Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Bài giảng y học quân sự bài 24 đại cương vũ khí hóa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.18 KB, 21 trang )

BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ



Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG

BÀI 24

ĐẠI CƯƠNG VŨ KHÍ HÓA HỌC
I. KHÁI NIỆM VỀ VŨ KHÍ HÓA HỌC
Chất độc đã được sử dụng từ lâu trong chiến tranh, nhưng lần đầu tiên khái
niệm vũ khí hóa học là vũ khí hủy diệt lớn đã được sử dụng quy mô lớn trong
chiến tranh thế giới lần thứ nhất 1914 – 1918. Ở mặt trận phía Tây nước Đức, liên
quân Anh – Pháp bị tập kích bởi 180 tấn khí Clo đã có 15.000 người bị nhiễm độc,
trong đó có 5.000 người chết tại trận.
Vũ khí hóa học tuy không sử dụng trong chiến tranh thế giới lần thứ hai
nhưng khi chiến tranh kết thúc quân đội Liên Xô đã khám phá ra hàng vạn tấn chất
độc thần kinh trong các kho bí mật của quân đội phát xít Đức. Trước những tác hại
lớn của vũ khí hóa học các nước đua nhau nghiên cứu và tiếp tục đưa vào sản xuất
và sử dụng các loại nhiễm độc tính mạnh hơn như Phốt gien, Yperit, Lovizit… có
những chương trình nghiên cứu được chi hàng tỷ đô la.
Đặc biệt là Mỹ rất tích cực tham gia, ngân sách chi cho việc nghiên cứu vũ
khí hóa học: năm 1946 đến 1957 là 19 triệu USD; 1958 đến 1962 là 50 triệu USD;
1963 đến 1968 là 300 triệu USD; 1969 là 400 triệu USD; 1970 đến 1973 là 450 –
500 triệu USD.
Trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, quân đội Mỹ đã sử dụng chất độc
hóa học với quy mô lớn, thời gian kéo dài. Khoảng 15.000 tấn chất độc CS gây
chảy nước mắt và kích thích đường hô hấp trên hàng chục vạn tấn chất độc diệt cỏ,
chất độc làm rụi lá cây (gọi tên chung là chất độc màu da cam – Dioxin) gây nhiều
thiệt hại cho nhân dân và thiên nhiên Việt Nam, đến nay vẫn còn ảnh hưởng lớn
đến cuộc sống.


1.1.

Định nghĩa

ĐẠI CƯƠNG VŨ KHÍ HÓA HỌC
210


BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ



Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG

Vũ khí hóa học là một trong những loại vũ khí hủy diệt lớn, hoặc làm mất
sức chiến đấu tạm thời hoặc gây trở ngại cho hành động tác chiến của đối phương.
Vũ khí hóa học gồm có chất độc hóa học và phương tiện sử dụng chất độc
đó. Chất độc hóa học là thành phần chủ yếu gây sát thương.
1.2.

Đặc điểm của chất độc hóa học chiến tranh (Quân sự)

Chất độc hóa học là một trong những đặc điểm khác với các chất độc hóa
học khác dùng trong công nghiệp, nông nghiệp.
Chất độc hóa học chiến tranh có độc tính rất cao, chỉ một liều lượng nhỏ
cũng gây nhiễm độc cho người. Chất độc hóa học chiến tranh có thể xâm nhập vào
cơ thể qua nhiều đường như qua đường hô hấp, qua da, qua đường tiêu hóa và qua
đường nào cũng có thể gây nguy hiểm chết người. Khi dùng vào mục đích chiến
tranh, các chất độc gây nhiễm độc hàng loạt, có thể hàng ngàn, hàng chục ngàn
người bị nhiễm độc cùng một lúc, rất khó khăn cho việc tổ chức cứu chữa nếu

không được huấn luyện trước cho bộ đội và nhân dân tự cứu và cứu lẫn nhau.
Chất độc dùng trong chiến tranh với số lượng lớn nên phải dễ sản xuất, rẻ
tiền và phải sử dụng dưới dạng vũ khí, khi bom đạn nỗ, chất độc không bị phân
hủy. Các đặc điểm và yêu cầu đó hạn chế khả năng sản xuất nhiều loại chất độc
hóa học chiến tranh.

Tính năng chiến đấu của một số loại vũ khí hóa học của Mỹ.
K/lượng
Chất độc

Bán kính sát
thương

Lựu đạn M25 A2

40g CS

4 – 5m

Lựu đạn hình trụ M7 - A2

115g CS

30m

Mảnh

Đạn M79 cỡ 40mm

53g CS


40m

400m Tạo khói độc

23g/ viên

30x150m

250m Tạo khói độc

Tên gọi, ký hiệu

Máy phóng E8 (64 viên CS)

ĐẠI CƯƠNG VŨ KHÍ HÓA HỌC
211

Tầm
bắn

Ghi chú
Sát thương
=chất độc


BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ




Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG

Bom 8 ngăn nhựa E158 (264
v.CS)

2000÷3000m2

Tạo khói độc
Tạo khói độc

Bom BLU-52

102kgCS

3000 m2

Đạn pháo 105mm-M360

0,74kgGB

27m

11km Tạo khói độc

Đạn pháo 155mm-M110

2,95kgHD

49m


14km Nổ tạo solkhí

Đạn pháo 175mm-M103

6,6kg VX

76m

31km Tạo khói độc

Tên lửa Little-John E20

30kgVX
hoặc GB

18km Tạo khói độc

34km Tạo khói độc

(chứa 364 quả bom nhỏ)

215kgVX
hoặc GB

Mìn M2

6,2kg VX

25-30m


Mìn M1

4,5kgHD

25-30m

(chứa 49 quả bom nhỏ)
Tên lửa Honest-John E19

1.3.

Phương tiện sử dụng chất độc trong chiến tranh.

Có rất nhiều các phương tiện sử dụng chất độc trong chiến tranh và các
phương tiện này luôn luôn được cải tiến. các phương tiện cổ điển bao gồm lựu đạn,
đạn cối, đạn pháo, bom, thùng phun lắp vào máy bay.

1.4.

Dấu hiệu địch sử dụng vũ khí hóa học

Khi địch sử dụng vũ khí hóa học có để lại một số dấu hiệu đặc trưng mà dựa
vào đó ta có thể phán đoán tình huống và có biện pháp phòng tránh để hạn chế
thiệt hại do vũ khí hóa học gây nên.
Bom đạn hóa học nổ trầm (hoặc không nổ mà xì khói dày đặc) xung quanh
hố bom đan có chất lỏng, chất bột lạ, mảnh vỏ bom đạn có ký hiệu của vũ khí hóa
học.
Máy bay thấp phun ra những dải mây, khói xẫm màu.
Hiện tượng chất lỏng, chất bột lạ trên mặt đất mái nhà, lá cây; cây cối héo
rũ.

Màn khói khả nghi từ phía địch lan sang trận địa ta.
Hiện tượng nước có váng bột, váng dầu, sủi bọt khả nghi.

ĐẠI CƯƠNG VŨ KHÍ HÓA HỌC
212


BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ



Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG

Hiện tượng ngửi mùi lạ, khó chịu và có dấu hiệu bị trúng độc (ho, khó thở,
chảy nước mắt, co giật, ngất, chạy toán loạn…)
Hiện tượng động vật (chim, súc vật, chuột, cá, côn trùng…) chết hàng loạt
hay chạy lung tung.
Mọi người khi phát hiện các dấu hiệu khả nghi cần phải thông báo, báo động
kịp thời và phải thực hiện các biện pháp phòng tránh ngay.
II. PHÂN LOẠI CÁC CHẤT ĐỘC HÓA HỌC CHIẾN TRANH
Hiện nay, trên thế giới cách phân loại chất độc hóa học chiến tranh chưa
thống nhất, mỗi nơi một khác. Để tiện cho việc nghiên cứu các chất độc chiến
tranh người ta sắp xếp phân loại chúng nhu sau:
Phân loại theo tính chất chiến thuật.
Các chất độc không bền vững. Loại này gồm có: hơi Sarin (GB), HCN,
Clorma Xyanogien, các chất gây ngạt.
Các chất độc bền vững. Loại này gồm các chất VX, Yperit, Yperitnito,
Lovizit.
Các chất độc bán bền vững. Là loại trung gian giữa hai loại trên gồm những
chất độc nguy hiểm vừa gây tác hại nhanh trên người vừa làm nhiễm độc địa hình

tương đối lâu dài, loại này gồm có Soman ở thể hơi.
Phân loại theo độ độc. Có hai nhóm chất độc quân sự sau:
Chất độc gây chết: bao gồm các chất độc có độ độc rất cao gây chết nhanh
như chất độc thần kinh, chất độc toàn thân và các chất độc trúng độc nặng rồi chết
sau vài ba ngày như chất độc loét da, chất độc ngạt thở.
Chất độc gây mất sức chiến đấu: có chất độc kích thích và chất độc tâm
thần.
Chú ý: cách phân chia chỉ là tương đối vì nó còn phụ thuộc vào liều lượng
trúng độc.
Phân loại theo tác dụng sinh lý.
Các chất độc tác hại với người được chia ra như sau:
 Chất độc gây kích thích
 Chất độc tâm thần;
 Chất độc gây ngạt;
 Chất độc gây loét nát;

ĐẠI CƯƠNG VŨ KHÍ HÓA HỌC
213


BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ



Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG

 Chất độc thần kinh;
 Chất độc toàn thân;
 Chất độc diệt cây và phá hoại mùa màng;
 Chất độc dùng để đầu độc gây rối và phá hoại hậu phương đối

phương;
 Các Chất độc nguồn gốc động vật.
2.1.

Chất độc gây kích thích:

Chất độc gây kích thích bao gồm những hợp chất hóa học có tác dụng chọn
lọc lên ngọn của những dây thần kinh cảm giác ở niêm mạc đường hô hấp trên, mắt
hoặc da, gây những phản xạ tại chỗ và được sử dụng nhằm mục đích làm mất tạm
thời khả năng chiến đấu của đối phương.

Nhóm chất độc

Ký hiệu của
quân đội Mỹ

Ý nghĩa quân sự

Brombenzylxyanit

CA

Chất độc dự trữ

Chloaxetophenon

CN

Tên gọi khoa học


Gây chảy nước mắt

Gây hắt hơi, rát mũi Diphenyl clorasin
họng
Diphenyl xyanszin
Diphenylaminclorasin

DA

Chất độc dự trữ

DC
DM

Trang bị chính thức

CS

Trang bị chính thức

(Adasmsit)
Gây chảy nước mắt, Octoclorobenzyliden
hắt hơi và rát da
malononitrin
Dibensyl 1,4 ocsazerin

CR

Có rất nhiều hợp chất đã được phát hiện có tác dung gây kích thích. Có thể
phân loại chất này theo tác dụng sinh lý hoặc cấu trúc hóa học. Theo tác dụng sinh

lý, chất độc gây kích thích được chia thành 3 nhóm chính:
 Nhóm kích thích niêm mạc mũi, đường hô hấp trên.
 Nhóm gây chảy nước mắt.
 Nhóm vừa gây kích thích đường hô hấp, vừa kích thích niêm mạc,
giác mạc, da.

ĐẠI CƯƠNG VŨ KHÍ HÓA HỌC
214


BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ



Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG

Dưới đây là một số điểm đáng chú ý về các chất độc gây kích thích được
trang bị chính thức trong quân đội Mỹ.
2.1.1. Chất độc CS:
Là một chất ở dạng tinh thể, màu trắng, mùi cay và tan ít trong nước; nhiệt
độ nóng chảy là 900C; nhiệt độ sôi là 3150C, điều đó quyết định tính chất bền vững
ở ngoại cảnh của CS.
CS ở dạng mịn có kích thước rất nhỏ nên khuyếch tán mạnh trong không
khí. Ngoài CS thường, Mỹ còn sản xuất CS – 1 và CS – 2. CS – 1 gồm 95% CS và
5% Silicagen. Bao bọc CS bằng Silion không hút ẩm, không tích điện. CS – 2 lơ
lửng trong không khí lâu hơn và bền vững hơn CS thường.
CS được sử dụng ở dạng bột mịn hoặc dạng khí (gây cháy).
Độc tính:
 Nồng độ tối thiểu gây kích thích: 0,1 – 0,3 mg/m3 không khí
 Nồng độ trung bình trong chiến đấu: 0,5 mg/m3 không khí

 Nồng độ không thể chịu đựng được: 1 – 5 mg/m3 không khí
 Nồng độ khó cứu chữa: 20 mg/m3 không khí
 Nồng độ gây chết người: 11 - 25 mg/m3 không khí
2.1.2. Adamsit có ký hiệu DM.
Là một chất ở dạng tinh thể màu vàng nâu, không mùi và được sử dụng ở
dạng hạt tinh thể có màu xanh đen, ở dạng khói ở dạng aeresol. Gây kích thích tai,
mũi, họng làm hắt hơi, ho, rát họng sau một thời kỳ tiềm khoảng 5-10 phút và kéo
dài 20-30 phút sau khi ngừng tiếp xúc với chất độc.
Ngoài ra, DM có thể gây nhiễm độc toàn thân Asen trong thành phần phân
tử.
Độc tính của Adamsit:
 ICt50: 20mg/phút/m3 (liều lượng tích lũy gây mất sức chiến đấu
50%).
 LCt50: 15000mg/phút/m3 (liều lượng tích lũy gây chết 50%).
2.1.3. Chất Dibensyl 1,4 ocsazerin (CR).
Dibensyl 1,4 ocsazerin là một chất ở dạng bột vàng, tan nhiều trong nước và
rất bền vững. gây kích thích mắt, mũi, họng và cả da rất mạnh và ngay lập tức sau
khi tiếp xúc với chất độc. triệu chứng nhiễm độc (giống như CS).
Cảm giác rát trên da có thể bị tái phát khi tiếp xúc với nước hoặc bị cọ xát.
Tác dụng kích thích da mạnh hơn CS khoảng 20 lần và là chất trung gian
giữa chất độc gây kích thích và chất độc gây đau da.

ĐẠI CƯƠNG VŨ KHÍ HÓA HỌC
215


BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ




Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG

Độc tính của CR thấp hơn CS rất nhiều.
 LD50 của CR qua đường tiêu hóa trên các loại động vật khác nhau là: 0,5 –
7g/kg trọng lượng.
 LD50 của CR qua đường tiêu hóa trên chuột cống là: 7,2 ± 2,5g/kg trọng
lượng. trong đó CS là 0,175 – 0,360 g/kg trọng lượng.
Độc tính của CR phụ thuộc vào từng loại dung môi.
2.1.4. Cơ chế gây nhiễm độc của chất độc gây kích thích.
Với nồng độ thường được sử dụng trong chiến đấu, CS chỉ có tác dụng đối
với niêm mạc đường hô hấp trên và chỉ với nồng độ cao mới có tác dụng với phế
nang, gây phù phổi cấp.
Chất độc gây kích thích đã được xác định là những chất có khả năng phản
ứng với nhóm –SH hoặc các nhóm chức năng quan trọng nhất của các đại phân tử
khi chúng tiếp xúc với niệm mạc và làm biến đổi một phần hoặc toàn bộ cấu trúc
của các phân tử này và do đó gây nên phản ứng kích thích.
Cảm giác bỏng da, nhất là vùng quanh miệng và những vùng da ẩm ướt.
triệu chứng rát da xuất hiện chậm hơn so với hắt hơi và chảy nước mắt nhưng lại
tồn tại lâu hơn.
2.1.5. Xử lý cấp cứu (xem phần nội dã chiến) trong chương nhiễm độc chất độc
hóa học chiến tranh.
2.2.

Chất độc tâm thần

2.2.1. Đại cương
Trong những năm chín mươi, ở Mỹ bắt đầu nghiên cứu phát triển một chất
độc quân sự mới có tác dụng loại khỏi vòng chiến đấu tạm thời, bằng cách gây
những rối loại tâm thần hoặc thể lực. Nhóm chất độc mới này được gọi tắt là chất
độc tâm thần.

Là những chất độc quân sự, với liều rất nhỏ đã gây ra rối loạn tâm thần, thần
kinh thực vật hoặc rối loạn vận động, làm giảm hay mất khả năng chiến đấu và lao
động trong thời gian nhất định.
Theo các chuyên gia quân sự nước ngoài, việc Mỹ sử dụng chất độc tâm
thần trong chiến tranh có những “thế lợi” sau:
Trốn tránh được sự ràng buộc và phản đối của dư luận và các hiệp ước quốc
tế.
Không gây chết người (với liều vẫn được sử dụng trong chiến đấu) nên có
thể bắt sống được tù binh.

ĐẠI CƯƠNG VŨ KHÍ HÓA HỌC
216


BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ



Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG

Có thể tiến công vào hậu phương, nơi có nhiều dân thường không có trang bị
phòng hóa đầy đủ.
Về mặt chiến thuật nhằm đạt mục đích sau:
Tiến công vào địa điểm “cài răng lược” hoặc hậu phương.
Làm tê liệt hoạt động của các trung tâm thông tin, sở chỉ huy, đầu mối giao
thông…
Gây rối loạn những đơn vị đã ở trong tình trạng hốt hoảng hoặc kiệt quệ về
mặt thể lực.
Chuẩn bị cho những đợt tiến công bằng vũ khí thông thường hoặc các loại
vũ khí hủy diệt lớn khác.

2.2.2. Phân loại
Số lượng các hợp chất có tác dụng gây rối loạn tâm thần rất nhiều nhưng chỉ
có một số rất ít có thể sử dụng vào mục đích chiến tranh. Có thể phân các chất này
thành 2 nhóm chính:
Nhóm
chất độc

Chất
gây bất
lực

Nguồn gốc
điều chế

Tên chất độc

Ý nghĩa quân
sự

Tổng
hợp - Các thuốc: ức chế hạch dãn cơ, giảm -Chưa xác định
hóa học hoặc đau, trấn tĩnh….
-Chưa xác định
thiên nhiên
- Các chất gây mất điều hòa vận động:
+ Tremorin (1,4-Dypiro-lidin-2butin).
+ IDPN (Imino-dipropioni-tril).

Chất
gây rối

loạn tâm
thần

Nguồn gốc - Dẫn xuất của axit liser-gic (LSD).
thiên nhiên
- Meskalin. Psilozibin, Harmalin
Tổng
hợp Lannebinol
hóa học
- DMT (N.N.Dimetyltryp-tamin)

-Chất dự trữ
-Chưa xác định
-Chưa xác định

DOM, MDA (Ampheta-tamin)
- Dẫn xuất của piperidyl:
+ Benzilat (BZ)
+ Glycalat

- Trang bị
chính thức

Các chất gây bất lực là những chất gây mất sức lao động bằng cách gây liệt
cơ, gây ngủ, rối loạn điều hòa vận động, gây giảm lực hoặc mù…

ĐẠI CƯƠNG VŨ KHÍ HÓA HỌC
217



BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ



Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG

Các chất gây rối loạn tâm thần, gây nên triệu chứng lâm sàng giống bệnh
tâm thần. một số chất đặc biệt BZ đã được quân đội các nước đế quốc trang bị làm
vũ khí hóa học.
Chất độc BZ:
Là chất gây rối loạn tâm thần mạnh nhất hiện nay. BZ được nạp vào một số
loại bom đạn, trong các loại vũ khí này BZ được trộn với hỗn hợp gây cháy và khi
nổ sẽ giải phóng BZ dưới dạng aerosol. Đám mây chất độc BZ được tạo ra có màu
trắng, tương đối dễ phân biệt.
Ở dạng bụi sương nhỏ li ti, BZ có thể dính bám rất lâu bộ phận lọc độc của
mặt nạ. Ngoài ra BZ còn dùng làm chất đầu độc nguồn nước hoặc thực phẩm cũng
như phối hợp với các loại vũ khí gây thủng mặt nạ để gây nhiễm độc có hiệu quả
hơn.
BZ ở dạng tinh thể, màu trắng, không mùi, vị đắng nhẹ không tan trong
nước và có nhiệt độ nóng chảy (3220C). Độ bền vững với nhiệt độ là yếu tố cần
thiết để sử dụng với hỗn hợp gây cháy, BZ rất bền vững ở ngoại cảnh, thời gian tác
dụng từ 3 – 4 tuần.
BZ có áp lực hơi thấp và khả năng bốc hơi rất nhỏ (0,5mg/m3 ở 700C).
Tốc độ thủy phân rất chậm, ở nhiệt độ 250C và PH7, thời gian thủy phân một
nửa là 3 – 4 tuần và tạo ra axit benzilic và quinuclidinol.
Cũng như các dẫn xuất khác của piperidylbenzilat và glycolat, BZ có thể
phản ứng với axit hữu cơ và vô cơ tạo thành các muối tương ứng, các muối này dễ
dàng tan trong nước, dùng đầu độc nguồn nước và thực phẩm.
Liều gây rối loạn tâm thần của BZ vào khoảng: 0,5 – 3mg/ người.
Triệu chứng lâm sàng, cấp cứu điều trị (xem phần nội khoa dã chiến – bài

24).
2.3.

Chất độc gây ngạt (gây phù phổi cấp)

Gồm có chất phốt gien ký hiệu CG, diphotgien ký hiệu DP.
Chất gây nhiễm độc toàn thân có đặc điểm là gây chết rất nhanh qua đường
hô hấp như axit xianhhydirc ký hiệu AC và oxyt cacbon.
2.4.

Chất độc gây loét nát da

2.4.1. Đại cương
Chất độc loét nát là một trong những chất độc được sử dụng trong Đại chiến
thế giới lần thứ nhất là chất Diclodietyl sunfua. Là loại chất độc gây loét nát da và
niêm mạc, đồng thời thấm hút vào cơ thể gây nhiễm độc toàn thân. Trong các loại

ĐẠI CƯƠNG VŨ KHÍ HÓA HỌC
218


BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ



Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG

vũ khí gây chết người, chất độc loét được xếp vào thứ hai sau chất độc thần kinh.
Nhóm chất độc này có một số đặc điểm sau:
Có tác dụng chậm, gây tử vong muộn.

Bền vững ở môi trường, ít bốc hơi, tương đối ổn định.
Xâm nhập vào cơ thể bằng cả ba con đường có thể dùng hình thức vũ khí
hóa học hoặc dùng đầu độc nguồn nước, lương thực, thực phẩm.
Có khả năng ngấm qua các vật liệu dùng làm phương tiện bảo vệ, đóng gói,
bảo quản. Như cao su, da, nilon, vải nhất là trong điều kiện độ ẩm cao.
Vừa gây nhiễm độc toàn thân, vừa gây tổn thương tại chỗ nên công tác đề
phòng, cấp cứu và điều trị rất khó khăn thời gian điều trị kéo dài.
Đại diện cho nhóm chất độc này là các chất: Yperit (Diclodietyl sulfua),
Yperit nito (Triclotrietylamin) và Lovizit (Clovinyl dicloasin).
Trong đại chiến thế giới lần thứ nhất các nhà hóa học quân sự tìm những hóa
chất gây tổn thương da. Họ chú ý đến tính chất rộp phồng loét nát của chất độc
này. Sau khi nghiên cứu họ đưa vào sản xuất, ở Đức chất độc có tên là LOST là tên
đầu của hai nhà bác học Đức Lô mi và Stêincôp (Hai nhà bác học đã đưa ra
phương pháp sản xuất Yperit trong công nghiệp).
Ngày 13/07/1917 quân Đức đã sử dụng lần đầu tiên đánh vào quân Pháp ở
thành phố Ypress ở Bỉ và đã gây thiệt hại lớn. Từ đó người Pháp đặt tên cho chất
độc này là Yperit. Xuất phát từ mùi đặc biệt của chất độc này người Anh gọi là khí
mù tạc, ở Đức gọi là chữ thập vàng (vì trên bom có chứa chất độc này có ký hiệu
chữ thập màu vàng). Quân đội Mỹ ký hiệu chất độc này bằng chữ HD, HS, H. Hiện
nay, các nước NATO ngoài chất độc Yperit còn có chất oxy – Yperit, các chất này
bền vững hơn độc tính cao hơn Yperit 2 – 3 lần.
2.4.2. Tính chất
Tính chất lý học:
Yperit tinh khiết là một chất lỏng, sánh, không có màu, ít bay hơi. Loại
thông thường dùng trong chiến tranh có màu nâu đen và mùi tỏi. mũi có thể ngửi
thấy mùi này với nồng độ Yperit từ 0,001 – 0,002 mg trong 1 lít không khí. Yperit
sôi ở 2170C, như vậy Yperit khó hòa tan trong nước (ở 150C chỉ hòa tan được
0,07), dể hòa tan trong dung môi hữu cơ với nhiều chất độc khác. nồng độ tối đa
của Yperit trong không khí phụ thuộc vào nhiệt độ, nhiệt độ càng cao nồng độ
trong không khí càng lớn.

Ví dụ:
Nhiệt độ 5 0C nồng độ là 0,278 mg/l.
Nhiệt độ 300C nồng độ là 2,135 mg/l.

ĐẠI CƯƠNG VŨ KHÍ HÓA HỌC
219


BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ



Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG

Yperit đông đặc ở - 1480C, vì vậy ở chiến trường xứ lạnh Yperit thường
được trộn lẫn với một chất làm hạ nhiệt độ đông đặc của Yperit. Đáng chú ý là hỗn
hợp Yperit và Lovizit có nhiệt độ đông đặc thấp nên người ta hay sử dụng hỗn hợp
này. Tỷ trọng của Yperit tinh khiết ở 150 là 1,279. Tỷ trọng của hơi Yperit là 5,5
(hơi Yperit nặng gấp 5,5 lần không khí).
Độ ngấm của Yperit qua các vật như sau:
 Ngũ cốc để thành đống: 5cm sau 1 giờ.
 Ngũ cốc để trong bao: 2cm sau 1 giờ.
 Thịt: 5cm sau 1 giờ.
 Mặt đất xốt: 10cm sau 1 giờ.
 Gỗ sơn: 2 – 3mm dưới lớp sơn sau 1 giờ.
 Gỗ không sơn: 4cm nếu dọc thớ sau 1 giờ.
 Kim loại sơn: chỉ thấm qua lớp sơn.
Ký hiệu quân sự: HD, H. thường sử dụng ở dạng giọt lỏng. trong chiến
tranh được dùng chủ yếu trong chiến đấu phòng ngự.
Tính chất hóa học:

Khi tác dụng với nước, Yperit bị thủy phân. Quá trình thủy phân tạo ra
Thiodiglycol không độc.
Yperit phản ứng với chất oxy hóa sẽ tạo thành Diclodietyl. Sunfoxit ít độc,
không gây loét nát da và niêm mạc.
Nếu phản ứng với chất oxy hóa sẽ tạo thành Diclodietyl. Sunfua rất độc và
gây loét nát da, niêm mạc.
Yperit phản ứng với Monocloramin tạo thành Sunfin benzo Sunfimin không
độc, áp dụng để tiêu độc da.
Yperit phản ứng với Dieloramin tạo thành Dielodietylsunfoxyt không độc,
áp dụng để tiêu độc dụng cụ nhỏ.
Phản ứng thủy phân có thể sử dụng để tiêu độc Yperit.
Dung dịch Na2S trong cồn, nhất là khi đun nóng, phản ứng nhanh với Yperit
tạo thành một chất không độc là dithian.
Yperit phản ứng với chất Clo hóa mạnh như Hexaelmomelamin trong
Dieloetan sẽ tạo ra Tettaclodietyl sunfua không độc. Phản ứng xảy ra bằng cách
thay thế hết các nguyên tử H trong phân tử Yperit bằng nguyên tử Clo.
2.4.3. Độc tính
Độc tính của Yperit:
Độc tính của hơi Yperit trên da
Trình độ

Nồng độ (mg/lít)

ĐẠI CƯƠNG VŨ KHÍ HÓA HỌC
220

Chú thích


BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ


tổn thương



Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG

Tiếp xúc
trong 5’

15
phút

60 phút

180 phút

Da đỏ lên

0,025

0,02

0,006

0,002

Những nốt
phồng nhỏ


1

0,4

0,3

Những nốt
phồng to

2

0,8

0,75

Những quần áo vải mỏng
0,1 – 0,15 (nhất là quần áo mặc
mùa hè) không bảo vệ
được da đối với hơi
0,3
Yperit.

Độc tính của Yperit thể lỏng (giọt) rơi trên da
Liều lượng (mg/cm2)
Trình độ tổn thương

Da

Qua quần áo loại kaki
dày


Qua quần áo len, dạ
dày

Sau 5ph

Sau 1 giờ

Sau 3 giờ

Sau 15ph

Da đỏ lên

0,01

0,05 – 0,1

0,05 – 0,1

10 – 20

3–5

Những nốt phồng nhỏ

0,15

0,5 – 0,7


0,3

35

25

Những nốt phồng to

0,2

0,8

0,5

40

30

Độc tính của Yperit qua đường hô hấp
Nồng độ (mg/lít)
Trình độ
tổn thương

Hỗn hợp

Sau 5ph

Sau 15ph

Sau 1 giờ


Sau 3 giờ

0,05

0,1

0,015

0,01

0,001-0,002

0,8 – 1,0

0,35

0,2

0,1

0,02

hơi và sương
Không chết
Chết

Liều chết tuyệt đối (LC-100) của Yperit là:
Thể hơi Yperit trong 5 phút: 0,35 mg/l.
Giọt Yperit rơi trên da trong vòng 60 phút 100mg/kg.

Độc tính của Lovizit:
Tác dụng của Lovizit ở thể hơi như sau (qua đường hô hấp)
Nồng độ (mg/lít)
Trình độ tổn
thương

Tiếp xúc

Tiếp xúc

Tiếp xúc

Tiếp xúc

2 phút

5 phút

15 phút

60 phút

ĐẠI CƯƠNG VŨ KHÍ HÓA HỌC
221


BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ




Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG

Không chết

0,25

0,1-0,15

Khoảng 0,07

0,04

Chết

0,9

0,4

0,25

0,08-0,1

Nếu da tiếp xúc với Lovizit ở thể hơi, liều gây loét da là 0,334mg/l
Nếu Lovizit ở thể lỏng: liều thấp nhất gây loét da là 0,05 – 0,1 mg/cm2.
2.4.4. Cơ chế gây nhiễm độc
Cơ chế gây nhiễm độc của Yperit và Yperit nito chưa được giải thích rõ ràng,
các thuyết giải thích về cơ chế gây nhiễm độc của chúng có thể trình bày như sau:

2.4.4.1. Tác dụng alkyl hóa
Cơ chế tác dụng của Yperit và Yperit nitơ rất giống nhau. Tác dụng của

chúng ở trong cơ thể là nhờ nhóm ClO – ALKYL. (CL -- CH2 CH2S – hoặc CL -CH2 CH2N=). Vì thế nhóm Clo – alkyl được coi là tác nhân ALKYL hóa, chúng
kết hợp với các nhóm -- CH2, -- SA, -- OH của protein, enzym nucleotit và các
chất khác. alkyl hóa là phản ứng thế, trong đó có sự nối gốc alkyl CnH 2n-1 của chất
A với một bộ phận tác nhân của chất B.
Khi rơi trên da, Yperit alkyl hóa tất cả protein của tế bào ở tại chỗ làm
biến đổi hoàn toàn cấu trúc của protein và làm chết tế bào. Biểu hiện của nó là quá
trình viêm nhiễm hoại tử.
Khi thấm vào máu Yperit alkyl hóa bazo nito của axit nucleit Yperit kết hợp
dễ dàng với nguyên tử nito của guanin và adenin, alkyl hóa chúng, dẫn đến sự xuất
hiện nito hóa trị 4 không bền vững, làm khung đường – photpho – nito của AND bị
phá vỡ dẫn đến sự giải trùng hợp của axit nucleit.
Cấu trúc của AND bị đảo lộn, làm thương tổn đến thể nhiễm sắc, gây ra rối
loạn về di truyền. đó là tác dụng gây đột biến của Yperit. Mặt khác, chức năng của
AND bị rối loạn sẽ dẫn đến sự rối loạn tổng hợp protein, gây ức chế quá trình tái
tạo tổ chức, làm giảm rất mạnh quá trình phát triển tế bào. Nơi nào tổ chức tế bào
sinh sản mạnh, nơi đó nhạy cảm với Yperit hóa như: tủy xương, lách, niêm mạc
ruột, hệ thống võng mạc nội mô.

ĐẠI CƯƠNG VŨ KHÍ HÓA HỌC
222


BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ



Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG

Do tác dụng làm giảm mạnh quá trình phát triển tế bào nên một số sản phẩm
của Yperit nito (như enbixin, sacolisin…) được dùng để chữa bêïnh máu ác tính:

leucose và lympho hạt.
2.4.4.2. Tác dụng giống bức xạ ion hóa
Yperit và đặc biệt là Yperit nitơ gây ra biến đổi trong cơ thể, tương tự như
trong sinh bệnh học tổn thương của bức xạ ion hóa. Vì vậy người ta gọi chúng là
“chất độc giống phóng xạ”. Các thuốc bảo vệ phóng xạ như Cystamin, AET
(aminoetyliothioure) cũng làm giảm nhẹ tổn thương của Yperit và Yperit nitơ.
Người ta đã xác định được rằng, trong thời gian rất ngắn lúc bắt đầu Yperit
bị thủy phân ở trong cơ thể, có hình thành ra các hợp chất oxy vòng như là có sự
xếp sắp lại lớp điện tử ở bên trong: ion sunfony (I) và ion etylenimony (II).
Các cathion này có khả năng phản ứng rất mạnh, gây ra tính alkyl hóa và
ngay lúc đó, chúng có thể ion hóa nước tạo thành các gốc tự do H, OH, OH2 gây
độc cho cơ thể tổn thương bởi bức xạ ion hóa.
Tuy nhiên tổn thương do Yperit và bức xạ ion hóa có khác nhau:
Nhân tế bào nhạy cảm với Yperit hơn bức xạ ion hóa.
Bức xạ ion hóa làm sai lệch cả thể nhiễm sắc và nhiễm sắc tử, còn Yperit chỉ
làm sai lệch nhiễm sắc tử.
Sau 8 giờ, tác dụng làm chậm sự phát triển tế bào của Yperit mới rõ, còn với
bức xạ ion hóa thì xảy ra tức khắc. Oxy không làm nặng thêm tổn thương của
Yperit, với bức xạ ion hóa lại làm tăng số sai lệch.
2.4.4.3. Tác động lên hệ thống enzym
Yperit làm giảm hoạt tính của một số enzym như: Hexokinaza,
Colinesteraza, oxydaza, dehydrogenaza. Từ đó gây rối loạn quá trình oxy hóa khử
ở tổ chức, rối loạn quá trình chuyển hóa Cacbon – photpho, các chất điện giải…
2.4.4.4. Phóng bế thu cảm thể α adreno
Yperit phóng bế có chọn lọc tới các thụ cảm thể anpha – adreno, làm giãn
đoạn các xung động thần kinh qua đó. Hậu quả là cơ thắt của tiền mao mạch bị suy
yếu, gây ứ đọng máu làm giảm lưu lượng máu trong tuần hoàn.

ĐẠI CƯƠNG VŨ KHÍ HÓA HỌC
223



BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ



Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG

Tác động lên hệ thần kinh: các tổ chức tổn thương do Yperit là nguồn xung
động bệnh lý tới các neuron thần kinh, gây ra hậu quả tiếp theo. Các rối loạn toàn
thân như hạ huyết áp, thiếu oxy… phát sinh ở mức độ nào đó là do sự rối loạn mối
tương quan bình thường của quá trình cơ bản trong hệ thống thần kinh trung ương.
Cơ chế bệnh sinh của các nốt phồng trên da:
Tiếp xúc với Yperit
Chất độc tiếp xúc với da
Xâm nhập vào lớp biểu bì
Phản ứng alkyl hóa
Tăng tính thấm màng tế bào
Giải phóng các enzym phân hủy protein
Và các chất làm tổn thương thành mạch

Rối loạn vi tuần hoàn
Tăng tính thấm tiết dịch

Hoại tử
biểu bì
Nốt phồng

ĐẠI CƯƠNG VŨ KHÍ HÓA HỌC
224



BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ



Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG

Bảng so sánh đặc điểm tổn thương da của Yperit và Lovizit
Tổn thương da bởi Yperit

Tổn thương da bởi Lovizit

- Khi chất độc rơi vào da không có cảm Khi chất độc rơi vào da có cảm giác đau
giác đau.
và rát bỏng.
-Ngấm hoàn toàn qua da sau 20-30 phút. -Ngấm hoàn toàn qua da sau 5-10 phút.
- Thời kỳ tiềm: 2-12 giờ.

- Thời kỳ tiềm: 10-20 phút.

- Ban đỏ ít đau, ít phù tấy kèm theo - Ban đỏ rực, đau nhiều, phù tấy mạnh
ngứa.
nhô lên khỏi da lành.
- Hình thành nốt rộp phồng sau: 12-24 - Hình thành nốt rộp phồng sau: 2-3
giờ.
giờ.
- Thoạt đầu là những nốt rộp phồng nhỏ, - Hình thành ngay nốt rộp phồng lớn.
xuất hiện ở ngoại vi xung quanh vết Nhiều khi xung quanh có theo nốt xuất
ban, sau to ra và nhập vào nhau thành huyết nhỏ.

nốt rột phồng lớn hơn.
- Quá trình viêm đạt đến mức tối đa sau - Quá trình viêm đạt đến mức tối đa sau
10-14 ngày. Giai đoạn tái tạo bắt đầu 2-3 ngày. Giai đoạn tái tạo bắt đầu sau 1
sau 2-4 tuần.
tuần.
- Thời gian liền sẹo rất chậm sau 1-4 - Thời gian liền sẹo nhanh hơn sau 2-4
tháng.
tuần.
- Sau khi liền sẹo để lại những sắc tố - Sau khi liền sẹo không để lại những
xung quanh.
sắc tố xung quanh.
- Thường dễ bị nhiễm trùng thứ phát.
- Ít bị nhiễm trùng thứ phát.
2.4.5. Triệu chứng lâm sàng, dự phòng và cấp cứu điều trị
(Xem phần nội khoa dã chiến – Bài 24)
2.5.

Chất độc thần kinh

2.5.1. Đại cương
Chất độc thần kinh còn gọi là chất độc phốt pho hữu cơ, có cấu trúc chung
như sau:
R1
P
R2

X
O

ĐẠI CƯƠNG VŨ KHÍ HÓA HỌC

225


BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ



Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG
-

Trong đó: R1, R2 là nhóm alkyl, alkoxyl; X là gốc axit F , CN

-

Hoặc cholin, Thiocholin, v.v…
Các hợp chất lân hữu cơ có độc tính cao, được dùng làm chất độc quân sự
như: sarin, VX… còn các hợp chất có độc tính thấp được dùng làm thuốc trừ sâu,
sử dụng rất rộng rãi trong nông nghiệp, gây tai nạn tử vong như: vofatox (metye
paration) paration, D.D.V.P, thiophos, chlorophos…
Chất độc thần kinh được chia làm hai loại chính:
Loại G có các chất Tabun GA, sarin GB và Somab GD.
Loại V có các chất VX, edemo, VR55… là loại bền vững ngoài trời và độc
tính qua da rất cao.
(CH3)2N

Chất độc loại G:

O

P

C2H5O

CN

Tabun tinh khiết là một chất lỏng không màu hoặc có màu hơi vàng, không
mùi, tỷ trọng hơi so với không khí là 5,6. Nhiệt độ sôi của Tabun là 2370, vì vậy
Tabun cũng làm nhiễm độc lâu dài. Nhiệt độ đông đặc là - 480C. Loại Tabun dùng
trong chiến tranh có màu vàng nhạt, có mùi hạnh nhân. Tabun tan trong nước, tan
nhiều trong các dung môi hữu cơ như cồn, aceton, dicloetan.
Ở nhiệt độ 200 nồng độ hơi cực đại của Tabun là 0,6mg trong 1 lít không
khí, ở 250 là 0,65 mg trong 1 lít không khí.
Sarin là chất độc thần kinh có độc tính cao hơn Tabun. Trong chiến tranh
hóa học Sarin có nhiều khả năng được sử dụng hơn Tabun. Hình thức sử dụng là
bom, đạn đại bác, mìn có chứa Sarin.
(CH3)2CHO

O

P
CH3

F

Sarin là một chất lỏng không màu, nhiệt độ sôi ở áp suất chuẩn của Sarin
là 1470C, nhiệt độ đông đặc là – 540C. Sarin dễ tan trong các dung môi hữu cơ và
cả trong nước.
Soman là chất độc mạnh nhất so với Tabun, Sarin.
CH3
P
(CH3)2CCHO


O
F

Soman là một chất lỏng không có màu. Chất dùng trong chiến tranh hơi có
mùi long não. Soman sôi ở nhiệt độ 1850 – 1870 và ở nhiệt độ này cũng bị phân
hủy. nhiệt độ đông đặc của Soman là – 700, tỷ trọng ở 200 là 1,03. Khí Soman nặng
gấp 6,33 lần so với không khí. Độ bay hơi tối đa của Soman ở 200 là 2mg/l, ở 250
là 3,9 mg/l, ở 300 là 5,8 mg/l. Soman được sử dụng trong chiến tranh dưới hình

ĐẠI CƯƠNG VŨ KHÍ HÓA HỌC
226


BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ



Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG

thức chất lỏng để phun hoặc hình thức bom hoặc đạn đại bác nhồi Soman để làm
nhiễm độc khu vực.
Chất độc loại V:
Chất độc loại V hay các hợp chất Tamelin (Do Tamelin người Thụy Điển
công bố đầu tiên vào năm 1958) là các Phosphorrylthiocholin.
Chất độc loại V có 3 đặc điểm quan trọng:
 Độc tính rất mạnh, mạnh hơn chất độc thần kinh loại G hàng trăm đến
hàng nghìn lần.
 Rất bền vững.
 Có tính thấm qua da rất lớn.

2.5.2. Đặc điểm và chiến thuật sử dụng:
Đặc điểm:
Chất độc thần kinh vừa tương đối bền vững, vừa gây chết người nhanh, hiện
nay vẫn được coi là những chất độc nguy hiểm nhất trong chiến tranh hóa học.
Có độc tính rất mạnh, có khả năng gây sát thương nhanh, vì vậy được sử
dụng trong tiến công là chủ yếu.
Chất độc thần kinh bốc hơi nhanh, để tạo thành dạng sol khí, nên có khả
năng tạo nồng độ chiến đấu rất cao.
Các chất độc thần kinh đều không màu, không mùi, không vị, nên rất khó
phát hiện bằng cảm giác.
Có thể xâm nhập vào cơ thể qua nhiều đường khác nhau: qua đường hô hấp,
qua da (ngay cả dạng hơi), qua đường tiêu hóa và vết thương.
Tan trong nước và dung môi hữu cơ, thủy phân tương đối chậm, có thể gây
nhiễm độc nguồn nước, lương thực và thực phẩm.
Tính thấm lớn, đặc biệt là chất độc V.
Dự phòng bằng mặt nạ phòng độc có hiệu quả tốt, có thuốc điều trị đặc hiệu.
Chiến thuật sử dụng:
Chất độc thần kinh được sử dụng bằng bom, mìn, đạn pháo và đạn cối, tên
lửa, phun từ máy bay dưới dạng giọt lỏng hoặc sol khí (aerosol). Thường sử dụng
tập trung, bất ngờ, để tạo nồng độ chiến đấu cao. Chất độc thần kinh cũng có thể
được sử dụng trong phòng ngự (chất độc V), đánh chặn rút lui.
2.5.3. Đặc tính của chất độc thần kinh:

ĐẠI CƯƠNG VŨ KHÍ HÓA HỌC
227


BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ

Thời gian tồn tại ở

ngoại cảnh:



Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG

Tabun (GA)

Sarin (GB)

Soman (GD)

VX

10 – 12 giờ

15ph–3 giờ

10 – 20 giờ

3–21 ngày

100

70

10 – 30

20 – 25


8 – 15

0,1 – 0,3

30 giây-15ph

2 – 5 phút

3 – 30 phút

2 – 4 phút

2 – 30 phút

2 – 5 phút

5 – 80 phút

Lỏng

Lỏng, khói

Lỏng

Son khí

LC50 (mg/l/ph) đối
250mg/m3/ph
với người (dự tính):
LD50 (mg/kg) qua

da với người:

10 – 25

Thời gian tiềm: qua
30 giây–10ph
đường hô hấp
Qua da
Dạng sử dụng

2.5.4. Cơ chế nhiễm độc của chất độc thần kinh:
Cơ chế nhiễm độc của chất độc thần kinh rất phức tạp, tuy chúng ta đã hiểu
biết khá nhiều, nhưng chưa thực đầy đủ. Hiện nay có hai cơ chế nhiễm độc cấp chủ
yếu được giải thích tóm tắt như sau:
Ức chế enzym Cholinesteraza (ChE).
Chất độc thần kinh có tác dụng ức chế không hồi phục enzym, ChE, làm cho
Axetylcholin (Ach) ứ đọng lại trong các khâu dẫn truyền của hệ thần kinh
Cholinergic, lúc đầu gây hưng phấn của cơ quan do hệ thần kinh này chi phối, sau
đó gây ức chế và tê liệt.
Sự thủy phân Ach.
Bình thường enzym ChE thủy phân Ach thông qua trung tâm hoạt động của
enzym. Trung tâm hoạt động của enzym ChE có hai bộ phận chính:
Bộ phận âm cực (mang điện tích âm) và bộ phận phân giải este (esterazic).
Sự ức chế enzym ChE của chất độc thần kinh.
Trong phân tử chất độc thần kinh có nguyên tử photpho hóa trị năm, có khả
năng bị phân cực giống nguyên tử cacbon trong nhóm cacboxyl của Ach. Tức là
nguyên tử oxy có lực hấp dẫn điện tử mạnh hơn, kéo lệch đám mây điện tử về phía
nó và làm cho nguyên tử photpho mang điện tích dương (denta dương: +6).

ĐẠI CƯƠNG VŨ KHÍ HÓA HỌC

228


BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ



Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG

Tác dụng trực tiếp của chất độc thần kinh lên Receptor (ChR).
Các receptor cholinergic (AchR) là nơi tiếp nhận sự tương tác của Ach, được
phân bố rộng rãi trên các màng Sinap thần kinh, tiếp điểm thần kinh cơ, tấm vận
động cơ vân… Các AchR cũng được chia ra làm hai loại:
Mreceptor (M.AchR) và Nreceptor (N.AchR). các trung tâm thần kinh có cả
hai loại receptor này. Về mặt cấu trúc, các receptor có cấu trúc, tương tự trung tâm
hoạt động của ChE. Về chức năng, các receptor có khác ChE ở chỗ: sau khi tương
tác với Ach, gây hiện tượng khử cực ở màng và đưa đến các đáp ứng sinh học.
Chính vì vậy, khi chất độc tương tác lên receptor sẽ đưa đến một loạt các biến đổi
chức năng sinh lý quan trọng. tuy chưa được nghiên cứu tường tận, nhưng cơ chế
này có vai trò quan trọng trong nhiễm độc chất độc thần kinh.
2.5.5. Triệu chứng cơ bản nhiễm độc chất độc thần kinh:
Triệu chứng nhiễm độc cấp tính chất độc thần kinh rất phức tạp, nhưng có
thể đưa ra làm ba nhóm chính:
Triệu chứng trên hệ M cholinergic.
Co đồng tử: do cơ vòng mống mắt bị co thắt. nồng độ chất độc thần kinh
2mg/l trong không khí đã gây co được đồng tử, có thể đồng tử hai bên co không
đều nhau. Hậu quả là:
Mờ mắt, cảnh vật trở nên tối sẫm, gây tác động tâm lý rất mạnh. Co đồng tử
là dấu hiệu quan trọng để chẩn đoán nhanh trong điều kiện dã ngoại.
Khó thở nặng: chủ yếu là khó thở ra (khó thở kiểu hen) do co thắt cơ vòng

khi tế quản.
Cao huyết áp tạm thời do co mạch ngoại vi, sau đó huyết áp hạ do tim đập
quá chậm.
Tiêu hóa: do co thắt mạch cơ trơn dạ dày, ruột, gây ra đau bụng, nôn, ỉa
chảy. Khi mổ tử thi, ruột co thắt thành từng khúc, giống chuỗi tràng hạt.
Tăng tiết các tuyến: tăng tiết mồ hôi, nước bọt và đờm rãi.
Các triệu chứng trên hệ M cholinergic là biểu hiện của hiện tượng cường
phó giao cảm, được khống chế bởi Atropin và các chất cùng loại.
Triệu chứng trên hệ N cholinergic
Các sợi cơ vân hưng phấn gây rung cơ (fibric lation), lúc đầu rung cơ cục
bộ, sau đó rung cơ toàn thân, cuối cùng là liệt cơ. Triệu chứng này không rầm rộ
nhưng nguy hiểm vì gây liệt cơ hô hấp.
Tăng tiết catecholamin ở tủy thượng thận, gây co mạch ngoại vi và tăng
huyết áp ở giai đoạn đầu. Dấu hiệu này chỉ quan sát được trong thực nghiệm, trên
bệnh nhân thường qua đi rất nhanh nên khó phát hiện.

ĐẠI CƯƠNG VŨ KHÍ HÓA HỌC
229


BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ



Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG

Triệu chứng trên hệ thần kinh trung ương:
Các cơ ở mặt, ở cổ và đùi co giật trước, sau đó co giật toàn thân kiểu động
kinh. Co giật chỉ xuất hiện ở những bệnh nhân nặng. rối loạn phối hợp vận động
(Ataxia).

Rối loạn về tâm thần. các trung khu hô hấp và tuần hoàn bị ức chế gây loạn
nhịp thở, ngừng thở và trụy tim mạch. Mất dần các phản xạ, hôn mê ngày càng sâu.
2.5.6. Nguyên nhân gây tử vong
Liệt trung khu hô hấp và tuần hoàn là nguyên nhân chủ yếu đưa đến tử vong.
Gián đoạn dẫn truyền xung động thần kinh – cơ, đưa đến liệt cơ hô hấp là
nguyên nhân quan trọng.
Tim đập chậm, lưu lượng tuần hoàn giảm, huyết áp hạ, ngừng tim… là
nguyên nhân cuối cùng đưa đến tử vong.
Co thắt khí phế quản, đờm rãi tiết nhiều làm tắc đường hô hấp, là nguyên
nhân hỗ trợ làm tăng quá trình thiếu oxy.
2.5.7. Triệu chứng lâm sàng, cấp cứu điều trị (xem phần nội dã chiến).
2.6.

Các chất diệt cỏ và làm rụng lá cây

Các chất này dùng vào mục đích chiến tranh mà đại diện chính là các dẫn
xuất của 2,4D (2,4 diclorphenoxy axetic axit); 2, 4, 5T (2, 4, 5
triclorophenoxyaxetic axit), dẫn xuất của axit cacodylic.
Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, quân đội Mỹ đã dùng các chất
da cam (hỗn hợp các butyl este của 2,4D và 2, 4, 5T) chất xanh (dẫn xuất của axit
caco-dylic) và nhiều loại chất khác để phá hoại mùa màng, lương thực, làm trụi lá
rừng đồng thời gây nhiễm độc phá hoại cấu trúc và làm biến đổi gen di truyền, gây
biến dị, quái thai cho người và gia súc ở Việt Nam.
2.7.

Các chất độc dùng để gây rối và phá hoại hậu phương đối phương

Các chất thường dùng vào mục đích này là các muối của Asen, các alcaloit
độc, các dẫn xuất của floaxetic axit.
2.8.


Các chất độc nguồn gốc động vật.

Các chất độc này có độc tính rất cao hiện cũng đang được quân đội các nước
đế quốc quan tâm nghiên cứu như độc tố batrashotoxin lấy từ một loài nhái ở rừng
nam Mỹ, độc tố saxitoxin lấy từ loài hến.
*********

ĐẠI CƯƠNG VŨ KHÍ HÓA HỌC
230



×