Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

TL vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng hồ chí minh trong công cuộc đổi mới đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.89 KB, 17 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lý do lựa chọn vấn đề:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, là một hệ
thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; về lòng yêu nước
thương dân, về sức mạnh của nhân dân, lấy dân làm gốc; về sản xuất và tiết
kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu; về tăng cường quốc phòng - an ninh,
xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về nền văn hóa dân tộc và hiện đại; về
đạo đức cách mạng; về đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh; xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân... Tư tưởng Hồ Chí
Minh đã và đang soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi.
Đó là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại là nền tảng chính trị trong đường lối đổi mới của Đảng ta. Thấm nhuần Tư
tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng trong những năm đổi mới đều khẳng
định sự cần thiết phải vận dụng sáng tạo tư tưởng kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại do Người nêu lên. Nghị quyết Đại hội VII của Đảng (1991)
khẳng định; Trong điều kiện mới càng phải coi trọng vận dụng bài học kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh
quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để phục vụ sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm đổi mới, quan điểm “ Làm bạn với các nước dân chủ và
không gây thù oán với một ai” của Hồ Chí Minh được Đảng và Nhà nước ta rất
quan tâm và vận dụng sáng tạo. Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã khẳng định :
Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc
tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.
Khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng


tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng là sự tổng kết sâu sắc thực tiễn
cách mạng và là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận
của Đảng ta.
Từ những lý do nêu trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu, đó là: “Vận dụng và
phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới đất nước”.


2. Mục đích, ý nghĩa của việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới đất nước:
- Khẳng định rằng, sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam là sự tiếp tục con
đường của Hồ Chí Minh đã lựa chọn, nó như là một quá trình tất yếu vận dụng
sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Nắm vững nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng
Việt Nam, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng của Người trong quá trình
thực hiện sự nghiệp đổi mới.
- Nắm được kiến thức về sự vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới.
- Nhằm thấm nhuần sâu sắc di sản Hồ Chí Minh, có ý thức tu dưỡng, rèn
luyện hằng ngày, suốt đời học tập và làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức
của Người, trở thành những cán bộ có phẩm chất đạo đức, năng lực trí tuệ, bản
lĩnh chính trị, phương pháp và phong cách làm việc tốt trong quá trình học tập
cũng như hoạt động thực tiễn.
II. NỘI DUNG:
1. Nhận thức về vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí
Minh trong công cuộc đổi mới đất nước.
Nhận thức của Đảng về tư tưởng Hồ Chí Minh nêu tại Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm
2011): “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa

và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta,
mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh mang bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn,
thuộc hệ tư tưởng Mác-Lênin; là sự kết tinh trí tuệ của dân tộc và thời đại; là sự
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta; là linh hồn, ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam, góp phần vào
phong trào cách mạng thế giới, để lại một dấu ấn trong quá trình phát triển của
nhân loại vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Tư tưởng Hồ
Chí Minh là mẫu mực của tinh thần độc lập, tự chủ, đổi mới và sáng tạo.
Thông qua các con đường cứu nước không thành công của dân tộc, kết
hợp hoạt động thực tiễn và khảo sát lý luận trên thế giới, Hồ Chí Minh khẳng
định con đường Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, con đường của chủ


nghĩa Lênin “là cái cần thiết cho chúng ta, con đường giải phóng chúng ta”, tức
giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản: “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”;
“làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản”. Đối tượng của cách mạng giải phóng dân tộc là đế quốc thực dân Pháp và
bọn phong kiến; đánh đuổi tụi áp bức mình đi. Cách mạng giải phóng dân tộc có
mối quan hệ mật thiết với cách mạng vô sản chính quốc. Cách mạng giải phóng
dân tộc ở thuộc địa có khả năng chủ động giành thắng lợi trước cách mạng vô
sản ở chính quốc và tác động trở lại giúp “anh em ở phương Tây”.
Giải phóng dân tộc bằng phương pháp cách mạng khoa học, đúng đắn - đó
là phương pháp cách mạng bạo lực của quần chúng kết hợp với tư tưởng nhân
đạo, hòa bình; là phương pháp “dĩ bất biến ứng vạn biến”; kết hợp thời - thế lực; chính trị - quân sự - ngoại giao. Phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam.
Tư duy của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ khát vọng giải
phóng dân tộc. Người rời Tổ quốc năm 1911 là để đi tìm con đường giải phóng
dân tộc, giành độc lập cho dân tộc. Đến với Cách mạng Tháng Mười Nga năm

1917 và chủ nghĩa Mác-Lênin - tức là đến với chủ nghĩa xã hội - Hồ Chí Minh
tìm ra con đường giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Từ đó,
vừa nghiên cứu lý luận vừa hoạt động thực tiễn, Người khẳng định chỉ có chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để các dân tộc. Từ những
giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa
xã hội không phải chỉ từ những luận giải chính trị, kinh tế theo chủ nghĩa MácLênin mà còn xuất phát từ những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc như
chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đạo đức, đoàn kết, tinh thần nhân văn, trọng
dụng nhân tài. Những nguyên lý về chính trị, kinh tế, văn hóa như sự phát triển
của nhân loại trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội; vai trò của quần chúng nhân
dân trong lịch sử; vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp vô sản thông qua đội
tiên phong là Đảng Cộng sản, được Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển sáng
tạo.
Về cách mạng xã hội chủ nghĩa, theo Hồ Chí Minh, bản chất của chủ
nghĩa xã hội là một chế độ do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao,
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại với chế độ sở hữu toàn dân và tập thể; có sự
phát triển cao về văn hóa, đạo đức; là sự nghiệp của nhân dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Xây dựng chế độ chính trị dân là chủ và dân làm chủ; quyền hành ở
nhân dân; nhân dân có quyền kiểm soát đại biểu của mình, có quyền bãi miễn
đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng
đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Đồng thời, nhân dân phải có nghĩa vụ với


Nhà nước, chăm lo việc nước như việc nhà, tự mình lo toan, gánh vác, không ỷ
lại, không ngồi chờ. Mọi công dân trong xã hội đều có nghĩa vụ lao động, nghĩa
vụ bảo vệ Tổ quốc, tôn trọng và chấp hành pháp luật, tôn trọng và bảo vệ của
công. Dân là chủ thì Chính phủ là đầy tớ chung của dân, từ Chủ tịch toàn quốc
đến làng. “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ” .
Xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp
hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến, làm cho đời sống vật chất ngày càng
được cải thiện. Trong thời kỳ quá độ tồn tại bốn hình thức sở hữu: sở hữu của

Nhà nước (toàn dân); sở hữu của hợp tác xã (tập thể); sở hữu của người lao động
riêng lẻ; sở hữu của nhà tư bản. Phát triển toàn diện các ngành, trong đó công
nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế nước nhà. Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa là quy luật tất yếu và phổ biến.
Hồ Chí Minh coi văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển,
nằm ngay trong quá trình phát triển. Văn hóa đứng trong kinh tế và chính trị.
Văn hóa soi đường cho quốc dân đi, lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự
cường, tự chủ. Văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa
xỉ; phải làm cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do. Đó là một nền văn
hóa toàn diện, giữ gìn cốt cách dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa
nhân loại, khoa học, tiến bộ, nhân văn, lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc
làm cơ sở.
Mục tiêu xã hội đó là một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, có quan
hệ tốt đẹp giữa người với người, giải phóng phụ nữ; các chính sách xã hội được
quan tâm thực hiện; đạo đức, lối sống xã hội phát triển lành mạnh. Con người là
trung tâm, là nguồn lực quan trọng nhất để xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa là
mục tiêu vừa là động lực của phát triển. Con người phát triển toàn diện, có tinh
thần và năng lực làm chủ; có ý thức trách nhiệm; có phẩm chất đạo đức cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; có kiến thức khoa học - kỹ thuật, nhạy bén với
cái mới; có bản lĩnh, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách
nhiệm.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về động lực của chủ nghĩa xã hội: Động lực
cộng đồng chủ yếu là phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc bao gồm tất
cả các giai tầng của xã hội, trừ bọn tay sai phản dân hại nước. Đồng thời, nâng
cao năng lực lãnh đạo của Đảng, trình độ quản lý của Nhà nước và vai trò của
các tổ chức quần chúng. Phát huy động lực cá nhân bằng cách tác động vào các
yếu tố tinh thần như dân quyền, dân sinh, dân trí, dân chủ, công bằng, lý tưởng
chính trị, đạo đức, pháp luật và nhu cầu, lợi ích vật chất như ăn, mặc, ở, ruộng
đất... Phát huy ngoại lực bằng tăng cường đoàn kết quốc tế; kết hợp sức mạnh



dân tộc với sức mạnh thời đại. Khắc phục các trở lực theo tinh thần xây phải đi
liền với chống - chống lại tất cả những gì là cũ kỹ, lạc hậu để tạo ra những cái
mới mẻ, tốt tươi.
Về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: Hồ Chí Minh thống
nhất quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về sự phát triển của loài người theo
quy luật nhất định, nhưng tùy hoàn cảnh mà các dân tộc phát triển theo con
đường khác nhau. Có nước đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Có nước thì phải kinh
qua chế độ tư bản chủ nghĩa rồi mới tiến lên chủ nghĩa xã hội. Con đường của
cách mạng Việt Nam là tiến hành giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ
nhân dân, quá độ dần lên chủ nghĩa xã hội. Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam là không bắt đầu bằng một cuộc cách mạng chính trị;
vừa chiến tranh vừa hòa bình, vừa cải tạo vừa xây dựng, vừa sản xuất vừa chiến
đấu; tình hình quốc tế vừa thuận lợi vừa khó khăn; từ một nước vốn là thuộc địa,
nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam – đó là: Giữ vững và phát huy vai trò, năng lực lãnh đạo của Đảng
trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, xây
dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; Chú trọng cơ cấu kinh tế ngành
công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, xây dựng kinh tế vùng, phát triển
đồng đều giữa kinh tế đô thị và kinh tế nông thôn, kinh tế vùng núi, hải đảo,
phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với vị trí, xu hướng vận động của
từng thành phần, về mặt quản lý và phân phối, chú trọng các đòn bẩy trong phát
triển sản xuất và tính hiệu quả; Xây dựng con người xã hội chủ nghĩa vừa hồng
vừa chuyên, xây dựng đội ngũ cán bộ với ý nghĩa là gốc của mọi công việc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội:
Trong di sản Hồ Chí Minh có di sản tư tưởng mà nội dung cốt lõi là độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là sự
gắn bó giữa độc lập của Tổ quốc với tự do, hạnh phúc của nhân dân; giữa giải

phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Thực tiễn cách mạng
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng chứng minh sự lựa chọn độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đúng đắn. Đó là thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám năm 1945; thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
(1945-1954); thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)
và những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong thời kỳ đổi mới.
Độc lập dân tộc là mục tiêu hàng đầu đi tới chủ nghĩa xã hội. Mâu thuẫn
cơ bản và chủ yếu của xã hội Việt Nam thuộc địa là mâu thuẫn giữa một bên là


toàn thể dân tộc Việt Nam với một bên là bọn thực dân Pháp xâm lược và tay sai
của chúng. Giải quyết mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu này là để giành độc lập dân
tộc. Trong hoàn cảnh một nước thuộc địa như Việt Nam, không giành được độc
lập dân tộc thì không có gì hết. Độc lập dân tộc tạo điều kiện đi tới chủ nghĩa xã
hội. Theo quan điểm Hồ Chí Minh, không phải mọi thứ độc lập đều có thể đi tới
được chủ nghĩa xã hội. Để đi tới chủ nghĩa xã hội, đó phải là một nền độc lập
dân tộc hoàn toàn; triệt để; độc lập dân tộc gắn với cuộc đấu tranh bảo vệ hòa
bình của nhân loại.
2. Thực trạng vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh
trong công cuộc đổi mới đất nước.
Cần nhận thức đầy đủ, sâu sắc bối cảnh nước ta trước và bắt đầu vào đổi
mới. Đất nước hết sức khó khăn do hậu quả của chiến tranh, bị bao vây, cấm
vận; chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng. Liên Xô - chỗ dựa duy nhất đã sụp
đổ năm 1991. Khó khăn còn do sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực
hiện. Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu là do bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy
nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan. Đó là
tư tưởng tiểu tư sản, vừa “tả” khuynh vừa hữu khuynh. Chúng ta vừa chủ quan
nóng vội, vừa bảo thủ trì trệ.
Đảng ta quyết tâm đổi mới, vì đó là đòi hỏi bức thiết của đất nước; là đặc
tính của cách mạng, nhất là cách mạng xã hội chủ nghĩa; là bản chất sâu xa của

chủ nghĩa Mác-Lênin; là xu thế tất yếu của thời đại. Chỉ có đổi mới mới thấy
đúng và thấy hết sự thật, thấy những nhân tố mới để phát huy, những sai lầm để
sửa chữa, nhằm vận dụng tốt chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh nước ta. Bước
vào đổi mới, Đảng ta nhấn mạnh: “Mười năm qua, chúng ta đã trả giá đắt để thu
được những hiểu biết và kinh nghiệm ngày nay, và chúng ta đã có bước trưởng
thành”. Trong quá trình đổi mới, Đảng nghiêm túc kiểm điểm, tổng kết kinh
nghiệm, đánh giá việc vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin, học tập kinh nghiệm các
nước và khẳng định “kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Từ Đại hội VII (6-1991), khi Đảng nêu cao tư
tưởng Hồ Chí Minh, việc nghiên cứu, giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh ngày
càng phong phú, toàn diện, cho đến nay có cả ngành Hồ Chí Minh học.
Thành quả của gần 30 năm đổi mới có nhiều nguyên nhân, trong đó việc
vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh đóng vai trò chủ yếu.
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đại hội VII
nêu kinh nghiệm đầu tiên là: “Phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong
quá trình đổi mới... Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của nước ta...


Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là làm cho mục
tiêu ấy được thực hiện có kết quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa
xã hội, bằng những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp”.
Từ Đại hội VIII đến Đại hội XI, bài học hàng đầu Đảng tổng kết là: “Kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Bài học đó cũng được khẳng định trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011).
Hồ Chí Minh đưa ra quan niệm về “đường lối nhân dân” ngay từ sau Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 nhưng tinh thần đó thấm sâu vào hoạt động của
Người từ những năm 20 của thế kỷ XX cho đến cuối đời. Chủ tịch Hồ Chí Minh
là người viết và nói về nhân dân nhiều nhất, hay nhất, sâu sắc nhất, cảm động
nhất. Tại Đại hội VI, Đảng khẳng định, trong mọi hoạt động của mình, Đảng

phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”. Từ Đại hội VIII trở đi, một trong
những bài học trong đổi mới được Đảng khẳng định là vì lợi ích của nhân dân,
dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động sáng tạo của nhân dân. Bài học này
tiếp tục được khẳng định trong Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011).
Cương lĩnh năm 1991 nhấn mạnh: “Giáo dục và đào tạo gắn liền với sự
nghiệp phát triển kinh tế, phát triển khoa học, kỹ thuật, xây dựng nền văn hóa
mới và con người mới... Khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo phải được
xem là quốc sách hàng đầu”. Từ Đại hội VIII, Đảng có nghị quyết về xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Từ đó đến
nay nhiệm vụ văn hóa ngày càng được chú trọng. Những vấn đề xã hội ngày
càng được quan tâm đúng mức. Từ Đại hội VII, Đảng đã đề ra chính sách xã
hội. Đại hội IX lần đầu tiên nói đến an sinh xã hội. Đến Đại hội XI, một trong
năm kinh nghiệm là “phải coi trọng việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”.
Từ Đại hội VI, Đảng ta đã rút ra bài học kinh nghiệm “Phải xây dựng
Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền”. Từ Đại hội VII
trở đi, vấn đề xây dựng Đảng luôn được khẳng định. Đại hội VIII coi “xây dựng
Đảng là nhiệm vụ then chốt”. Đại hội IX nhấn mạnh: “Đường lối đúng đắn của
Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới”. Đại hội X:
“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”. Đại hội XI: “Đặc biệt
chăm lo củng cố, xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức”. Cương
lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011: “Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố
hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”.


Đảng có nhiều nghị quyết chuyên đề về xây dựng Đảng, phản ánh nhận
thức rõ hơn về yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng cầm quyền trong điều kiện mới.
Khẳng định sự cần thiết phải bảo đảm vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng,
không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Khẳng định sự cần thiết
phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn. Đảng đã đạt được

một số thành tựu trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam có cách tiếp cận nội dung, tính chất thời đại,
khẳng định tính chất thời đại không thay đổi, loài người vẫn đang trong thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Các nghị quyết của Đảng phản
ánh những nhận thức mới về đường lối đối ngoại: thực hiện nhất quán đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy
và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân
tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh.
Nhận thức của Đảng về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa: phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của
cả hệ thống chính trị, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững
chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và
chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ
động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực
thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang
tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Tiếp tục mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh.
Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng, nhiều vấn đề được nêu ra
từ khi bước vào đối mới, thể hiện tính nhất quán, xuyên suốt cho đến hiện nay.
Vận dụng trên hai phương diện nhận thức và thực tiễn, về nhận thức, khá toàn
diện, được phản ánh trong các nghị quyết đại hội và nghị quyết chuyên đề của
Đảng, thể hiện được sự vận dụng và phát triển sáng tạo. Một số vấn đề vận dụng
tốt, đặc biệt là thiết kế đường lối, chính sách, dẫn đến những thành tựu hiện nay.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm Đảng vẫn còn những hạn chế về cả nhận
thức và thực tiễn. Đổi mới tư duy về văn hóa chậm, đặc biệt là nhận thức về vai
trò, sứ mệnh của văn hóa; về hội nhập văn hóa và giữ gìn bản sắc văn hóa dân

tộc. Văn hóa phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Nhận thức
những vấn đề về xã hội, giáo dục còn nhiều bất cập. Việc kết hợp phát triển kinh


tế với giải quyết các vấn đề xã hội còn nhiều hạn chế. Nhiều vấn đề xã hội bức
xúc chậm được giải quyết. Thực tế thực hiện đường lối nhân dân còn hạn chế
như: một bộ phận không nhỏ cán bộ chưa đặt lợi ích nhân dân lên trên hết; chưa
liên hệ chặt chẽ với nhân dân; chưa bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân;
có khuyết điểm chưa thật thà tự phê bình trước nhân dân và hoan nghênh nhân
dân phê bình mình, chưa dám chịu trách nhiệm trước nhân dân; chưa sẵn sàng
học hỏi nhân dân; chưa tự mình làm gương mẫu cần, kiệm, liêm, chính để nhân
dân noi theo. Chính sách chưa đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. Quyền của
nhân dân còn bị vi phạm. Việc chăm lo đời sống nhân dân còn nhiều hạn chế.
Trong lĩnh vực xây dựng Đảng, một bộ phận đảng viên xa rời mục tiêu, lý
tưởng. Nhiều vấn đề về Đảng cầm quyền chưa được làm sáng tỏ. Ví dụ: Cơ chế
“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ? Phương thức lãnh đạo
của Đảng? Tiêu chuẩn cán bộ, đảng viên? Về thực tiễn, công tác xây dựng Đảng
chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
như một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống; công tác lý luận còn chưa đủ sức làm sáng tỏ không ít vấn đề do thực tiễn
đặt ra; công tác tổ chức; công tác cán bộ; phương thức lãnh đạo của Đảng còn
lúng túng. Kỷ luật của Đảng chưa nghiêm, vấn đề dân chủ trong Đảng và trong
xã hội chưa được phát huy đầy đủ. Còn hiện tượng dân chủ hình thức. Lúng túng
trong vấn đề kiểm tra, giám sát quyền lực và việc bảo đảm quyền lực không bị
tha hóa, không bị lạm dụng. Thiếu cơ chế bảo đảm quyền kiểm tra, giám sát của
nhân dân đối với hoạt động của Nhà nước. Vai trò kiểm tra, giám sát của Mặt
trận, các đoàn thể chính trị - xã hội còn hạn chế. Đổi mới nền hành chính quốc
gia (bao gồm đổi mới thể chế hành chính, bộ máy hành chính, cán bộ - công
chức) còn rất hạn chế. Việc quản lý của cơ quan nhà nước đối với các lĩnh vực
kinh tế - xã hội nhiều khi bị buông lỏng, chưa có hiệu quả cao.

Việc Học tập và làm theo tấm gương đạo Hồ Chí Minh chưa thực sự đi
vào chiều sâu, ở một số nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao, làm
theo chưa đạt yêu cầu.
3. Các giải pháp vận dụng để giải quyết việc vận dụng và phát triển
sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới đất nước.
Nắm vững quan điểm thực tiễn, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giải quyết đúng những vấn đề do thực tiễn
cách mạng nước ta đặt ra hiện nay. Nhờ nắm vững và vận dụng tốt quan điểm
thực tiễn, Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối đúng đắn sáng tạo cho cách mạng
Việt Nam, đưa lại nhiều thắng lợi cho cách mạng nước ta. Công cuộc đổi mới


hiện nay phải xuất phát từ nguyện vọng của nhân dân và thực tiễn của xã hội
Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm tốt của thế giới, phù hợp với xu thế của thời
đại.
Một số nội dung cơ bản tiếp tục quán triệt, vận dụng và phát triển sáng tạo
tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay, cụ thể:
- Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Giữ vững độc
lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện công cuộc đổi mới (nhận thức
mới về độc lập, chủ quyền quốc gia; về sức mạnh tổng hợp của đất nước).
Thắng lợi trong công cuộc đổi mới là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân
tộc (nhận thức nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội và những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa
trong Cương lĩnh của Đảng). Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau. Điều
kiện để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội: xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh; động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa
vào lực lượng vĩ đại của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Phát triển chủ
nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, tạo sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Bồi dưỡng lý tưởng xã hội chủ

nghĩa.
- Quán triệt tư tưởng sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ
hoạt động của Đảng phải xuất từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân
dân. Phải thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh “sao cho được lòng dân”; Đảng,
Chính phủ, cán bộ, đảng viên là công bộc tận tụy của nhân dân. Có dân là có tất
cả. Mất lòng tin của nhân dân là mất tất cả. Sức mạnh của Đảng là ở lòng tin
nhân dân, trọng dân, thương dân, lắng nghe dân, học dân, hiểu dân, hỏi dân, gắn
bó mật thiết với nhân dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Quán triệt tư tưởng Hồ
Chí Minh: “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng
hộ, việc gì làm cũng không nên”. Phải học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh về phong cách quần chúng, thực hành dân chủ. Quan liêu, tham
nhũng, xa rời nhân dân, coi thường dân theo tư duy cai trị sẽ dẫn đến những tổn
thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ và của Đảng. Ghi
nhớ sâu sắc lời cảnh báo của Người: Cách xa dân chúng, chẳng khác gì đứng lơ
lửng giữa trời, nhất định thất bại.
- Không ngừng củng cố, tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc và của Đảng, là nguồn sức
mạnh to lớn, động lực chủ yếu của cách mạng nước ta. Nâng cao nhận thức trách


nhiệm của toàn Đảng, toàn dân về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
trong bối cảnh mới. Mục tiêu đại đoàn kết toàn dân tộc: Lấy việc xây dựng nước
Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng. Xóa bỏ mọi mặc cảm, định
kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không
trái với lợi ích chung của dân tộc. Đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân
nghĩa, khoan dung, thực hiện hòa hợp dân tộc. Cơ sở và biện pháp thực hiện đại
đoàn kết toàn dân tộc: Giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên
trong xã hội. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng

khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các cấp ủy đảng và chính quyền phải thường
xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn,
vướng mắc của nhân dân theo tinh thần Hồ Chí Minh: “Phải chấp đơn, phải xử
kiện cho dân mỗi khi người ta đem tới”. Phải tin dân, tôn trọng những người có
ý kiến khác; làm tốt công tác dân vận, có cơ chế, pháp luật để nhân dân bày tỏ
chính kiến, nguyện vọng và quyền làm chủ của mình. “Nói tóm lại, muốn được
dân yêu, muốn được lòng dân, trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của
nhân dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư”. Quan tâm giáo
dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát huy vai trò của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội:
phát triển giai cấp công nhân; phát huy vai trò của giai cấp nông dân; xây dựng
đội ngũ trí thức lớn mạnh; phát triển đội ngũ doanh nhân; chăm lo bồi dưỡng thế
hệ trẻ; nâng cao trình độ mọi mặt cho phụ nữ; phát huy truyền thống Bộ đội Cụ
Hồ; quan tâm đời sống người cao tuổi; đoàn kết các dân tộc; tiếp tục hoàn thiện
chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; đồng bào định cư ở nước ngoài là
một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Vai trò, trách
nhiệm của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc khắc phục tình
trạng hành chính hóa, phát huy vai trò nòng cốt tập hợp, đoàn kết nhân dân xây
dựng cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; thực hiện dân chủ, giám sát và
phản biện xã hội. Đoàn kết thật sự, chân thành trên cơ sở thương yêu nhân dân.
- Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực quản lý
của Nhà nước. Hồ Chí Minh để lại nhiều bài học lớn có giá trị trường tồn. Quan
điểm “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” là một tổng kết lý luận đặc sắc về xây
dựng Đảng, chứa đựng bản chất và mục tiêu của Đảng. Sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Nếu không
xử phạt thì sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho bọn cố ý phá hoại. Làm theo
cách quan liêu thì dân oán. Dân oán, dù tạm thời may có chút thành công, nhưng
về mặt chính trị là thất bại. Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Chú trọng chất



lượng hơn số lượng. Đảng mạnh không chỉ phát huy ưu điểm mà còn biết khắc
phục khuyết điểm, xử lý nghiêm minh cán bộ, đảng viên theo đúng kỷ luật của
Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc
phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân chủ sáng kiến - hăng hái. “Làm cán bộ tức là suốt đời làm đày tớ trung thành của
nhân dân. Mấy chữ a, b, c này không phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi, học
suốt đời mới thuộc được” . “Lãnh đạo là làm đày tớ nhân dân và phải làm cho
tốt”. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết những vấn
đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất
phát từ thực tế, từ nguyện vọng chính đáng của nhân dân, tôn trọng quy luật
khách quan, phù hợp xu thế thời đại. Xây dựng Đảng về văn hóa chính trị, văn
hóa tư tưởng, văn hóa tổ chức, văn hóa đạo đức để Đảng xứng đáng là người
lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân. Đảng phải phòng và chống
những nguy cơ lớn sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự tha hóa biến chất
của cán bộ, đảng viên. Nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa: Cải cách, đổi mới bộ máy nhà nước là điều kiện quan trọng để tranh
thủ các nguồn lực bên ngoài như vốn, tri thức khoa học - công nghệ, kỹ thuật.
Nhà nước phải thực hiện tốt, có hiệu quả chức năng công quyền, quản lý chủ
yếu bằng hoạch định chính sách, xây dựng thể chế pháp luật theo tinh thần Hồ
Chí Minh “đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”; chuyển dần từ chức
năng quản lý sang phục vụ. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật; tổ chức
cung cấp dịch vụ công như hành chính, y tế, giáo dục, thông tin, an ninh xã hội.
Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước, vấn đề cốt tử của
công cuộc cải cách, hoàn thiện Nhà nước là vấn đề con người, xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
Sự tha hóa của cán bộ là trở lực lớn nhất, phức tạp nhất trên đường phát triển và
hội nhập. Cán bộ, công chức phải rèn luyện, học tập, làm theo tư tưởng, tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh. Thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết

chống tham ô, tham nhũng, lãng phí quan liêu.
- Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nhận
thức sâu sắc, đúng đắn, đầy đủ khái niệm văn hóa và vai trò, sứ mệnh của văn
hóa đối với sự phát triển bền vững. Nhận thức những yếu tố bản chất của văn
hóa như văn hóa gắn với con người, phản ánh những mặt căn cốt như tư tưởng,
đạo đức, lối sống, nhân cách, tâm hồn, cách ứng xử. Văn hóa còn thì chế độ còn,


văn hóa mất thì chế độ mất; không gì đáng sợ bằng văn hóa lâm nguy. Phát triển
nền văn hóa toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần
nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào
toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội
sinh quan trọng của phát triển. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Muôn
việc thành công hay thất bại của cá nhân, tổ chức, cộng đồng, đất nước đều do
có văn hóa hay tha hóa về văn hóa. Tập trung xây dựng văn hóa chính trị và các
lĩnh vực văn hóa khác như văn hóa bổn phận, văn hóa công bộc, văn hóa ứng
xử, văn hóa phê bình... Nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa văn
hóa với kinh tế, chính trị, xã hội. Phát huy và trọng dụng nhân tố con người với
tư cách là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển.
Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo. Trọng dụng trí thức, nhân tài.
Thực hiện chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người, tạo động lực
mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Tiếp cận những thành tựu nghiên cứu mới nhất của thế giới về Hồ Chí
Minh; phê phán những ý kiến sai trái, lệch lạc, chống các luận điểm thù địch.
Đánh giá của nhân loại trong những năm gần đây cho thấy giá trị trường tồn của
tư tưởng, đạo đức, phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh. V.M.Xônxép Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô (trước đây) phát biểu trong
Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Trong thế giới đầy năng động của chúng ta ngày nay đang diễn ra những biến
đổi lớn lao... Khái niệm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội, về các con đường và

các phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng thay đổi. Nhưng trong mọi
biến đổi cũng có một số điều quan trọng không hề thay đổi. Đó là lý tưởng xã
hội chủ nghĩa, các tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa, tự do, dân chủ và công bằng xã
hội, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà yêu nước vĩ đại, người theo chủ nghĩa quốc
tế đã cống hiến trọn đời mình cho những lý tưởng đó”. Lời dẫn mục từ Hồ Chí
Minh trong Đại Bách khoa toàn thư UNIVERSALIS (Pháp) đã viết: “Trong lịch
sử các cuộc cách mạng thế kỷ XX trên toàn thế giới, Hồ Chí Minh - nhà sáng lập
và Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, giữ vị thế đặc biệt.
Ông là người tiến hành cuộc chiến đấu lâu dài nhất so với bất kỳ nhà lãnh đạo
nào khác trong thời đại ngày nay chống bá quyền và đế quốc thực dân. Khi Mao
Trạch Đông còn là một viên thủ thư (ở thư viện) chưa hề thoáng ý cách mạng
trong đầu, khi Josip Briz của Nam Tư chưa nghĩ ra việc dùng biệt danh Tito kêu
gọi nhân dân nổi dậy, khi Phiđen Catxtơrô (Cuba), Abdel Nasser (Ai Cập) và
Che Guevara (Mỹ Latinh) gần như vừa mới chào đời thì Nguyễn Ái Quốc từ


năm 1919 đã đặt vấn đề giải phóng thuộc địa trước Hội nghị Hòa bình họp tại
Điện Versailles (Pháp).
Những điều làm nên sự độc đáo của Hồ Chí Minh vượt lên cả vị thế của
ông ở giao lộ, nơi con đường lịch sử các nhà cách mạng châu Âu gặp các nhà
cách mạng châu Á, vừa là ở chỗ ông kết nối phong trào công nhân châu Âu bắt
nguồn từ tập trung hóa công nghiệp với cuộc nổi dậy của đông đảo nông dân
châu Á thoạt đầu chưa định hình, được hợp lý hóa dần dần nhờ chủ nghĩa Mác
(...). Là nhân vật bản lề, vừa là nhà hòa giải, vừa là người khơi gợi (cuộc chiến
đấu vì tự do), cho dù máu có phải đổ ra, Hồ Chí Minh vẫn là nhà cách mạng duy
nhất của thời đại này, mà sự từ trần làm tổn thất và xúc động tâm can đông đảo
người dân nhất, cho dù tất cả mọi người trong họ cho đến lúc đó tự coi mình là
người cách mạng” .
Raymon Aubrac - Cộng hòa Pháp phát biểu tại Hội thảo khoa học quốc tế
kỷ niệm 120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, tháng 5-2010: Trong một tác

phẩm xuất bản năm 2007 của Trung tâm lưu trữ quốc gia Pháp là Những tài liệu
quan trọng của lịch sử nước Pháp, có minh họa một bức chân dung duy nhất của
một người nước ngoài, đó chính là Hồ Chí Minh. Phía dưới bức ảnh, có ghi
dòng chữ (tiếng Pháp, tạm dịch ra tiếng Việt): “Đây là một điển hình hiếm có
nhất về tình bạn trung thành giữa các đối thủ chính trị, được ghi nhận công lao
từ phía bên kia và từ lãnh đạo của phía đối phương”.
A.X.Varônhin - Viện Hàn lâm khoa học Liên bang Nga phát biểu trong
Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh,
tháng 5-2010: “Chúng tôi có đủ cơ sở để khẳng định, con đường giải phóng đất
nước và xã hội Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn cho dân tộc Việt Nam là một
trong những chiến lược xã hội đặc sắc nhất trong lịch sử nhân loại. Sức mạnh vĩ
đại của tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện ở chỗ chủ nghĩa xã hội được hiểu là
một quá trình sáng tạo không ngừng nhằm hoàn thiện từng con người và xã hội
chứ không phải một hệ thống cố định và bất biến. Chủ nghĩa Mác không phải là
giáo thuyết. Chân lý là sự việc cụ thể. Cách mạng là sự sáng tạo, Người thường
hay nói như vậy. Cách nhận thức chủ nghĩa xã hội trên cho phép tìm được câu
trả lời xác đáng cho mọi thách thức và mối đe dọa phát sinh đối với nhân loại”.
Igơnaxiô Gônxalết Hanxen - nhà hoạt động chính trị Mêhicô, nguyên Chủ tịch
Hội những bạn của Việt Nam phát biểu trong Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm
120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, tháng 5-2010: “Hồ Chí Minh không
chỉ là một vị lãnh tụ xuất chúng của dân tộc mình, một yếu nhân của quá trình
phi thực dân hóa trong thế kỷ XX mà đặc biệt Người còn là một người Thầy vĩ
đại trong môn học giành tự do cho các dân tộc. Là người Thầy trong nghề sư


phạm giành tự do - chủ đề chính của tất cả các nền văn hóa và là mục tiêu của
nhân loại”.
Nhận thức các quan điểm mới nghiên cứu về Hồ Chí Minh, khẳng định
“tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn nguyên giá trị thời đại”; “Hồ Chí Minh giúp chúng
ta có được một tầm nhìn và để lại một dấu ấn trong quá trình phát triển của nhân

loại”; “Hồ Chí Minh trở thành một người thầy về cuộc sống tiếp thu trong một
thế giới có xu hướng toàn cầu hóa hiện nay”.
Bà Katherine Muller Marin - Trưởng đại diện Văn phòng UNESCO Hà
Nội phát biểu tại Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 120 năm ngày sinh Chủ
tịch Hồ Chí Minh: “Có được một vị Chủ tịch như Hồ Chí Minh, người được
nhiều người không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới tôn vinh như anh hùng
dân tộc, giống như có được một biểu tượng giúp chúng ta có được một tầm nhìn,
chỉ cho đất nước một bến đỗ an toàn. Và hơn thế, một lãnh tụ như thế cũng chỉ
cho ta cách kiểm soát phong ba bão táp thông qua lòng tự hào, lao động cần cù
và quan hệ hòa hiếu” v.v..
Cần kiên quyết phê phán những nhận thức hời hợt, không đúng và các
quan điểm sai trái; chống các luận điểm thù địch về Hồ Chí Minh.
IV. PHẦN KIẾN NGHỊ:
1. Việt Nam tiếp tục đoàn kết và ủng hộ các phong trào cách mạng, các xu
hướng và trào lưu tiến bộ của thời đại vì các mục tiêu hoà bình, độc lập, dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội.
2. Giữ vững nguyên tắc độc lập tự chủ, tự lực tự cường, chủ trương tận
lực phát huy sức mạnh dân tộc ... trên cơ sở đó để tranh thủ và tận dụng được sự
đồng tình và ủng hộ rộng rãi của lực lượng bên ngoài, nhằm thực hiện thắng lợi
mục tiêu cách mạng mỗi thời kỳ. Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH hiện nay,
chúng ta phải mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tranh thủ vốn, kinh nghiệm
quản lý, công nghệ và ra nhập thị trường quốc tế, nhưng phải trên cơ sở độc lập
tự chủ, phát huy đầy đủ các tếu tố nội lực, dựa vào các nguồn lực trong nước là
chính... Nếu không độc lập tự chủ, không phát huy đầy đủ nội lực thì không thể
đứng vững và đi lên một cách vững chắc, lâu bền và cũng không thể hội nhập
kinh tế quốc tế một cách bình đẳng.
3. Chúng ta kiên định con đường mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn, bởi vì,
con đường này là duy nhất đúng ở Việt Nam. Dựa vào sức mạnh của toàn dân.
Xây dựng, kiện toàn hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
4. Đội ngũ cán bộ, đảng viên cần tích cực học tập, nghiên cứu nắm vững

bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí


Minh. Trên cơ sở đó, biết vận dụng đúng đắn, sáng tạo vào điều kiện, hoàn cảnh
cụ thể của từng cấp, từng ngành, từng địa phương và đơn vị. Bởi lẽ, nếu không
nắm được bản chất cách mạng và khoa học, không nắm chắc nội dung cơ bản,
cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan
điểm của Đảng thì không những người cán bộ, đảng viên không làm tốt công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng mà còn không lý giải được một cách thuyết phục
những vấn đề do thực tiễn cuộc sống đặt ra. Do đó, không có cơ sở khoa học để
đấu tranh có hiệu quả chống các quan điểm sai trái phủ nhận, xuyên tạc chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng.
5. Thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền
giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho nó giữ vai trò
chủ đạo trong đời sống tinh thần của Đảng và toàn xã hội. Cần căn cứ vào
đường lối, quan điểm của Đảng, Nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của cấp trên và
tình hình thực tiễn của địa phương, nhà trường và đơn vị để xác định rõ nội
dung, hình thức và phương pháp tiến hành tổ chức nghiên cứu, học tập chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với từng đối tượng. Nội
dung tuyên truyền, giáo dục, học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh phải đảm bảo tính toàn diện, tính hệ thống và chuyên sâu gắn với tình hình
thực tiễn. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh việc đổi mới hình thức, phương pháp tiến
hành công tác tư tưởng, lý luận của Đảng. Sử dụng có hiệu quả các phương tiện
thông tin, đại chúng, các lực lượng chuyên trách... để tuyên truyền giáo dục chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng, tạo
nên một phong trào học tập sâu, rộng trong Đảng và toàn xã hội. Kiên quyết loại
bỏ những biểu hiện tư tưởng, tâm lý "thờ ơ" trước những vấn đề chính trị, lười
học tập, lười suy nghĩ, không thường xuyên tiếp nhận những thông tin và hiểu
biết mới trong cán bộ, đảng viên.
6. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, tiếp tục

làm sáng tỏ hơn nữa những vấn đề bức xúc do thực tiễn đổi mới, chỉnh đốn
Đảng đặt ra. Trước hết, cần nghiên cứu sâu thêm vấn đề đảng viên làm kinh tế
tư nhân; về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về Đảng cầm quyền
và công tác xây dựng Đảng; làm rõ hơn mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam; nghiên cứu, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm của các nước
vào công cuộc đổi mới, chỉnh đốn Đảng, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, hội nhập quốc tế.
7. Đẩy mạnh đấu tranh chống các quan điểm sai trái phủ nhận, xuyên tạc
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan điểm của Đảng.
Để đấu tranh đạt hiệu quả, cần tích cực tuyên truyền, giáo dục những nội dung


cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan
điểm của Đảng, đưa những tư tưởng đó thành hiện thực trong cuộc sống nhằm
nâng cao hơn nữa đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Đó là cách tốt nhất
để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trước sự công kích của các thế lực thù
địch và sự xuyên tạc của các phần tử phản động.
8. Tiếp đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” đến toàn thể cán bộ, công chức, đảng viên và các
tầng lớp nhân dân.



×