Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

THƠ CA DÂN TỘC HMÔNG - TỪ TRUYỀN THỐNG ĐẾN HIỆN ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.17 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

NGUYỄN KIẾN THỌ

THƠ CA DÂN TỘC HMÔNG - TỪ TRUYỀN THỐNG
ĐẾN HIỆN ĐẠI

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 62.22.34.01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Thị Việt Trung

THÁI NGUYÊN, NĂM 2012


CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI:
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Trần Thị Việt Trung
Phản biện 1: ...................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................

Phản biện 2: ...................................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................................

Luận án sẽ được bảo vệ trước hội đồng chấm luận án họp tại:
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên


……….

ngày…….. tháng ………. năm 2012

Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án
1.1. Trong bức tranh toàn cảnh của văn học các dân tộc thiểu số
Việt Nam, dù chỉ chiếm một vị trí khiêm tốn, vẫn phải thừa nhận rằng,
dân tộc Hmông (Hmôngz) có một kho tàng thơ ca phong phú và độc
đáo, là sản phẩm tinh thần của một dân tộc được nuôi dưỡng và phát
triển trong một nền văn hoá giàu truyền thống và bản sắc. Nghiên cứu
thơ ca Việt Nam nói chung, thơ ca các dân tộc thiểu số nói riêng không
thể không nghiên cứu thơ ca dân tộc Hmông - với tư cách là một bộ
phận hợp thành nền thơ ca các dân tộc thiểu số, góp phần tạo nên sự
phong phú và đa dạng của thơ ca các dân tộc Việt Nam.
1.2. Từ trước đến nay, hướng nghiên cứu về dân tộc Hmông,
chủ yếu mới chỉ được tiếp cận dưới các góc độ văn hoá học, dân tộc
học, ngoại trừ một số công trình sưu tầm và giới thiệu thơ ca Hmông
của một số nhà khoa học, nhà nghiên cứu, sưu tầm văn học dân gian.
Nghiên cứu thơ ca Hmông nhằm dựng lại diện mạo, chỉ ra những đặc
điểm nổi bật (về nội dung và nghệ thuật) với những nét đặc sắc riêng;
khẳng định được những đóng góp- dù là khiêm tốn- của thơ ca Hmông
đối với nền thơ ca các dân tộc thiểu số cũng như nền thơ ca Việt Nam, là
một việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa, góp phần gìn giữ và phát
huy những nét đẹp của bản sắc văn hoá dân tộc trong đời sống thơ ca ở
một quốc gia có nhiều dân tộc thiểu số như Việt Nam.

1.3. Nghiên cứu thơ ca dân tộc Hmông một cách hệ thống và
toàn diện là một đóng góp đáng kể phục vụ cho công tác giảng dạy,
học tập và nghiên cứu thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam trong các
trường phổ thông, các trường đại học, cao đẳng... Đặc biệt là đối với
Đại học Thái Nguyên - chiếc nôi đào tạo ra những thầy cô giáo,
1


những nhà khoa học, những nhà nghiên cứu là con em các dân tộc
trên địa bàn, trong đó có con em đồng bào dân tộc Hmông; góp phần
rèn luyện lòng tự tôn, tự hào dân tộc để gìn giữ và bảo lưu các giá trị
văn hoá truyền thống trong bối cảnh đất nước ta đang trên con đường
hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ và sâu sắc.
Từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn Thơ ca dân tộc
Hmông- từ truyền thống đến hiện đại làm đề tài nghiên cứu cho
luận án của mình.
2. Lịch sử vấn đề
2.1.Từ vấn đề nghiên cứu thơ ca Hmông truyền thống...
Việc sưu tầm, nghiên cứu chuyên biệt về văn học dân tộc
Hmông cho tới nay cũng đã đạt được một số kết quả nhất định. Có
thể coi Doãn Thanh là một trong những người đầu tiên có công trong
việc sưu tầm và biên dịch dân ca Hmông. Năm 1967, Nhà xuất bản
Văn học in tập Dân ca Mèo (Lào Cai) của Doãn Thanh. cuốn sách đã
tập hợp được hầu hết các bài dân ca tiêu biểu nhất và phổ biến nhất
của người Mèo, sắp xếp một cách hệ thống theo 4 chủ đề chính bao
gồm: Tiếng hát mồ côi (gầu tú giua), tiếng hát làm dâu (gầu ua
nhéng), tiếng hát tình yêu (gầu plềnh), tiếng hát cúng ma (gầu tuờ).
Năm 1984, cuốn sách nói trên được tái bản với tên gọi Dân ca
Hmông cho đúng với tên gọi mới của người Mèo được Nhà nước qui
định. Cuốn sách do Hoàng Thao tuyển, chỉnh lý. Ngoài phần chính

của Doãn Thanh dịch, tác giả biên soạn có đưa thêm hai bài gồm
Tiếng hát mồ côi do Lê Trung Vũ sưu tầm ở Mèo Vạc (Hà Tuyên) và
Tiếng hát làm dâu (Tây Bắc) do Mạc Phi và Bùi Lạc sưu tầm, trích
dịch. Đặc biệt, nhà thơ Chế Lan Viên viết lời giới thiệu với một sự
trân trọng và ưu ái sâu sắc đối với những bài dân ca- tâm hồn và
2


tiếng hát Hmông. Từ năm 1995 đến 2003, nhà thơ, nhà sưu tầm văn
học dân gian Hùng Đình Quí đã sưu tập và dịch 3 tập "Dân ca
Hmông Hà Giang". Năm 2004, Hội Văn học Nghệ thuật Lào Cai,
Nhà xuất bản Văn hoá Dân tộc cho in cuốn "Tang ca- Kruôzcê của
người Mông Lềnh ở Sa pa" do tác giả Giàng Seo Gà sưu tầm và biên
soạn. Đây không chỉ là một công trình sưu tầm một cách công phu và
cẩn trọng mà còn là một công trình nghiên cứu về tang ca của người
Hmông rất đáng ghi nhận, bởi ngoài việc ghi lại đầy đủ 31 bài tang
ca (Kruôz cê), tác giả còn đi sâu khảo sát và so sánh nội dung bài
tang ca được phổ biến trong các ngành Hmông khác nhau ở Sa Pa
như Hmông Lềnh, Hmông Trắng, Hmông Đen, đồng thời bước đầu
có những nhận xét, lý giải về một vài khác biệt về mặt văn bản trong
các bài Tang ca được sử dụng ở từng ngành Hmông.
Theo khảo sát bước đầu của chúng tôi, cho đến nay, hướng
nghiên cứu, tiếp cận dân tộc Hmông dưới góc độ văn hoá học, dân
tộc học, ngôn ngữ học...đã được quan tâm và có nhiều thành tựu
đáng ghi nhận. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này là những công
trình, bài viết của các tác giả, các nhà nghiên cứu như Trần Quốc
Vượng, Đặng Nghiêm Vạn, Lê Trung Vũ, Cư Hoà Vần, Trần Hữu
Sơn, Đỗ Đức Lợi, Trần Trí Dõi, Vũ Anh Tuấn, Nguyễn Thị Bích Hà,
Nguyễn Thị Ngân Hoa v.v. Nhìn chung, cho đến nay dân ca Hmông
đã được xem xét, nghiên cứu một cách khá toàn diện. Có thể kể tên

một số các công trình, bài viết tiêu biểu như: "Tiếng hát làm dâu, tiếng
hát yêu thương, tiếng hát căm hờn, ngàn đời của người phụ nữ Mèo"
của Tô Hoài (Tạp chí Văn học, số 2 năm 1965), "Tâm hồn và tiếng hát
Hmông" của Chế Lan Viên (Lời giới thiệu cuốn Dân ca Hmông, Nxb
Văn học, 1984). Một số đề tài luận văn thạc sĩ về thơ ca dân gian
3


Hmông đã được bảo vệ thành công tại trường đại học Sư phạm, Đại học
Quốc gia Hà Nội như: "Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện thơ
Hmông về đề tài tình yêu "của Nguyễn Thị Thu Yến, "Thơ ca dân gian
Hmông" của Hùng Thị Hà (2003), "Dân ca giao duyên và lễ hội Gầu
tào của dân tộc Mông" của Nguyễn Văn Tiệp (2003), Khảo sát nghi lễ
cúng ma dân tộc Hmông" của Hoàng Thị Thuỷ (2004), "Giải mã biểu
tượng lanh trong dân ca Hmông" của Đặng Thị Oanh (2006)...
Những công trình nghiên cứu nói trên là những gợi ý và định
hướng quan trọng cho tác giả luận án trong việc tiếp cận, nghiên cứu văn
học dân tộc Hmông, nhất là thơ ca Hmông từ truyền thống đến hiện đại.
2.2. Đến vấn đề nghiên cứu thơ ca Hmông thời kì hiện đại
Nếu như việc sưu tầm và nghiên cứu thơ ca dân gian Hmông
đã có được một số thành tựu đáng kể thì việc nghiên cứu về thơ ca
hiện đại dân tộc Hmông, vẫn còn hết sức khiêm tốn, nhỏ lẻ và tản
mạn. Về phương diện này, có thể coi Minh Khương (1920-2001) là
một trong những người có công đầu trong việc đưa thơ ca Hmông
thời kỳ hiện đại đến với bạn đọc cả nước. Năm 1977, cuốn Mặt trời
hoa mây (Luz hnuz păngx huôz) được Ty Văn hoá Hoàng Liên Sơn
xuất bản, giới thiệu thơ của 18 tác giả với 26 bài thơ, trong đó có 17
bài thơ của 11 tác giả dân tộc Hmông (do Minh Khương dịch ra tiếng
Phổ thông). Đây là những sáng tác phản ánh tình cảm chân thành biết
ơn Đảng, biết ơn lãnh tụ. Ca ngợi tinh thần dũng cảm, khắc phục khó

khăn gian khổ trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước bảo vệ tổ quốc,
bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Ca ngợi thành tích chiến thắng, thành tích
trong sản xuất và trong nếp sống văn hoá xã hội chủ nghĩa tốt đẹp mà
nhân dân ta đã giành được. Từ những năm 90 của thế kỉ XX trở lại
đây, việc nghiên cứu về văn học các dân tộc thiểu số nói chung ngày
4


càng được quan tâm và tiến hành trên một bình diện rộng, với một
qui mô lớn. Tuy nhiên, có thể do thơ ca Hmông thời kì hiện đại còn
hết sức khiêm tốn, chưa có những tác giả thật sự có được tên tuổi nổi
bật như thơ ca của một số dân tộc khác (Tày, Thái, Mường, Chăm...)
nên hầu như không có những bài nghiên cứu, phê bình viết riêng về
các tác giả Hmông cũng như thơ ca Hmông. Theo khảo sát của
chúng tôi, hiện nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên
cứu về văn học dân tộc Hmông nói chung, thơ ca Hmông nói riêng
với tư cách là một đối tượng nghiên cứu chuyên biệt (ngoài luận văn
thạc sĩ với đề tài: "Một số đặc điểm của thơ ca Hmông thời kì hiện
đại (từ cách mạng tháng Tám 1945 đến nay)" của chính tác giả luận
án, đã được bảo vệ thành công năm 2008).
Qua việc khảo sát lịch sử vấn đề nghiên cứu thơ ca dân tộc
Hmông từ truyền thống đến hiện đại, chúng tôi bước đầu đưa ra một
số nhận xét như sau:
Thứ nhất, về tình hình nghiên cứu thơ ca dân tộc Hmông: Cho
đến nay, chúng tôi thấy rằng, chủ yếu các nhà nghiên cứu, sưu tầm
mới tập trung sự chú ý vào mảng thơ ca dân gian Hmông, đặc biệt là
mảng dân ca Hmông, còn mảng thơ ca Hmông thời kì hiện đại chưa
thực sự được quan tâm, (ngoài một số công trình, bài viết của chính
tác giả luận án).
Thứ hai, hướng tiếp cận chủ yếu và thành công nhất của các

tác giả, cho đến nay, vẫn là hướng tiếp cận dưới góc độ văn hoá (cụ
thể là giải mã các biểu tượng văn hoá trong đời sống văn hoá, nghệ
thuật của dân tộc Hmông).
Thứ ba, nghiên cứu về thơ ca dân tộc Hmông, theo khảo sát
của chúng tôi, mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu đặc điểm thơ ca
dân gian hoặc thơ ca hiện đại một cách riêng biệt, chưa có một công
5


trình nào tập trung nghiên cứu về thơ ca dân tộc Hmông một cách
qui mô, hệ thống từ dân gian đến hiện đại, nhằm chỉ ra các đặc điểm
nổi bật mang tính bản sắc của dân tộc Hmông; đồng thời chỉ ra được
quá trình hình thành và phát triển, tiếp biến của thơ ca Hmông trong
suốt chiều dài lịch sử. Đó chính là tính truyền thống và hiện đại như
một nét đặc trưng và đặc sắc của dân tộc Hmông được thể hiện một
cách sinh động qua thơ ca.
Việc nghiên cứu về thơ ca dân tộc Hmông một cách toàn diện,
quy mô, hệ thống và đặt trong sự vận động từ truyền thống đến hiện đại
chưa được giới nghiên cứu quan tâm đã tạo ra một khoảng trống trong
việc nhìn nhận, xem xét, đánh giá về những thành tựu và hạn chế của
thơ ca dân tộc Hmông trong nền thơ ca các dân tộc thiểu số, cũng như
nền thơ Việt Nam. Chúng tôi cho rằng, việc triển khai thực hiện luận án:
Thơ ca dân tộc Hmông- từ truyền thống đến hiện đại là một nỗ lực để
lấp đầy (hoặc thu hẹp lại) khoảng trống đó. Thiết nghĩ, đó là một công
việc cần thiết, hữu ích cho nghiên cứu văn học, đặc biệt là văn học các
dân tộc thiểu số Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Triển khai thực hiện đề tài luận án: Thơ ca dân tộc Hmông- Từ
truyền thống đến hiện đại, chúng tôi lựa chọn cách tiếp cận nghiên

cứu thơ ca Hmông trong quá trình vận động và phát triển từ thơ ca
dân gian đến thơ ca hiện đại, trên hai phương diện chủ yếu là nội
dung phản ánh và cấu trúc nghệ thuật.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu thơ qua Hmông từ truyền thống đến
hiện đại qua các văn bản sau:
* Thơ ca dân gian:
- Dân ca Mèo (Lào Cai), Doãn Thanh, Nxb Văn học, Hà Nội, 1967
6


- Dân ca Hmông, Doãn Thanh, Hoàng Thao, Nxb Văn học,
Hà Nội, 1984.
-Dân ca Mông Hà Giang, tập 1,2,3, Hùng Đình Quí, Sở Văn
hoá Thông tin Hà Giang (2000,2001,2003)
* Thơ ca hiện đại: Các tập thơ của Hùng Đình Quí, Mã A Lềnh,
Mùa A Sấu, Hờ A Di...và thơ của một số tác giả người Hmông được công
bố trên báo chí hoặc trong các tuyển tập thơ từ trước tới nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi sẽ sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu cơ bản như sau:
- Phương pháp thống kê, phân loại
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp nghiên cứu loại hình
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành (văn hoá, dân tộc học...)
5. Đóng góp khoa học của luận án
5.1. Luận án nghiên cứu thơ ca dân tộc Hmông từ truyền
thống đến hiện đại thông qua việc khảo sát thơ ca Hmông một cách
tổng thể và toàn diện, nhằm tìm hiểu và đánh giá những nét đặc trưng

mang tính bản sắc trong thơ ca dân tộc Hmông, từ thơ ca dân gian (truyền
thống) đến thơ ca hiện đại.
5.2. Qua việc nghiên cứu một số phương diện nội dung và
nghệ thuật của thơ ca dân tộc Hmông, luận án làm nổi bật quá trình
vận động và phát triển, sự kế thừa và tiếp biến của thơ ca Hmông từ
truyền thống đến hiện đại.
5.3. Bằng việc đánh giá thực trạng và đưa ra một số ý kiến,
kiến nghị, luận án sẽ góp một tiếng nói vào việc bảo tồn, gìn giữ,
7


phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Hmông với tư cách là một thành tố
tạo nên sự thống nhất, phong phú và đa dạng của văn hoá các dân tộc
Việt Nam. Đặc biệt là trong bối cảnh đất nước ta đang trên con
đường hội nhập quốc tế ngày càng sâu sắc.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục,
nội dung chính của luận án được triển khai thành 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về dân tộc Hmông
Chương 2: Quá trình vận động của thơ ca Hmông nhìn từ
phương diện nội dung phản ánh
Chương 3: Quá trình vận động của thơ ca Hmông nhìn từ
phương diện cấu trúc nghệ thuật
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC HMÔNG
1.1. Lịch sử tộc người - những cuộc thiên di đầy nước mắt và máu
Dân tộc Hmông (còn có các tên gọi khác như Na Mẻo, Mèo,
Mẹo, Miếu Ha, Mán Trắng), là một dân tộc có số dân tương đối đông
(trên 9 triệu người), cư trú ở nhiều nước khác nhau trên thế giới. Ở

Trung Quốc, người Hmông được gọi là người Miêu, ở Lào gọi là
người Mẹo. Ngoài ra, ở hầu hết các nước khác trên thế giới, họ đều
được gọi là người Hmông. Ở nước ta, trước năm 1979, họ được gọi
là người Mèo.
Cho đến nay, đa số giới nghiên cứu về người Hmông đều tán thành
quan điểm cho rằng, người Hmông đã tồn tại ở lưu vực sông Hoàng Hà
cách đây hơn 3000 năm. Điều này đã được khẳng định tại Hội nghị quốc
tế lần thứ nhất về người Hmong/ Miao ở Châu Á được tổ chức tại thành
phố Aixen Provence nước Cộng hoà Pháp (tháng 9 năm 1998).
8


Theo truyền thuyết và những cứ liệu lịch sử, người Hmông đã
từng có một quốc gia riêng.Tuy nhiên, họ là một dân tộc có ý thức tự
cường mạnh mẽ, không bao giờ chịu khuất phục trước sức mạnh của
các thế lực tàn bạo.Bởi vậy, họ đã không ngừng nổi dậy đấu tranh
chống sự áp bức, đô hộ của người Hán, người Mãn. Các cuộc đấu
tranh này bị dìm trong biển máu. Người Hmông đến Việt Nam chủ
yếu là do trốn chạy khỏi sự truy sát, huỷ diệt. Lịch sử của người
Hmông trước khi đến Việt Nam là lịch sử của những cuộc thiên di
đầy nước mắt và máu.
1.2. Kinh tê nương rẫy và tập quán du canh
Kinh tế nương rẫy gắn liền với tập quán du canh du cư là nét
đặc trưng của người Hmông. Nó làm cho mỗi gia đình người Hmông
trở thành một đơn vị kinh tế độc lập. Họ trực tiếp làm ra mọi thứ
thiết yếu để phục vụ cuộc sống. Người Hmông nổi tiếng với các nghề
thủ công như: đan lát, xe lanh dệt vải, in hoa văn bằng sáp ong, đúc,
rèn...Các sản phẩm thủ công của người Hmông vừa có tính kỹ thuật
cao, vừa độc đáo và rất đặc sắc bởi tính nhân văn và bản sắc văn hoá
đậm đà của dân tộc Hmông.

Kinh tế của người Hmông hoàn toàn không có tính cộng đồng,
càng không phải là nền tảng cho sự cố kết và thống nhất. Đó là một trở
ngại rất lớn cho sự phát triển kinh tế của dân tộc này trong bối cảnh
nền kinh tế trong nước và thế giới đang trong công cuộc hội nhập ngày
càng mạnh mẽ và sâu sắc.
1.3. Đời sống văn hóa- "Tâm hòn và tiếng hát Hmông"
1.3.1. Nhà ở- nét độc đáo trong kiến trúc của người Hmông
Người Hmông thường ở nhà đất trình tường lợp ngói, hay nhà
gỗ lợp mái tranh phên vách. Cấu trúc chung của ngôi nhà Hmông
truyền thống gồm 3 gian, gian giữa có cửa chính nhìn về phía trước
nhà. Đây là gian tiếp khách. Vách sau của gian giữa là chỗ thiêng. Ở
9


gian bên cạnh có buồng ngủ và bếp. Đầu hồi nhà có một cửa phụ
nhưng đó mới chính là lối ra vào. Hàng ngày, người trong gia đình
chủ yếu đi lại bằng cửa này.
Nhà của người Hmông không chỉ phù hợp với điều kiện và đặc
trưng cuộc sống của họ, mà còn biểu hiện những quan niệm riêng về
tín ngưỡng của cộng đồng.
1.3.2. Trang phục- nét đặc trưng thẩm mĩ của người Hmông
Trang phục hiện diện trong đời sống hàng ngày của người
Hmông. Trang phục vừa là của cải vật chất vừa có ý nghĩa vượt qua
giá trị của vật chất thông thường để thể hiện sâu sắc những giá trị
văn hoá, xã hội của người Hmông từ trong lịch sử. Trong xã hội đầy
biến động của đời sống hiện tại, điều kiện kinh tế và sự giao lưu văn
hoá đã dẫn tới việc người Hmông dần mất đi trang phục truyền thống
của mình, nhất là trang phục của người đàn ông Hmông. Vì vậy, việc
khích lệ, động viên và tạo điều kiện thuận lợi để người Hmông giữ
lại và sử dụng trang phục cổ truyền của mình là một sự bảo lưu

những giá trị truyền thống và thể hiện bản sắc dân tộc. Cùng với các
giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể khác, trang phục của người
Hmông góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng của văn hoá các
dân tộc Việt Nam.
1.3.3. Phong tục, tập quán - cơ sở của tính cố kết cộng đồng
Người Hmông thành 5 ngành: Hmông trắng (Hmông Đơư),
HMông hoa (Hmông lềnh), Hmông đỏ (HMông si), Hmông đen
(HMông đu) và Hmông xanh (Hmông sua). Cách phân nhóm này chủ
yếu dựa vào sắc phục của người phụ nữ và sự khác nhau ít nhiều về
âm điệu, thổ ngữ.

10


Phong tục, tập quán của người Hmông rất phong phú và giàu
bản sắc, bao gồm các nghi lễ cuới xin, tang ma và các sinh hoạt cộng
đồng khác, được hình thành một phần do điều kiện sống khắc nghiệt
và được bảo lưu từ trong lịch sử, được biểu hiện rõ nét, đặc sắc và sinh
động trong cả văn học dân gian và văn học thành văn.
1.3.4. Đời sống tâm linh- nơi trú ngụ của những niềm tin tôn giáo
Người Hmông quan niệm “vạn vật hữu linh”. Tất cả sự vật
hiện tượng trong cuộc sống đều có linh hồn. Hệ thống thần bản mệnh
trong quan niệm của người Hmông rất phong phú và đa dạng.
Đời sống tâm linh đã góp phần hình thành nên những đặc
trưng tâm lí và tính cách, bản lĩnh của dân tộc Hmông.
1.3.5. Tiếng nói, chữ viết và truyền thống thơ ca
Tiếng Hmông là tiếng nói của khoảng 80 vạn người Hmông ở nước
ta. Tiếng Hmông thuộc họ Nam Á, ngữ hệ Mèo - Dao. Người Hmông
có 5 ngành, tương ứng là 5 phương ngữ. Về cơ bản, tiếng Hmông là
một ngôn ngữ thống nhất. Hiện nay, chữ viết của người Hmông trên

thế giới đã thống nhất cùng một loại. Người Hmông trên khắp thế
giới cùng thống nhất được một tiếng nói, đó là tiếng Hmông Đơ
(Hmông Trắng). Bởi người Hmông ở các nước có nền văn hoá phát
triển như Thái Lan, Mỹ, Pháp, Úc, Lào... đều là người Hmông Trắng
Người Hmông có một kho tàng thơ ca phong phú được hính thành và
không ngừng phát triển trong suốt chiều dài lịch sử. Thơ ca Hmông
là sự phản ánh trung thực đời sống và tâm hồn dân tộc Hmông từ quá
khứ đến hiện tại với những nét đặc trưng, giàu bản sắc.
Tiểu kết
Cuộc sống ở trên núi cao với những hoàn cảnh, điều kiện hết
sức khắc nghiệt đã sản sinh ra một dân tộc Hmông với đời sống kinh
tế, phong tục tập quán, đời sống xã hội, đời sống tâm linh...đầy cá
11


tính và bản sắc. Đó chính là chất men, là ngọn nguồn của cảm hứng
sáng tạo thơ ca, góp phần tạo nên một giọng điệu thơ ca nhất quán
từ thơ ca dân gian tới thơ ca hiện đại của dân tộc Hmông.
CHƯƠNG 2
QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG CỦA THƠ CA HMÔNG NHÌN TỪ
PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG PHẢN ÁNH
2.1. Giới thuyết về một số khái niệm cơ bản
2.1.1. Khái niệm "thơ ca" trong nội dung "thơ ca dân gian Hmông"
Thơ ca là một khái niệm sử dụng kết hợp cả hai thành tố Hán
và Việt. Thơ chính là âm Việt của Thi, là một "thể văn có âm vận rõ
ràng"; Ca trong âm Hán Việt có nghĩa là hát. Thơ ca chính là từ hợp
nghĩa của cả hai khái niệm thơ và ca. Trong văn học truyền thống
của dân tộc Hmông chỉ có dân ca chứ không có ca dao, bởi tất cả các
bài "có âm vận rõ ràng" được viết ra đều để hát. Cho nên, chúng tôi
nghiên cứu dân ca Hmông thực chất là nghiên cứu phần lời của các

bài ca ấy.
Thơ ca Hmông thời kì hiện đại (từ 1945 đến nay), ngoại trừ
một số bài thơ của các tác giả viết vào những năm cuối của thế kỷ
XX có sự cách tân về hình thức, còn lại, hầu như tất cả thơ dân tộc
Hmông đều có thể ca được. Trong thực tế, rất nhiều bài thơ của các
tác giả người Hmông được phổ biến tới đồng bào qua hình thức hát.
Vì vậy, ở một góc độ nào đó, có thể coi thơ dân tộc Hmông thời kì
hiện đại cũng gắn liền với ca.
2.1.2. Khái niệm" truyền thống", "hiện đại" trong nội dung"từ
truyền thống đến hiện đại"
Truyền thống và hiện đại là những từ Hán Việt. Từ điển từ
nguyên giải nghĩa (1998) của Vũ Ngọc Khánh- Nguyễn Thị Huế,
giải thích truyền thống là: "truyền từ đời này qua đời khác". Theo
12


giáo sư Nguyễn Lân trong Từ điển từ và nghĩa Hán- Việt thì truyền
thống có nghĩa là "điều truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác".
Nghiên cứu tính truyền thống và hiện đại (đúng hơn là quá
trình vận động từ truyền thống đến hiện đại) trong thơ ca Hmông là
quá trình xác định những thuộc tính phẩm chất của thơ ca Hmông
trong sự vận động, biến đổi, sự kế thừa và phát triển của nó, tức là
xác định những hệ giá trị của thơ ca Hmông trong hành trình tiệm
cận và hòa nhập vào dòng chảy của thơ ca hiện đại Việt Nam.
2.2. Thơ ca Hmông và quá trình mở rộng đề tài, gắn liền với sự
đổi thay, phát triển trong đời sống cộng đồng
2.2.1. Thiên nhiên khắc nghiệt và hùng vĩ- chiếc nôi nuôi dưỡng
tâm hồn, tính cách Hmông
Quá trình vận động và phát triển của thơ ca Hmông từ
truyền thống đến hiện đại gắn liền với việc mở rộng đề tài thiên

nhiên. Từ việc coi thiên nhiên là khung cảnh, là nền cho tâm
trạng và hành động của con người đến chỗ coi thiên nhiên là đối
tượng thẩm mĩ, cùng với đó là sự mở rộng về không gian và
điểm nhìn. Thiên nhiên đặc trưng của người Hmông góp phần
hình thành, tạo nên tâm hồn và tính cách Hmông.
2.2.2. Tình yêu và cuộc sống -những giai điệu tâm hồn mạnh
mẽ, quyết liệt
Thơ ca Hmông khắc họa con người và cuộc sống của dân tộc
Hmông trên hai phương diện: đời sống vật chất (những sinh hoạt
hàng ngày) và đời sống tinh thần (những cung bậc tình cảm). Từ đó,
bức tranh toàn cảnh về con người và cuộc sống của người Hmông
được hiện lộ một cách sinh động, đầy bản sắc.
13


2.3. Thơ ca Hmông và những mạch nguồn cảm hứng
2.3.1. Từ cảm hứng cảm thương- bi kịch...
Cảm hứng cảm thương- bi kịch trong thơ ca Hmông là sự soi
chiếu những bi kịch cay đắng nghiệt ngã của dân tộc Hmông từ trong
lịch sử. Đó là bi kịch của số phận dân tộc, số phận cộng đồng và số
phận cá nhân với tất cả những hệ luỵ của nó.
2.3.2. Đến cảm hứng trữ tình- ngợi ca
Cảm hứng trữ tình - ngợi ca không chỉ mới xuất hiện trong thơ
ca Hmông thời kì hiện đại mà đã được biểu hiện trong thơ ca dân
gian Hmông rất rõ nét. Tuy nhiên, chỉ đến sau cách mạng tháng Tám,
khi đồng bào dân tộc Hmông thoát khỏi những cảnh đời tăm tối để
xây dựng một cuộc sống mới, một tương lai mới cho dân tộc mình.
thì cảm hứng trữ tình-ngợi ca mới thực sự nổi nổi trội. Đó là khúc ca
về cuộc sống mới do Cách mạng, Đảng và Bác Hồ đem lại.
2.3.3. Cảm hứng suy tư- chiêm nghiệm với lối tư duy, diễn đạt

mang đậm bản sắc Hmông
Người Hmông là một dân tộc ưa triết lí. Ta thường thấy trong
dân ca Hmông những triết lí về cuộc đời. Sự suy nghiệm, triết lí đã
trở thành một nét tính cách của người Hmông từ truyền thống, là cơ
sở để tạo nên phức điệu cảm hứng suy tư- chiêm nghiệm trong thơ
Hmông thời kì hiện đại.
2.4. Sự vận động, phát triển của thơ ca Hmông gắn liền với quá
trình nhận thức về thế giới và con người
Người Hmông có quan niệm riêng về tự nhiên, vũ trụ theo
nhãn quan riêng của dân tộc mình, dựa trên tín ngưỡng đa thần và
một quan niệm còn đơn giản và hồn nhiên. Những quan niệm này
này đã ăn sâu vào tâm thức của người Hmông và chi phối rất nhiều
14


đến đến các nghi lễ, phong tục, trong đời sống tinh thần và đời sống
tâm linh của họ.
Tiểu kết
Với một nền văn học nói chung và thơ ca nói riêng còn hết sức
khiêm tốn, được vận động theo một cung đường thẳng từ dân gian tới
hiện đại, thơ ca Hmông mang những đặc trưng đầy bản sắc nhìn từ
phương diện nội dung phản ánh. Đó là quá trình mở rộng đề tài, chủ
đề gắn liền với sự đổi thay, phát triển trong đời sống cộng đồng. Đó
là quá trình tiếp biến của những phức điệu cảm hứng nghệ thuật. Đó
còn là sự vận động, phát triển của năng lực nhận thức và gắn với quá
trình nhận thức về thế giới và con người. Đời sống tinh thần, vật
chất, những nét bản sắc văn hóa, tâm hồn dân tộc Hmông được hiển
lộ một cách chân thực, sinh động và sâu sắc.
CHƯƠNG 3
QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG CỦA THƠ CA HMÔNG NHÌN TỪ

PHƯƠNG DIỆN CẤU TRÚC NGHỆ THUẬT
3.1. Sự vận động ở phương diện cấu trúc thể loại
3.1.1.Từ cấu trúc thể loại thơ Hmông truyền thống...
Thơ ca dân gian Hmông là sự biểu hiện đặc sắc của lối giãi bày trực
tiếp, thể hiện một nhu cầu giao tiếp và chia sẻ tình cảm. Thông qua
hai hình thức cơ bản là độc thoại và đối thoại, thơ ca dân gian
Hmông có ưu thế để biểu hiện trong những môi trường diễn xướng.
Với hình thức đối đáp, thơ ca dân gian Hmông chủ yếu sử
dụng phép đối, từ cấu trúc câu thơ đến ý thơ, lời thơ, vừa tạo ra sự
cân đối hài hoà, vừa chuyển tải những thông điệp tình cảm đẽ ghi
nhớ, khắc sâu vào lòng người, có sức lôi cuốn và ám ảnh.
15


3.1.2. Đến xu hướng đổi mới cấu trúc thể loại
Bên cạnh xu hướng kết cấu thơ chịu ảnh hưởng của thơ ca truyền
thống, thơ ca hiện đại Hmông còn mang những đặc điểm của cấu
trúc thơ hiện đại. Điều này thể hiện rất rõ trong việc sử dụng các thể
thơ, cách dồn nén câu chữ, đặc biệt là cách gieo vần, ngắt nhịp trong
các câu thơ, bài thơ.
3.2. Sự vận động ở phương diện cấu trúc câu thơ
3.2.1. Cấu trúc câu trong thơ Hmông truyền thống
Trong cấu trúc câu thơ Hmông truyền thống thường ít có sự
biến động về số lượng chữ giữa các vế câu. Yếu tố nhịp điệu được
đảm bảo bằng sự cân đối thanh điệu và hình ảnh. Câu thơ cùng một
lúc diễn tả được hai hành động, hai tâm trạng của hai nhân vật trữ
tình. Cấu trúc này chiếm vị trí khá lớn trong dân ca Hmông. Cách
ngắt nhịp trong câu thơ Hmông cũng rất linh hoạt. Nhịp trong thơ
Hmông dường như không được quyết định ở câu thơ mà là ở khổ
thơ. Hay nói cách khác, cấu trúc của khổ thơ chính là nhịp thơ được

qui định ở số chữ trong từng câu và lặp lại theo một trình tự nhất
định.
3.2.2. Cấu trúc câu thơ Hmông thời kì hiện đại.
Trong quá trình vận động và phát triển, thơ ca Hmông có xu
hướng thay đổi về phương diện cấu trúc câu thơ. Những sáng tác của
các nhà thơ Hmông thời kì hiện đại phần nào đã chú ý nhiều hơn đến
nhịp điệu của các câu thơ. Các câu thơ 5 chữ, lục bát, 7 hoặc 8 chữ với
nhịp điệu rõ ràng đã đưa thơ Hmông hướng đến những đặc trưng của
thơ hiện đại. Cùng với sự hiện diện của cấu tứ trong mỗi bài thơ,
nhịp điệu có vai trò quan trọng để chuyển tải tư tưởng nghệ thuật của
các tác giả.
16


3.3. Sự vận động của thơ ca Hmông gắn liền với việc mở rộng
thế giới hình ảnh, biểu tượng
3.3.1. Thế giới hình ảnh đặc trưng, phong phú
Quá trình mở rộng thế giới hình ảnh trong thơ Hmông thời kì
hiện đại là quá trình mở mang nhận thức, mở rộng điểm nhìn. Thế giới
hình ảnh trong thơ ca Hmông được mở rộng, vừa thể hiện nét đặc trưng,
bản sắc của người Hmông, vừa rất phong phú và sinh động.
3.3.2. Thế giới biểu tượng và việc mở rộng thế giới biểu tượng
Quá trình phát triển của thơ ca Hmông từ truyền thống đến
hiện đại gắn liền với việc mở rộng thế giới biểu tượng. Ở đó, bên
cạnh những biểu tượng mang tính truyền thống vẫn thường xuyên
xuất hiện, trong thơ ca Hmông thời kì hiện đại còn có những biểu
tượng mới phát sinh, như những đặc trưng về con người và cuộc
sống của người Hmông trong giai đoạn lịch sử mới. Sự mở rộng
phạm vi thế giới biểu tượng trong thơ ca Hmông thể hiện quá trình
nhận thức thế giới, con người và xã hội; thể hiện sự lớn lên trong đời

sống tâm hồn của dân tộc Hmông. Thế giới biểu tượng là sợi dây gắn
kết giữa truyền thống và hiện đại trong thơ ca dân tộc Hmông.
3.4. Sự vận động của cấu trúc ngôn ngữ trong thơ ca Hmông
3.4.1. Từ ảnh hưởng của ngôn ngữ thơ ca truyền thống...
Sự tiếp thu, ảnh hưởng và phát triển sáng tạo mạch thơ ca dân
gian truyền thống tạo cho thơ hiện đại dân tộc Hmông có một sắc thái
riêng và cả một sự thống nhất ở cấu trúc ngôn ngữ, ở hình thức thơ và
sự vận dụng vốn văn hoá, văn học truyền thống.
3.4.2. Đến xu hướng hiện đại và việc thể hiện cá tính sáng tạo
Trong thơ Hmông hiện đại, ngôn ngữ giao tiếp, lời ăn tiếng
nói hàng ngày của đồng bào được các tác giả đưa vào thơ một cách
17


rất nhuần nhị, tự nhiên. Cấu trúc ngôn ngữ mang tính hiện đại, góp
phần thể hiện cá tính sáng tạo của các tác giả.
Tiểu kết
Nhìn từ phương diện cấu trúc nghệ thuật, thơ ca dân tộc
Hmông mang những đặc điểm riêng, đầy bản sắc. Đó là một quá
trình vận động từ truyền thống đến hiện đại. Ở đó, có những giá trị
của thơ ca truyền thống được ổn định, bảo lưu và tiếp biến để trở
thành những giá trị đặc trưng của thơ hiện đại.
Thơ Hmông hiện đại là một thứ thơ chân mộc, giản dị. Ngôn
ngữ thơ giàu hình ảnh và nhạc điệu. Cấu trúc thơ vừa chịu ảnh hưởng
của cấu trúc thơ ca truyền thống dân tộc Hmông, vừa phát triển theo
xu hướng cấu trúc mang tính nghệ thuật của thơ hiện đại. Lối tư duy
biểu đạt vừa gần gũi với cách nghĩ, cách cảm, cách thể hiện của
người dân tộc thiểu số, vừa bộc lộ rõ đặc trưng bản sắc của dân tộc
Hmông. Các nhà thơ Hmông đã không ngừng sáng tạo, tự đổi mới
cho thơ, làm cho thơ Hmông ngày càng tiệm cận những chuẩn mực

về giá trị nghệ thuật của thơ ca đương đại.
PHẦN KẾT LUẬN
1. Thơ ca dân gian Hmông là kho tàng văn hoá đặc sắc phản
ánh chân thực và sinh động cuộc sống của dân tộc Hmông, tồn tại
như một món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống của đồng
bào. Đó vừa là cơ sở, vừa là một trong những yếu tố quyết định cho
sự hình thành và phát triển của thơ ca hiện đại Hmông.
2. Thơ ca dân tộc Hmông là một bộ phận văn hoá đặc sắc phản
ánh những phong tục tập quán, nếp cảm, nếp nghĩ, là triết lí cuộc
sống được hun đúc từ nhiều thế hệ và trở thành tài sản chung của cả
cộng đồng. Giá trị của thơ ca Hmông còn ở chỗ phản ánh trung thực
18


những tình cảm, những ước mơ lành mạnh của người lao động. Đó là
những cảm nhận về thiên nhiên, con người và cuộc sống, tình yêu
chân chính, lòng chung thuỷ, yêu thương, hạnh phúc gia đình; là các
phương thức ứng xử xã hội và một hình thức giải trí lành mạnh, hấp
dẫn. Từ thơ ca dân tộc Hmông, người đọc có thể nhận thức khá đầy
đủ về đời sống xã hội, đời sống tình cảm, sự gắn bó đoàn kết cộng
đồng của người Hmông.
3.Thơ ca dân tộc Hmông không chỉ phong phú về nội dung
phản ánh mà còn khá đặc sắc về phương diện cấu trúc nghệ thuật.
Đặc biệt là cấu trúc thể thơ với những qui luật đặc thù tạo nên nét
riêng độc đáo của thơ ca dân gian Hmông và ảnh hưởng sâu sắc
tới thơ Hmông thời kì hiện đại. Cấu trúc câu thơ Hmông có sự vận
động, biến đổi, kế thừa và tiếp biến từ truyền thống, làm cho câu
thơ Hmông ngày càng mang những dấu ấn đặc trưng của thơ hiện
đại. Cách sử dụng những từ ngữ, hình ảnh chân mộc, giản dị; thế
giới biểu tượng phong phú, độc đáo; sự tiếp thu và vận dụng sáng

tạo ngôn ngữ, hình ảnh của thơ ca truyền thống cùng với xu
hướng tìm tòi, khám phá, thể nghiệm, cách tân trong tư duy và
biểu hiện, tạo cho thơ Hmông vừa mang đậm cốt cách truyền
thống, vừa có được những đặc trưng nghệ thuật của thơ hiện đại,
tiệm cận và bước đầu bắt nhịp, chan hoà vào dòng chảy chung của
đời sống thơ ca đương đại.
4.Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu tất đáng trân trọng được
tạo nên từ bản sắc, cá tính, trên cả hai phương diện là nội dung và
nghệ thuật, thơ ca Hmông vẫn còn bộc lộ một số những hạn chế nhất
định: Đó là đội ngũ sáng tác còn mỏng và không đồng đều; nội dung
phản ánh còn chưa thật sự phong phú và toàn diện; những phong tục
19


tập quán, đời sống tinh thần, đời sống tâm linh... của dân tộc Hmông
chưa được chuyển tải vào thơ ca như sự phong phú và thi vị vốn có
của nó; những sinh hoạt cộng đồng mang đậm nét bản sắc dân tộc
chưa được các nhà thơ quan tâm đề cập đúng mức. Mặt khác, tư duy
nghệ thuật trong thơ ca dân tộc Hmông thời kỳ hiện đại còn chịu ảnh
hưởng nặng nề của thơ ca truyền thống; chưa định hình được phong
cách, cá tính của các nhà thơ một cách rõ rệt; chưa có được những tác
phẩm thật sự có giá trị đối với thơ ca dân tộc thiểu số nói riêng cũng
như thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung.
5.Quá trình vận động từ truyền thống tới hiện đại trong thơ ca
của các dân tộc thiểu số nói chung là một quá trình mang tính qui luật,
biểu hiện một cách sinh động đời sống văn hóa, tâm hồn của các dân
tộc thiểu số trong sự vươn lên, tiến tới đời sống ngày càng no ấm, hạnh
phúc, loại bỏ dần nhửng hủ tục, phát huy những yếu tố tích cực để làm
giàu cho văn hóa dân tộc thông qua sự kế thừa, tiếp biến và giao lưu,
hội nhập trong nước và quốc tế ngày càng sâu sắc. Tuy nhiên, chúng

tôi nhận thấy rằng, qui luật và thực trạng đó không làm mờ nhòe đi
những đặc trưng bản sắc của thơ ca dân tộc Hmông, trái lại, nó làm
cho thơ ca Hmông ngày càng trở nên phong phú, vừa không phai mờ
những đặc trưng truyền thống, vừa mang những dấu ấn khá rõ của thơ
hiện đại. Nó góp phần quan trọng vào việc thể hiện, tạo nên bản sắc
dân tộc trong thơ ca các dân tộc thiểu số nói riêng và thơ ca Việt Nam
nói chung. Mặt khác, trong quá trình nghiên cứu, triển khai luận án,
cũng gợi mở cho chúng tôi nhiều những vấn đề cần đi sâu nghiên cứu,
nhiều hướng tiếp cận thơ ca Hmông hứa hẹn sẽ có được những kết quả
thú vị. Tất nhiên, để làm được điều đó cũng cần sự công phu và tâm
huyết nhiều hơn của những nhà nghiên cứu. Hy vọng những năm tới
20


đây, những giá trị thơ Hmông sẽ tiếp tục được khai thác và ngày càng
hiển lộ rõ hơn những giá trị vừa độc đáo, vừa đặc sắc của thơ ca
Hmông trong nguồn mạnh văn hóa rất đặc trưng của dân tộc này
Từ việc chỉ ra những đặc trưng và tính thống nhất trong
thơ ca dân tộc Hmông từ truyền thống đến hiện đại, dưới góc độ
của người nghiên cứu, quan tâm và trân trọng đến sự bảo lưu và
phát triển những giá trị thơ ca của dân tộc Hmông và cả những
trăn trở về tương lai thơ ca của dân tộc này, chúng tôi mạnh dạn
đưa ra ý kiến, kiến nghị của cá nhân về việc giữ gìn và phát huy
các giá trị của thơ ca Hmông nói riêng và bản sắc văn hoá
Hmông nói chung:
Một là: Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập Quốc tế đang diễn ra
với một nhịp độ ngày càng nhanh, chi phối và làm biến đổi ngày
càng lớn đời sống vật chất và tinh thần của tất cả các dân tộc. Hiện
tượng giao thoa văn hoá, “xâm lăng” văn hoá ngày càng phổ biến cả
về chiều sâu và bề rộng. Vấn đề đặt ra đối với thơ dân tộc Hmông

hiện nay là vừa phải bắt nhịp được với đời sống thơ ca đương đại, có
những sáng tác có giá trị so với mặt bằng thơ ca chung của cả nước,
vừa phải giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống mang tính
bản sắc của dân tộc Hmông, tức là phải có được (hay đạt tới) một thứ
thơ vừa truyền thống vừa hiện đại. Trước tiên, nó phải thật sự là hoa
trong vườn hoa thơ ca của các dân tộc Việt Nam nhưng đồng thời
phải là một thứ hoa lạ, độc đáo về màu sắc và hương thơm. Tuy
nhiên, xu hướng tiếp thu cái mới, biểu hiện cái mới trong tư duy
nghệ thuật của các tác giả Hmông lại gắn liền với việc thoát ly những
giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, làm cho thơ Hmông hiện đại
có xu hướng “Kinh hoá” trong lối tư duy và biểu đạt. Để khắc phục
21


tình trạng này, theo chúng tôi, trước hết phải có những chính sách
và biện pháp nhằm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ tác giả thơ người
Hmông, nhất là giới trẻ. Quan tâm phát hiện những học sinh
người Hmông có năng khiếu để bồi dưỡng. Bên cạnh đó, các Hội
Văn học Nghệ thuật Trung ương và Địa phương cần tăng cường tổ
chức các đợt tham quan, học tập, giao lưu văn học nghệ thuật, mở
các trại sáng tác cho những văn nghệ sĩ người Hmông, khuyến
khích các tác giả người Hmông cũng như các tác giả dân tộc khác
viết về cuộc sống của người Hmông; Xuất bản và phổ biến các
sáng tác văn học nghệ thuật, sáng tác thơ ca của các tác giả
Hmông nhằm tạo điều kiện cho thơ ca Hmông đến được với độc
giả cả nước. Việc giữ gìn và phát triển triển tiếng nói và chữ viết
của dân tộc Hmông (như việc tăng cường dạy chữ Hmông, tiếng
Hmông trong các trường phổ thông vùng núi) cũng là những vấn
đề can hệ đến sự phát triển của văn hoá Hmông nói chung, của
văn học Hmông và thơ ca Hmông nói riêng.

Hai là, những năm gần đây, Đảng và nhà nước ta đã rất quan
tâm đến đời sống vật chất và nâng cao đời sống văn hoá cho đồng
bào Hmông. Tuy nhiên, theo chúng tôi, vấn đề quan trọng, cốt yếu
nhất là phải tạo dựng lại được môi trường văn hoá, không gian văn
hoá- tinh thần cho đồng bào Hmông để vừa là nơi người Hmông có
thể biểu hiện bản sắc văn hoá của dân tộc mình trong không gian đặc
trưng truyền thống, vừa là nơi nuôi dưỡng và bảo lưu những giá trị
văn hoá truyền thống vốn đang dần bị mai một. Hơn nữa, có như vậy
người Hmông mới ý thức được đầy đủ về dân tộc mình để vừa tự hào
về truyền thống, vừa làm giàu thêm truyền thống.
22


Ba là, Trong các trường đại học thuộc các khu vực miền núi,
cần thiết phải đưa vào chương trình giảng dạy những học phần về
văn học các dân tộc thiểu số theo đặc trưng vùng miền, tạo điều kiện
để sinh viên các dân tộc hiểu rõ hơn những giá trị văn hoá bản sắc
của dân tộc mình (trong đó có thơ ca dân tộc Hmông). Đồng thời,
cũng là điều kiện thuận lợi những sinh viên sau khi ra trường lên
công tác tại các vùng dân tộc miền núi có thể hoà nhập với cuộc sống
của đồng bào và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ của mình, gắn bó hơn
với đồng bào các dân tộc miền núi nói chung và đồng bào Hmông
nói riêng.

23


×