Tải bản đầy đủ (.doc) (125 trang)

Luận văn thạc sĩ báo chí học Thông tin khoa học kỹ thuật phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn trên báo chí hưng yên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 125 trang )

MỤC LỤC


CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BCH TW: Ban chấp hành Trung ương
CNH - HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
KHKT: Khoa học kỹ thuật
KHCN: Khoa học công nghệ
KT - XH: Kinh tế xã hội
KTNN: Kinh tế nông nghiệp
KTNNNT: Kinh tế nông nghiệp nông thôn
NNNT: Nông nghiệp nông thôn.
NN&PTNT: Nông nghiệp và phát triển nông thôn
NQ: Nghị quyết
TW: Trung ương
TU: Tỉnh ủy


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay ở nhiều nước, nhất là các nước đang phát triển, phát triển kinh
tế nông nghiệp, nông thôn được coi là vấn đề tất yếu có ý nghĩa chiến lược lâu
dài. Việt Nam là một quốc gia đi lên từ nền sản xuất nông nghiệp truyền
thống, hơn 70% dân số sống ở nông thôn với một cơ cấu kinh tế độc canh
thuần nông, năng suất lao động thấp, nhu cầu việc làm còn rất bức bách. Tại
Hội nghị BCH TW lần thứ 7 khóa X đã ra nghị quyết 26 - NQ/TƯ “Về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn”. Nghị quyết khẳng định:
“Phát triển nhanh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa


học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tạo đột phá để hiện đại
hóa nông nghiệp, công nghiệp hóa nông thôn. Tăng đầu tư ngân
sách cho nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ để nông
nghiệp sớm đạt trình độ tương đương với các nước tiên tiến
trong khu vực; ưu tiên đầu tư ứng dụng công nghệ sinh học để
chọn, tạo ra nhiều giống cây trồng, vật nuôi và quy trình nuôi
trồng, bảo quản, chế biến, tạo đột phá về năng suất, chất lượng
và hiệu quả sản xuất.” [17, tr138]
Ngày 29/01/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 176/QĐ
-TTg “Phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến
năm 2020” Với mục tiêu chung là góp phần xây dựng nền nông nghiệp phát
triển toàn diện theo hướng hiện đại, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cao, đạt mức tăng trưởng trên 3,5% / năm;
đảm bảo vững chắc an ninh lương thực, thực phẩm quốc gia cả trước mắt và
lâu dài.


2

Cùng với quá trình phát triển của khoa học và công nghệ, hệ thống
thông tin và truyền thông của nước ta đang phát triển mạnh cả ở khu vực
thành thị và nông thôn. Các cơ quan, tổ chức có liên quan đến lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn từ Chính phủ đến các Bộ, ngành và địa phương đều tăng
cường hệ thống báo chí, truyền thông phục vụ phát triển sản xuất tại địa bàn
kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Kiến thức về khoa học và kỹ thuật phục vụ bà
con nông dân là hết sức phong phú và có thể được khai thác từ nhiều nguồn
khác nhau nhằm giúp nâng cao năng lực sản xuất của người nông dân. Các cơ
quan báo chí, các loại hình báo chí đều dành một phần đáng kể để chuyển tải
các thông tin khoa học kỹ thuật nhằm phục vụ phát triển sản xuất cho bà con
nông dân. Hệ thống sách, báo, tài liệu có nội dung chuyên môn về khoa học

kỹ thuật phục vụ phát triển sản xuất cho vùng nông nghiệp, nông thôn được
ghi nhận là xuất bản ngày càng nhiều và đa dạng với các hình thức truyền
thông hết sức phong phú như qua phim, ảnh, truyền hình, phát thanh, sách,
báo, tranh, các buổi nói chuyện chuyên đề hay tập huấn trực tiếp của cán bộ
khuyến nông tại địa phương... Tuy nhiên, hiệu quả của truyền thông khoa học
kỹ thuật phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp nông thôn còn chưa cao.
Đây có thể coi là một trong những nguyên nhân đáng kể khiến cho giá trị sản
xuất nông nghiệp ở nước ta còn thấp.
Truyền thông có vai trò quan trọng trong việc định hướng thông tin,
tuyên truyền giáo dục nhằm nâng cao nhận thức và sự hiểu biết của người
dân. Đặc biệt thông tin về khoa học kỹ thuật phục vụ phát triển sản xuất ở
vùng kinh tế nông nghiệp nông thôn hiện nay càng có giá trị to lớn trong quá
trình phát triển đất nước. Vấn đề ở đây là thông tin như thế nào, thông tin với
nội dung gì và hình thức thông tin ra sao để người nông dân hiểu và ứng dụng
những tiến bộ khoa học kỹ thuật đó nhằm đạt hiệu quả cao trong sản xuất
nông nghiệp là vấn đề cần được quan tâm, nghiên cứu. Xuất phát từ thực tế


3

trên, tôi chọn đề tài “Thông tin khoa học kỹ thuật phục vụ phát triển kinh tế
nông nghiệp nông thôn trên Báo chí Hưng Yên hiện nay” nhằm mục đích
tìm hiểu, đánh giá thực trạng thông tin khoa học kỹ thuật ở vùng kinh tế nông
nghiệp, nông thôn để từ đó có những kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng và
hiệu quả thông tin khoa học kỹ thuật ở vùng kinh tế nông nghiệp nông thôn
Hưng Yên, một địa bàn kinh tế nông nghiệp nông thôn được coi là khá điển
hình đối với khu vực đồng bằng Bắc bộ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Việt Nam vốn chủ yếu là một nước sản xuất nông nghiệp với hơn 70%
dân số có đời sống gắn với kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Chính vì vậy,

trong thời kỳ đất nước ta đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá không thể
không chú trọng đến vấn đề CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn. Hoạt động
thông tin khoa học kỹ thuật phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn
tuy không phải là một đề tài mới nhưng vẫn liên tục đặt ra nhiều vấn đề cần
tiếp tục nghiên cứu và giải quyết để phù hợp với nhu cầu phát triển trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế, cần thiết cho cả công tác lý luận và hoạt động
thực tiễn, nhất là đối với lĩnh vực báo chí và truyền thông.
Vấn đề tuyên truyền chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn
và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật đã có một số công trình nghiên cứu
ở những địa bàn và vùng miền khác nhau. Có thể nêu một số đề tài nghiên
cứu tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền sau:
- Luận văn Thạc sỹ truyền thông của Đinh Quang Hạnh, năm 2002,
“Công tác tuyên truyền vấn đề nông nghiệp - nông thôn trên sóng truyền hình
Việt Nam”. Tác giả đã khảo sát các chuyên đề liên quan đến nông nghiệp,
nông thôn trên kênh VTV1. Sau khi làm rõ các khái niệm liên quan, đặc điểm
nông nghiệp, nông thôn Việt Nam cũng như vai trò của đài truyền hình Việt
Nam trong hoạt động tuyên truyền. Tác giả đã đề xuất những giải pháp nhằm


4

nâng cao chất lượng các chương trình truyền hình về vấn đề nông nghiệp,
nông thôn.
- Luận văn Thạc sỹ truyền thông của Nguyễn Đông Bắc, năm 2003,
“Tuyên truyền chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn miền núi phía
Bắc” (Qua khảo sát các Báo Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Cạn từ năm 2001 đến
năm 2003). Tác giả đã đánh giá thực trạng nội dung các bài báo, từ đó kiến nghị
những giải pháp nâng cao chất lượng tuyên truyền về chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp - nông thôn miền núi phía Bắc.
- Luận văn Thạc sỹ truyền thông của Nguyễn Hoàng Anh Tuấn, năm

2006, “Báo chí An Giang tuyên truyền chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp” (Qua khảo sát Báo An Giang, Đài PTTH An Giang, Phân xã Thông
tấn xã Việt Nam tại An Giang). Tác giả đã nêu tình hình tuyên truyền chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở An Giang và đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả tuyên truyền.
- Luận văn Thạc sỹ truyền thông của Hà Huy Hồng, năm 2007, “Nâng
cao chất lượng bài viết chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về vùng sâu, vùng xa trên
báo Nhân dân hàng ngày” (Khảo sát từ năm 1998 đến năm 2006). Đề tài đã
đưa ra thực trạng tuyên truyền chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về vùng sâu vùng
xa của các cơ quan báo chí nói chung và của báo Nhân dân nói riêng. Trên cơ
sở thực trạng đó, tác giả đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
các bài báo viết về chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về vùng sâu, vùng xa.
- Luận văn Thạc sỹ truyền thông của Nguyễn Hoàng Linh, năm 2010,
“Báo chí Hưng Yên tuyên truyền chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
nông thôn trên địa bàn tỉnh”. Tác giả đã làm rõ được vai trò của báo chí với
việc tuyên truyền chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, thực
trạng công tác tuyên truyền chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông


5

thôn và đưa ra quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng tuyên truyền chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn của báo chí Hưng Yên.
Ngoài các đề tài nghiên cứu trên, vấn đề nông nghiệp, nông thôn cũng
được nhiều nhà khoa học, nhà quản lý nước ta đặc biệt quan tâm. Có thể nêu
một số công trình nghiên cứu, lý luận tiêu biểu mà chúng tôi nắm được trong
đó có đề cập đến vấn đề truyền thông KHKT phục vụ kinh tế NNNT sau:
- “Chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn sau Nghị quyết 10
của Bộ chính trị”, PGS, TSKH Lê Đình Thắng (chủ biên), NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2000. Các tác giả đã phân tích và xác định tầm quan trọng

của sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông nghiệp ở nước ta trong
giai đoạn CNH - HĐH. Thông qua sự đánh giá tình hình thực hiện chính sách
phát triển nông nghiệp, nông thôn từ sau Nghị quyết 10, các tác giả đã kiến
nghị phương hướng và giải pháp để tiếp tục đổi mới, phát triển nông nghiệp,
nông thôn nước ta trong thời gian tới. Vấn đề truyền thông chính sách, quán
triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đối với phát triển kinh tế
NNNT được quan tâm và nhấn mạnh.
- “Chính sách nông nghiệp nông thôn Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX và
một số định hướng” (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2002) của tác giả
Trần Ngọc Bút đã làm rõ các chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn
nước ta trong các giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám cho đến nay. Cuốn sách
cũng đề cập đến một số vấn đề cần được quan tâm đối với nông nghiệp, nông
thôn, những chính sách dành cho nông dân trong thời kỳ CNH - HĐH. Nhấn
mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đào tạo nghề, chuyển giao tiến bộ
KHKT cho người lao động khu vực kinh tế NNNT.
- “CNH - HĐH nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam con đường và
bước đi” của GS.TS Nguyễn Kế Tuấn chủ biên do NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2006. Các tác giả đã lý giải có tính tổng quát về con đường, bước đi


6

và các giải pháp thực hiện công cuộc CNH - HĐH nông nghiệp và nông thôn
ở nước ta. Cuốn sách còn giúp chúng ta hiểu rõ hơn khái niệm, mục tiêu, nội
dung, bước đi và các giải pháp thúc đẩy quá trình CNH - HĐH nông nghiệp
và nông thôn từ nay đến năm 2020. Một trong những giải pháp quan trọng là
đẩy mạnh hoạt động truyền thông KHKT phục vụ phát triển kinh tế NNNT.
- “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam - Hôm nay và mai sau”
của TS Đặng Kim Sơn, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008. Tác giả đã
cung cấp nhiều thông tin có giá trị lý luận và thực tiễn về bức tranh kinh tế

NNNT Việt Nam. Trong tất cả các nội dung quan tâm tác giả đã đặc biệt nhấn
mạnh tới vai trò của truyền thông KHKT phục vụ phát triển sản xuất tại vùng
kinh tế NNNT Việt Nam trong quá trình đi lên CNH - HĐH.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đều cho thấy được chính sách
phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ CNH - HĐH là một
vấn đề quan trọng trong chiến lược phát triển nền kinh tế đất nước. Với ý
nghĩa đó, chúng tôi muốn đóng góp thêm vào nguồn tư liệu chung những
nghiên cứu có tính lý luận và thực tiễn về kinh tế NNNT nói chung và hoạt
động thông tin khoa học kỹ thuật phục vụ phát triển kinh tế NNNT nói riêng,
qua đó phục vụ nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
• Đối tượng nghiên cứu
Thông tin về khoa học kỹ thuật phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp,
nông thôn trên báo chí Hưng Yên.
• Phạm vi nghiên cứu
Luận văn khảo sát, nghiên cứu thực trạng thông tin khoa học kỹ thuật
phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn trên Báo Hưng Yên, Đài
Phát thanh - Truyền hình Hưng Yên từ năm 2007 đến 2010, đây là khoảng
thời gian phát triển kinh tế - xã hội được xác định trong nhiệm kỳ Đại hội
Đảng bộ Tỉnh Hưng Yên khóa XVI.


7

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm nâng cao chất lượng và hiệu
quả của thông tin khoa học kỹ thuật phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp
nông thôn trên địa bàn tỉnh Hưng Yên hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu vai trò và nhiệm vụ của báo chí trong việc thông tin khoa
học kỹ thuật phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn hiện nay.
- Nghiên cứu thực trạng thông tin khoa học kỹ thuật phục vụ phát triển
kinh tế nông nghiệp nông thôn trên báo chí Hưng Yên hiện nay.
- Đề xuất giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả
thông tin khoa học kỹ thuật phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn
hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
• Cơ sở lý luận
- Để triển khai đề tài này, trước hết chúng tôi vận dụng các phương
pháp và quan điểm của chủ nghĩa Duy vật biện chứng và Duy vật lịch sử.
- Chúng tôi cũng vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng, Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn như một trong những
cơ sở lý luận quan trọng để nghiên cứu.
• Phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp nghiên cứu, chúng tôi sẽ vận dụng linh hoạt một số
phương pháp cụ thể như sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp khảo sát, chọn mẫu, thống kê
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
- Điều tra xã hội học: Phát phiếu điều tra, phỏng vấn


8

- Kế thừa một cách có chọn lọc những kết quả nghiên cứu có liên quan
đến đề tài.
6. Đóng góp mới của đề tài
Đề tài “Thông tin khoa học kỹ thuật phục vụ phát triển kinh tế nông
nghiệp nông thôn trên Báo chí Hưng Yên hiện nay” đi sâu vào tìm hiểu

tình hình thông tin khoa học kỹ thuật trên Báo chí Hưng Yên hiện nay để thấy
được những thành quả đã đạt được và những điểm còn hạn chế tồn tại trong
quá trình thông tin khoa học kỹ thuật phục vụ phát triển sản xuất thông qua
hoạt động của hệ thống báo chí, truyền thông. Trên cơ sở nghiên cứu thực
tiễn, tác giả đưa ra một số kiến nghị, giải pháp phù hợp trong việc thông tin
khoa học kỹ thuật phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn nhằm tạo
ra những sản phẩm báo chí có nội dung hay và thiết thực, hướng đến mục
đích phục vụ kinh tế NNNT phát triển, góp phần đạt được năng suất, chất
lượng và hiệu quả cao trong các hoạt động sản xuất nông nghiệp, đẩy nhanh
tiến trình CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn.
Qua nghiên cứu, khảo sát, chúng tôi hy vọng luận văn sẽ trở thành tài
liệu tham khảo có ích cho việc học tập, nghiên cứu của các sinh viên ngành
Báo chí và Truyền thông, đồng thời cũng mong muốn góp phần giúp cho các
nhà nghiên cứu, các nhà lãnh đạo, quản lý có thể định hướng và chỉ đạo các
hoạt động báo chí, truyền thông KHKT ngày càng có những đóng góp quan
trọng, thiết thực đối với sự phát triển của kinh tế nông nghiệp nông thôn trên
một địa bàn cụ thể cũng như trên cả nước.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và các phụ
lục. Đề tài được kết cấu thành 3 chương với 14 tiết và 104 trang.


9

Chương 1
BÁO CHÍ VỚI VIỆC THÔNG TIN KHOA HỌC KỸ THUẬT PHỤC VỤ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN HIỆN NAY
1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1. Các khái niệm liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn
Qua nghiên cứu cuốn Từ điển Tiếng Việt thông dụng của NXB Giáo

dục (2007), Từ điển bách khoa Việt Nam 2, NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội
(2002), Từ điển Tiếng Việt của NXB KHXH, Hà Nội (1977) chúng tôi thống
nhất các khái niệm sử dụng trong luận văn như sau:
Nông nghiệp: Là ngành sản xuất chủ yếu của xã hội có nhiệm vụ cung
cấp sản phẩm trồng trọt và sản phẩm chăn nuôi.
Nông thôn: Là vùng tập trung dân cư làm nghề nông; phân biệt với
thành thị.
Nông dân: Là người sống chủ yếu bằng nghề làm nông nghiệp (trồng
trọt, chăn nuôi).
Kinh tế nông nghiệp (KTNN): Là một trong hai ngành kinh tế cơ bản
của nền kinh tế quốc dân (nông nghiệp và công nghiệp), là ngành sản xuất
vật chất chủ yếu, sản xuất thực phẩm cho nhân dân và nguyên liệu cho công
nghiệp. Kinh tế nông nghiệp có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế của
đất nước, nó gồm hai nhóm ngành chính là trồng trọt và chăn nuôi.
Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa nông nghiệp: Là quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến
và thị trường; thực hiện cơ giới hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng các
thành tựu khoa học công nghệ nhất là công nghệ sinh học, đưa thiết bị kỹ thuật
và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng
suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa.


10

Công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông thôn: Là quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao
động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao
động nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch phát
triển nông thôn, tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp,
xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng, văn minh, không ngừng nâng cao

đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ở nông thôn.
1.1.2. Khái niệm thông tin và thông tin khoa học kỹ
thuật trên báo chí
- Thông tin
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì Thông tin (information) là
sự phản ánh sự vật, sự việc, hiện tượng của thế giới khách quan và các hoạt
động của con người trong đời sống xã hội. Điều cơ bản là con người thông
qua việc cảm nhận thông tin làm tăng hiểu biết cho mình và tiến hành những
hoạt động có ích cho cộng đồng.
Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng của NXB Giáo dục 2007:
Thông tin là truyền tin, đưa tin báo cho nhau biết [44, tr755]
- Khoa học kỹ thuật
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia cho rằng: Khoa học kỹ thuật là các
ngành khoa học liên quan tới việc phát triển kỹ thuật và thiết kế các sản
phẩm
trong đó có ứng dụng các kiến thức khoa học tự nhiên.
Ngoài ra, khoa học kỹ thuật còn là tên gộp chung những khoa học cụ
thể được hình thành trên cơ sở ứng dụng những tri thức lý thuyết của các khoa
học cơ bản vào trong hoạt động thực tiễn, chủ yếu là sản xuất vật chất và dịch
vụ bằng con đường tạo ra những phương tiện kỹ thuật và phương pháp công
nghệ thích hợp. [41, tr508]


11

Trên cơ sở khái niệm thông tin, khoa học kỹ thuật chúng tôi đưa ra khái
niệm về Thông tin KHKT sử dụng trong luận văn này như sau:
- Thông tin khoa học kỹ thuật: Là hình thức thông tin mà trong đó nội
dung thông điệp phổ biến, tuyên truyền về những kiến thức, kỹ năng, phương
pháp áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất nhằm

nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm làm ra.
1.2. Vài đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội Hưng Yên
Tỉnh Hưng Yên được thành lập năm 1831, là nơi sinh sống của người
Việt từ xưa (thời Hùng Vương). Năm1968, tỉnh Hưng Yên và tỉnh Hải Dương
được hợp nhất thành tỉnh Hải Hưng. Thực hiện Nghị quyết kỳ họp thứ 10,
Quốc hội khoá IX, tỉnh Hải Hưng được chia thành tỉnh Hải Dương và tỉnh
Hưng Yên. Ngày 1.1.1997 tỉnh Hưng Yên được tái lập và chính thức làm việc
theo đơn vị hành chính mới. Hưng Yên nằm ở trung tâm vùng Đồng Bằng
Bắc Bộ, giữa hai thành phố lớn là Hà Nội và Hải Phòng, có vị trí quan trọng
trong vùng tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, có
hệ thống đường giao thông hoàn chỉnh từ tỉnh xuống huyện và tới các trung
tâm xã, có nhiều tuyến giao thông quan trọng chạy qua, gần các sân bay, cảng
biển, các trung tâm kinh tế và các thành phố lớn của đất nước. Từ khi tái lập,
Hưng Yên quan tâm nhiều đến việc phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội,
có những chính sách ưu đãi, thông thoáng để thu hút các nhà đầu tư vào địa
bàn, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Với chủ trương đúng của tỉnh nên
mức tăng trưởng kinh tế đạt khá, bình quân đạt 11,87%/năm; trong đó, nông
nghiệp tăng 5,6%/năm, công nghiệp tăng 42%/năm, dịch vụ tăng 15%/năm;
đời sống người dân đang dần được nâng lên; các vấn đề về xã hội có nhiều
thay đổi rõ rệt. Về hợp tác thu hút đầu tư nước ngoài, tỉnh ngoài, Hưng Yên
được đánh giá là một trong những tỉnh tích cực và kết quả đạt được khá tốt so
với các tỉnh trong vùng và cả nước về hợp tác thu hút đầu tư nước ngoài, tỉnh


12

ngoài. Tỉnh đã qui hoạch 5 khu công nghiệp tập trung, và qui hoạch thêm 5
khu khác ở phía nam tỉnh, dọc quốc lộ 39A, 39B, 38 để phát huy hiệu quả cầu
Yên Lệnh, 10 khu công nghiệp làng nghề để tạo điều kiện thu hút các dự án
vào đầu tư. Khu vực dọc quốc lộ 5 từ Hà Nội đi Hải Phòng sẽ ưu tiên bố trí

các khu công nghiệp để tập trung phát triển các ngành công nghiệp nhẹ, điện
tử, chế biến,…Hưng Yên đang phấn đấu trở thành một tỉnh phát triển CNH HĐH với một cơ cấu kinh tế hợp lý, nâng cao hiệu quả đầu tư và giải quyết
tốt các vấn đề xã hội.
Hưng Yên là cửa ngõ phía Đông của Hà Nội, có 23 km quốc lộ 5A và
trên 20 km tuyến đường sắt Hải Nội - Hải Phòng chạy qua, ngoài ra có quốc
lộ 39A, 38 nối từ quốc lộ 5 qua thành phố Hưng Yên đến quốc lộ 1A (qua cầu
Yên Lệnh) và đến quốc lộ 10 (qua cầu Triều Dương), là trục giao thông quan
trọng nối các tỉnh Tây - Nam Bắc bộ (Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định, Thanh
Hoá…) với Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh. Bên cạnh đó, Hưng Yên gần
các cảng biển Hải Phòng, Cái Lân; Sân bay quốc tế Nội Bài, giáp ranh với các
tỉnh và thành phố Hà Nội, Bắc Ninh, Hà Tây, Hà Nam, Thái Bình và Hải
Dương. Cũng như các tỉnh khác thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, Hưng Yên
chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm. Hàng năm có hai
mùa nóng và lạnh rõ rệt tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, đặc
biệt là các cây vụ đông.
Hưng Yên mang đặc trưng của một tỉnh đồng bằng, không có đồi, núi,
địa hình tương đối bằng phẳng. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 98.084 ha, đất
nông nghiệp 61.037 ha, trong đó đất trồng cây hàng năm 55.645 ha (chiếm
91%), còn lại là đất trồng cây lâu năm, không có đất lâm nghiệp, mặt nước
nuôi trồng thuỷ sản, đất chuyên dùng và đất sử dụng cho các mục đích khác.
Đất chưa sử dụng khoảng 7.471 ha, toàn bộ diện tích trên đều có khả năng
khai thác và phát triển sản xuất nông nghiệp. Phần lớn đất đai của Hưng Yên


13

do phù sa hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình bồi đắp nên ruộng đất màu
mỡ, bằng phẳng, nguồn nước ngọt rất dồi dào có thể trồng 2 - 4vụ/năm. Hưng
Yên là tỉnh trọng điểm sản xuất lúa của vùng Đồng bằng sông Hồng, có
truyền thống trồng lúa, năng suất bình quân đạt khá cao, có thể quy hoạch

những vùng trồng tập trung để sản xuất lúa hàng hóa chất lượng cao. Các điều
kiện tự nhiên, xã hội, cơ sở hạ tầng của Tỉnh thuận lợi cho trồng lúa. Tuy
nhiên, diện tích tự nhiên nhỏ, ruộng đất bình quân đầu người thấp và giao đất
cho hộ nông dân quá manh mún nên hạn chế cho phát triển nông nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hóa.
Là một tỉnh mới được tái lập, mặc dù còn những khó khăn, thách thức,
kinh tế Hưng Yên vẫn duy trì tăng trưởng khá. Tốc độ tăng trưởng bình quân
trong 5 năm (2006 - 2010) đạt 11%. Năm 2010 sản xuất nông nghiệp đạt 25%
(mục tiêu Đại hội đề ra là 20%). Thu nhập bình quân đầu người 20 triệu đồng
(1.110USD). Hưng Yên phấn đấu trở thành một tỉnh có nền kinh tế phát triển,
thực hiện CNH - HĐH với cơ cấu kinh tế hợp lý để nâng cao đời sống người
dân và giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Nông nghiệp phát triển toàn diện theo
hướng sản xuất hàng hóa, phát triển nhanh cây, con có giá trị kinh tế cao.
Diện tích lúa chất lượng cao dạt 45%. Giá trị sản xuất tăng bình quân
3,5%/năm. Hưng Yên là một trong hai tỉnh trên toàn quốc sớm thực hiện miễn
thủy lợi phí cho nông dân, thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ để nông nghiệp,
nông thôn và nông dân đẩy mạnh sản xuất, nhiều nghề truyền thống và các
loại hình dịch vụ trong nông thôn được khuyến khích phát triển. Để phục vụ
sự nghiệp phát triển chung và phục vụ kinh tế NNNT, công tác nghiên cứu,
ứng dụng khoa học công nghệ đã được đẩy mạnh và đạt nhiều kết quả. Đến
nay, Tỉnh đã thực hiện 20 dự án và 30 đề tài khoa học. Ứng dụng thành công
công nghệ sản xuất một số cây, con giống chất lượng cao, hỗ trợ chuyển giao


14

và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, chế biến, bảo quản, phát triển cây
ăn quả đặc sản có giá trị kinh tế cao.
Vốn là một tỉnh nông nghiệp, những năm gần đây Hưng Yên là địa
phương có nền kinh tế phát triển nhanh, giá trị sản xuất Công nghiệp bình

quân đạt 21%/năm. Tỉnh đã phát triển một số ngành có tính động lực như điện
tử, dệt may, cơ khí và luyện thép với kỹ thuật tiên tiến. Sản phẩm đa dạng về
chủng loại, chất lượng tốt hơn, nhiều sản phẩm có thương hiệu, sức cạnh
tranh lớn trên thị trường trong nước và quốc tế.
Song song với phát triển kinh tế, Tỉnh cũng rất chú trọng đến sự
nghiệp giáo dục - đào tạo góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi
dưỡng nhân tài. Hưng Yên nằm trong nhóm 5 tỉnh có tỷ lệ học sinh vào Đại
học cao nhất toàn quốc. Khuyến học được quan tâm, mặt bằng dân trí và chất
lượng nguồn nhân lực được nâng lên. Mạng lưới giáo dục - đào tạo tiếp tục
được mở rộng, nâng cấp…
Trong thời gian thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ (2006 - 2010),
Hưng Yên đã có những chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh
tế gắn với giải quyết các vấn đề xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân. Số hộ nghèo từ 13% năm 2006 giảm còn 3% năm 2010,
đạt yêu cầu so với nhiệm vụ mà Đại hội đề ra.
1.3. Quan điểm của Đảng, Nhà nước và Tỉnh ủy, UBND tỉnh Hưng
Yên về vấn đề phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn
1.3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề phát triển kinh tế nông
nghiệp nông thôn
Mặc dù không có một tác phẩm riêng biệt nào tập trung nói về tư tưởng
kinh tế, nhưng thông qua các bài viết, phát biểu, nói chuyện của Người, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện những tư tưởng và quan điểm sâu sắc về kinh tế,
đặc biệt là về phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn ở nước ta.


15

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn là
sự cụ thể hóa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề nông dân, nông
nghiệp, nông thôn. Khi bàn về vai trò của sản xuất của cải vật chất là cơ sở

của sự tồn tại và phát triển xã hội loài người, Ph.Ănghen đã khẳng định:
“Trước hết con người cần phải có ăn, uống, ở, mặc, trước khi lo đến chuyện
làm chính trị, khoa học, nghệ thuật và tôn giáo…” [25, tr264]. Xã hội ngày
càng phát triển thì nhu cầu của con người về sản phẩm thiết yếu được sản xuất
ra từ nông nghiệp ngày càng tăng và đa dạng, phong phú. Đối với nhiều quốc
gia phát triển, vấn đề giữ một tỷ lệ nông nghiệp hợp lý trong cơ cấu tổng thể
nền kinh tế vẫn luôn được chú trọng. Với các nước đi lên CNH - HĐH xuất
phát từ kinh tế nông nghiệp truyền thống thì quan tâm phát triển nông nghiệp,
lấy chính nông nghiệp làm cơ sở vừa là nguồn lực ban đầu, vừa là khu vực
đóng góp tích cực vào quá trình chuyển dịch sang kinh tế công nghiệp và dịch
vụ được coi là con đường phát triển phù hợp.
Thấm nhuần những quan điểm trên của chủ nghĩa Mác, trong “Thư gửi
điền chủ nông gia Việt Nam”, Hồ Chí Minh khẳng định: “Việt Nam là nước
sống về nông nghiệp, nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công
cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào
nông nghiệp một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu, nông nghiệp ta
thịnh thì nước ta thịnh” [26, tr215].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn
xuất phát từ thực tiễn lịch sử phát triển nước ta, nơi được coi là một trong
những cái nôi của nền văn minh lúa nước. Khi trở thành vị Chủ tịch nước,
Người đã rất quan tâm đến vấn đề phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Người xác định vai trò của phát triển nông nghiệp, nông thôn đối với các
ngành kinh tế khác của nền kinh tế quốc dân đó là: “Phải lấy nông nghiệp
làm chính, nhưng phải toàn diện, phải chú ý các mặt công nghiệp, thương


16

nghiệp, tài chính, ngân hàng, giao thông, kiến trúc, văn hóa, giáo dục, y tế …
các ngành này phải lấy phục vụ nông nghiệp làm trung tâm” [27, tr325].

Điều này đòi hỏi mọi chủ trương, đường lối, phương châm, kế hoạch, mục
tiêu phát triển của công nghiệp và các ngành kinh tế khác phải lấy nông
nghiệp, nông thôn làm đối tượng phục vụ, phải có chính sách ưu tiên, ưu đãi
đối với nông nghiệp và nông thôn.
Để phát triển kinh tế nông nghiệp đạt hiệu quả cao, Người rất chú ý
đến việc áp dụng kỹ thuật trong trồng trọt. Điều này, Hồ Chí Minh đã khái
quát bằng một bài thơ rất sinh động để mọi người dân dễ hiểu, dễ nhớ, dễ
thực hiện:
“ Nước phải đủ, phân phải nhiều
Cày sâu, giống tốt, cấy đều dảnh hơn
Trừ sâu diệt chuột chớ quên
Cải tiến nông cụ là nền nhà nông
Ruộng nương quản lý gia công
Tám điều đầy đủ thóc bông đầy bồ” [16 ,tr201-202]
Khi nói về tầm quan trọng của thủy lợi hóa trong phát triển kinh tế
nông nghiệp, nông thôn - Người khẳng định: phát triển hợp tác hóa phải đi
liền với công tác thủy lợi hóa, coi thủy lợi là biện pháp hàng đầu của việc
canh nông bởi khí hậu nước ta không kém phần khắc nghiệt, nắng lắm mưa
nhiều hay gây hạn hán, lũ lụt, làm tốt công tác thủy lợi sẽ điều hòa được nước
tưới tiêu, góp phần khắc phục thiên tai.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn rất
sâu sắc. Nó vừa thể hiện tình cảm và sự quan tâm của Người đối với nông
dân, nông nghiệp, nông thôn vừa là vấn đề nhận thức đúng đắn về tính đặc thù
trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
1.3.2 Quan điểm của Đảng, Nhà nước về vấn đề phát triển kinh tế
nông nghiệp nông thôn


17


Trên cơ sở nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế
nông nghiệp nông thôn, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đến vấn đề
phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. Đảng ta xác định phát triển kinh tế
nông nghiệp nông thôn chiếm một vị trí quan trọng trong sự nghiệp phát
triển đất nước, bởi đây không chỉ là lĩnh vực sản xuất ra những sản phẩm
thiết yếu nuôi sống con người mà còn là lĩnh vực tạo tiền đề và cơ sở nguồn
lực quan trọng để phát triển các ngành kinh tế công nghiệp và dịch vụ. Ở
nước ta, một nước nông nghiệp với hơn 70% dân số sống ở nông thôn và chủ
yếu hoạt động trong nông nghiệp. Đảng ta luôn xác định đổi mới kinh tế
phải bắt đầu từ đổi mới trong nông nghiệp, nông thôn. Tư tưởng ấy được bắt
đầu từ Chỉ thị 100, Nghị quyết 10 và được tiếp tục phát triển trong các văn
kiện tiếp theo của Đảng. Việc nâng cao trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật
cho lực lượng lao động ở nông thôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta rất
quan tâm trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. Văn kiện
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII đã nhấn mạnh: “Phát triển nông
nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn
và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định
tình hình kinh tế - xã hội” [13, tr63].
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII tiếp tục nhấn mạnh
quan điểm:
“Coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông
thôn. Phát triển toàn diện nông nghiệp, hình thành các vùng tập
trung chuyên canh, có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi, có sản
phẩm hàng hóa nhiều về số lượng, tốt về chất lượng, đảm bảo an
toàn về lương thực trong xã hội, đảm bảo yêu cầu của thị trường
trong, ngoài nước” [14, tr86-87].


18


Đối với Đảng ta phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn là cơ sở để đảm
bảo ổn định kinh tế - xã hội làm nền tảng phát triển đất nước. Báo cáo chính
trị Đại hội IX của Đảng đã định hướng phát triển các ngành kinh tế và các
vùng kinh tế. Đối với nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn, chủ trương
của Đảng là: “Đưa nhanh tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất nông
nghiệp đạt mức tiên tiến trong khu vực về trình độ công nghệ về thu nhập trên
một đơn vị diện tích, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và sức
cạnh tranh của sản phẩm. Mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản trong và
ngoài nước”[15, tr 168-169]
Sau hơn 20 năm đổi mới, đến nay Việt Nam là nước sản xuất gạo
đứng thứ hai trên thế giới. Nông nghiệp phát triển, lương thực không những
được đảm bảo mà còn tạo ra nguyên liệu cho công nghiệp, cung cấp nông sản
xuất khẩu. Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với lợi thế,
tiềm năng và chưa đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp phát triển còn kém
bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, chưa phát huy tốt nguồn
lực cho phát triển sản xuất, nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ và
đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế, sản xuất nông nghiệp mang tính nhỏ lẻ,
phân tán, năng suất, chất lượng nhiều mặt hàng còn thấp. Tại Hội nghị TW
lần thứ 7 khóa X đã ra Nghị quyết số 26 - NQ/TW ngày 5/8/2008 về nông
nghiệp nông thôn, trong đó nêu rõ:
“Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nông dân phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng
lĩnh vực, để giải phóng và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội,
trước hết là lao động, đất đai, rừng và biển; khai thác tốt các điều
kiện thuận lợi trong hội nhập kinh tế quốc tế cho phát triển lực lượng
sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn; phát huy cao nội lực; đồng


19


thời tăng mạnh đầu tư của Nhà nước và xã hội, ứng dụng nhanh các
thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến cho nông nghiệp, nông thôn,
phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí nông dân”[17, tr124].
Để Nghị quyết 26 - NQ/TW thực sự đi vào cuộc sống người dân, Đảng
đã đề ra nhiệm vụ và giải pháp lâu dài là phát triển nhanh nghiên cứu, chuyển
giao và ứng dụng khoa học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tạo đột phá
để hiện đại hóa nông nghiệp, công nghiệp hóa nông thôn. Nhà nước tăng đầu
tư ngân sách cho nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ để nông
nghiệp sớm đạt trình độ tương đương với các nước trong khu vực; ưu tiên đầu
tư ứng dụng công nghệ sinh học để chọn, tạo ra nhiều giống cây trồng, vật
nuôi và quy trình nuôi trồng, bảo quản, chế biến, tạo bước đột phá về năng
suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất.
Như vậy, có thể khẳng định chủ trương, chính sách phát triển kinh tế
nông nghiệp, nông thôn của Đảng, Nhà nước là nhất quán, trong đó đặc biệt là
vấn đề áp dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật vào trong sản xuất nông
nghiệp, nông thôn đã thể hiện nhận thức đúng đắn về con đường và mục tiêu
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nông nghiệp, nông thôn phù hợp với sự phát
triển của nền kinh tế hiện đại. Đây là tiền đề quan trọng cho quá trình công
nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn hiện nay.
1.3.3. Chủ trương của Tỉnh ủy, UBND Hưng Yên về phát triển kinh
tế nông nghiệp nông thôn
Nghị quyết số 26, Hội nghị TW lần thứ 7, khóa X là một chủ trương
đúng đắn mang tính toàn diện của Đảng bao gồm các mặt phát triển lực lượng
sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng sản xuất phù hợp gắn với xây dựng nông
thôn mới, trong đó nhấn mạnh đến việc ứng dụng nhanh các thành tựu khoa
học, công nghệ tiên tiến cho nông nghiệp, nông thôn, phát triển nguồn nhân


20


lực, nâng cao dân trí nông dân nhằm từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp, nông thôn theo hướng gắn với thị trường và phát triển bền vững.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 BCH Trung ương Đảng khoá X về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn, ngày 24/10/2008, Tỉnh uỷ Hưng Yên đã
xây dựng Chương trình hành động số 18/CTr-TU về việc thực hiện Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 7 BCH Trung ương khóa X và ngày 31/12/2008, Uỷ
ban Nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch số 149/KH-UBND về tổ chức thực
hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 của BCH Trung ương Đảng khóa X, Nghị
quyết của Chính phủ về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Trong đó đã phân
công trách nhiệm cụ thể cho các sở, ngành, đơn vị thực hiện gồm 17 chương
trình, dự án và Quyết định số 425/QĐ-UB ngày 27/02/2009 về thành lập Ban
chỉ đạo tỉnh thực hiện kế hoạch 149/KH-UBND, hàng năm Ban chỉ đạo xây
dựng kế hoạch thực hiện. Tỉnh đã chỉ đạo các sở, ngành, địa phương căn cứ
theo chức năng, nhiệm vụ được phân công, xây dựng kế hoạch hoạt động
nhằm cụ thể hoá các chủ trương, giải pháp của Trung ương và của Tỉnh, huy
động tối đa các nguồn lực đầu tư phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Mục tiêu và nhiệm vụ của Chương trình hành động số 18/CTr - TU là
phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với xây dựng nông thôn mới. Tiếp tục đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp, nông thôn phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả
và bền vững; bố trí lại cơ cấu cây trồng, vật nuôi; phát triển kinh tế hộ, trang
trại, tổ hợp tác, hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp. Hình thành các khu công
nghiệp công nghệ cao, vùng chuyên canh, thâm canh, sản xuất hàng hóa chất
lượng, an toàn, gắn sản xuất với chế biến và thị trường, mở rộng xuất khẩu, có
chính sách khuyến khích tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, xây dựng thương
hiệu sản phẩm. Mở rộng diện tích, áp dụng công nghệ cao để tăng năng suất,
chất lượng các loại rau màu, cây ăn quả, cây công nghiệp có lợi thế. Phát triển



21

các tổ chức khuyến nông, dịch vụ nông nghiệp, có cơ chế thực hiện tốt việc
gắn kết chặt chẽ “4 nhà” (nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà
nước). Chương trình hành động số 18/CTr - TU chú trọng đến việc nghiên
cứu, chuyển giao, ứng dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất và
đời sống, áp dụng kỹ thuật tiên tiến kết hợp với cung ứng các loại giống cây,
con có năng suất chất lượng và hiệu quả kinh tế cao, khuyến khích hoạt động
tư vấn dịch vụ khoa học - công nghệ, đổi mới cơ chế quản lý và tăng cường
đầu tư từ ngân sách Nhà nước đi đôi với xã hội hóa đầu tư cho khoa học công nghệ, hỗ trợ các doanh nghiệp triển khai ứng dụng kết quả nghiên cứu
khoa học.
Mục tiêu của Chương trình 18 CTr - TU là phấn đấu tỷ trọng giá trị
nông nghiệp thủy sản bình quân 5 năm đạt 4%, tỷ trọng cơ cấu trong nông
nghiệp đến năm 2015 là cây lương thực 20%, cây công nghiệp, rau quả 35%,
chăn nuôi 45%. Trong đó chú ý cải tạo, nâng cấp và xây dựng các công trình
thủy lợi đáp ứng yêu cầu của sản xuất nông nghiệp theo hướng khoa học và
hiện đại. Ngoài ra, việc xây dựng nông thôn mới là hướng đến một xã hội
công bằng, văn minh, giàu đẹp, có nền kinh tế phát triển, kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống và các ngành nghề truyền thống ở từng địa phương.
Ngay từ năm 2006, Ban chấp hành Đảng bộ Tỉnh khóa XVI đã ra Nghị
quyết số 08 - NQ/TU ngày 20/10/2006 về chương trình phát triển nông
nghiệp, nông thôn Tỉnh giai đoạn 2006 - 2010 trong đó đề ra mục tiêu đẩy
nhanh CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn; xây dựng nền nông nghiệp sản
xuất hàng hóa có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao; chú trọng sản
xuất các sản phẩm nông nghiệp sạch theo tiêu chuẩn quốc tế. Phát triển nông
nghiệp toàn diện và bền vững trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến. Nghị quyết của Ban chấp hành Đảng bộ Hưng Yên cũng


22


đề ra nhiệm vụ cụ thể đối với việc phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn
đó là ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến vào sản xuất, nâng cao sức
cạnh tranh, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa nông sản. Đẩy mạnh ứng
dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất giống cây trồng, vật nuôi,
hình thành các cơ sở sản xuất nông nghiệp công nghệ cao; tạo ra vùng chuyên
canh, thâm canh sản xuất hàng hóa chất lượng cao; bảo quản sau thu hoạch,
chế biến nông sản theo quy trình sản xuất tiên tiến. Giới thiệu, xây dựng một
số mô hình liên kết giữa nhà nước, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học và nhà
nông để giảm thiểu rủi ro, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp. Trên cơ sở Nghị
quyết của Tỉnh ủy, các cấp ủy đảng, chính quyền đã đề ra nhiều chương trình
cụ thể về phát triển kinh tế NNNT:
- Quyết định số 2497/QĐ - UBND ngày 4/11/2006 về việc quy định
mức chi phí về hỗ trợ thực hiện chương trình “Nạc hóa” đàn lợn và “Sind
hóa” đàn bò thời kỳ 2007 - 2010 tỉnh Hưng Yên.
- Chỉ thị số 14/CT - TU ngày 11/01/2007 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy
về việc tập trung lãnh đạo sản xuất vụ đông xuân 2006 - 2007.
- Chỉ thị số 1622/UBND ngày 19/9/2008 của UBND tỉnh Hưng Yên về
việc xây dựng chương trình giống sản xuất nông nghiệp.
Có thể khẳng định rằng Đảng bộ, chính quyền tỉnh Hưng Yên đã rất
quan tâm đến vấn đề phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn, trong đó nhấn
mạnh đến việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất nông
nghiệp để tạo ra những sản phẩm nông nghiệp đạt hiệu quả, chất lượng cao.
Các Nghị quyết, chỉ thị chính sách của Tỉnh đều mang tính cụ thể, thiết thực
tác động trực tiếp vào lĩnh vực NNNT, tạo cơ sở đẩy mạnh tiến trình công
nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn Tỉnh.
1.4. Vai trò của báo chí trong việc thông tin KHKT phục vụ phát
triển kinh tế nông nghiệp nông thôn



23

Báo chí là kênh truyền thông đại chúng có khả năng tác động một
cách rộng lớn, nhanh chóng và mạnh mẽ vào toàn bộ xã hội. Đảng ta luôn đề
cao vai trò của báo chí trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Báo
chí đã và đang thể hiện tốt vai trò của mình trong mọi lĩnh vực, đã đóng góp
tích cực trong việc thông tin tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước đối với kinh tế - xã hội nói chung và kinh tế nông
nghiệp, nông thôn nói riêng. Trong việc thông tin khoa học kỹ thuật phục vụ
phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn những năm qua, các cơ quan báo
chí từ Trung ương đến địa phương đã tỏ ra có những hoạt động khá tích cực
và góp phần quan trọng vào quá trình phát triển của lĩnh vực này. Sau 20
năm đổi mới nước ta từ chỗ thiếu ăn, phải nhập khẩu lương thực đã trở thành
quốc gia xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới. Không những thế, sản
phẩm nông nghiệp của chúng ta làm ra còn đạt năng suất và chất lượng cao.
Có được thành tựu đó phải kể đến sự đóng góp không nhỏ của hệ thống báo
chí, truyền thông.
Ngày nay, bên cạnh việc tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước, báo chí còn có chức năng giáo dục nhằm
nâng cao dân trí. Báo chí góp phần nâng cao trình độ nhận thức, giúp con
người có những thay đổi trong hành vi và thái độ. Là một nước đang phát
triển, với hơn 70% dân số còn sống ở nông thôn nên việc nâng cao trình độ
dân trí nhằm nâng cao năng suất lao động không chỉ đơn thuần là trang bị
kiến thức phổ thông mà quan trọng là làm sao để người dân có trình độ bắt
kịp với các nước tiên tiến trong khu vực. Xuất phát từ thực tế đó, hệ thống
thông tin báo chí của chúng ta từ trung ương đến địa phương đều dành những
chuyên mục, trang cố định để thông tin, tuyên truyền về vấn đề phát triển
nông nghiệp, hướng dẫn áp dụng thành tựu KHKT trong lao động sản xuất.
Theo thống kê thì hiện nay cả nước ta có hơn 700 cơ quan báo chí, đài phát



×