Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Môn đường lối DCSVN Quá trình công nghiệp hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.57 KB, 23 trang )

NHÓM 3

Thành viên:

1. Trần Thị Khánh Linh

DKQ131805

2. Ngô Gia Hân

DKQ131347

3. Huỳnh Bảo Ngọc

DKQ131324

4. Trần Thị Mỹ Ngọc

DKQ131809

5. Trần Thị Kim Phượng

DKQ131812

6. Lê Thị Quyên

DKQ131329

7. Nguyễn Hồng Trâm

DKQ131316




2CHỦ ĐỀ: Tiến trình nhận thức và phát triển đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của Đảng

MỤC LỤC

I.Công nghiệp hóa thời kì trước đổi mới.....................................................................................................3
1.Mục tiêu và phương hướng công nghiệp hóa.......................................................................................3
2.Đặc trưng chủ yếu của công nghiệp hóa thời kì trước đổi mới.............................................................4
II.Công nghiệp hóa hiện đại hóa thời kì đổi mới..........................................................................................6
1.Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa......................................................................................6
a.Đại hội VI của Đảng phê phán sai lầm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa thời kỳ
1960-1986............................................................................................................................................6
b.Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa từ Đại hội VI đến Đại hội XI......................................6
2.Mục tiêu, quan điểm của công nghiệp hóa, hiện đại hóa...................................................................12
a.Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.........................................................................................12
b.Quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa.....................................................................................13
III.Chiến lược công nghiệp hóa hiện đại hóa năm 2020.............................................................................14
IV.Nội dung đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.....15
1.Lựa chọn việc trang bị công nghệ tiên tiến, hiện đại cho các ngành kinh tế quốc dân.......................16
2.Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành công nghiệp, dịch vụ có hàm lượng tri
thức và giá trị gia tăng cao.....................................................................................................................17
a.Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.................................................................................17
b.Nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế..............................................................................................18
V.Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân.............................................................................................20
1.Kết quả thực hiện đường lối và ý nghĩa..............................................................................................20
2.Hạn chế và nguyên nhân.....................................................................................................................21
a.Hạn chế...........................................................................................................................................21
b.Nguyên nhân..................................................................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................................................23


2


3CHỦ ĐỀ: Tiến trình nhận thức và phát triển đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của Đảng

ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓA
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
-

Công nghiệp hóa: là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công
là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công
nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Quá
trình xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật, xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí hoá
có khả năng cải tạo (trước hết là nông nghiệp và toàn bộ nền kinh tế quốc dân),
nhằm biến một nước kinh tế chậm phát triển, sản xuất nhỏ là phổ biến sang nền
sản xuất lớn chuyên môn hoá.

-

Hiện đại hoá: là quá trình xây dựng cơ cấu kinh tế mới mà nòng cốt là cơ cấu
kinh tế công - nông nghiệp hiện đại.

I.

Công nghiệp hóa thời kì trước đổi mới
1. Mục tiêu và phương hướng công nghiệp hóa
Đường lối công nghiệp hóa đất nước đã được hình thành từ Đại hội III của Đảng


(tháng 9/1960). Nước ta có khoảng 25 năm tiến hành công nghiệp hóa qua 2 giai đoạn:
• Ở miền Bắc(1960 – 1975):
-

Đặc điềm khi tiến hành công nghiệp hóa: nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Đảng ta đã xác định công nghiệp hóa xã hôi chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong
suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

-

Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa: xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
cân đối và hiện đại; bước đầu xây dựng cơ sở vật chất và kĩ thuật của chủ nghĩa xã
hội.

2


4CHỦ ĐỀ: Tiến trình nhận thức và phát triển đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của Đảng

Hội nghị trung ương lần thứ VI nêu phương hướng chỉ đạo xây dựng và phát triển
công nghiệp là:
-

Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lí.

-

Kết hợp chặt chẽ phát triền công nghiệp với phát triển nông nghiệp.


-

Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ.

-

Ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh phát triển công
nghiệp địa phương.

• Trên phạm vi cả nước:
Đại hội XI(12/1976) đề ra đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa:
Mục đích của công nghiệp hóa: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây
dựng cơ sở vật chất-kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất
nhỏ sang sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa”.
Nội dung chính:
-

Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lí trên cơ sở phát triển nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ.

-

Vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương trong một cơ
cấu kinh tế quốc dân thống nhất.

-

Đại hôi lần thứ V của Đảng(3/1982): đã xác định trong chặng đường đầu tiên của
thời kì quá độ ở nước ta phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát

triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Việc xây dựng và phát triển công
nghiệp nặng trong giai đoạn này cần có mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ thiết thực,
có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.

2. Đặc trưng chủ yếu của công nghiệp hóa thời kì trước đổi mới
-

Nền kinh tế tiến hành công nghiệp hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng
nội và thiên về phát triền công nghiệp nặng.

-

Công nghiệp hóa chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động tài nguyên, đất đai và nguồn
viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa.

2


5CHỦ ĐỀ: Tiến trình nhận thức và phát triển đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của Đảng

-

Công nghiệp hóa tiến hành trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao
cấp, không tôn trọng các quy luật thị trường.

-

Nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh làm lớn, không quan tâm
đến hiệu quả kinh tế xã hội.


 Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân:
 Kết quả và ý nghĩa:
-

So với năm 1955, số xí nghiệp tăng lên 16,5 lần. Nhiều khu công nghiệp lớn đã
hình thành, có nhiều cơ sở đầu tiên của các ngành công nghiệp nặng quan trọng
như điện, than, cơ khí, luyện kim, hóa chất được xây dựng.

-

Đã có hàng chục trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề đào
tạo được đội ngũ cán bộ khoa học – kĩ thuật xấp xỉ 43 vạn người, tăng 19 lần so
với năm 1960 là thời điềm bắt đầu công nghiệp hóa.

 Kết quả đạt được trên có ý nghĩa hết sức quan trọng – tạo cơ sở ban đầu để nước
ta phát triển nhanh hơn trong các giai đoạn tiếp theo.
 Hạn chế và nguyên nhân:
o Hạn chế:
-

Cơ sở vật chất kĩ thuật còn hết sức lạc hậu. Những ngành công nghiệp then chốt
còn nhỏ bé và chưa được xây dựng đồng bộ, chưa đủ sức làm nền tảng vững chắc
cho nền kinh tế quốc dân.

-

Lực lượng sản xuất trong nông nghiệp mới chỉ bước đầu phát triển, nông nghiệp
chưa đáp ứng được nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho xã hội. Đất nước vẫn
trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển, rơi vào khủng hoảng kinh tế xã hội.
o Nguyên nhân:


-

Về khách quan: chúng ta tiến hành công nghiệp hóa từ một nền kinh tế lạc hậu,
nghèo nàn và trong tình trạng chiến tranh kéo dài, vừa bị tàn phá nặng nề, vừa
không thể tập trung sức người, sức của cho công nghiệp hóa.

2


6CHỦ ĐỀ: Tiến trình nhận thức và phát triển đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của Đảng

-

Về chủ quan: chúng ta đã mắc những sai lầm nghiêm trọng trong việc xác định
mục tiêu, bước đi về cơ sở vật chất, bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư…Đó là
những sai lầm xuất phát từ chủ quan duy ý chí trong nhận thức và chủ trương công
nghiệp hóa.

II.

Công nghiệp hóa hiện đại hóa thời kì đổi mới
1. Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa
a. Đại hội VI của Đảng phê phán sai lầm trong nhận thức và chủ trương công
nghiệp hóa thời kỳ 1960-1986
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) với tinh thần “nhìn thẳng

vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” đã nghiêm khắc chỉ ra những sai lầm
trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa thời kỳ 1960-1985, mà trực tiếp là mười
năm từ 1975 đến 1985:

-

Chúng ta đã phạm sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ
sở vật chất, kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế… Do tư tưởng chỉ
đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết nên chúng ta đã chủ
trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, mặt
khác chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.

-

Trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư, thường chỉ
xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu công
nghiệp với nông nghiệp thành một cơ cấu hợp lý, thiên về xây dựng công nghiệp
nặng và những công trình quy mô lớn, không tập trung sức giải quyết về căn bản
vấn đề lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Kết quả là đầu
tư nhiều nhưng hiệu quả thấp.

-

Không thực hiện nghiêm chỉnh nghị quyết của Đại hội lần thứ V như: Nông
nghiệp vẫn chưa thật sự coi là mặt trận hàng đầu, công nghiệp nặng không phục
vụ kịp thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.

b. Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa từ Đại hội VI đến Đại hội XI
Từ việc chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm, Đại hội VI đã cụ thể hóa nội dung chính
của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên là thực hiện cho bằng

2



7CHỦ ĐỀ: Tiến trình nhận thức và phát triển đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của Đảng

được ba Chương trình mục tiêu: lương thực, thực phẩm; hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ.
Ba chương trình này liên quan chặt chẽ với nhau. Phát triển lương thực thực phẩm và
hàng tiêu dùng là nhằm bảo đảm nhu cầu thiết yếu cho đời sống nhân dân sau mấy chục
năm chiến tranh ác liệt và trong bối cảnh của nền kinh tế còn đang trong tình trạng thiếu
hụt hàng hóa nghiêm trọng, góp phần ổn định kinh tế - xã hội; phát triển hàng xuất khẩu
là yếu tố quyết định để khuyến khích sản xuất và đầu tư trong nước, tạo nguồn thu ngoại
tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ sản xuất.



Thực chất, đây là sự thay đổi trong lựa chọn mô hình chiến lược công nghiệp hóa,

chuyển từ mô hình hướng nội (thay thế nhập khẩu) trước đây bằng mô hình hỗn hợp
(hướng về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu) đang được áp dụng phổ biến và khá
thành công tại các nước Châu Á lúc bấy giờ.
Trên cơ sở đó, chúng ta đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện các hoạt động kinh
tế - xã hội của đất nước theo 3 hướng chính sau đây:
-

Một là, chuyển đổi từ chính sách hạn chế kinh tế tư nhân sang nền kinh tế nhiều
thành phần với sự tồn tại của nhiều loại hình sở hữu, nhằm phát triển sản xuất và
nâng cao hiệu quả của nền kinh tế, trong đó kinh tế tư nhân được khuyến khích
phát triển.

-

Hai là, từ cơ chế Nhà nước trực tiếp điều khiển các hoạt động của nền kinh tế

bằng kế hoạch pháp lệnh, gắn liền với chế độ bao cấp sang cơ chế kinh tế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước ở tầm vĩ mô, bảo đảm quyền tự chủ kinh
doanh của mọi doanh nghiệp, mọi đơn vị kinh tế.

-

Ba là, từ cơ cấu kinh tế khép kín, mang nặng tính tự cấp tự túc tách biệt với kinh
tế khu vực và kinh tế quốc tế, chuyển sang nền kinh tế với hệ thống kinh tế mở, cả
đối với trong nước và ngoài nước.

Đại hội VI đã đề ra 5 mục tiêu kinh tế - xã hội cụ thể cho những năm còn lại của
chặng đường đầu tiên là: (1) sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy; (2) bước đầu tạo ra cơ
cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất; (3) xây dựng và hoàn thiện một bước quan
hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; (4)
tạo chuyển biến tốt về mặt xã hội; (5) bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh.

2


8CHỦ ĐỀ: Tiến trình nhận thức và phát triển đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của Đảng

Những năm đầu của công cuộc đổi mới, Đảng ta đã chủ trương:
-

Điều chỉnh cơ cấu đầu tư, bố trí lại cơ cấu sản xuất, tập trung sức vào 3 chương
trình kinh tế ưu tiên là lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.

-

Xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh

xã hội chủ nghĩa.

-

Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.

-

Đa dạng hóa và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, hướng mạnh về xuất khẩu,
thay thế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả; thu hút
nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.

-

Phát triển đồng bộ các mặt văn hóa, xã hội; chăm lo hạnh phúc con người, phát
huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ và
quyền lợi công dân, kết hợp tốt tăng trưởng với tiến bộ xã hội.

-

Mở rộng dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ và phát huy năng lực sáng tạo của các
cơ sở sản xuất kinh doanh, động viên khai thác tiềm năng của các thành phần kinh
tế, các tầng lớp dân cư.

Việc thực hiện tốt ba chương trình mục tiêu phát triển trong kế hoạch 5 năm 19861990 được coi là sự thành công bước đầu trong việc cụ thể hóa và triển khai thực hiện
đường lối đổi mới của Đảng đã được Đại hội VI thông qua.
Tiếp theo, Đại hội VII (năm 1991) Đảng ta tiếp tục có những nhận thức mới, ngày
càng toàn diện và sâu sắc hơn về công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa. Đại hội đã thông
qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Chiến lược
ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, trong đó chỉ tiêu bao quát nhất là đưa

GDP vào năm 2000 gấp 2 lần so với năm 1990. Đại hội cũng đã đề ra phương hướng,
nhiệm vụ tổng quát cho kế hoạch 5 năm 1991-1995 là: “Vượt qua khó khăn, thử thách,
ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất
công xã hội, đưa đất nước cơ bản ra khỏi khủng hoảng kinh tế hiện nay”.
Đại hội đã xác định rõ vai trò “mặt trận hàng đầu” của nông nghiệp, và trên thực tế
đầu tư cho nông nghiệp từ ngân sách đã tăng lên. Đại hội đề cập đến lĩnh vực Dịch vụ
kinh tế - kỹ thuật trong việc đáp ứng yêu cầu sản xuất, đời sống và hợp tác quốc tế; đưa
ra chiến lược phát triển kinh tế vùng phù hợp với chiến lược chung cả nước. Thực hiện

2


9CHỦ ĐỀ: Tiến trình nhận thức và phát triển đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của Đảng

đường lối công nghiệp hóa của Đại hội VII, nền kinh tế đã có những bước phát triển cao
hơn, có chất lượng hơn, đi vào thực chất hơn so với nhiều năm trước:
 Tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng: 1991: 5,8%; 1995: 9,5%
 Tương ứng công nghiệp tăng: 1991: 5,3 %; 1995: 15,5%
 Nông nghiệp tăng: 1991: 2,2%; 1995: 4,8%
 Xuất khẩu tăng: 1991: -13,2%; 1995: 34,4%
 Lạm phát được kiềm chế ở mức thấp: 1991: 67%; 1995: 12,7%
 Cơ cấu kinh tế:

1991: 40,5 – 23,8 – 35,7(%);
1995: 27,2 – 28,8 – 44 (%)

 Vốn đầu tư cho công nghiệp giai đoạn 1991 – 1995 chiếm 38,4% tổng đầu tư xã
hội (20,8 tỷ USD)
Đại hội Đảng VIII (năm 1996) nhìn lại đất nước sau 10 năm đổi mới đã nhận định:
nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu

của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành cho
phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội đã
khẳng định những yếu tố cơ bản về đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt
Nam dựa trên chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đưa ra mục tiêu "xây dựng nước ta thành một
nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản
xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và
tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
văn minh”.
Đại hội VIII đã điều chỉnh chính sách công nghiệp hóa theo hướng lấy nông nghiệp
làm khâu đột phá, coi nông nghiệp kết hợp với công nghiệp chế biến là mặt trận hàng
đầu. Tiếp tục thực hiện rộng rãi hơn chính sách mở cửa, phát triển kinh tế nhiều thành
phần, nâng cao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp. Gắn công
nghiệp hóa với hiện đại hóa, lấy khoa học – công nghệ làm động lực, lấy nguồn lực con
người làm yếu tố trung tâm của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đặt ra nội dung cụ thể của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm trước mắt (1996-2000) là “đặc biệt coi
trọng công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nông nghiệp nông thôn…”. Kết quả là:

2


10CHỦ ĐỀ: Tiến trình nhận thức và phát triển đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của Đảng

 Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm: 1996: 9,3%; 2000: 6,75%
 Tốc độ tăng trưởng công nghiệp giảm: 1996: 14,5%; 2000: 10,1 %
 Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp giảm: 1996: 4,4%; 2000: 4%
 Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu giảm: 1996: 33,2%; 2000: 24%
 Cơ cấu kinh tế:

1996: 27,8 – 29,7 – 42,5 (%);

2000: 24,3 – 36,6 – 39,1 (%)

Đồng thời, Đại hội đã xác định mục tiêu tổng quát của Kế hoạch 5 năm 1996-2000
là “bước rất quan trọng của thời kỳ mới - đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công
cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển kinh tế nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, phấn đấu đạt và vượt mục tiêu đã đề ra trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh
tế - xã hội đến năm 2000: tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững, đi đôi với
giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời
sống của nhân dân, nâng cao tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho
bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau”
Tháng 4 năm 2001, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khai mạc. Đại hội đã bổ
sung, hoàn thiện nhiều quan điểm về CNH, HĐH, hoàn chỉnh đường lối CNH, HĐH và
thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001-2010) - chiến lược đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa để đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp - với mục tiêu tổng quát được vạch ra là:
"Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất,
văn hóa, tinh thần của nhân dân. Tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; nguồn lực con người, năng lực khoa học và
công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản. Vị thế của
nước ta trên trường quốc tế được nâng cao".

2


11CHỦ ĐỀ: Tiến trình nhận thức và phát triển đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của Đảng

Đại hội lần thứ IX đã đề ra chủ trương thực hiện "công nghiệp hóa rút ngắn theo

hướng hiện đại", "khắc phục nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế", "từng bước phát triển
kinh tế tri thức", "hình thành đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường", ...
Đại hội đã thông qua Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm của Thiên niên kỷ
mới (2001-2005) với mục tiêu: "Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Chuyển dịch
mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối
ngoại. Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy
nhân tố con người. Tạo nhiều việc làm; cơ bản xóa đói, giảm số hộ nghèo; đẩy lùi các tệ
nạn xã hội. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; hình thành một bước
quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững ổn định
chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
và an ninh quốc gia".
Đại hội X (năm 2006) và Đại hội XI (năm 2011), Đảng ta tiếp tục bổ sung
và nhấn mạnh một số điểm mới trong tư duy về công nghiệp hóa:
-

Con đường công nghiệp hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các
nước đi trước. Đây là yêu cầu cấp thiết của nước ta nhằm sớm thu hẹp khoảng
cách về trình độ phát triển so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Một
nước đi sau có điều kiện tận dụng những kinh nghiệm kỹ thuật, công nghệ và
thành quả của các nước đi trước, tận dụng xu thế của thời đại qua hội nhập quốc tế
để rút ngăn thời gian.

-

Tuy nhiên, tiến hành công nghiệp hóa theo lối rút ngắn so với các nước đi trước,
chúng ta cần thực hiện các yêu cầu như: Phát triển kinh tế và công nghệ phải vừa
có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt; phát huy những lợi thế của đất
nước, gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa, từng bước phát triển kinh tế tri thức;
phát huy nguồn lực trí tuệ và tinh thần của con người Việt Nam, đặc biệt coi trọng

phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xem đây là nền tảng và
động lực cho CNH, HDH.

-

Hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là phải phát triển nhanh và có hiệu
quả các sản phẩm, các ngành, các lĩnh vực có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước
và xuất khẩu.

2


12CHỦ ĐỀ: Tiến trình nhận thức và phát triển đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của Đảng

-

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tức là phải tiến hành công nghiệp
hóa trong một nền kinh tế mở, hướng ngoại.

-

Đẩy nhanh CNH, HDH nông nghiệp nông thôn với việc nâng cao năng suất, chất
lượng sản phẩm nông nghiệp.

-

Đẩy mạnh CNH, HDH phải tính toán đến yêu cầu phát triển bền vững trong tương
lai.


2. Mục tiêu, quan điểm của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
a. Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến nước ta thành một
nước công nghiệp có cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức sống vật
chất và tinh thần cao, quốc phòng – an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành một nước công
nghiệp hiện đại,
Để từng bước thực hiện thành công mục tiêu lâu dài trên, mục tiêu tổng quát của
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta được Đảng Cộng sản Việt Nam xác
định tại Đại hội lần thứ VIII và tiếp tục khẳng định tại Đại hội lần thứ IX và lần thứ X là:
"sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển... Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020"
Theo tinh thần của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam,
chúng ta phải ra sức phấn đấu để đến năm 2020, về cơ bản, nước ta trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
Ở đây, nước công nghiệp cần được hiểu là một nước có nền kinh tế mà trong đó
lao động công nghiệp trở thành phổ biến trong các ngành và các lĩnh vực của nền kinh tế.
Tỷ trọng công nghiệp trong nền kinh tế cả về GDP, cả về lực lượng lao động đều vượt
trội hơn so với nông nghiệp.
Để thực hiện mục tiêu tổng quát trên, trong mỗi giai đoạn phát triển của nền kinh
tế, công nghiệp hoá cần phải thực hiện được những mục tiêu cụ thể nhất định. Trong

2


13CHỦ ĐỀ: Tiến trình nhận thức và phát triển đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của Đảng

những năm trước mắt, trong điều kiện khả năng về vốn vẫn hạn hẹp, nhu cầu về công ăn

việc làm rất bức bách, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, tình hình kinh tế - xã hội
phát triển, tăng trưởng chưa thật ổn định, chúng ta cần tập trung nỗ lực đẩy mạnh công
nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn, phát triển nhanh các ngành công nghiệp, xây dựng
và dịch vụ, phát triển kinh tế vùng, kinh tế biển...
b. Quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Những quan điểm mới chỉ đạo quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước trong điều kiện mới được Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa
VII nêu ra và được phát triển, bổ sung qua các Đại Hội VIII, IX, X, XI của Đảng.
Những quan điểm cơ bản của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ
đổi mới:
-

Một là, công nghiệp hóa gắn chặt với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Đại Hội XI nhấn mạnh thêm: “thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ
cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn chặt chẽ công nghiệp,
nông nghiệp, dịch vụ”.

Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ
vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng
cuộc sống.
-

Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thu hút nguồn
vốn đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý
tiên tiến của thế giới… ngoài ra còn nhằm khai thác thị trường thế giới để tiêu thụ
các sản phẩm mà nước ta có nhiều lợi thế, có sức cạnh tranh cao.


-

Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh
và bền vững.

2


14CHỦ ĐỀ: Tiến trình nhận thức và phát triển đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của Đảng

Nguồn nhân lực chất lượng cao đòi hỏi phải đủ về số lượng, cân đối về cơ cấu và
trình độ, có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ
tiên tiến của thế giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới.
Đại hội XI chỉ rõ: “Phát triển và nâng chất lượng nguồn nhân lực, nhất là
nguồnnhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy
mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển
đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho
phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững”.
-

Bốn là, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế
tri thức thì phát triển khoa học và công nghệ là yêu cầu tất yếu và bức xúc.
Phải đẩy mạnh việc chọn lọc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp với phát triển
công nghệ nội sinh để nhanh chóng đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ, nhất
là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới.

-


Năm là, phát triển nhanh và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn
hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Để thực hiện được mục tiêu, kinh tế phải phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững
để có khả năng xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa
các vùng…

III.

Chiến lược công nghiệp hóa hiện đại hóa năm 2020
Ngay từ Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta đã đặt ra mục tiêu "đến năm 2020, nước

ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại". Tuy nhiên, đến nay, về mặt
lý luận và thực tiễn, việc hiểu và đánh giá như thế nào là nước công nghiệp theo hướng
hiện đại, chưa được thống nhất. Tại Hội thảo, các nhà nghiên cứu, nhà khoa học nhấn
mạnh: Việc nghiên cứu, trao đổi và thảo luận để thống nhất tiêu chí nước công nghiệp
theo hướng hiện đại có ý nghĩa thiết thực nhằm định hướng các chính sách phát triển và
đánh giá được mục tiêu Đại hội Đảng đã đặt ra.

2


15CHỦ ĐỀ: Tiến trình nhận thức và phát triển đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của Đảng

Tại Hội thảo, các đại biểu đã tập trung thảo luận về các luận cứ khoa học để xác
định hệ tiêu chí nước công nghiệp theo hướng hiện đại; những tiêu chí nước công nghiệp
hiện đại mà Việt Nam có thể áp dụng được và nước ta đang ở đâu trong hệ tiêu chí này.
Trên cơ sở đó, các đại biểu khuyến nghị những nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện trong
giai đoạn 2016 - 2020 nhằm đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo

hướng hiện đại.
Để thực hiện mục tiêu “đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại từ nay đến năm 2020”, các đại biểu đề nghị phải song song thực hiện 2
nhiệm vụ lớn: một mặt phải thực hiện một cách tập trung nhiệm vụ tạo nền tảng để nước
ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, mặt khác, phát triển một số ngành,
lĩnh vực hiện đại và tác động lan tỏa của chúng tới các ngành, lĩnh vực khác. Các nhà
khoa học nhấn mạnh cần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng đổi mới
mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế; đổi mới tư duy để thúc đẩy thực hiện
3 khâu đột phá chiến lược, tạo nền tảng vững chắc để đưa nước ta sớm trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại.

IV.

Nội dung đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
Trong bối cảnh mới của tình hình thế giới và trong nước, chúng ta không tiến hành

CNH theo kiểu cũ, không lặp lại sai lầm nóng vội, chủ quan. Nội dung CNH không chỉ
đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà là
quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự
tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Mục tiêu của CNH, HĐH là làm cho nước ta sớm trở thành một nước công nghiệp
phát triển. Đại hội lần thứ XI của Đảng xác định: ra sức phấn đấu để đến năm 2020 Việt
Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp, với tỷ trọng ngành công nghiệp vượt trội hơn
các ngành khác. Mức tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 7-8%/năm
với tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% GDP. Giá trị sản phẩm công
nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ đạt khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản
phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp.
Nông nghiệp có bước phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, nhiều sản phẩm
có giá trị gia tăng cao. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động;

tỷ lệ lao động nông nghiệp khoảng 30-35% lao động xã hội. Nhiệm vụ đặt ra là “Từ nay

2


16CHỦ ĐỀ: Tiến trình nhận thức và phát triển đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của Đảng

đến giữa thế kỷ XXI, toàn đảng, toàn dân ra sức phấn đấu đưa nước ta trở thành một
nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ trên, nội dung chủ yếu của việc đẩy mạnh CNH,
HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta phải là:

1. Lựa chọn việc trang bị công nghệ tiên tiến, hiện đại cho các ngành
kinh tế quốc dân
Việc trang bị công nghệ cho các ngành kinh tế quốc dân là một nội dung cơ bản
của CNH. Vận dụng thực hiện nội dung này vào đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển
kinh tế tri thức ở Việt Nam, không chỉ đơn thuần là nhằm tăng nhanh năng suất lao động
và tăng sức cạnh tranh của từng sản phẩm, từng doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế
trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, mà quan trọng hơn là tạo lập cơ sở vật chất – kỹ
thuật và tri thức tiên tiến, hiện đại bảo đảm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Trong bối cảnh mới của CNH, HĐH của Việt Nam, việc trang bị công nghệ cho các
ngành kinh tế quốc dân cần được kết hợp các bước đi tuần tự với các bước phát triển
nhảy vọt, kết hợp phát triển công nghệ nội sinh với phát triển công nghệ ngoại sinh bằng
nhiều con đường. Một mặt, phải tạo ra điều kiện thuận lợi huy động mọi nguồn lực cho
sự tăng trưởng nhanh theo chiều rộng trên tất cả các ngành, lĩnh vực; mặt khác, phải tăng
tốc và phát triển rút ngắn bằng con đường lựa chọn mạnh dạn bỏ qua một số thế hệ công
nghệ cũ, công nghệ trung gian, đi thẳng vào công nghệ cao, công nghệ mới nhằm tăng
nhanh các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ có hàm lượng tri thức, giá trị gia
tăng cao phù hợp với thực tế trong nước và xu hướng thị trường, tập trung phát triển các
ngành, sản phẩm chủ lực có tính đột phá.

Trong những năm trước mắt, phải cấu trúc lại hệ thống công nghệ sản xuất của
toàn bộ nền kinh tế theo hướng gia tăng hàm lượng khoa học, công nghệ và tỷ trọng giá
trị nội địa trong sản phẩm. Đồng thời, phải sử dụng tri thức mới để phát triển các ngành
kinh tế mũi nhọn như công nghệ thông tin, khai khoáng, luyện kim, hóa chất, chế biến
nông sản, năng lượng... và đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thông qua việc
đưa tri thức sản xuất, kinh doanh, tri thức khoa học và công nghệ đến với người nông
dân; sử dụng công nghệ sinh học làm gia tăng giá trị các mặt hàng nông-lâm-thủy sản.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, nước ta có được sự lựa chọn rộng rãi để tăng nhanh
hàm lượng khoa học và công nghệ trong sản phẩm. Phải coi trọng việc tham gia ngày
càng càng sâu, rộng vào phân công lao động quốc tế, tham gia hiệu quả, toàn diện vào

2


17CHỦ ĐỀ: Tiến trình nhận thức và phát triển đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của Đảng

chuỗi giá trị toàn cầu ở những nấc thang có hàm lượng trí tuệ và giá trị gia tăng ngày
càng cao hơn, hội nhập vững chắc hơn vào mạng lưới sản xuất quốc tế và không ngừng
học hỏi (có bỏ qua những giai đoạn thấp), nâng dần trình độ từ bắt chước, thích nghi, tiến
tới nghiên cứu sáng tạo cái mới trong các lĩnh vực, sản phẩm và công nghệ có lợi thế so
sánh cao nhất.
Đảng ta chủ trương: “Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm
năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng
của nền kinh tế và CNH, HĐH. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm có giá trị gia tăng
cao dựa nhiều vào tri thức. Kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt
Nam với tri thức mới nhất của nhân loại”.
Phải nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố phát triển kinh tế - xã hội. Phải
chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp
lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng,

hiệu quả, tính bền vững.

2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành công
nghiệp, dịch vụ có hàm lượng tri thức và giá trị gia tăng cao
a. Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
-

Cơ cấu kinh tế là tổng thể các yếu tố cấu thành kinh tế của một cơ sở, một ngành,
một vùng hay nền kinh tế, các bộ phận này quan hệ chặt chẽ với nhau có tính hệ
thống, tác động lẫn nhau để có thể phát triển và được thể hiện bằng tỷ trọng của
mỗi bộ phận trong tổng thể.
Cơ cấu kinh tế của một nước được xác định theo nhiều tiêu thức, trong đó có 3

tiêu thức chủ yếu để xem xét đó là cơ cấu ngành, cơ cấu vùng hay cơ cấu thành phần
kinh tế. Tỷ trọng của các ngành trong cơ cấu ngành kinh tế là thước đo tập trung nhất
trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia trong một giai đoạn lịch sử nhất định,
dùng để đánh giá thành tựu của các nỗ lực kinh tế của quốc gia đó và so sánh mức độ
hiện đại hóa với các quốc gia khác trong cùng một thời gian.
-

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình thay đổi cấu trúc của các yếu tố cấu thành
cơ cấu đó theo một chủ đích và phương hướng nhất định. Chuyển dịch cơ cấu kinh
tế là yêu cầu khách quan, trước hết nó phụ thuộc vào trình độ phát triển của khoa
học và công nghệ mà nền kinh tế đó đã đạt được trong mỗi thời kỳ lịch sử. Tuy

2


18CHỦ ĐỀ: Tiến trình nhận thức và phát triển đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của Đảng


nhiên, nước đi sau có thể sử dụng lợi thế của nước phát triển muộn để chủ động
trong việc lựa chọn hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với khả năng, dựa
vào đó mà lựa chọn việc phát triển khoa học và công nghệ trong tiến trình CNH,
HĐH để thực hiện được các bước phát triển rút ngắn.
b. Nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế

i.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

Đây là nội dung cốt lõi của chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế quốc dân. Phải xác
định định hướng của việc chuyển dịch, trong đó xác định rõ đặc trưng phát triển và vị trí
của mỗi ngành trong tổng thể kinh tế, trên cơ sở đó xác định các chính sách phát triển.
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phải dựa trên sự đánh giá chính xác những lợi thế của
đất nước, phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường trên cơ sở khai thác có hiệu quả khả
năng (chứ không phải xuất phát từ khả năng), phải có dự báo triển vọng cạnh tranh của
sản phẩm, của ngành kinh tế trên thị trường trong nước và quốc tế. Chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế phải bảo đảm khả năng thích nghi nhanh với sự biến đổi của môi trường
trong nước và quốc tế, trước hết và chủ yếu là tiến bộ khoa học và công nghệ, chi phí cho
điều chỉnh cơ cấu kinh tế thấp.
Theo hướng này, hiện nay và trong nhiều năm tới, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở
nước ta phải dựa vào tiềm năng tài nguyên trí tuệ Việt Nam, đầu tư mạnh vào việc nuôi
dưỡng và phát triển nguồn tài nguyên trí tuệ nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển dịch từ cơ
cấu ngành kinh tế truyền thống lên kinh tế công nghiệp và kinh tế tri thức. Phải nắm bắt
kịp thời cơ hội, phát huy năng lực trí tuệ nội sinh, đổi mới cách nghĩ, cách làm, mở rộng
một cách có hiệu quả việc áp dụng công nghệ mới hiện đại vào phát triển các ngành
truyền thống, đẩy mạnh phát triển các ngành kỹ thuật cao, đẩy mạnh việc sáng tạo các
thành tựu khoa học và công nghệ mới.
Từ nay đến năm 2020, phải xây dựng cho được cơ cấu kinh tế công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ hiện đại, hiệu quả. Cụ thể là:

-

Ngành công nghiệp, tập trung nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của các sản
phẩm; phát triển các sản phẩm công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, có khả năng
tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, ưu tiên phát triển những sản
phẩm có chất lượng, giá trị gia tăng cao, áp dụng công nghệ mới, công nghệ sạch,
sử dụng tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh việc chuyển dịch
cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp theo hướng tăng nhanh công nghiệp chế biến,

2


19CHỦ ĐỀ: Tiến trình nhận thức và phát triển đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của Đảng

chế tạo, công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao, góp phần hình thành cơ cấu
kinh tế hiện đại. Các ngành công nghiệp nền tảng được ưu tiên để đáp ứng nhu cầu
về tư liệu sản xuất cơ bản của nền kinh tế.
Tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ, hình thành cơ chế liên kết, hợp tác, phân
công sản xuất trong việc tham gia chế tạo từng công đoạn sản phẩm. Phân bố không gian
công nghiệp phù hợp nhằm phát huy lợi thế so sánh của các vùng, miền và tạo điều kiện
để liên kết ngành mang lại hiệu quả cao.
Phát triển mạnh công nghiệp chế biến, cơ khí, công nghiệp công nghệ thông tin, công
nghiệp sinh học và công nghiệp môi trường.
Tập trung lấp đầy các khu công nghiệp gắn với việc đầu tư bổ sung các công trình,
dịch vụ hạ tầng xã hội (nhà ở, trường học, y tế, chợ,...) và thực hiện tốt bảo vệ môi
trường.
-

Ngành nông nghiệp, cần hướng vào phát triển nền nông nghiệp nhiệt đới có năng
lực cạnh tranh cao và thương hiệu tốt. Phát triển nông nghiệp toàn diện, nâng cao

chất lượng sản phẩm, bảo đảm an toàn thực phẩm; phát huy lợi thế so sánh về điều
kiện tự nhiên và sinh thái của mỗi vùng, mỗi địa phương. Tập trung đầu tư khâu
nghiên cứu và phát triển giống cây trồng, vật nuôi, nghiên cứu ứng dụng công
nghệ sinh học. Thúc đẩy tích tụ ruộng đất, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa
tập trung, các “cánh đồng mẫu lớn”; các trang trại nuôi trồng thủy, hải sản, chăn
nuôi gia súc, gia cầm lớn; phát triển sản xuất gắn với bố trí, chuyển đổi hiệu quả cơ
cấu lao động trong nông nghiệp.

-

Ngành dịch vụ cần được đẩy mạnh phát triển, nhất là các dịch vụ có giá trị, hàm
lượng tri thức cao, tiềm năng lớn, có lợi thế và có sức cạnh tranh, như du lịch,
hàng hải, hàng không, viễn thông, công nghệ thông tin, y tế; hình thành một số
trung tâm dịch vụ, du lịch có tầm cỡ khu vực và quốc tế.

HĐH và mở rộng các dịch vụ có giá trị gia tăng cao, như tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm, logistics, dịch vụ phát triển phần mềm công nghệ thông tin và các dịch vụ hỗ trợ
kinh doanh khác. Đẩy mạnh tham gia mạng phân phối toàn cầu, phát triển nhanh hệ
thống phân phối các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh ở cả trong và ngoài nước; xây dựng
thương hiệu hàng hóa và dịch vụ Việt Nam.

2


20CHỦ ĐỀ: Tiến trình nhận thức và phát triển đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của Đảng

ii.

Phát triển kinh tế các vùng lãnh thổ


Vùng kinh tế được xác định là một bộ phận lớn của lãnh thổ quốc gia có các hoạt
động kinh tế xã hội tiêu biểu, thực hiện sự phân công lao động xã hội trên phạm vi cả
nước. Đây là loại vùng có qui mô diện tích, dân số ở cấp lớn nhất, phục vụ việc hoạch
định các chiến lược, các kế hoạch phát triển theo lãnh thổ cũng như để quản lý các quá
trình phát triển kinh tế - xã hội trên mỗi vùng của đất nước. Hiện nay, cơ cấu kinh tế
vùng ở nước ta được xác định bao gồm 6 vùng kinh tế lớn và 3 vùng kinh tế trọng điểm.
Ngoài ra, việc xác định cơ cấu kinh tế vùng ở nước ta còn dựa trên vị trí lãnh thổ theo
chiều dọc đất nước và theo đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn. Tuy mỗi vùng kinh tế có
đặc điểm riêng, nhưng chúng đều là những bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc dân thống
nhất.
Việc phát triển kinh tế vùng lãnh thổ phải trên cơ sở bảo đảm phát huy có hiệu quả lợi
thế và các nguồn lực hiện có của mỗi vùng, thúc đẩy tăng trưởng sản lượng và tạo ra sự
chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế ngành và cơ cấu nền kinh tế quốc dân theo hướng
CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Coi trọng phát triển kinh tế biển để sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh
tế biển trong khu vực gắn với bảo đảm quốc phòng - an ninh và hợp tác quốc tế.

V.

Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân
1. Kết quả thực hiện đường lối và ý nghĩa

Sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đã thu được những thành tựu to lớn, trong đó
có những thành tựu nổi bật của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
-

Một là, cơ sở vật chất - kỹ thuật của đất nước được tăng cường đáng kể, khả năng
độc lập tự chủ của nền kinh tế được nâng cao. Từ một nền kinh tế chủ yếu là nông
nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất yếu kém đi lên, đến nay cả nước đã có hơn 100 khu
công nghiệp, khu chế xuất tập trung, nhiều khu hoạt động có hiệu quả, tỉ lệ ngành

công nghiệp chế tác, cơ khí chế tạo và nội địa hóa sản phẩm ngày càng tăng.
Ngành công nghiệp sản xuất tư liệu như luyện kim, cơ khí, vật liệu xây dựng, hóa
chất cơ bản, khai thác và hóa dầu đã và đang có những bước phát triển mạnh mẽ.
Một số sản phẩm công nghiệp đã cạnh tranh được trên thị trường trong và ngoài
nước. Ngành xây dựng tăng trưởng nhanh, bình quân thời kỳ 2001 - 2005 đạt
16,7% /năm, năng lực xây dựng tăng nhanh và có bước tiến đáng kể theo hướng
hiện đại. Việc xây dựng đô thị, nhà ở đạt nhiều hiệu quả. Hàng năm đưa thêm vào
sử dụng hàng triệu m2 nhà ở (bình quân thời kỳ 2001-2005, tăng mỗi năm 20 triệu
m2). Công nghiệp nông thôn và miền núi có bước tăng trưởng cao hơn tốc độ trung
bình của cả nước. Nhiều công trình quan trọng thuộc kết cấu hạ tầng được xây

2


21CHỦ ĐỀ: Tiến trình nhận thức và phát triển đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của Đảng

dựng, sân bay, cảng biển, đường bộ, cầu, nhà máy điện, bưu chính - viễn thông…
theo hướng hiện đại.
-

Hai là, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã
đạt được những kết quả quan trọng: tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng, tỷ
trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm (giai đoạn 2001-2005, tỷ trọng công
nghiệp và xây dựng tăng từ 36,7% năm 2000 lên 41% năm 2005; còn tỷ trọng của
nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 24,5% năm 2000 xuống 20,9% năm 2005).
Trong từng ngành kinh tế đều có sự chuyển dịch tích cực về cơ cấu sản xuất, cơ
cấu công nghệ theo hướng tiến bộ, hiệu quả, gắn với sản xuất, với thị trường.

Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế. Từ năm 2000 - 2005, tỷ trọng lao động trong công nghiệp và xây dựng

tăng từ 12,1% lên 17,9%; dịch vụ tăng từ 19,7% lên 25,3%, nông lâm nghiệp và thủy sản
giảm từ 68,2% xuống còn 56,8%; lao động qua đào tạo tăng từ 20% lên 25%.
-

Ba là, những thành tựu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã góp phần quan trọng
đưa nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, bình quân từ năm 2000 đến nay
đạt trên 7,5%/năm. Điều đó đã góp phần quan trọng vào công tác xóa đói giảm
nghèo. Thu nhập đầu người bình quân hàng năm tăng lên đáng kể. Năm 2005, đạt
640 USD/người, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện.

Những thành tựu trên có ý nghĩa rất quan trọng; là cơ sở để phấn đấu đạt mục tiêu:
sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại vào năm 2020 mà Đại hội X của Đảng nêu ra trở thành hiện thực.

2. Hạn chế và nguyên nhân
a. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời
gian qua ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, nổi bật là:
-

Tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp so với khả năng và thấp hơn nhiều nước trong
khu vực thời kỳ đầu công nghiệp hóa. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều
rộng, vào các ngành công nghệ thấp, tiêu hao vật chất cao, sử dụng nhiều tài
nguyên, vốn và lao động. Năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước trong
khu vực.

-

Nguồn lực của đất nước chưa được sử dụng có hiệu quả cao, tài nguyên, đất đai và
các nguồn vốn của Nhà nước còn bị lãng phí, thất thoát nghiêm trọng. Nhiều

nguồn lực trong dân chưa được phát huy.

-

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm. Trong công nghiệp các sản phẩm có hàm
lượng tri thức cao còn ít. Trong nông nghiệp sản xuất chưa gắn kết chặt chẽ với thị
trường. Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn còn thiếu

2


22CHỦ ĐỀ: Tiến trình nhận thức và phát triển đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của Đảng

cụ thể. Chất lượng nguồn nhân lực của đất nước còn thấp. Tỷ trọng lao động qua
đào tạo còn thấp, lao động thiếu việc làm và không việc làm còn nhiều..
-

Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Nhìn chung, mặc
dù đã cố gắng đầu tư, nhưng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội vẫn còn lạc hậu, thiếu
đồng bộ chưa đáp ứng được yêu cầu, làm hạn chế sự phát triển kinh tế xã hội.
b. Nguyên nhân

Những hạn chế trên do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là nguyên nhân chủ
quan như:
-

Nhiều chính sách và giải pháp chưa đủ mạnh để huy động và sử dụng được tốt
nhất các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực vào công cuộc phát triển kinh tế - xã
hội.


-

Cải cách hành chính còn chậm và kém hiệu quả, công tác tổ chức, cán bộ chậm
đổi mới, chưa đáp ứng được yêu cầu.

-

Chỉ đạo và tổ chức thực hiện yếu kém.

2


23CHỦ ĐỀ: Tiến trình nhận thức và phát triển đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của Đảng

TÀI LIỆU THAM KHẢO


• Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
• />• />• />%C4%90%C6%AF%E1%BB%9CNG_L%E1%BB%90I_C%C3%94NG_NGHI
%E1%BB%86P_H%C3%93A
• />..
.
Và một số trang tài liệu tham khảo khác./.

2



×