Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Kết hợp xoá đói, giảm nghèo với phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn tỉnh Vĩnh Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.32 MB, 122 trang )

1

Luận văn
Kết hợp xoá đói, giảm nghèo với
phát triển kinh tế - xã hội ở nông
thôn tỉnh Vĩnh Long


2

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xoá đói, giảm nghèo trở thành vấn đề toàn cầu, là mục tiêu của thiên
niên kỷ XXI và thế giới đã lấy ngày 17 tháng 10 hàng năm là “Ngày Thế giới
xoá đói, giảm nghèo”. Có thể nói, nghèo đói đã và đang diễn ra trên khắp các
châu lục với những mức độ khác nhau. Đặc biệt là ở các nước lạc hậu, chậm phát
triển, kể cả các nước đang phát triển và nước giàu có; nghèo đói đang là vấn đề
nhức nhối, thách thức đối với sự phát triển hay tụt hậu của một quốc gia.
Ở nước ta, ngay từ những ngày đầu khi Cách mạng tháng Tám năm
1945 vừa thành công, Chính phủ Cách mạng lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí
Minh đứng đầu vừa được thành lập, ngày đêm phải lo đối phó với thù trong,
giặc ngoài, nhưng vẫn dành sự quan tâm sâu sắc đến việc chăm lo cuộc sống
cho nhân dân vừa thoát khỏi cảnh nô lệ, bị áp bức, bóc lột. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đặc biệt chú ý đến vấn đề đói. Người kêu gọi toàn dân cùng Chính phủ
tập trung lực lượng để chống ba thứ giặc là: giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại
xâm, trong đó giặc đói được Người đặt lên hàng đầu, với lý do: Ngày nay
chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Nhưng nếu nước
ta được độc lập mà dân không được hưởng tự do, hạnh phúc, thì độc lập đó
chẳng có ý nghĩa gì.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn chăm lo đến đời sống nhân dân,
Người nói: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom


đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân
rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi”; và
“Dân đủ ăn đủ mặc thì những chính sách của Đảng và Chính phủ sẽ dễ dàng
thực hiện. Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay mấy thì
cũng không thực hiện được" [27, tr.572]. Người đã sớm phát động cuộc vận
động thi đua ái quốc kêu gọi toàn dân bằng nhiều phương pháp, cách thức
khác nhau để giúp nhân dân như: tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm,
nhường cơm sẽ áo, quyên góp gạo cứu đói,…


3

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ nhiệm vụ chung của cách mạng bao gồm
cả phát triển kinh tế - xã hội lẫn văn hoá tinh thần, để giúp nhân dân lao động
thoát khỏi nghèo đói và ai ai cũng có việc làm, được ấm no và sống hạnh
phúc. Đó là những nhiệm vụ rất lâu dài khó khăn, bởi cơ sở vật chất của
chúng ta còn thiếu và yếu, do phải dốc sức cho cuộc chiến tranh giành độc lập
tự do, phải hoàn thành hai nhiệm vụ đồng thời là: vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc, kháng chiến để mang về cái quý giá cho dân tộc vì “Không có gì quý
hơn độc lập tự do” còn kiến quốc để “đảm bảo đời sống của nhân dân”.
Đến nay đói, nghèo vẫn đang là vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc. Xóa
đói, giảm nghèo toàn diện, bền vững luôn luôn được Đảng, Nhà nước ta hết
sức quan tâm và xác định là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội và là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần phát
triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ IX, nhiệm kỳ (2001-2005) đã khẳng định: “Việc tăng trưởng kinh tế phải
đi đôi với xoá đói, giảm nghèo ngay trong từng bước đi và trong suốt quá
trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước”. Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ X, nhiệm kỳ (2006-2010) tiếp tục nhấn mạnh:
Tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và trợ

giúp về điều kiện sản xuất, nâng cao kiến thức để người nghèo, hộ
nghèo, vùng nghèo tự vươn lên thoát nghèo và cải thiện mức sống
một cách bền vững; kết hợp chính sách Nhà nước với sự giúp đỡ
trực tiếp và có hiệu quả của toàn xã hội, của những người khá giả
cho người nghèo, hộ nghèo, nhất là đối với những vùng đặc biệt khó
khăn. Ngăn chặn tình trạng tái nghèo… [17, tr.217].
Qua hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, công tác xoá đói, giảm
nghèo đã được xã hội hoá, trở thành công việc của mọi cấp, mọi ngành và thu
hút được sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Thành tựu xoá đói,


4

giảm nghèo của Việt Nam đã được thế giới đánh giá cao là một trong 10 nước
có tốc độ xoá đói, giảm nghèo nhanh nhất. Thực hiện thành công mục tiêu xoá
đói, giảm nghèo có ý nghĩa quyết định trong việc “đưa nước ta ra khỏi tình trạng
một nước kém phát triển trước năm 2010 mà Đại hội X của Đảng” đã đề ra.
Tuy nhiên công cuộc xoá đói, giảm nghèo ở nước ta hiện nay phải đối
mặt với những khó khăn và thách thức lớn, đó là do hậu quả của chiến tranh
nên xuất phát điểm của Việt Nam thuộc diện nước nghèo; thu nhập và mức
chi dùng bình quân đầu người thấp. Khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa
thành thị và nông thôn, giữa các vùng và các nhóm dân cư có xu hướng gia
tăng. Tỷ lệ người nghèo là người dân tộc thiểu số còn cao, nguy cơ tái nghèo
có thể gia tăng do nhiều nguyên nhân như: thiên tai, dịch bệnh, biến động giá
cả, tác động của hội nhập,… Cơ hội tìm việc làm của người nghèo cũng sẽ ít
hơn. Tỷ lệ hộ dân tái nghèo ở nước ta còn lớn, xoá đói, giảm nghèo thiếu tính
bền vững.
Vĩnh Long là một tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng sông Cửu Long, toàn
bộ lãnh thổ của tỉnh nằm giữa hai con sông lớn là sông Tiền và sông Hậu. Diện
tích tự nhiên 1.475,19 km2, dân số 1.051.000 người, mật độ dân số đạt 704

người/km2, là một trong những tỉnh có mật độ dân số cao nhất khu vực đồng
bằng sông Cửu Long.
Trong những năm qua, Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Long rất quan tâm
đến công tác xoá đói, giảm nghèo, thực hiện nhiều chính sách và các dự án
xoá đói, giảm nghèo mang lại hiệu quả thiết thực, với sự nỗ lực của các
ngành, các cấp và bản thân của các hộ nghèo đã phấn đấu góp phần hạ thấp tỷ
lệ hộ nghèo của tỉnh từ 13,8%, với 27.677 hộ năm 1994 giảm xuống còn
3,51%, với 8.089 hộ vào cuối năm 2005 (theo tiêu chí cũ), với kết quả này đã
về đích trước thời hạn so với Nghị quyết của Tỉnh đề ra là 5%. Tuy nhiên về
lợi thế so sánh tài nguyên thiên nhiên, Vĩnh Long không có biển, không có


5

núi, không có rừng. Mặt khác Vĩnh Long là một tỉnh diện tích đất hẹp người
đông, trình độ dân trí còn hạn chế, kết cấu hạ tầng còn thấp, kinh tế phát triển
chưa đồng đều giữa các vùng. Thu nhập bình quân đầu người còn thấp, tỷ lệ
hộ đói nghèo của tỉnh còn cao, theo tiêu chí mới, đến cuối năm 2007 còn
9,86% so tổng số hộ toàn tỉnh, trong đó tỷ lệ hộ nghèo là người dân tộc khmer
còn rất cao, chiếm 50,50% so tổng số hộ khmer trong tỉnh, tập trung ở 4
huyện Tam Bình, Bình Minh, Trà Ôn, Vũng Liêm. Có gần 92% hộ nghèo sống
ở nông thôn và toàn tỉnh còn 5 ấp và 3 xã đặc biệt khó khăn. Do vậy, vấn đề đặt
ra cho Tỉnh Vĩnh Long trong việc kết hợp xoá đói, giảm nghèo với phát triển
kinh tế - xã hội trên địa bàn không chỉ có ý nghĩa thực hiện mục tiêu chung của
cả nước mà còn có vai trò thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển, vươn lên
tránh tụt hậu so với các tỉnh trong khu vực, đồng thời đáp ứng yêu cầu trong
tiến trình hội nhập và phát triển. Trước yêu cầu đó, việc nghiên cứu, lý giải một
cách đầy đủ có cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề kết hợp xoá đói, giảm nghèo
với phát triển kinh tế - xã hội, trước hết là ở nông thôn để đưa ra các giải pháp
phù hợp với thực tiễn của địa phương Vĩnh Long là yêu cầu cấp thiết, cho nên

tác giả đã chọn đề tài “Kết hợp xoá đói, giảm nghèo với phát triển kinh tế - xã
hội ở nông thôn tỉnh Vĩnh Long” để làm luận văn thạc sĩ Kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xoá đói, giảm nghèo là một chủ trương lớn, một quyết sách lớn và nhất
quán của Đảng và Nhà nước ta, được xác định là một trong những nhiệm vụ
quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, do đó vấn đề xoá đói,
giảm nghèo được các cấp lãnh đạo chính quyền địa phương quan tâm nhằm
tìm ra giải pháp tốt nhất để thực hiện chủ trương này. Cho nên vấn đề đã được
rất nhiều người quan tâm nghiên cứu ở các khía cạnh khác nhau.
Đến nay ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều luận văn
tốt nghiệp đã đề cập đến vấn đề xoá đói, giảm nghèo. Trong các công trình đã
được nghiên cứu đáng chú ý là:


6

- Trần Thị Hằng “Vấn đề xoá đói, giảm nghèo trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay”, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2001.
- Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam tổ chức hội thảo,
“Xoá đói, giảm nghèo vùng dân tộc thiểu số: Phương pháp tiếp cận”,
năm 2001.
- Ngân hàng Thế giới, “Đói nghèo và bất bình đẳng ở Việt Nam”, năm 2004.
- Nguyễn Hoàng Lý, “Xoá đói, giảm nghèo ở tỉnh gia Lai - Thực trạng
và giải pháp”, năm 2005.
- Trương Văn Thành, “Thực trạng và giải pháp xoá đói, giảm nghèo ở
Tây Ninh hiện nay”, năm 2000.
- Trần Đình Đàn, “Những giải pháp kinh tế - xã hội chủ yếu nhằm xoá
đói, giảm nghèo ở Hà Tỉnh”, năm 2002.
- Vi Văn Vân, “Xoá đói, giảm nghèo ở vùng các dân tộc thiểu số huyện
Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An”, năm 2004

- Hội thảo khoa học về xoá đói, giảm nghèo do Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội phối hợp với Tạp chí Cộng sản, tổ chức tháng 4 năm 2006.
- Hội thảo “Đồng bằng sông Cửu Long với công cuộc xoá đói, giảm
nghèo thông qua phát triển du lịch cộng đồng” do Bộ Văn hoá, Thể thao và
Du lịch phối hợp với UBND tỉnh Vĩnh Long, đăng cai tổ chức tại Thị xã Vĩnh
Long tháng 10/2007.
- Phân tích hiện trạng nghèo đói Đồng bằng sông Cửu Long, năm 2005.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đã tiếp cận và nghiên cứu
vấn đề xoá đói, giảm nghèo ở nhiều góc độ, nhiều địa phương khác nhau và
gợi mở ra hướng nghiên cứu mới bổ ích. Đây là những tư liệu quý sẽ được
tiếp thu có chọn lọc trong quá trình viết luận văn này.
Song cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu xoá đói, giảm
nghèo gắn với phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn. Đặc biệt là ở Vĩnh Long


7

chưa có một công trình nào nghiên cứu như đã nêu dưới góc độ kinh tế chính
trị. Vì vậy, đề tài mà tác giả lựa chọn để nghiên cứu không trùng với các công
trình nghiên cứu đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Làm rõ thực trạng đói nghèo và việc thực hiện xóa đói, giảm nghèo gắn
với phát triển kinh tế - xã hội nông thôn ở tỉnh Vĩnh Long từ năm 2001 đến
nay. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần thực hiện tốt công tác
xóa đói, giảm nghèo gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn ở
tỉnh Vĩnh Long đến 2010 và dự báo đến 2015.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về kết hợp xoá đói, giảm nghèo với phát
triển kinh tế - xã hội ở nông thôn.

- Phân tích đánh giá thực trạng việc kết hợp xoá đói, giảm nghèo với
phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn tỉnh Vĩnh Long.
- Đưa ra những giải pháp cơ bản về kết hợp xoá đói, giảm nghèo trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội nông thôn ở tỉnh Vĩnh Long.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Về nội dung: Kết hợp xóa đói, giảm nghèo với phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn có nội dung rất rộng. Ở góc độ khoa học kinh tế chính trị,
luận văn tập trung nghiên cứu các quan hệ kinh tế có quan hệ trực tiếp đến
việc kết hợp xóa đói, giảm nghèo với phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn,
luận văn không nghiên cứu các vấn đề về kỹ thuật nghiệp vụ thực hiện xoá
đói, giảm nghèo và phát triển kinh tế - xã hội. Mặt khác, luận văn nghiên cứu
việc kết hợp xoá đói, giảm nghèo với phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn
Vĩnh Long, mà trọng tâm là nghiên cứu xoá đói, giảm nghèo không đi sâu vào
những vấn đề cụ thể của phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn mà lấy phát


8

triển kinh tế - xã hội ở nông thôn làm tiền đề giải quyết xoá đói, giảm nghèo
bền vững.
4.2. Về thời gian: Kết hợp xoá đói, giảm nghèo gắn với phát triển kinh
tế - xã hội nông thôn ở tỉnh Vĩnh Long từ năm 2001 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng lý luận, phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng để nghiêng cứu vấn đề dưới góc độ
kinh tế chính trị kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống quan điểm
đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng.
- Trong quá trình phân tích, luận văn vận dụng phương pháp trừu tượng
hoá khoa học và kết hợp các phương pháp khác như: khảo sát, điều tra, thống
kê, hệ thống, so sánh,…tổng hợp báo cáo tổng kết công tác xóa đói, giảm
nghèo và các báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Long, để làm rõ vấn

đề nghiên cứu và rút ra các kết luận cần thiết.
6. Những đóng góp của luận văn
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về quan hệ giữa xóa đói, giảm nghèo với
phát triển kinh tế - xã hội nông thôn.
- Phân tích, đánh giá thực trạng việc kết hợp xóa đói, giảm nghèo với
phát triển kinh tế - xã hội nông thôn ở tỉnh Vĩnh Long. Nêu rõ những thành công,
những khó khăn, hạn chế và những vấn đề đặt ra cần thiết phải xoá đói, giảm
nghèo trong quá trình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
- Luận văn đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm kết hợp xóa đói, giảm
nghèo với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Vĩnh Long.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 6 tiết.


9

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ KẾT HỢP XOÁ ĐÓI, GIẢM NGHÈO VỚI PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI Ở NÔNG THÔN
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KẾT HỢP X0Á ĐÓI, GIẢM NGHÈO
VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở NÔNG THÔN

1.1.1. Đói, nghèo và nguyên nhân của đói, nghèo
1.1.1.1. Quan niệm về đói, nghèo
Những năm gần đây, vấn đề đói nghèo đã thu hút sự quan tâm to lớn
của cộng đồng quốc tế, đồng thời khẳng định cần có sự nỗ lực toàn cầu trong
giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội và xóa đói, giảm nghèo.
Tuyên bố Thiên niên kỷ và các mục tiêu phát triển, đã tạo đà và tầm

nhìn về một thế giới mà ở đó không còn đói nghèo, ai cũng được chăm lo về y
tế, giáo dục, môi trường, mọi người được tự do bình đẳng...
Nền kinh tế càng tăng trưởng càng nảy sinh nhiều vấn đề xã hội bức
xúc và chi phí khắc phục hậu quả của nó ngày một tốn kém hơn. Trong các
vấn đề xã hội bức xúc đó, vấn đề đói nghèo nổi lên hàng đầu và được cả cộng
đồng quốc tế quan tâm. Những năm đầu của thế kỷ 21 có tới 78 quốc gia
thuộc nhóm các nước nghèo và đang phát triển xây dựng chiến lược nghèo
toàn diện; trong đó có gần 30 tổ chức quốc tế, bao gồm cả tổ chức đa phương,
song phương và NGO xây dựng chiến lược hỗ trợ các nước nghèo trong cuộc
chiến chống nghèo đói.
Quan niệm về đói, nghèo hay nhận dạng về đói, nghèo của từng quốc
gia hay từng vùng, từng nhóm dân cư, nhìn chung không có sự khác biệt đáng
kể, tiêu chí chung nhất để xác định nghèo đói vẫn là mức thu nhập hay chi
tiêu để thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người. Sự khác nhau chủ yếu
là xác định mức độ thoả mãn ở mức cao hay thấp mà thôi, điều này phụ thuộc


10

vào yếu tố lịch sử, trình độ phát triển kinh tế - xã hội cũng như phong tục tập
quán của từng vùng, từng quốc gia.
Tại Hội nghị về chống nghèo đói do Ủy ban kinh tế - xã hội khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương do (ESCAP) tổ chức ở Băng Cốc, Thái Lan vào
tháng 9 -1993, các quốc gia trong khu vực đã thống nhất cao về khái niệm
nghèo đói như sau:
Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng
thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu ấy
phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán
của từng vùng và những phong tục ấy được xã hội thừa nhận [5].
Ở khái niệm về nghèo khổ trên, cần xem xét ba vấn đề sau:

(i) Nhu cầu cơ bản của con người bao gồm: ăn ở, mặc, y tế, giáo dục,
văn hoá, đi lại và giao tiếp xã hội.
(ii) Nghèo khổ thay đổi theo thời gian: Thước đo nghèo khổ sẽ thay đổi
theo thời gian, kinh tế càng phát triển, thì nhu cầu cơ bản của con người cũng
sẽ thay đổi theo và có xu hướng ngày một cao hơn.
(iii) Nghèo khổ thay đổi theo không gian: Thông qua định nghĩa này đã
chỉ cho chúng ta thấy rằng hiện tại thì chưa nhưng trong tương lai sẽ có chuẩn
nghèo chung cho tất cả các nước, vì nó phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia, từng vùng. Xu hướng chung là các nước đang phát
triển ngưỡng đo nghèo đói ngày càng cao.
Nhà kinh tế học người Mỹ Galbraith chia sẽ với quan niệm này cho
rằng con người bị coi là nghèo đói khi mà thu nhập của họ, ngay dù khi thích
đáng để họ có thể tồn tại, rơi xuống rõ rệt dưới mức thu nhập của cộng đồng.
Khi đó, họ không thể có những gì mà đa số trong cộng đồng coi như cái cần
thiết tối thiểu để sống một cách đúng mức.
Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại
Copenhagen, Đan Mạch năm 1995 đã đưa ra một quan niệm cụ thể hơn về


11

nghèo đói như sau: “người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn
dưới 1 đô la (USD) mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ mua
những sản phẩm thiết yếu để tồn tại” [21].
Ông Abapia Sen, một chuyên gia hàng đầu của Tổ chức lao động quốc
tế (ILO) - người được giải thưởng Nôben về kinh tế năm 1998, cho rằng:
Nghèo đói là sự thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của
cộng đồng. Xét cho cùng sự tồn tại của con người nói chung và người giàu,
người nghèo nói riêng, cái khác nhau cơ bản để phân biệt họ chính là cơ hội
lựa chọn của mỗi người trong cuộc sống, thông thường người giàu có cơ hội
lựa chọn nhiều hơn, người nghèo có cơ hội lựa chọn ít hơn.

Ngân hàng thế giới còn đưa ra quan điểm: Nghèo là một khái niệm đa
chiều vượt khỏi phạm vi túng thiếu về vật chất. Nghèo không chỉ gồm các chỉ
số dựa trên thu nhập mà còn bao gồm các vấn đề liên quan đến năng lực như:
dinh dưỡng, sức khoẻ, giáo dục, khả năng dễ bị tổn thương, không có quyền
phát ngôn và không có quyền lực.
Tháp tiếp cận về nghèo đói [29].
1.

Tiêu dùng

2.

Tiêu dùng + tài sản

3.

Tiêu dùng + tài sản + con người

4.

Tiêu dùng + tài sản + con người + văn hoá - xã hội

5. Tiêu dùng + tài sản + con người + văn hoá - xã hội + chính trị
6. Tiêu dùng + tài sản + con người + văn hoá - xã hội + chính trị + bảo vệ
Quan niệm của bản thân người nghèo ở nước ta cũng như một số quốc
gia khác trên thế giới về nghèo đói đơn giản hơn, trực diện hơn. Một số cuộc
tham vấn có sự tham gia của người dân, họ nói rằng: Nghèo đói là gì ư ? là
hôm nay con tôi ăn khoai, ngày mai không biết con tôi ăn gì? Bạn nhìn nhà ở
của tôi thì biết, ngồi trong nhà cũng thấy mặt trời, khi mưa thì trong nhà cũng
như ngoài sân.



12

Một số người khác thì trả lời nghèo đói đồng nghĩa với nhà ở bằng
tranh tre, nứa, lá tạm bợ, xiêu vẹo, dột nát; không đủ đất đai để sản xuất,
không có trâu, bò, không có ti vi, con cái thất học, ốm đau không có tiền đi
khám chữa bệnh…
Các quan niệm về đói nghèo nêu trên phản ánh 3 khía cạnh của người nghèo.
(i) Không được hưởng thụ những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành
cho con người.
(ii) Có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư.
(iii) Thiếu cơ hội lựa chọn, tham gia trong quá trình phát triển cộng đồng.
Để đánh giá đúng mức độ nghèo, người ta chia nghèo thành hai loại:
Nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng
và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, tối thiểu để duy trì cuộc sống (nhu cầu về
ăn, mặc, nhà ở, chăm sóc y tế, giáo dục...).
Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới
mức trung bình của cộng đồng tại địa phương, ở một thời kỳ nhất định.
Những quan niệm về đói nghèo nêu trên, phản ánh ba khía cạnh chủ
yếu của người nghèo là: Không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức
tối thiểu dành cho con người; có mức sống thấp hơn mức sống cộng đồng;
thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng.
Nghèo tuyệt đối chủ yếu phản ánh tình trạng một bộ phận dân cư không
được thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu của con người, trước hết là ăn, mặc,
ở...; Nghèo tương đối lại phản ánh sự chênh lệch về mức sống của một bộ
phận dân cư khi so sánh với mức sống trung bình của cộng đồng địa phương
trong một thời kỳ nhất định. Do đó, có thể xóa dần nghèo tuyệt đối, còn nghèo
tương đối luôn xảy ra trong xã hội, vấn đề quan tâm ở đây là rút ngắn khoảng

cách chênh lệch giàu nghèo và hạn chế sự phân hóa giàu nghèo, giảm thiểu
tới mức thấp nhất tỷ lệ nghèo tương đối.


13

Dựa vào những khái niệm chung do các tổ chức quốc tế đưa ra và căn
cứ vào thực trạng kinh tế - xã hội ở Việt Nam, trong chiến lược toàn diện về
tăng trưởng và xoá đói, giảm nghèo đến năm 2005 và 2010, Việt Nam thừa
nhận định nghĩa chung về đói nghèo do Hội nghị chống đói nghèo khu vực
châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc (Thái Lan) tháng
9/1993. Đồng thời vấn đề đói nghèo ở Việt Nam còn được nghiên cứu ở các
cấp độ khác nhau như cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng, do đó bên cạnh khái
niệm nghèo đói, ở nước ta còn có một số khái niệm sau:
Đói: Là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới
mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì
cuộc sống. Đó là những hộ dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ một đến hai
tháng, thường vay mượn của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả cộng đồng.
Hộ đói: Là hộ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái không được học
hành đầy đủ, ốm đau không có tiền chữa bệnh, nhà ở tạm bợ, rách nát...
Hộ nghèo: Là hộ đói ăn không đủ bữa, mặc không đủ lành, không đủ
ấm, không có khả năng phát triển sản xuất...
Xã nghèo: Là xã có tỷ lệ hộ nghèo cao, không có hoặc rất thiếu những
cơ sở hạ tầng thiết yếu như điện, đường, trường, trạm, nước sạch... trình độ
dân trí thấp, tỷ lệ mù chữ cao.
Vùng nghèo: Là địa bàn tương đối rộng nằm ở những khu vực khó khăn
hiểm trở, giao thông không thuận tiện, có tỷ lệ xã nghèo, hộ nghèo cao.
Như vậy, đói nghèo là tình trạng bị thiếu thốn ở nhiều phương diện
như: thu nhập hạn chế hoặc thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để đảm
bảo tiêu dùng những lúc khó khăn và dễ bị tổn thương trước những đột biến,

ít được tham gia vào quá trình ra quyết định... Qua nghiên cứu chúng ta nhận
thấy đói nghèo có nguồn gốc căn nguyên từ kinh tế; nhưng với tư cách là hiện
tượng tồn tại phổ biến ở các quốc gia trong tiến trình phát triển, đói nghèo


14

thực chất là hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp, chứ không thuần túy chỉ là
vấn đề kinh tế cho dù các tiêu chí đánh giá của nó trước hết và chủ yếu dựa
trên các tiêu chí về kinh tế. Vì vậy, khi nghiên cứu những tác động ảnh hưởng
đến thực trạng, xu hướng, cách thức giải quyết vấn đề đói nghèo cần phải
đánh giá những tác động của nhân tố chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc
phòng có như vậy mới đề ra được các giải pháp đồng bộ cho công tác xoá đói,
giảm nghèo ở nước ta.
Quan niệm về hộ nghèo, xã nghèo là những thuật ngữ đã được người
dân Việt Nam sử dụng từ ngàn đời xưa, còn thuật ngữ “xoá đói, giảm nghèo”
chỉ mới xuất hiện trong những năm gần đây. Trong cuộc sống cộng đồng làng
xã, người dân cũng đã có những nhận xét, so sánh về tình trạng, mức độ
nghèo đói của các hộ gia đình, họ đánh giá nhà này giàu có, nhà kia khá giả,
nhà nọ nghèo khổ…sự nghèo khó khá giả hoặc nghèo khổ theo cách nghĩ,
cách đánh giá của người dân chủ yếu dựa vào các yếu tố quan sát được hoặc
hiểu biết được các thông tin qua trao đổi hoặc giao tiếp hằng ngày. Các yếu tố
mà họ sử dụng làm căn cứ cho những nhận xét chủ yếu là nhà ở, tài sản, tư liệu
sản xuất, thu nhập, chi tiêu và đồ dùng sinh hoạt hằng ngày; đặc biệt là chi tiêu
cho ăn mặc, khám chữa bệnh và học hành của con cái hoặc là nhà ở, tài sản và
thu nhập hàng tháng hoặc hàng năm của các hộ gia đình. Cũng có khi họ chỉ
nhìn vào chi tiêu của cuộc sống sinh hoạt hàng ngày hoặc thu nhập hàng tháng,
hàng năm của hộ gia đình mà không cần quan sát yếu tố nhà ở, tài sản, trong
trường hợp họ thấy nhà cửa, tài sản cũng không có gì đáng giá. Với cách đánh
giá như vậy người ta gọi là đánh giá định tính của người dân và sau này hình

thành phương pháp đánh giá định tính, hoặc là phương pháp đánh giá có sự tham
gia của người dân. Sự quan sát và đánh giá mang tính chất định tính của người
dân phần nào cũng đã phản ánh thực trạng giàu - nghèo của các hộ gia đình ở
cộng đồng. Tuy vậy nó cũng nảy sinh những khó khăn khi xem xét các hộ nằm
giữa các ranh giới nghèo và không nghèo, trong trường hợp này cách đánh giá


15

định tính có thể đúng, nhưng chưa sát thực. Mặt khác, xét trên tổng thể cũng
không thể biết được hộ nào nghèo đến mức nào, vì không có tiêu chí nào để
đánh giá, hay nói cách khác là không có mốc để so sánh.
Tương tự như vậy, khi người dân có những nhận xét, đánh giá xã này
giàu, xã kia khá, xã nọ nghèo hoặc so sánh xã này giàu hơn xã kia hoặc xã
này nghèo hơn xã kia hoặc xếp xã này vào nhóm nghèo, xã kia vào nhóm
không nghèo. Tuy chỉ đánh giá định tính, song không phải không có những
căn cứ nhất định, mặc dù đánh giá một xã là nghèo hay không nghèo phức tạp
hơn nhiều so với đánh giá hộ gia đình. Căn cứ trực quan sinh động nhất mà
người dân dễ nhận thấy là số hộ có nhà cửa khang trang, số hộ có mức sống
khá giả, kết cấu hạ tầng của xã như đường giao thông, trạm xá, trường học,
điện, hệ thống thuỷ lợi, chợ, công trình văn hoá…trình độ phát triển kinh tế
thông qua thu nhập ngày công lao động hoặc thu nhập tháng/năm của hộ gia
đình. Việc đánh giá như trên phần nào cũng phản ánh được mức độ giàu nghèo
của một xã. Tuy nhiên, khi đánh giá một xã là nghèo hay không nghèo cũng rất
khó vì thiếu những dẫn chứng mang tính định lượng có sức thuyết phục, nhất là
các xã nằm ở ranh giới nghèo và không nghèo. Một xã được đánh giá là nghèo
trên thực tế không phải không có các yếu tố cụ thể nào đó trội hơn xã không
nghèo, ví dụ như trường học, trạm xá, trụ sở xã hoặc hệ thống thuỷ lợi, cũng có
thể số hộ (tỷ lệ hộ) có nhà ngói ngang bằng với xã không nghèo…
1.1.1.2. Tiêu chí và phương pháp xác định hộ nghèo

Đối với Việt Nam, dù là trong ký ức của người dân hay trong các tài
liệu của chính phủ trước đây, quan niệm về cái nghèo chưa bao giờ được coi
đơn thuần là vấn đề thu nhập vật chất. Cái nghèo ở đây luôn hàm chứa cả sự
nghèo nàn về đạo đức, học vấn, truyền thống…
Tuy nhiên, hiện nay khi nền kinh tế chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường với sự gia tăng các nguồn viện trợ từ nước ngoài (kể cả chính phủ và
phi chính phủ) thì những khái niệm về giàu nghèo dựa trên thu nhập hiện


16

đang được chính phủ và nhân dân sử dụng ngày càng nhiều, để xác định ai
"giàu" và ai "nghèo".
Đối với nước ta đã 5 lần điều chỉnh chuẩn nghèo từ 1993 đến 2006.
* Giai đoạn 1993 - 1995:
. Hộ đói: bình quân thu nhập đầu người quy gạo/tháng dưới 13 kg đối
với thành thị, dưới 8 kg đối với khu vực nông thôn.
. Hộ nghèo: bình quân thu nhập đầu người quy gạo/tháng dưới 20 kg
đối với thành thị, dưới 15 kg đối với khu vực nông thôn.
* Giai đoạn 1995 - 1997:
. Hộ đói: là hộ có mức thu nhập bình quân một người trong hộ một
tháng quy ra gạo dưới 13 kg, tính cho mọi vùng.
. Hộ nghèo là hộ có thu nhập như sau:
+ Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 15 kg/người/tháng.
+ Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20 kg/người/tháng.
+ Thành thị: dưới 25kg/người/tháng.
* Giai đoạn 1997 - 2000 (Công văn số 1751/LĐTBXH):
. Hộ đói: là hộ có mức thu nhập bình quân một người trong hộ một
tháng quy ra gạo dưới 13 kg, tương đương 45.000 đồng (giá năm 1997, tính
cho mọi vùng).

. Hộ nghèo là hộ có thu nhập tuỳ theo từng vùng ở các mức tương ứng
như sau:
+ Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 15 kg/người/tháng (tương
đương 55.000 đồng).
+ Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20 kg/người/tháng (tương
đương 70.000 đồng)..
+ Thành thị: dưới 25kg/người/tháng (tương đương 90.000 đồng).
* Giai đoạn 2001 - 2005 (Quyết định số 1143/2000/QĐ - LĐTBXH):


17

+ Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 80.000 đ/người/tháng.
+ Vùng nông thôn đồng bằng: dưới 100.000 đ/người/tháng.
+ Thành thị: dưới 150.000 đ/người/tháng.
* Giai đoạn 2006 - 2010 (Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg):
+ Thành thị: 260.000 đ/người/tháng.
+ Vùng nông thôn (cho cả miền núi và đồng bằng): 200.000 đồng/
người/tháng.
Trước năm 2006, chuẩn nghèo cho khu vực nông thôn đồng bằng cao
hơn chuẩn nghèo cho khu vực nông thôn miền núi, mức chênh lệch là 1,25
lần. Khi áp dụng chuẩn nghèo chung cho vùng nông thôn đồng bằng và nông
thôn miền núi điều này sẽ có lợi hơn cho người dân khu vực nông thôn miền
núi. Đây cũng là sự thể hiện quan điểm bình đẳng hơn, toàn diện hơn khi xem
xét xác định chuẩn nghèo.
Khu vực thành thị chuẩn nghèo mới cao gấp 1,73 lần chuẩn nghèo cũ và
tương đương với 2,8 USD một ngày tính theo sức mua tương đương năm 2005.
Khu vực nông thôn đồng bằng chuẩn nghèo mới cao gấp 2 lần chuẩn
nghèo cũ; khu vực nông thôn miền núi chuẩn nghèo mới cao gấp 2,5 lần và
tương đương với 2,2 USD một ngày tính theo sức mua tương đương năm 2005.

Phương pháp xác định chuẩn nghèo [7]: có 2 phương pháp xác định
chuẩn nghèo.
* Phương pháp xác định chuẩn nghèo dựa vào nhu cầu chi tiêu
Đây là phương pháp do các chuyên gia Ngân hàng thế giới (WB) khởi
xướng và cũng là phương pháp được nhiều quốc gia cũng như các tổ chức
quốc tế công nhận và sử dụng trong việc xác định chuẩn nghèo ở cấp quốc gia
hoặc sử dụng trong các dự án lớn. Nội dung cơ bản của phương pháp này là
dựa vào nhu cầu chi tiêu để bảo đảm các nhu cầu cơ bản của con người về ăn,
ở, mặc, y tế, giáo dục, văn hoá, đi lại và giao tiếp xã hội.


18

Bước một là xác định nhu cầu chi tiêu cho lương thực thực phẩm
(nhu cầu ăn uống để tồn tại). Để xác định được nhu cầu này người ta xác
định rổ hàng hoá để bình quân hàng ngày một người có được 2.100Kcal, rổ
hàng hoá khoảng 40 mặt hàng. (rổ hàng hoá tính cho Việt Nam cũng 40
mặt hàng và xếp thành 16 nhóm hàng hoá: gạo các loại; lương thực khác
quy gạo; thịt các loại; mở, dầu ăn; tôm cá; trứng gia cầm các loại; đậu phụ;
đường, mật, sữa, bánh kẹo mức; nước mắm, nước chấm; chè, cà phê; rượu,
bia; đồ uống khác; đỗ các loại; lạc, vừng; rau các loại; quả chín); từ rổ hàng
hoá này người ta xác định được số tiền cần thiết chi tiêu cho lương thực
thực phẩm. Tuy nhiên, giá cả của rổ hàng hoá ở thành thị, nông thôn và các
vùng rất khác nhau, vì vậy người ta phải lấy giá trị trung bình của rổ hàng
hoá này.
Bước hai là xác định nhu cầu chi tiêu lương thực thực phẩm (7 nhu cầu
cơ bản còn lại). Thông thường chi cho lương thực, thực phẩm chung của dân
cư chiếm khoảng 60% tổng chi tiêu, còn 40% là nhu cầu phi lương thực thực
phẩm. Đối với nhóm giàu tỷ lệ tương ứng là 50% và 50%; đối với nhóm
nghèo 70% chi tiêu cho nhu cầu lương thực, thực phẩm, còn 30% chi tiêu cho

phi lương thực, thực phẩm (ở, mặc, y tế, giáo dục, văn hoá, đi lại và giao tiếp
xã hội).
Bước ba là xác định tổng nhu cầu chi tiêu cho lương thực, thực phẩm
(LTTP) và phi lương thực, thực phẩm.
Tổng chi tiêu = chi tiêu cho LTTP + chi tiêu cho phi LTTP
Giá trị bằng tiền của tổng chi tiêu được gọi là đường nghèo chung hay
còn gọi là chuẩn nghèo cao.
Giá trị bằng tiền của chi tiêu cho lương thực, thực phẩm là đường
nghèo lương thực, thực phẩm hay còn gọi là chuẩn nghèo thấp.


19

Cũng bằng phương pháp trên, theo Tổng cục Thống kê đã chuyển từ
mức chi tiêu sang mức thu nhập để mọi người dễ hiểu và thuận lợi hơn cho
việc điều tra khảo sát và tính toán tỷ lệ nghèo đói. Những người có thu nhập
thấp hơn chuẩn nghèo chung được xếp vào nhóm người nghèo, còn những ai
có thu nhập thấp hơn mức chi tiêu cho lương thực, thực phẩm (đường nghèo
LTTP) thì được xếp vào nghèo về LTTP.
Một điều đáng lưu ý là khi xác định người nghèo phải gắn chặt với tính
thu nhập bình quân đầu người của hộ gia đình. Tuy vậy tỷ lệ hộ nghèo không
đồng nghĩa với tỷ lệ người nghèo, thông thường trong một quốc gia thì tỷ lệ
người nghèo bao giờ cũng cao hơn tỷ lệ hộ nghèo.
* Phương pháp xác định chuẩn nghèo dựa vào so sánh với thu nhập
bình quân đầu người của các hộ gia đình
Phương pháp này cũng rất khoa học và tương đối đơn giản, một số
nước phát triển ở Châu Á và Mỹ đã sử dụng, họ cho rằng người nghèo là
những người có thu nhập không đủ để chi phí cho lương thực, thực phẩm và
các dịch vụ xã hội. Do vậy, người ta xác định chuẩn nghèo bằng khoảng 1/2
thu nhập bình quân đầu người của các hộ gia đình trong cả nước; tuy nhiên

Mỹ và Nhật Bản còn chia cụ thể cho các đối tượng khác nhau, cụ thể chuẩn
nghèo vào năm 2001 ở Mỹ đối với người sống một mình, không có người ăn
theo dưới 65 tuổi là 8,494 USD; đối với gia đình 9 người là 39,223 USD; đối
với gia đình 4 người là 7,940 USD [22].
Tuy nhiên có tài liệu khác do trung tâm phát triển nguồn nhân lực Châu
Á phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu dân số và Nguồn lao động, Bộ
LĐTB&XH cho rằng “theo quan niệm chung của nhiều nước, hộ nghèo có
mức thu nhập thấp dưới 1/3 mức trung bình của xã hội", theo chuẩn này thì
vào năm 1993 cả thế giới có 1,1 tỷ người nghèo [6].


20

Theo đề tài Phương pháp xác định chuẩn nghèo, do Bộ Thương binh
Lao động và xã hội thực hiện năm 2005, thì việc lấy chuẩn nghèo bằng 1/2
hay 1/3 thu nhập bình quân đầu người của các hộ gia đình là phụ thuộc vào
trình độ phát triển của mỗi nước, song biên độ dao động của chuẩn nghèo sẽ
nằm trong 1/2 và 1/3 mức thu nhập bình quân, nước phát triển (nước giàu) thu
nhập cao, chi phí đắt đỏ có thể lấy mức 1/2, nước chậm phát triển có thể lấy
mức 1/3; nước đang phát triển có thể lấy ở khoảng giữa của 1/2 và 1/3 mức
thu nhập bình quân đầu người. Nước ta được xếp vào nhóm nước đang phát
triển, vào thời điểm năm 2002 thu nhập bình quân đầu người là 4.281 nghìn
đồng, thì chuẩn nghèo là 1.875 nghìn đồng, tương đương với 156,250 nghìn
đồng/người/tháng. Năm 2005 ước tính thu nhập bình quân đầu người của các
hộ gia đình là 5.183 nghìn đồng/người/năm (tính theo tốc độ tăng bình quân
của thời kỳ 1998 - 2002 là 6,58% một năm) thì chuẩn nghèo là 2.159 nghìn
đồng/năm, tương đương 179,9 nghìn đồng/tháng.
Công thức tính cụ thể cho nước ta như sau [7]:
CNj = (TNj /2 + TNj /3): 2
Trong đó:


- CNj là chuẩn nghèo năm thứ j
- TNj là thu nhập bình quân đầu người của các hộ gia đình
năm thứ j

Trong trường hợp này chuẩn nghèo được lấy ở khoảng giữa của 1/2 và
1/3 thu nhập bình quân đầu người của hộ gia đình.
Phương pháp này có ưu điểm là đơn giản, dễ tính toán và nó gắn rất
chặc với tốc độ tăng thu nhập của dân cư, ít tốn kém kinh phí vì có thể sử
dụng số liệu có sẵn, các địa phương cũng tự tính được chuẩn nghèo của mình.
1.1.1.2. Nguyên nhân ảnh hưởng đến đói nghèo
Nghèo đói là một hiện tượng kinh tế - xã hội, nó vừa là vấn đề lịch sử
để lại, vừa là vấn đề phát triển mà hầu hết các quốc gia đều vấp phải. Nó đụng
chạm trực tiếp đến cuộc sống của con người, từ cá nhân, gia đình đến cộng đồng


21

xã hội. Mỗi quốc gia, ở các mức độ phát triển khác nhau, đều phải quan tâm giải
quyết vấn đề đói nghèo để vượt qua những trở ngại của sự phát triển nhằm vươn
tới sự phồn thịnh về kinh tế và từng bước đạt tới công bằng xã hội.
Có nhiều ý kiến khác nhau về nguyên nhân gây ra đói nghèo, song tựu
trung lại, nghèo đói ở các nước đang phát triển chủ yếu là do các nguyên nhân
cơ bản sau đây:
Thứ nhất, nguồn lực hạn chế và nghèo nàn
Người nghèo thường thiếu nhiều nguồn lực, họ bị rơi vào vòng luẩn
quẩn của nghèo đói và thiếu nguồn lực. Người nghèo có khả năng tiếp tục
nghèo vì họ không thể đầu tư vào nguồn vốn nhân lực của họ. Ngược lại,
nguồn vốn nhân lực thấp lại cản trở họ thoát khỏi nghèo đói.
Các hộ nghèo có rất ít đất đai và tình trạng không có đất sản xuất.

Thiếu đất đai ảnh hưởng đến việc bảo đảm an ninh lương thực của người
nghèo cũng như khả năng đa dạng hóa sản xuất, để hướng tới sản xuất các
loại cây trồng với giá trị cao hơn. Đa số người nghèo lựa chọn phương án sản
xuất tự cung, tự cấp, họ vẫn giữ các phương pháp sản xuất truyền thống, thiếu
cơ hội thực hiện các phương án sản xuất mang lợi nhuận cao hơn. Do vẫn
thực hiện theo phương pháp sản xuất truyền thống nên giá trị sản phẩm và
năng suất các loại cây trồng, vật nuôi còn thấp, thiếu tính cạnh tranh trên thị
trường và vì vậy đã đưa họ vào vòng luẩn quẩn của sự nghèo khó.
Bên cạnh đó, đa số người nghèo chưa có nhiều cơ hội tiếp cận với các
dịch vụ sản xuất như khuyến nông, khuyến ngư, bảo vệ động, thực vật; nhiều
yếu tố đầu vào sản xuất như: điện, nước, giống cây trồng, vật nuôi, phân
bón... đã làm tăng chi phí, giảm thu nhập tính trên đơn vị sản phẩm.
Người nghèo cũng thiếu khả năng tiếp cận các nguồn tín dụng. Sự hạn
chế của nguồn vốn là một trong những nguyên nhân trì hoãn khả năng đổi
mới sản xuất, áp dụng khoa học công nghệ, giống mới... Một mặt, do không
có tài sản thế chấp, những người nghèo, phải dựa vào tín chấp với các khoản


22

vay nhỏ, hiệu quả thấp đã làm giảm khả năng hoàn trả vốn. Mặt khác, đa số
người nghèo không có kế hoạch sản xuất cụ thể, hoặc sử dụng các nguồn vốn
vay không đúng mục đích, do vậy họ khó có điều kiện tiếp cận các nguồn vốn
và cuối cùng sẽ làm cho họ càng nghèo hơn.
Bên cạnh đó, việc thiếu các thông tin, đặc biệt là các thông tin về pháp luật,
chính sách và thị trường, đã làm cho người nghèo ngày càng trở nên nghèo hơn.
Thứ hai, trình độ học vấn thấp, việc làm thiếu và không ổn định
Những người nghèo phần lớn là những người có trình độ học vấn thấp,
ít có cơ hội kiếm được việc làm tốt, ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như
chỉ bảo đảm nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu và do vậy không có điều kiện để

nâng cao trình độ của mình trong tương lai để thoát khỏi cảnh nghèo khó. Bên
cạnh đó, trình độ học vấn thấp ảnh hưởng đến các quyết định có liên quan đến
giáo dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng con cái... không những của thế hệ hiện tại mà
cả thế hệ trong tương lai. Suy dinh dưỡng ở trẻ em và trẻ sơ sinh là nhân tố
ảnh hưởng khả năng đến trường của con em các gia đình nghèo nhất và sẽ làm
cho việc thoát nghèo thông qua giáo dục trở nên khó khăn hơn. Chi phí cho
giáo dục đối với người nghèo còn lớn, chất lượng giáo dục mà người nghèo
tiếp cận được còn hạn chế, gây khó khăn cho họ trong việc vươn lên thoát
nghèo. Tỷ lệ nghèo giảm xuống khi trình độ giáo dục tăng lên. phần lớn số
người nghèo làm các công việc trong nông nghiệp có mức thu nhập rất thấp.
Trình độ học vấn thấp hạn chế khả năng kiếm việc làm trong khu vực khác,
trong các ngành phi nông nghiệp, những công việc mang lại thu nhập cao hơn
và ổn định hơn.
Thứ ba, các nguyên nhân về nhân khẩu
Quy mô hộ gia đình là "mẫu số" quan trọng có ảnh hưởng đến mức thu
nhập bình quân của các thành viên trong hộ. Đông con vừa là nguyên nhân
vừa là hệ quả của nghèo đói. Tỷ lệ sinh trong các hộ gia đình nghèo còn rất
cao. Đông con là một trong những đặc điểm của các hộ gia đình nghèo. Một


23

trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ sinh cao trong các hộ nghèo là do họ
không có kiến thức cũng như điều kiện tiếp cận với các biện pháp sức khỏe
sinh sản. Tỷ lệ phụ nữ nghèo đặt vòng tránh thai thấp, tỷ lệ nam giới nhận
thức đầy đủ trách nhiệm kế hoạch hóa gia đình và sử dụng các biện pháp
tránh thai chưa cao. Mức độ hiểu biết của các cặp vợ chồng nghèo về vệ sinh,
an toàn tình dục, cũng như mối liên hệ giữa tình trạng nghèo đói, sức khỏe
sinh sản và gia tăng nhân khẩu còn hạn chế.
Tỷ lệ người ăn theo cao trong các hộ nghèo còn có nghĩa là nguồn lực

về lao động rất thiếu, đây cũng chính là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng
nghèo đói của họ.
Thứ tư, nguy cơ dễ bị tổn thương do ảnh hưởng của thiên tai và các rủi
ro khác.
Các hộ gia đình nghèo rất dễ bị tổn thương bởi những khó khăn hàng
ngày và những biến động bất thường xảy ra đối với cá nhân, gia đình hay cộng
đồng. Do nguồn thu nhập của họ rất thấp, bấp bênh, khả năng tích luỹ kém nên
họ khó có khả năng chống chọi với những biến cố xảy ra trong cuộc sống (mất
mùa, mất việc làm, thiên tai, dịch hoạ, mất nguồn lao động, mất sức khỏe...). Với
khả năng kinh tế mong manh của các hộ gia đình nghèo trong khu vực nông thôn,
những đột biến này sẽ tạo ra những bất ổn lớn trong cuộc sống của họ.
Các rủi ro trong sản xuất kinh doanh đối với người nghèo cũng rất cao,
do họ không có trình độ tay nghề và thiếu kinh nghiệm làm ăn. Khả năng đối
phó và khắc phục các rủi ro của người nghèo cũng rất kém do nguồn thu nhập
hạn hẹp làm cho hộ gia đình mất khả năng khắc phục rủi ro và có thể còn gặp
rủi ro hơn nữa.
Mặt khác, tình trạng số hộ tái đói nghèo trong tổng số hộ vừa thoát khỏi
đói nghèo vẫn còn xảy ra, do không ít số hộ đang sống bên ngưỡng đói nghèo và
rất dễ bị tác động bởi các yếu tố rủi ro như thiên tai, mất việc làm, ốm đau,...
Thứ năm, bất bình đẳng giới ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của phụ
nữ và trẻ em.


24

Bất bình đẳng giới làm sâu sắc hơn tình trạng nghèo đói trên tất cả các
mặt. Ngoài những bất công mà cá nhân phụ nữ và trẻ em gái phải chịu đựng
do bất bình đẳng thì còn có những tác động bất lợi đối với gia đình.
Phụ nữ có ít cơ hội tiếp cận với công nghệ, tín dụng và đào tạo, thường
gặp nhiều khó khăn do gánh nặng công việc gia đình, thiếu quyền quyết định

trong hộ gia đình và thường được trả công lao động thấp hơn nam giới ở cùng
một loại việc. Phụ nữ có học vấn thấp dẫn tới tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh và bà
mẹ cao hơn, sức khỏe của gia đình bị ảnh hưởng và trẻ em đi học ít hơn.
Bất bình đẳng giới còn là yếu tố làm gia tăng tỷ lệ sinh và tăng tỷ lệ lây
truyền HIV do phụ nữ thiếu tiếng nói và khả năng tự bảo vệ trong quan hệ tình dục.
Thứ sáu, bệnh tật và sức khỏe yếu kém cũng là yếu tố đẩy con người
vào tình trạng nghèo đói trầm trọng.
Bệnh tật và sức khỏe kém ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và chi tiêu
của người nghèo, làm họ rơi vào vòng tròn luẩn quẩn của đói nghèo. Họ phải
chịu hai gánh nặng: một là mất đi thu nhập từ lao động, hai là gánh chịu chi
phí cao cho việc khám, chữa bệnh, kể cả các chi phí trực tiếp và gián tiếp. Do
vậy, chi phí chữa bệnh là gánh nặng đối với người nghèo và đẩy họ đến chỗ
vay mượn, cầm cố tài sản để có tiền trang trải chi phí, dẫn đến tình trạng càng
có ít cơ hội cho người nghèo thoát khỏi vòng đói nghèo. Trong khi đó khả năng
tiếp cận đến các dịch vụ phòng bệnh (nước sạch, các chương trình y tế...) của
người nghèo còn hạn chế càng làm tăng khả năng bị mắc bệnh của họ.
Thứ bảy, sự kết hợp xã hội trong phát triển kinh tế.
Sự kết hợp xã hội trong phát triển kinh tế, được thể hiện ở đường lối
chính sách phát triển và tổ chức thực hiện kinh tế ở mỗi quốc gia. Nếu chỉ
quan tâm đến tăng trưởng kinh tế để có nhiều lợi nhuận mà không quan tâm
đến giải quyết các vấn đề xã hội thì bộ phận dân cư đói nghèo ngày càng tăng.
Ngược lại, nếu chỉ quan tâm đến giải quyết vấn đề xoá đói, giảm nghèo để
thực hiện công bằng xã hội bằng cách đi vay nước ngoài để nâng cao mức tiêu


25

dùng cho dân mà không coi trọng đầu tư phát triển kinh tế thì không thể thực
hiện được mục tiêu xoá đói, giảm nghèo. từ thực tiễn thế giới, Đảng ta chủ
trương: mỗi bước tăng trưởng kinh tế phải thực hiện tiến bộ công bằng xã hội

và khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với thực hiện xoá đói, giảm nghèo.
1.1.2. Mối quan hệ giữa xoá đói, giảm nghèo với phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn nước ta
1.1.2.1. Các quan điểm chủ yếu xoá đói, giảm nghèo gắn phát triển
kinh tế - xã hội
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
C.Mác và Ph.Ăngghen khi nghiên cứu, phân tích xã hội tư bản để chỉ ra
những quy luật vận động và phát triển của nó, đồng thời đã đề cập một cách
khá toàn diện và sâu sắc tình cảnh nghèo đói và bị bóc lột đến cùng cực của
giai cấp vô sản và những người làm thuê trong chủ nghĩa tư bản. Trong các
tác phẩm của mình, Mác và Ăngghen đã mô tả cặn kẽ, xác thực tình cảnh
nghèo đói của những người vô sản phải bán sức lao động cho chủ tư bản để
kiếm sống. Phụ nữ và trẻ em phải làm việc đến kiệt sức trong các xưởng thợ;
nông dân bị cưỡng đoạt ruộng đất, mất hết tư liệu sản xuất...Họ trở thành nạn
nhân của tình trạng bị bóc lột giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư
tuyệt đối của các chủ tư bản trong các thời kỳ tích lũy nguyên thủy và thời kỳ
cạnh tranh tự do của chủ nghĩa tư bản. Cũng theo Mác và Ăngghen, nguồn
gốc trực tiếp dẫn đến tình trạng nghèo đói ở đây là phương thức phân phối giá
trị thặng dư trong xã hội một cách bất công giữa nhà tư bản và người lao
động, hai ông cũng chỉ ra rằng chỉ có xóa bỏ chế độ tư hữu, bóc lột mới có thể
giải phóng giai cấp vô sản và quần chúng lao động khỏi cảnh nghèo đói lầm
than, làm cho họ trở thành người lao động tư do và làm chủ, tiến tới một xã
hội công bằng, văn minh.
Kế tiếp, V.I.Lênin đã phân tích những mâu thuẫn kinh tế xã hội gay gắt
trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản độc quyền cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX; qua


×