. Hệ thống các tổ chức TDCT ở nông
thôn vẫn không đáp ứng được nhu cầu tín dụng ngày càng tăng của hộ, nhiều hộ tìm
đến các nguồn tín dụng không chính thức để mở rộng sản xuất và trang trải các chi tiêu
vào những thời điểm khó khăn. Kết quả điều tra mức sống dân cư năm 1993, chỉ có
26% tổng số khoản vay của các hộ nông dân đến từ nguồn TDCT còn lai là tới 73%
tổng số khoản vay của các hộ nông dân đến từ nguồn không chính thức (Trần Thọ Đạt,
2001). Nghiên cứu của Barslund và Tarp (2007) cũng chỉ ra rằng hiện tượng hạn mức
tín dụng bởi các tổ chức TDCT vẫn tồn tại phổ biến ở nông thôn Việt Nam và người
nông dân vẫn tiếp tục phụ thuộc vào mạng lưới tín dụng không chính thức. Nghiên cứu
của Phương, Dương và Baliswain (2008) cũng cho thấy hiện nay nông dân rất cần vay
vốn để mở rộng sản xuất. Nghiên cứu chỉ ra sự tồn tại của vấn đề cần vay nhưng
không dám xin vay của nông dân. Tình trạng này xuất hiện ở cả 3 nhóm hộ nhưng phổ
biến nhất là ở nhóm nghèo. Những hộ hoàn toàn bị từ chối vay từ NHNN&PTNT cũng
không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải vay trên thị trường tín dụng không
chính thức để chi đầu tư cho sản xuất ở những thời điểm mang tính quyết định và tiêu

25


×