Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Thực trạng phân phối thu nhập ở Việt Nam giai đoạn 2000-2011 và ảnh hưởng của nó tới nghèo đói

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.7 KB, 15 trang )

Thực trạng phân phối thu nhập ở Việt Nam giai đoạn 2000-2011 và
ảnh hưởng của nó tới nghèo đói

I. Lý thuyết phân phối thu nhập
1. Khái niệm
- Cùng với sản xuất và tiêu dùng, phân phối là một trong những phạm trù kinh tế chung
nhất của xã hội loài người. Với tư cách như vậy, phân phối theo nghĩa chung nhất có
thể được hiểu là hoạt động chia các yếu tố sản xuất, các nguồn lực đầu vào trong một
quá trình sản xuất và chia các kết quả sản xuất, các sản phẩm đầu ra trong quá trình tái
sản xuất xã hội. Trong đó, phân phối các yếu tố đầu vào và sản phẩm đầu ra có mối
quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Phân phối thu nhập là một bộ phận của
phân phối, gắn liền với sự phân phối sản phẩm đầu ra được biểu hiện dưới các hình
thái thu nhập. Thực tiễn cho thấy phân phối thu nhập đóng vai trò rất quan trọng trong
mọi xã hội cũng như trong mọi hình thái kinh tế vì phân phối thu nhập hỗ trợ cho tiêu
dùng và quá trình tái sản xuất, đảm bảo cho sự tồn tại của loài người.
- Nhìn chung, lý thuyết phân phối thu nhập bao gồm: giải thích bản chất của phân phối
thu nhập, các yếu tố tác động đến quá trình phân phối thu nhập, phân tích các vấn đề
nảy sinh từ kết quả của phân phối thu nhập như bất bình đẳng kinh tế, nghèo đói, sự
can thiệp của nhà nước …
2. Các yếu tố tập trung cho phân phối thu nhập:
- Trước tiên, về bản chất, phân phối thu nhập được đặc trưng bởi ba yếu tố cơ bản: đối
tượng phân phối, chủ thể phân phối và người tiếp nhận thu nhập.
+ Đối tượng của phân phối ở đây là phần sản phẩm xã hội mới được tạo ra trong một
thời gian nhất định, và khi chúng được chuyển đến người tiếp nhận thì hình thành nên
thu nhập cho người tiếp nhận. Thu nhập (income) có thể được biểu hiện dưới dạng
hiện vật hoặc giá trị.
Trong các lý thuyết phân phối thu nhập, thu nhập có thể được xem xét theo cách tiếp
cận vi mô hoặc vĩ mô. Đối với cách tiếp cận vi mô, thu nhập mang tính cá nhân, có thể
được biểu hiện bởi 4 hình thái: tiền lương (thu nhập của lao động), địa tô (thu nhập của
đất đai), lợi tức (thu nhập của vốn), lợi nhuận (thu nhập của tư bản). Trong khi đó, cách
tiếp cận vĩ mô coi thu nhập là tổng thu nhập quốc dân với hai thành phần cơ bản: tiêu


dùng và tiết kiệm.
+ Chủ thể phân phối thu nhập là một khái niệm không thống nhất trong các lý thuyết
phân phối thu nhập. Trong các thời kỳ trước nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa,
chủ thể phân phối thu nhập thường là người có quyền lực cao nhất trong xã hội như tù


trưởng trong chế độ nguyên thủy, chủ nô trong chế độ chiếm hữu nô lệ, vua hay các
lãnh chúa trong chế độ phong kiến. Những người này dựa trên quyền chiếm hữu tập
trung các tư liệu sản xuất quyết định phân phối thu nhập. Đến thời kỳ tư bản chủ nghĩa,
các lý thuyết phân phối thu nhập của các nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển như Adam
Smith, David Ricardo hay của trường phái tân cổ điển sau này coi người nắm giữ các
yếu tố sản xuất (lao động, đất đai, vốn) là chủ thể phân phối và cũng là đối tượng tiếp
nhận phân phối. Lý thuyết phân phối thu nhập thuộc trường phái mácxít cho rằng trong
nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa, chủ thể phân phối chính là các nhà tư bản,
những người chiếm hữu các tư liệu sản xuất. Từ những năm 60 của thế kỷ XX, với sự
xuất hiện của trường phái kinh tế phúc lợi cũng như những nghiên cứu chỉ ra những
thất bại thị trường ở các nước phát triển, đã dẫn đến sự can thiệp của Nhà nước trong
phân phối thu nhập, đặc biệt trong các phân phối lại thông qua các chính sách thuế và
trợ cấp.
+ Người tiếp nhận thu nhập là những tổ chức, cá nhân, hộ gia đình thông qua quá trình
phân phối mà nhận được được thu nhập. Theo cách tiếp cận vi mô, người tiếp nhận
phải trả giá để đánh đổi được thu nhập, ví dụ như lao động bỏ sức lao động ra làm việc
để nhận được tiền lương, chủ tư bản bỏ vốn kinh doanh nhận được lợi nhuận… Tuy
nhiên, trong trường hợp nhà nước phúc lợi, mộtnhóm người có thể nhận được thu
nhập do nhà nước cấp cho dưới dạng trợ cấp, bảo hiểm y tế…
- Ba yếu tố cơ bản trên kết hợp tạo ra quá trình phân phối thu nhập trong đời sống kinh
tế - xã hội. Nguyên tắc cơ bản cho sự kết hợp này là thực hiện quyền sở hữu của chủ
thể tạo ra giá trị hay thu nhập. Đây cũng là nguyên tắc xuyên suốt trong lý thuyết phân
phối thu nhập của hầu hết các trường phái kinh tế, dù là cổ điển, tân cổ điển hay
mácxít…

Bên cạnh việc lượng hóa mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, các lý
thuyết phân phối thu nhập cũng đã luận giải nguồn gốc của bất bình đẳng và sự nghèo
đói trong xã hội hiện đại cũng như thảo luận các giải pháp cho vấn đề này. Các lý
thuyết phân phối thu nhập ban đầu của trường phái cổ điển hoặc tân cổ điển đều cố
gắng giải thích sự chênh lệch giàu nghèo là do quy luật tất yếu của thị trường cạnh
tranh. Trong khi đó, trường phái mácxít nhận định đó là kết quả của sự bóc lột giá trị
thặng dư của giới tư bản khiến người lao động ngày càng bị bần cùng hóa.

II. Nghèo đói
1. Khái niệm về nghèo đói, các loại nghèo đói
Để xây dựng các giải pháp xóa đói giảm nghèo, cần thiết phải có quan niệm đúng về
nghèo đói và có sự thống nhất chung cho các quốc gia về các khái niệm nghèo đói.


Nếu có sự khác nhau giữa các quốc gia thì đó chỉ là sự khác nhau về cách tiếp cận,
chứ không phải khác nhau về bản chất của nghèo đói.
Trên thế giới vấn đề nghèo đói được xem xét ở nhiều gốc độ và khía cạnh khác nhau,
trong đó có khía cạnh kinh tế- xã hội theo các nghĩa rộng, hẹp khác nhau
1.1, Nghèo:
a, Khái niệm
Các nhà khoa học có nhiều định nghĩa về nghèo như: Nghèo về vật chất, nghèo
về tri thức, nghèo về văn hóa, nghèo về điều kiện sinh hoạt vv... Còn đói là khái niệm
dùng để phân biệt mức độ rất nghèo của một bộ phận dân cư. Do vậy, nghèo đói hay
đói nghèo là khái niệm kép. Trong tư duy của người Việt nam, đói có 2 dạng là đói kinh
niên và đói gay gắt; nghèo cũng có 2 dạng là nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
Nhưng dù ở dạng nào thì đói nghèo cũng có quan hệ mật thiết với nhau, nó phản ánh
cấp độ và mức độ khác nhau, "nghèo là một kiểu đói tiềm tàng và đói là một tình trạng
hiển nhiên của nghèo". Nếu nghèo kéo dài và không ra khỏi vòng luẩn quẩn của cảnh
trì trệ, túng thiếu thì dễ lâm vào tình trạng đói rách, cùng quẫn.Abapiasen-chuyên gia
hàng đầu của tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cho rằng:nghèo đói là sự thiếu cơ hội lựa

chọn tham gia vào sự phát triển cộng đồng . UNDP đã đưa ra những định nghĩa nghèo
như sau:
- Sự nghèo khổ của con người: Thiếu những quyền cơ bản của con người như biết
đọc, biết viết và được nuôi dưỡng tạm đủ
- Sự nghèo khổ về tiền tệ: Thiếu thu nhập tối thiểu thích đáng và khả năng chitiêu tối
thiểu.
- Sự nghèo khổ chung: Mức độ nghèo kém nghiêm trọng hơn được xác định như không
có khả năng thỏa mãn những nhu cầu lương thực và phi lương thực chủ yếu, những
nhu cầu này đôi khi được xác định khác nhau ở nước này hay nước khác.Hội nghị bàn
về giảm nghèo đói trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức vào
tháng 9/1993 tại Bangkok (Thái Lan), các quốc gia trong khu vực đã thống nhất cho
rằng:"nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn
những nhu cầu cơ bản của con người đã được XH thừa nhận, tùy theo trình độ phát
triển KT-XH và phong tục tập quán của từng địa phương"
Đây là khái niệm tương đối đầy đủ và bao quát, nên có thể coi đây là định nghĩa
chung nhất và có tính hướng dẫn về phương pháp nhận diện nét chính yếu phổ biến về
đói nghèo của các quốc gia. Tuy nhiên, các tiêu chí và chuẩn mực về mặt lượng hóa
chưa được xác định vì còn phải tính đến sự khác biệt về mặt chênh lệch giữa các điều
kiện tự nhiên, xã hội và trình độ phát triển của mỗi vùng, miền khác nhau. Ưu điểm của


khái niệm này là: Làm rõ được bộ phận dân cư nghèo đói là: "Tùy theo trình độ phát
triển KT-XH và phong tục tập quán từng địa phương"...
b, Phân loại nghèo
- Nghèo có 2 dạng: Nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối.
+ Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn
nhu cầu cơ bản, tối thiểu để duy trì cuộc sống. Nhu cầu cơ bản, tối thiểu đó là mức bảo
đảm tối thiểu về ăn, mặc, nhà ở, nước sinh hoạt, y tế, giáo dục và vệ sinh môi trường.
+ Nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức trung bình
của cộng đồng ở một thời kỳ nhất định. Như vậy, nghèo đói là khái niệm mang tính chất

tương đối cả về không gian và thời gian.
+Nghèo tuyệt đối biểu hiện chủ yếu thông qua tình trạng một bộ phận dân cư có thu
nhập thấp, không cho phép thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu; trước hết là ăn-gắn liền với
dinh dưỡng. Nhu cầu này cũng có sự thay đổi, khác biệt từng quốc gia và cũng được
mở rộng dần. Còn nghèo tương đối gắn liền với sự chênh lệch về mức sống của một
bộ phận dân cư so với mức sống trung bình của địa phương ở một thời kỳ nhất định. Vì
vậy, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: Việc xóa dần nghèo tuyệt đối là việc có thể làm,
còn nghèo tương đối là hiện tượng thường có trong xã hội và vấn đề cần quan tâm là
rút ngắn khoảng cách chênh lệch giàu-nghèo. Khái niệm nghèo tuyệt đối được sử dụng
để so sánh mức độ nghèo khổ giữa các quốc gia. Trên cơ sở đó người ta đưa ra khái
niệm quốc gia nghèo là đất nước có thu nhập bình quân đầu người rất thấp, nguồn lực
cực kỳ hạn hẹp, cơ sở hạ tầng và môi trường yếu kém, có vị trí không thuận lợi trong
giao lưu với cộng đồng quốc tế. Còn trong đấu tranh chống nạn nghèo đói người ta
dùng khái niệm nghèo tuyệt đối.
Quan niệm nghèo đói của Việt Nam: Dựa trên các khái niệm của các tổ chức thế giới,
Việt Nam đã đưa ra các khái niệm cụ thể hơn và được nghiên cứu ở các cấp độ: cá
nhân, hộ gia đình và cộng đồng. Chương trình mục tiêu quốc gia về XĐGN giai đoạn
1998-2000 của Việt Nam đã đưa ra các khái niệm: Nghèo, đói, hộ đói, hộ nghèo, vùng
nghèo...và có các tiêu chí xác định cho từng loại cụ thể.Về khái niệm nghèo của Việt
Nam thì cơ bản thống nhất với khái niệm nghèo đói của ESCAP.
1.2, Đói
a, Khái niệm:
Đói là tình trạng của một bộ phận cư dân nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu và thu
nhập không đủ bảo đảm nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. Đó là những hộ dân
cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ một đến hai tháng, thường vay mượn của cộng đồng
và thiếu khả năng chi trả cho cộng đồng. Đói là nấc thang thấp nhất của nghèo, đây vốn


thuần túy là đói ăn, nằm trọn trong phạm trù kinh tế vật chất và khác với đói thông tin,
đói hưởng thụ văn hóa, thuộc phạm trù văn hóa tinh thần.

b, Phân loại đói:
Đói cũng có hai dạng; đói kinh niên và đói cấp tính (đói gay gắt).
- Đói kinh niên:Là bộ phận dân cư đói nhiều năm liền cho đến thời điểm đang xét.
- Đói cấp tính: Là bộ phận dân cư rơi vào tình trạng đói đột xuất do nhiều nguyên nhân
như gặp tai nạn, thiên tai, rủi ro khác tại thời điểm đang xét.
c, Khái niệm khác:
- Hộ đói: Là hộ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái không được học hành đầy
đủ, ốm đau không có tiền chữa bệnh, nhà cửa rách nát...
- Hộ nghèo: Là hộ đói ăn nhưng không đứt bữa, mặc không đủ lành, không đủ ấm,
không có khả năng phát triển sản xuất.
- Xã nghèo: Là xã có tỷ lệ nghèo cao, không có hoặc rất thiếu những cơ sở hạ tầng
thiết yếu như: điện, đường, trường, trạm, nước sạch vv...trình độ dân trí thấp, tỷ lệ mù
chữ cao.
- Vùng nghèo: Là địa bàn tương đối rộng, nằm ở những khu vực khó khăn hiểm trở,
giao thông không thuận tiện, có tỷ lệ xã nghèo, hộ nghèo cao.
Tóm lại, nghèo đói là một phạm trù lịch sử, có tính tương đối. Tính chất và đặc trưng
của nghèo đói phụ thuộc vào điều kiện địa lý tự nhiên, nhân tố chính trị, văn hóa và
trình độ phát triển kinh tế-xã hội của vùng, miền, quốc gia, khu vực. Đặc điểm này có ý
nghĩa quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn, là cơ sở của việc tìm kiếm đồng bộ các giải
pháp XĐGN ở nước ta, nhất là vùng dân cư nông nghiệp và nông thôn hiện nay.

II .Phần thực trạng
1)Thực trạng phân phối thu nhập qua hệ số GiNi.
Trên thế giới, hệ số Gini thường nằm trong khoảng 0.2 tới 0.6 và Việt Nam
cũng tương tự.
Hệ số gini 2002-2010 ở Việt Nam
Năm
Gini-coefficient
20020.42
2004

2006
0.424


2008
2010

0.434
0.433

Tình trạng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập ở Việt Nam chưa phải
là cao nhưng đang gia tăng nhẹ dần theo quá trình tăng trưởng kinh tế. Hệ
số Gini tăng từ mức 0.42 (2002-2004) lên 0.424 (2006) rồi lên tới 0.434
(2008) và giảm nhẹ vào năm 2010 xuống còn 0.433.Điều này cho thấy sự
chênh lệch về mức thu nhập giàu nghèo ở Việt Nam ngày càng gia tăng
và có giảm nhẹ vào năm 2008 -2010 , điều này nói lên sự phân hóa giữa
giàu và nghèo ở việt nam ngày càng lớn .
Tuy vậy, mỗi một vùng miền thì lại có mức độ, xu hướng bất bình
đẳng trong thu nhập khác nhau. Ở nông thôn, hệ số Gini tăng nhanh theo
từng năm khi mà chúng giảm nhẹ ở các khu vực thành phố. Nhìn vào dãy
số liệu được thống kê theo các vùng miền Tổ quốc, chỉ số Gini có xu
hướng tăng lên. Ở các khu vực có mức độ kinh tế phát triển hơn như đồng
bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ, hệ số tăng mạnh vào những năm 20022006 rồi có chiều hướng cân bằng, dao động nhẹ. Trong khi các khu vực
trung du miền núi phía Bắc, duyên hải Nam Trung Bộ, Tây nguyên, đồng
bằng sông Cửu Long đều gia tăng hàng năm.
Thành quả tăng trưởng và phát triển kinh tế của Việt Nam đã đem đến cho người dân
sự cải thiên về chất lượng cuộc sống nhưng đồng thời phân hóa giàu nghèo giữa các
tầng lớp dân cư, giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền núi lại đang tăng
lên. Theo số liệu của tổng cục thống kê, hệ số chênh lệch về thu nhập giữa nhóm 20%
giàu nhất và nhóm 20% nghèo nhất trong tổng dân số cả nước ngày càng có xu hướng

tăng cao, đã tăng từ 7,6 lần năm 1999 lên 8,1 lần năm 2000 và 8,4 lần năm 2006.
Hệ số chênh lệch giữa nhóm giàu (20% dân số có thu nhập cao nhất) và nhóm nghèo
(20% dân số có thu nhập thấp nhất)

Trên cơ sở kết quả các cuộc điều tra mức sống gia đình do Tổng cục Thống kê tiến
hành trong những năm qua có thể tính ra tỷ trọng thu nhập của 40% số hộ có thu nhập
thấp nhất so với tổng thu nhập của tất cả các hộ dân cư như sau: Năm 1999 là 18,7%,
năm 2002 là 17,98% và năm 2004 là 17,4%. Như vậy, sự bất bình đẳng về thu nhập ở
nước ta tuy có tăng nhưng ở mức độ rất thấp và phân bố thu nhập trong các nhóm dân
cư hiện nay ở nước ta là tương đối bình đẳng.


2002

2004

0,42

0,41

Thành thị

0,41

0,41

Nông thôn

0,36


0,37

ĐB sông Hồng

0,39

0,39

Đông Bắc Bộ

0,36

0,39

Tây Bắc Bộ

0,37

0,38

Bắc Trung Bộ

0,36

0,36

DH Nam Trung Bộ

0,35


0,37

Tây Nguyên

0,37

0,40

Đông Nam Bộ

0,42

0,43

ĐB sông Cửu Long

0,39

0,38

Việt Nam

Vùng Việt Nam

Hệ số Gini theo chi tiêu: Theo tính toán của Tổng cục Thống kê Việt Nam, hệ số Gini
chung của nước ta tăng từ 0,35 năm 1993 lên 0,39 năm 1998 và 0,42 năm 2002; 0,41
năm 2004 và 0,43 năm 2006 phản ánh sự chênh lệch giàu nghèo ngày càng doãng ra.
Như vậy, trong quá trình tăng trưởng và giảm nghèo những năm vừa qua Việt Nam
đang ở vào nhóm nước tương đối bình đẳng. Tuy nhiên, một số vùng đã bắt đầu gia
tăng sự bất bình đẳng, nhất là tại những vùng tăng trưởng kinh tế nhanh như vùng

Đông Nam Bộ (hệ số Gini vào năm 2004 đạt mức 0,43) kế đó là và Tây

Nguyên (0,40) và đồng bằng sông Hồng (0,39).



Khoảng cách giàu nghèo ở khu vực thành thị cao hơn và tăng lên, còn khu vực nông
thôn thì thấp hơn và gần đây đã giảm nhẹ. Chênh lệch thu nhập giữa nhóm giàu và
nghèo ở thành thị năm 2007 là 8,2 lần và ở nông thôn là 6,5 lần. Các vùng nông thôn là
nơi có nhiều người nghèo sinh sống, mặc dù trong những năm gần đây tỷ lệ nghèo ở
nông thôn có sự giảm xuống mạnh mẽ nhưng tỷ lệ nghèo ở nông thôn nước ta vẫn cao
hơn nhiều so với thành thị. Năm 1993 tỷ lệ nghèo ở thành thị là 25,1% đến năm 2006
giảm xuống còn 3,9%, trong khi đó nông thôn năm 1993 là 66,4% và năm 2006 là
20,4%.

2. Thực trạng của nghèo
a) Thực trạng đói nghèo ở Việt Nam hiện nay
Theo số liệu của chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc thì ở Việt Nam,
vào năm 2004, chỉ số phát triển con người chỉ xếp hạng 112 trên tổng số
177 nước, chỉ số phát triển giới xếp 87 trên 144 nước và chỉ số nghèo tổng
hợp xếp hạng 41 trên 95 nước. Cũng theo số liệu này, vào năm 2002 tỷ lệ
nghèo theo chuẩn quốc gia của Việt Nam là 12,9%, theo chuẩn thế giới là
29% và tỉ lệ nghèo lương thực (% số hộ nghèo ước lượng năm 2002) là
10,87%.
Cho đến năm 2009, theo chuẩn nghèo trên, cả nước Việt Nam hiện có
khoảng 2 triệu hộ nghèo, đạt tỷ lệ 11% dân số. Tuy nhiên, trên diễn đàn
Quốc hội Việt Nam, rất nhiều đại biểu cho rằng tỷ lệ hộ nghèo giảm không
phản ánh thực chất vì số người nghèo trong xã hội không giảm, thậm chí
còn tăng do tác động của lạm phát (khoảng 40% từ khi ban hành chuẩn
nghèo đến nay) và do suy giảm kinh tế. Bên cạnh đó, có nhiều hộ gia đình

vừa thoát nghèo vẫn rất dễ trở lại cảnh nghèo đói. Trong những năm tới
đây, nỗ lực của Việt Nam trong việc hội nhập với nền kinh tế toàn cầu sẽ
tạo ra nhiều cơ hội cho sự tăng trưởng, nhưng cũng đặt ra nhiều thách
thức đối với sự nghiệp xóa đói giảm nghèo.


- Ở khu vực nông thôn tỷ lệ đói nghèo giảm chậm hơn so với thành thị
nhưng tương đối ổn định từ 45.5% năm 1998 xuống 35.6% năm 2002 và
còn 27.5% năm 2004
-Ở khu vực đồng bào dân tộc tỷ lệ hộ nghèo rất cao, và tốc độ giảm rất
chậm, từ 75.2% năm 2002 xuống 69.3% năm 2004.
-Sự phân bổ hộ nghèo giữa các vùng, các miền không đồng đều. Năm
2005, mặc dù tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước giảm xuống chỉ còn 7% nhưng
sự chênh lệch về số họ nghèo giữa các vùng là rất lớn, cụ thể là tỉ lệ hộ
nghèo ở vùng Đông Nam Bộ là 1.7% trong khi số hộ nghèo ở vùng Tây
Bắc chiếm đến 12% tổng số hộ nghèo trên cả nước.
-Người dân chịu nhiều rủi ro trong cuộc sống, sản xuất mà chưa có các
thiết chế phòng ngừa hưu hiệu, dễ tái nghèo do thiên tai, bệnh dích, sâu
hại, tai nạn giao thông, tai nạn lao động ….
-Theo số liệu thống kê của Bộ Lao Động – Thương Binh và Xã hội thì đến
cuối năm 2006, cả nước có 61 huyện với số dân 2.4 triệu người thuộc 20
tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo trên 50%.
b) Ảnh hưởng của sự bất bình đẳng trong phân phối tiền đến sự nghèo đói tại
Việt Nam
Mặc dù Việt Nam đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện công tác xóa đói giảm
nghèo và trên thực tế cũng đạt nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Tuy nhiên, bên cạnh kết
quả đáng khích lệ đó công tác xóa đói giảm ngèo ở Việt Nam còn tồn tại một số hạn
chế trên cả phương diện nhận thức và trong công tác tổ chức thực hiện từ trung ương
đến địa phương làm ảnh hưởng đến kết quả của việc xóa đói giảm nghèo.



Và 1 trong những hạn chế khó khăn lớn nhất chính là: sự bất bình đẳng trong thu nhập
(phân phối tiền) và mức sống giữa các vùng và các nhóm dân cư tại Việt Nam còn cao,
và có xu hướng tăng .
-Giữa các vùng: tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực miền núi còn cao gấp 1,7-2 lần tỷ lệ hộ nghèo
bình quân cả nước. Tỷ lệ hộ nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong tổng số hộ
nghèo cả nước có chiều hướng tăng từ 21% (1992) lên 36% (2005) và tiếp tục tăng. Hộ
nghèo tập trung nhiều ở các vùng còn khó khăn, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, kết cấu
hạ tầng thấp kém, trình độ dân trí còn thấp, trình độ sản xuất lạc hậu sơ khai… Ngoài
ra xuất hiện những đối tượng nghèo mới ở những vùng đang đô thị hóa và nhóm lao
động nhập cư vào đô thị, họ thường gặp nhiều rủi ro khó khăn hơn và phải chấp nhận
mức thu nhập thấp hơn lao động sở tại. Đây là những điều kiện cơ bản làm tăng yếu tố
tái nghèo và tạo ra sự ko đồng đều trong tốc độ giảm nghèo giữa các vùng.
-Giữa các nhóm: thu nhập giữa các nhóm giàu và nhóm nghèo có xu hướng gia tăng,
trong những năm gần đây, chênh lệch về thu nhập giữa 20% nhóm giàu và 20% nhóm
nghèo từ 4.3 lần năm 1993 lên 8.14 lần năm 2002; chênh lệch giữa 10% nhóm giàu
nhất với 10% nhóm nghèo nhất từ 12.5 lần năm 2002 lên 13.5 lần năm 2004. Mức độ
nghèo cao, thu nhập bình quân của nhóm hộ nghèo ở nông thôn chỉ đạt 70% mức
chuẩn nghèo mới. Sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo sẽ làm cho tình trạng nghèo
tương đối trở lên gay gắt hơn, việc thực hiện các giải pháp để giảm nghèo sẽ càng khó
khăn hơn.
3. Nguyên nhân cơ bản của sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập ở Việt
Nam.
Có 2 loại nguyên nhân.



Nguyên nhân khách quan.
Nguyên nhân chủ quan.


3.1. Nguyên nhân khách quan.
Bất bình đẳng thu nhập vừa là vấn đề của lịch sử để lại, vừa là vấn đề của sự
phát triển mà quốc gia nào cũng vấp phải. Tình trạng bất bình đẳng thu nhập biểu
hiện với những mức độ khác nhau ở các quốc gia. Thu hẹp bất bình đẳng thu nhập
đã trở thành những vấn đề lớn trong quá trình phát triển kinh tế của các nước. Có
nhiều nguyên nhân và các nguyên nhân có thể đan xen, thâm nhập vào nhau,
nhưng quy tụ lại có hai nhóm nguyên nhân chủ yếu là bất bình đẳng trong phân phối
thu nhập từ tài sản và từ lao động.
a. Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập từ tài sản.


Trong nền kinh tế thị trường, một bộ phận thu nhập của các cá nhân được phân
phối theo sở hữu các nguồn lực. Tùy theo các yếu tố sản xuất mà mỗi người có
được cũng như việc định giá các yếu tố đó trên thị trường cạnh tranh mà chúng có
ảnh hưởng đến mức thu nhập của mỗi cá nhân. Cách phân phối như vậy gọi là
phân phối theo sở hữu các nguồn lực hay còn gọi là phân phối thu nhập từ tài sản.
Tài sản của mỗi cá nhân có được là do nhiều nguồn hình thành khác nhau.



Do được thừa kế tài sản.
Do hành vi tiêu dùng và tiết kiệm khác nhau của các cá nhân ảnh hưởng lớn đến
sự khác nhau về của cải tích luỹ được.
− Do kết quả kinh doanh.
Trong số các nguyên nhân nêu trên thì sản xuất kinh doanh là một cách quan
trọng nhất để tăng thu nhập và tăng tài sản của mỗi cá nhân.

b. Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập từ lao động.

Lao động là điều kiện cơ bản tạo ra thu nhập. Tuy nhiên với kỹ năng lao động, điều kiện

lao động và tính chất nghề nghiệp khác nhau sẽ dẫn đến thu nhập khác nhau. Một số
nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng thu nhập từ lao động.





Do khác nhau về khả năng và kỹ năng lao động dẫn đến khác nhau về thu nhập.
Do khác nhau về cường độ làm việc cũng dẫn đến thu nhập không bằng nhau.
Do khác nhau về nghề nghiệp và tính chất công việc.
Do những nguyên nhân khác như sự phân biệt đối xử trong xã hội, xuất phát
điểm của các cá nhân hay sự không hoàn hảo của thị trường lao động, ảnh
hưởng của thiên tai và các rủi ro khác đều có liên quan đến sự khác biệt về tiền
lương của các cá nhân.

3.2. Nguyên nhân chủ quan.
Các nguyên nhân trên là những vấn đề của mọi quốc gia. Ngoài ra, Việt Nam
còn tồn tại những nguyên nhân sau:


Bắt nguồn từ bản thân nền kinh tế thị trường. Khi còn nhiều hình thức sở hữu về
tư liệu sản xuất, phát triển kinh tế nhiều thành phần và sản xuất hàng hóa thì sự
phân hóa giàu nghèo là một hiện tượng khách quan. Trong nền kinh tế thị
trường, nguyên nhân trực tiếp của sự chênh lệch về thu nhập, sự phân hóa giàu
nghèo là từ quan hệ phân phối thu nhập. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã xác


định: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện phân phối chủ
yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức
đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua quỹ

phúc lợi xã hội” (Văn kiện đại hội Đảng lần thứ IX). Điều đó có nghĩa là trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, để thực hiện nguyên tắc phân phối công
bằng vẫn phải thừa nhận sự tồn tại như một tất yếu kinh tế của sự bất bình đẳng
trong phân phối thu nhập và mức sống, chấp nhận sự chênh lệch trong thu nhập
do năng suất và hiệu quả lao động, chấp nhận sự phân hóa giàu nghèo trong
giới hạn cho phép.
− Bắt nguồn từ quy luật phát triển không đều giữa các vùng do phương thức sản
xuất, nền văn hóa, phong tục, tập quán, lối sống, điều kiện địa lý khác nhau.
Vùng có điều kiện kinh tế xã hội tự nhiên thuận lợi phát triển nhanh, năng suất
lao động cao, hấp dẫn thu hút các nguồn vốn đầu tư thì tốc độ tăng trưởng kinh
tế nhanh sẽ dẫn đến kết quả thu nhập của dân cư cao hơn so với những vùng
khó khăn, kém phát triển hơn; trong khi đó khả năng cạnh tranh của nền kinh tế
giữa các vùng là không như nhau nên sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa
các vùng càng lớn, các vùng chậm phát triển có nguy cơ tụt hậu.
− Mô hình tăng trưởng và cơ chế phân bổ nguồn lực là yếu tố có ảnh hưởng trực
tiếp mạnh nhất và lâu dài đến việc tạo lập công bằng xã hội. Trong những năm
qua, Việt Nam tuyên bố theo đuổi mô hình tăng trưởng “thị trường- hướng về
xuất khẩu”. Tuy nhiên, mô hình được triển khai trên thực tế lại lệch sang xu
hướng “thị trường- thay thế nhập khẩu”. Gắn với mô hình đó là định hướng ưu
tiên phân bổ nguồn lực: cho các ngành và dự án dùng nhiều vốn và ít tạo việc
làm mới; cho các vùng có khả năng tăng trưởng cao (vùng trọng điểm); và
cho các doanh nghiệp nhà nước. Định hướng đầu tư này phản ánh cách tư duy
chính sách vẫn theo kiểu áp đặt, dựa mạnh vào sự lựa chọn nhà nước hơn là
theo các tín hiệu và nguyên tắc thị trường. Cơ chế để thực hiện định hướng
phân bổ nguồn lực như vậy chưa dựa trên một sự phân công chức năng hợp lý
giữa Nhà nước và thị trường.
− Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa nhanh chóng. Tình trạng bất bình đẳng và
phân hoá giàu- nghèo có phần gia tăng trong thời gian qua ở nước ta phản
ánh một xu hướng tất yếu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quá
trình công nghiệp hoá kéo theo việc ứng dụng công nghệ mới và cách thức trong

tổ chức sản xuất. Chỉ những người lao động được đào tạo và có tay nghề mới
đáp ứng những công việc phức tạp và trong thời gian qua số lượng lao động có
chất lượng chưa nhiều. Do có việc làm mới, số người này có thu nhập cao hơn
nhiều so với số động lao động giản đơn và vì thế sự bất bình đẳng tăng lên.

IV.Giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ phân phối thu
nhập ở Việt Nam trong thời gian tới


Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, quan hệ phân phối có vai trò rất quan trọng
nhưng bên cạnh đó vẫn còn xuất hiện những nhược điểm như trên chúng ta vừa xét.
Đứng trước tình hình đó thì Đảng và Nhà nước ta có rất nhiều chính sách nhằm phát
huy vai trò, động lực của phân phối thu nhập đối với nền kinh tế đất nước.
1.Nâng cao vai trò điều tiết của nhà nước đối với phân phối thu nhập
 Hơn lúc nào hết, trong cơ chế thị trường, Nhà nước được xem là nhân tố

hàng đầu, thong qua Đảng lãnh đạo. Nhà nước là cơ quan quản lý xã hội,
hành pháp và tư pháp, có nghĩa vụ tập hợp toàn bộ nguồn lực trong và
ngoài nước nhằm phát triển toàn diện kinh tế, xã hội đất nước. Và vai trò
của sự quản lý của nhà nước đối với phân phối thu nhập là hết sức quan
trọng: tạo ra cơ sở kinh tế - xã hội để thực hiện phân phối và mở rộng
phân phối theo lao động trong xã hội, từng bước thực hiện công bằng xã
hội.
 Nhà nước tôn trọng nguyên tắc và cơ chế hoạt động khách quan của thị
trường tạo điều kiện phát huy mặt tích cực, đồng thời khắc phục, hạn chế
những tiêu cực của thị trường. Nhà nước tập trung làm tốt chức năng
hoạch định chiến lược, quy hoạch và kế hoạch định hướng phát triển,
thực hiện những dự án trọng điểm bằng nguồn lực tập trung, đổi mới thể
chế quản lý, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, điều tiết thu nhập
hợp lí

 Nhà nước định hướng sự phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực
để dẫn dắt nỗ lực phát triển theo định hướng XHCN; thiết lập khuôn khổ
luật pháp, có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và
thuận lợi cho các doanh nghiệp làm ăn phát đạt. Phân phối và phân phối
lại thu nhập quốc dân; quản lý tài sản công và kiểm kê, kiểm soát toàn bộ
hoạt động kinh tế xã hội. Thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước về
kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công của Nhà nước.
2.Các giải pháp chống chủ nghĩa bình quân




Sự phân phối bình quân là không công bằng, đó là một nguyên nhân kìm
hãm sự phát triển của sản xuất, vì người làm nhiều mà hưởng ít sẽ không
cố gắng làm nhiều hơn, người làm ít mà hưởng nhiều sẽ dựa dẫm vào
người khác và cũng không cố gắng làm nhiều hơn.
Để khắc phục tình trạng phân phối bình quân, từ khi đổi mới đến hiện nay
chúng ta chủ trương xác định sự cống hiến bằng sức lao động của mỗi
người trong xã hội căn cứ vào “kết quả lao động và hiệu quả kinh tế”.
Hiệu quả lao động phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, chứ không phải chỉ phụ
thuộc vào vào các yếu tố như trình độ và khả năng của người lao động,
cường độ và thời gian lao động mà nó còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố


chủ quan khác nhau trong xã hội. Việc lấy hiệu quả lao động làm căn cứ
để xác định sự cống hiến bằng sức lao động của từng người sẽ giảm bớt
được sai lầm chủ quan có thể có của người tính toán khi thực hiện
nguyên tắc theo lao động. Muốn phân phối thu nhập được thực hiện công
bằng thì việc xác định hiệu quả lao động là rất quan trọng và cần thiết,
chúng ta cần xác định hiệu quả lao động của mỗi lao động dựa vào sự

cống hiến của họ cho công việc ấy.
3.Hoàn thiện các chính sách tiền công, tiền lương và phân phối lại thu nhập
 Đối với những người làm công ăn lương, thì tiền lương phải thực sự là

nguồn thu nhập chính để nuôi sống họ, từ đó có thể họ hoàn toàn yên tâm
và say mê với nghề nghiệp. Vì vậy, việc giải quyết tốt vấn đề tiền lương sẽ
có tác dụng kích thích sản xuất phát triển, ổn định và cải thiện đời sống
không chỉ đối với gia đình cán bộ công nhân viên, mà còn ảnh hưởng đến
mức sống chung của xã hội. Trên cơ sở đó, việc giải quyết hợp lý vấn đề
lương trong khu vực nhà nước còn có tác dụng to lớn trong việc hướng
đạo tiền công ngoài khu vực quốc doanh. Chính vì vậy, cần phải tiếp tục
xây dựng và hoàn thiện các chính sách tiền lương.
 Phải làm cho tiền lương thực sự trở thành giá cả của sức lao động, điều
đó đòi hỏi phải tính đúng, tính đủ giá trị sức lao động để làm cơ sở cho
việc xác định mức tiền lương. Muốn vậy, mức lương cho người lao động
phải thể hiện trình độ học vấn, tay nghề, quá trình lao động, lao động giản
đơn hay lao động phức tạp. Mức lương phải thỏa mãn nhu cầu tái sản
xuất mở rộng sức lao động. Nếu họ muốn làm giàu thì buộc phải làm
thêm nhiều việc. Chỉ trên cơ sở như vậy tiền lương mới khuyến khích mọi
người lao động luôn luôn nâng cao trình độ, tay nghề, khuyến khích thế
hệ trẻ ra sức học tập không ngừng để nâng cao trình độ văn hóa, khoa
học kỹ thuật để thích ứng với cơ chế thị trường. Mặt khác cần xác định
mức tiền lương tối thiểu: tức là mức lương đảm bảo cho một mức sống tối
thiểu. Tuy nhiên, mức sống của người lao động phải phù hợp với yêu cầu
và trình độ kinh tế - xã hội.
 Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý phân phối tiền lương cho người lao
động đói với các lĩnh vực khác nhau thì khác nhau. Đối với lĩnh vực sản
xuất kinh doanh cụ thể là các doanh nghiệp quốc doanh, nguồn tiền chi
trả không phải từ ngân sách Nhà nước mà phải từ kết quả sản xuất, kinh
doanh của các doanh nghiệp này. Trong lĩnh vực hành chính sự nghiệp,

Nhà nước trên cơ sở biên chế nghiêm ngặt và tiếp tục thực hiện khoán
quỹ lương theo khối lượng công việc.
 Bên cạnh chính sách tiền lương thì các chính sách về tiền công lao động
cần được hoàn thiện chặt chẽ hơn nữa để đảm bảo công bằng cho người
lao động. Cần phải đảm bảo cho người lao động nhận được tiền công đầy


đủ cho những cống hiến. Không ngừng “Đổi mới chính sách tiền lương và
thu nhập, khuyến khích mọi người tăng thu nhập và làm giàu dựa vào kết
quả lao động và hiệu quả kinh tế, bảo vệ các nguồn thu nhập hợp pháp;
điều tiết hợp lý thu nhập giữa các bộ phận dân cư, các ngành và các
vùng; đấu tranh ngăn chặn thu nhập phi pháp.” đã và đang định hướng
cho Đảng và Nhà nước ta từng bước cải cách quan hệ phân phối cho phù
hợp với điều kiện của đất nước và quá trình công nghiệp hóa – hiện đại
hóa. Từng bước khẳng định được tính ưu việt của chế độ mới thực hiện
thông qua hình thức điều tiết giảm và tăng thu nhập cá nhân. Điều tiết
giảm được thực hiện thông qua hình thức thuế thu nhập cá nhân và hình
thức tự nguyên đóng góp của cá nhân có thu nhập cao vào quỹ phúc lợi
xã hôi, từ thiện….Trong đó, thuế thu nhập cá nhân là hình thức quan trọng
nhất chủ yếu với mọi nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Điều tiết tăng
thu nhập cá nhân được thực hiện thông qua ngân sách Nhà nước, ngân
sách của các tổ chức chính trị - xã hôi, các quỹ bảo hiểm, trợ cấp, phụ
cấp các loại, qua các hoạt động từ thiện của các tổ chức và cá nhân
nhằm trợ giúp thường xuyên cho những người có thu nhập thấp, những
người thất nghiệp, những người tham gia bảo hiểm khi gặp rủi ro, những
người thuộc diện chính sách xã hội, bổ sung thi nhập mang tính chất bình
quân cho các tổ chức, các doanh nghiệp vào các dịp lễ của các yếu tố để
trả công.
 Phân phối theo cung cầu và giá cả thị trường còn đảm bảo được quyền
tự do của các chủ thể kinh tế. Ở đây, tiền lãi, lãi suất, địa tô được hình

thành trên cơ sở đảm bảo tính năng động thích ứng nhanh để tạo ra cân
bằng tổng quát trên thị trường.
 Kết luận:
Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, phân phối và lưu thông là lĩnh vực
hoạt động nhạy cảm, phức tạp. Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, lợi
ích kinh tế của các cơ sở sản xuất kinh doanh, của những cơ sở sản xuất còn có
nhiều khác biệt, thậm chí mâu thuẫn với nhau, trong xã hội còn có những tư
tưởng, suy nghĩ tính toán cá nhân.Do đó Nhà nước phải có chính sách hợp lí để
phát triển kinh tế, giáo dục và pháp luật nhằm loại trừ dẫn những tiêu cực trong
lĩnh vực phân phối, thực hiện bình đẳng và công bằng xã hội. Đối với nước ta
trình độ phát triển chưa cao và nhiều mặt phát triển chưa cân đối nên phân phối
thu nhập càng quan trọng. Phân phối thu nhập đúng đắn và phù hợp với tình
hình kinh tế hiện nay của đất nước sẽ là động lực mạnh thúc đẩy sản xuất phát
triển và cải thiện đời sống nhân dân. Ngược lại phân phối thu nhập không đúng
sẽ không đảm bảo lợi ích kinh tế, không công bằng , chênh lệch quá lớn sẽ ảnh
hưởng xấu đến sản xuất.
Như vậy phân phối thu nhập ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế và vấn đề xã
hội, đặc biệt là công bằng xã hôi.




×