Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Giáo dục pháp luật trên kênh truyền hình an ninh ( ANTV)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 128 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------

NGUYỄN THU HÀ

GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRÊN KÊNH
TRUYỀN HÌNH AN NINH (ANTV)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Báo chí học

Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN
VĂN
-----------------------------------------

NGUYỄN THU HÀ

GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRÊN KÊNH
TRUYỀN HÌNH AN NINH (ANTV)

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60.32.01.01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Trần Bảo Khánh

Hà Nội – 2015




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá nhân,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS. Trần Bảo Khánh.
Các số liệu, những đánh giá, phân tích, nhận xét, nghiên cứu được trình bày
trong luận văn này là hoàn tòan trung thực và khách quan, chưa từng được công bố
dưới bất cứ hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.

Học viên

Nguyễn Thu Hà


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn TS Trần Bảo Khánh, người đã trực
tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này. Với sự chỉ dẫn, góp ý rất tận tình, cùng
những lời nhắc nhở, động viên của thầy đã giúp tôi vượt qua nhiều khó khăn trong
quá trình thực hiện luận văn này.
Để có thể hoàn thành đề tài luận văn thạc sĩ, bên cạnh sự nỗ lực của bản thân
còn có sự hướng dẫn nhiệt tình của quý Thầy Cô tại Khoa Báo chí – Truyền thông,
Trường ĐH KHXH&NV – ĐH QGHN, cũng như sự động viên ủng hộ của gia đình
và bạn bè trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn thạc sĩ.
Tôi cũng xin được trân trọng cảm ơn các bạn bè đồng nghiệp; các phóng viên;
biên tập viên; nhóm sản xuất chương trình kênh truyền hình ANTV đã tạo điều kiện
giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn thạc sĩ này.
Tôi xin chân thành cảm ơn.

Học viên


Nguyễn Thu Hà


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRUYỀN HÌNH VÀ GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT TRÊN TRUYỀN HÌNH ....................................................................... 9
1.1. Một số khái niệm liên quan ............................................................................. 9
1.1.1. Báo chí, Truyền hình ................................................................................. 9
1.1.2. Chương trình truyền hình, chuyên mục, thể loại ..................................... 11
1.1.3. Giáo dục, pháp luật .................................................................................. 12
1.1.4. Giáo dục pháp luật ................................................................................... 14
1.1.5. Giáo dục pháp luật trên truyền hình ........................................................ 15
1.2. Vai trò của pháp luật và việc tuyên truyền giáo dục pháp luật trên truyền
hình ............................................................................................................................ 16
1.2.1 Vai trò của pháp luật đối với đời sống xã hội ........................................... 16
1.2.2. Sự cần thiết phải tuyên truyền giáo dục pháp luật trên truyền hình ........ 18
1.3. Các hình thức giáo dục pháp luật trên truyền hình và truyền hình Công an . 20
1.3.1. Những ưu thế của truyền hình trong việc giáo dục pháp luật cho người
dân ............................................................................................................................. 20
1.3.2. Các hình thức giáo dục pháp luật trên truyền hình .................................. 26
Chương 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRÊN KÊNH
TRUYỀN HÌNH ANTV ........................................................................................... 34
2.1. Vài nét về kênh truyền hình ANTV ............................................................... 34
2.1.1. Lịch sử ra đời của kênh truyền hình ANTV ............................................ 34
2.1.2. Các chương trình phát sóng trên kênh truyền hình ANTV từ tháng 1 đến
hết tháng 6/2014 ........................................................................................................ 38



2.2. Khảo sát vấn đề giáo dục pháp luật trên bản tin 113 Online và chương trình
Hành trình phá án trên kênh truyền hình ANTV từ tháng 1/2014 đến tháng 6/201441
2.2.1. Nội dung chuyển tải ................................................................................. 42
2.2.2. Hình thức thể hiện.................................................................................... 52
2.3. Một số đánh giá chung về hiệu quả vấn đề giáo dục pháp luật trên bản tin
113 Online và chương trình Hành trình phá án của kênh truyền hình ANTV từ tháng
1/2014 đến tháng 6/2014 ........................................................................................... 56
2.3.1. Ưu điểm ................................................................................................... 56
2.3.2. Hạn chế .................................................................................................... 61
2.4. Nguyên nhân của những hạn chế ................................................................... 64
2.4.1. Chất lượng nguồn nhân lực...................................................................... 64
2.4.2. Điều kiện kỹ thuật .................................................................................... 65
2.4.3. Thời gian sản xuất chương trình .............................................................. 66
3.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của những giải pháp ............................................ 68
3.1.1. Cơ sở lý luận của những giải pháp .......................................................... 68
3.1.2. Cơ sở thực tiễn của những giải pháp ....................................................... 68
3.2. Đề xuất kiến nghị nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật trên truyền hình 71
3.2.1. Nhóm giải pháp chung ............................................................................. 71
3.2.2. Về nội dung .............................................................................................. 77
3.2.3. Về hình thức............................................................................................. 80
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 87
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 90


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN

STT

Chữ tắt


Giải nghĩa

1

CAND

Công an nhân dân

2

CNH

Công nghiệp hóa

3

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

4

GTVT

Giao thông vận tải

5

HĐH


Hiện đại hóa

6

HSSV

Học sinh sinh viên

7

KTXH

Kinh tế xã hội

8

PBGDPL

Phổ biến giáo dục pháp luật

9

PGS.TS

Phó Giáo sư, Tiến sĩ

10

TTĐC


Truyền thông đại chúng

11

UBND

Ủy ban nhân dân

12

VTV

Đài truyền hình Việt Nam

13

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU, HÌNH VẼ SỬ DỤNG
TRONG LUẬN VĂN
Tên bảng và hình vẽ

STT

1


2

Hình 2.1. Cơ cấu tổ chức của kênh Truyền hình Công an
nhân dân ANTV

Hình 2.2. Quy trình sản xuất chương trình truyền hình trên
kênh ANTV

Trang

50

53

Hình 2.3. Nội dung giáo dục pháp luật trên kênh truyền hình
3

ANTV được phản ánh trong bản tin 113 online và chương

60

trình Hành trình phá án từ tháng 1 đến tháng 6/2014

Hình 2.4. Các thể loại được sử dụng trong bản tin 113 online
4

và chương trình Hành trình phá án trên kênh truyền hình

68


ANTV từ tháng 1 đến tháng 6/2014

5

Hình 2.5. Đánh giá chất lượng các chương trình trên kênh
ANTV

75


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Việt Nam là nước duy nhất trên thế giới có Luật về phổ biến và giáo dục
pháp luật. Điều này thể hiện rõ quyết tâm của Đảng, Nhà nước trong việc tiếp tục
tăng cường, đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, góp phần nâng cao
dân trí pháp lý, ý thức pháp luật cho cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân.
Tuy nhiên, trong những năm qua, năm nào cũng có những vụ án làm xôn xao
dư luận, tạo ra sự quan tâm lớn của công chúng mà đối tượng gây án tuổi đời còn
khá trẻ. Những vụ án do người trẻ tuổi gây ra đang dấy lên hồi chuông cảnh tỉnh về
vấn đề đạo đức, tính thiện trong mỗi con người ngày nay.
Nguyên nhân thực trạng này có thể do ảnh hưởng nhiều từ phim ảnh, môi
trường sống, công tác giáo dục, tuyên truyền về pháp luật còn khá lỏng lẻo nên
nhiều người không ý thức được hậu quả mình gây ra. Việc tuyên truyền giáo dục
pháp luật cho nhân dân là việc làm không thể thiếu và cũng không thể làm một, hai
lần, làm một thời gian ngắn là xong mà phải rất kiên trì, sáng tạo, linh hoạt, được
toàn xã hội tham gia. Tuyên truyền giáo dục pháp luật cho nhân dân có nhiều việc
phải làm, bằng nhiều cách, do nhiều lực lượng tham gia.
Thời gian qua, cùng với sự phát triển của xã hội, báo chí đã góp phần tuyên
truyền những chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực,
trong đó có vấn đề giáo dục pháp luật qua các phương tiện truyền thông đại chúng.

Nhiều hoạt động, sự kiện trên truyền hình thu hút được sự chú ý của công chúng đã
tạo nên những hiệu ứng xã hội mạnh mẽ. Mục đích của người làm truyền hình nói
riêng hay báo chí nói chung là làm cho người tiếp nhận hiểu được cặn kẽ pháp luật
và có những hành động thực hiện đúng pháp luật. Từ đó cho thấy vai trò của báo chí
trong việc nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi cho người dân.
Truyền thông đóng một vai trò không nhỏ trong việc góp phần đẩy lùi các
hiện tượng xấu trong xã hội, mang đến những điều tích cực hoặc làm thay đổi tư

1


tưởng, quan điểm về một hiện tượng, vấn đề nào đó. Với vấn đề trật tự, an toàn xã
hội, chúng ta đang có hệ thống báo - đài tuyên truyền về an ninh pháp luật khá
phong phú, nhưng hệ thống truyền hình thì chưa nhiều. Hiện nay, tuyên truyền vấn
đề an ninh trên truyền hình chỉ có khoảng 90 phút mỗi tuần phát trên Đài Truyền
hình Việt Nam do Truyền hình Công an Nhân dân thực hiện.
Đáp ứng đúng nhu cầu cần thiết của xã hội, vào 11.12.2011 sự ra đời kênh
truyền hình ANTV của Trung tâm Phát thanh, truyền hình Điện ảnh Công an Nhân
dân là rất kịp thời. Trung tướng Nguyễn Hữu Ước - Tổng biên tập kênh ANTV cho biết: “Việc ra đời kênh An ninh là định hướng đúng đắn bởi nhiệm vụ tuyên
truyền của ngành công an là rất quan trọng, nhất là trong thời bình. Trong số các
phương tiện tuyên truyền, không có gì chuyển tải nhanh các chủ trương của Đảng,
pháp luật của Nhà nước bằng hệ thống truyền thông. Do vậy, lãnh đạo Bộ Công an
chỉ đạo quyết tâm cần phải có một kênh truyền hình về an ninh. Đây là nhu cầu tất
yếu trong thời đại ngày nay!”. Ra đời được hơn 3 năm, với sự cố gắng không ngừng
nghỉ truyền hình ANTV trở thành một trong 10 kênh truyền hình trọng điểm Quốc
gia. Những chương trình nổi bật về các vấn đề an ninh trật tự như: Hành trình phá
án, An toàn giao thông, An ninh và đời sống, ... đã đi sâu vào tuyên truyền, giáo dục
phòng chống tội phạm cho thanh thiếu niên nói riêng và cho người dân nói chung.
Các vấn đề nóng hổi của tình hình an ninh quốc tế, điều tra tội phạm xuyên quốc gia
cũng xuất hiện trong các chương trình bình luận, phân tích chuyên sâu trên kênh

truyền hình ANTV. Bên cạnh những thành công đạt được, truyền hình ANTV cũng
đang nỗ lực để hoàn thiện hơn về những chương trình talk show, những chương
trình mang tính phản biện xã hội nhiều hơn trong các chương trình của mình để làm
nội dung phong phú và hấp dẫn hơn, định hướng giáo dục con người theo hướng
thiện và thực hiện theo đúng pháp luật.
Xuất phát từ thực tiễn và lý luận nói trên, Tôi chọn đề tài “Giáo dục pháp
luật trên kênh truyền hình an ninh (ANTV)” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp
cao học của mình.

2


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ra đời từ tháng 12/2011, ANTV là kênh truyền hình còn tương đối mới nhưng
các chương trình của kênh ANTV đã thu hút khá nhiều khán giả truyền hình với
những nội dung chuyên biệt về các vấn đề an ninh, trật tự và pháp luật xã hội. Qua
hơn 3 năm phát sóng chương trình, với những vị khách mời uy tín, các ý kiến trao
đổi chuyên sâu, thẳng thắn và đi sâu vào các vấn đề nóng, những chương trình của
ANTV đã thu hút và có sự tác động sâu sắc đến đông đảo người xem. Do vậy, việc
nghiên cứu tìm hiểu khảo sát hiệu quả mà các chương trình trên kênh truyền hình
ANTV mang lại là một điều cần thiết, có nhiều ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực
tiễn. Tính đến thời điểm hiện nay vẫn còn khá ít những công trình nghiên cứu về
kênh truyền hình này. Trong quá trình tìm hiểu thực tế, tác giả chú ý đến các công
trình sau:
- Trong cuốn “Cơ sở lý luận Báo chí truyền thông” của nhóm các tác giả
Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang có viết về vấn đề báo chí và luật
pháp (Chương 7). Nội dung là nói đến mối quan hệ giữa báo chí và luật pháp, cùng
với những cơ sở pháp luật của báo chí Việt Nam.
- Luận văn thạc sĩ: “Báo chí Công an nhân dân với việc giáo dục pháp luật
cho lực lượng công an nhân dân” (Khảo sát tạp chí Công an nhân dân, báo Công an

nhân dân, An ninh thủ đô, Công an thành phố Hồ Chí Minh) của tác giả Nguyễn Thị
Thu Phương (2006), Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân Văn. Luận văn chủ
yếu đề cập đến việc giáo dục pháp luật cho ngành lực lượng công an nhân dân trên
các tờ báo chuyên ngành của ngành công an.
- Luận văn thạc sỹ: “Báo chí với quá trình hình thành nhân cách của học sinh
sinh viên” của tác giả Lại Thị Hải Bình (2006), Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn. Luận văn chủ yếu đề cập đến tác động của báo chí tới quá trình hình
thành nhân cách của Học sinh – sinh viên ở mức độ khái quát.
- Luận văn thạc sỹ: “Giáo dục nhân cách cho trẻ vị thành niên trên báo chí
hiện nay” của tác giả Trần Thị Dung (2007), Học viện Báo chí và Tuyên truyền.

3


Luận văn tập trung đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục và định
hướng nhân cách cho trẻ vị thành niên trên báo Thiếu niên tiền phong và báo Hoa
học trò.
- Luận văn thạc sỹ: “Giáo dục đạo đức cho trẻ em trên kênh truyền hình Bibi”
của tác giả Lê Thị Minh Huyền (2012), Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Đề tài
tập trung đưa ra những mặt tích cực và tiêu cực, từ nội dung, hình thức thể hiện đến
phương pháp giáo dục nhằm đánh giá khả năng, vai trò kênh truyền hình Bibi trong
việc giáo dục cho trẻ. Từ đó, xác định những cơ sở khoa học và thực tiễn để xây
dựng giải pháp nâng cao chất lượng tuyên truyền và giáo dục đạo đức cho trẻ hiện
nay thông qua truyền hình.
Bên cạnh đó còn một số công trình khác như các khóa luận:“Một số vấn đề
giáo dục pháp luật trên báo chí TP. Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Thị Phước
Hạnh (1996), Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Đề tài tập trung đưa ra những giải
pháp cần thiết để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ tuyên truyền và giáo dục pháp luật trên
báo chí TP. Hồ Chí Minh. Khóa luận “Giáo dục kiến thức lịch sử trên truyền hình”
của tác giả Phạm Việt Hà Châu (2007), Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Đề tài

tập trung đưa ra những giải pháp cần thiết để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ giáo dục
kiến thức lịch sử cho thế hệ trẻ trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam.
Các công trình nghiên cứu trên đã phản ánh ở các giai đoạn khác nhau, đối
tượng khác nhau. Tuy nhiên, trên thực tế còn khá ít các công trình nghiên cứu, đánh
giá, tổng kết kinh nghiệm tuyên truyền giáo dục pháp luật thông qua truyền hình. Vì
vậy, nội dung nghiên cứu: “Giáo dục pháp luật trên kênh truyền hình an ninh
(ANTV)” là đề tài mới chưa có công trình nào nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu công tác giáo dục pháp luật trên kênh truyền hình
ANTV, từ đó tìm ra những điểm còn hạn chế của chương trình, từ đó đưa ra một số
kiến nghị nâng cao chất lượng của chương trình hơn nữa.

4


- Từ những đánh giá cơ bản về hiệu quả của bản tin 113 Online và chương
trình Hành trình phá án trên ANTV, luận văn cũng nhằm mục đích đưa ra những
khái quát, những điểm quan trọng trong việc xây dựng các chương trình, các chuyên
mục của các cơ quan báo chí để thực hiện tốt hơn nữa việc giáo dục pháp luật qua
các phương tiện thông tin đại chúng hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, tác giả luận văn phải thực hiện một
số nhiệm vụ sau:
- Hệ thống một số khái niệm liên quan đến đề tài.
- Hệ thống các quan điểm lớn của Đảng, nhà nước về vấn đề giáo dục pháp
luật cho người dân.
- Phân tích vai trò của truyền hình với việc tuyên truyền giáo dục pháp luật
cho người dân.
- Trên cơ sở chọn lọc, khảo sát hệ thống, phân tích để đi đến khẳng định thế

mạnh của truyền hình trong vấn đề tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người
dân trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất và kiến nghị một số giải pháp nhằm tiếp tục phát huy vai trò của
truyền hình với việc giáo dục pháp luật cho người dân.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
-

Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là vấn đề giáo dục pháp luật trên

bản tin 113 Online được phát sóng vào khung giờ 11h30 - 11h45 và chương trình
Hành trình phá án.
Bên cạnh đó luận văn cũng nghiên cứu khảo sát các tài liệu, các công trình
khoa học có liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài.
-

Phạm vi nghiên cứu

5


Luận văn xác định rõ phạm vi nghiên cứu của đề tài là bản tin 113 Online và
chương trình Hành trình phá án trên kênh ANTV được phát sóng từ 1/2014 đến
6/2014.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá triǹ h thực hiê ̣n đề tài , tác giả sử du ̣ng mô ̣t số phương pháp nghiên
cứu cơ bản sau:
5.1. Phương pháp phân tích nội dung các lí thuyết truyền thông, hành vi,
truyền thông thay đổi hành vi để nhận diện về cơ sở lí luận chung về các vấn đề mà
đề tài nghiên cứu.

5.2. Phương pháp phân tích mô tả
Phương pháp này có tác dụng tốt trong phương pháp nghiên cứu tiếp cận
tuyên truyền trên truyền hình. Các hoạt động xây dựng chương trình được phân tích
chi tiết xem chúng được hình thành nhằm mục đích, mục tiêu gì. Chúng phát huy
những tác dụng nào, mang lại những giá trị gì cho công chúng, những giá trị đó có
biểu đạt được thông điệp nhà Đài cung cấp hay không...
5.3. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Nghiên cứu các tài liệu các công trình nghiên cứu về vai trò của báo chí
trong việc đóng góp hoàn thiện chính sách.
Nghiên cứu Bản tin 113 Online và chương trình Hành trình phá án trên
ANTV được phát sóng trong thời gian thực hiện nghiên cứu.
Ngoài ra, tham khảo một số sách báo, tạp chí, internet, đề tài nghiên cứu
khoa học có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
5.4. Phương pháp khảo sát thực tế
Khảo sát bản tin 113 Online và chương trình Hành trình phá án trên ANTV
được phát sóng từ tháng 1/2014 đến tháng hết tháng 6/2014, từ đó ta ̣o cơ sở cho
viê ̣c phân tích đánh giá hiệu quả tác động của chương trình .
5.5. Phương pháp điều tra xã hội học
Phương pháp điều tra xã hội học được thực hiện với hai hình thức:

6


Điều tra công chúng bằng phiếu hỏi:
Phỏng vấn sâu công chúng:
Dự kiến phỏng vấn sâu nhóm công chúng thường xuyên theo dõi các chương
trình trên kênh ANTV.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Đóng góp mới: Đánh giá cơ bản về thực trạng pháp luật hiện nay và vấn đề
tác động của truyền hình đối với việc giáo dục pháp luật cho người dân. Đề xuất

giải pháp có tính khả thi nhằm phát huy vai trò của truyền hình với việc giáo dục
pháp luật cho người dân.
- Ý nghĩa lý luận
Đây là công trình nghiên cứu thực trạng của công tác tuyên truyền, giáo dục
pháp luật trên kênh ANTV. Vấn đề giáo dục pháp luật cho người dân hiện nay cần
được Đảng, Nhà nước và Bộ Giáo dục quan tâm hơn nữa.
Đề tài góp phần làm rõ vai trò của truyền hình trong công cuộc xây dựng con
người mới. Đề tài chỉ ra rằng: “truyền hình không chỉ tuyên truyền mà còn đóng vai
trò giáo dục, góp phần giáo dục pháp luật và định hướng cho người dân theo những
giá trị tốt đẹp của cuộc sống. Từ đó, hình thành lối sống lành mạnh, vững tin giúp
con người tiếp bước tương lai, đáp ứng được sự nghiệp đổi mới của đất nước đưa
đất nước đạt tới “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
- Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài góp phần cung cấp cơ sở khoa học đánh giá nghiêm túc trong việc
giáo dục pháp luật cho người dân để các cơ quan chức năng cần quan tâm hơn, có
kế hoạch tuyên truyền, định hướng người dân sống và làm việc theo pháp luật.
Đề tài sau khi hoàn thành là tài liệu tham khảo cho các bạn đồng nghiệp, áp
dụng vào thực tiễn khi đưa thông tin về giáo dục, định hướng pháp luật cho người
dân.

7


7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm:
- Phần mở đầu
- Nội dung luận văn gồm 3 chương
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về truyền hình và giáo dục pháp luật
trên truyền hình
Chương 2: Thực trạng vấn đề giáo dục pháp luật trên kênh truyền hình

ANTV
Chương 3: Một số kiến nghị cho việc tuyên truyền giáo dục pháp luật trên
truyền hình
- Phần kết luận
- Danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục

8


Chƣơng 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRUYỀN HÌNH VÀ GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT TRÊN TRUYỀN HÌNH
1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1. Báo chí, Truyền hình
1.1.1.1. Báo chí
Trong xã hội hiện đại, báo chí ngày càng thể hiện vai trò, vị thế đặc biệt quan
trọng. Báo chí đã và đang đóng góp hết sức to lớn vào quá trình phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm sự phát triển bền vững của xã hội. Báo chí là loại hình hoạt động
thông tin, sử dụng phương tiện kỹ thuật để phổ biến kết quả lao động sáng tạo của
nhà báo. Báo chí cung cấp cho công chúng về tất cả các vấn đề, sự kiện của đời
sống xã hội, đáp ứng nhu cầu khám phá, tìm hiểu thế giới tự nhiên và xã hội. Báo
chí phản ánh hiện thực với mục đích tác động tới nhiều tầng lớp xã hội với những
mối quan tâm, sở thích và nhu cầu khác nhau. Chính điều đó đã làm cho báo chí trở
thành một hoạt động thông tin đại chúng năng động nhất.
Theo Từ điển Tiếng Việt: Báo chí là cách gọi tắt của các loại hình báo chí
như: báo viết, báo hình, báo nói, báo ảnh, các bản tin, ...
Báo chí nói trong Luật này là Báo chí Việt Nam, gồm: Báo in (Báo, tạp chí,
bản tin thời sự, bản tin thông tấn); báo nói (chương trình phát thanh); báo hình
(chương trình truyền hình, chương trình nghe – nhìn thời sự được thực hiện bằng
các phương tiện kỹ thuật khác nhau), bằng Tiếng Việt, tiếng các dân tộc thiểu số
Việt Nam, tiếng nước ngoài. (Luật Báo chí 1989).
Trong công trình nghiên cứu này, tác giả xin đưa ra khái niệm về báo chí

theo Luật Báo chí (sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí ngày 12 tháng 6
năm 1999): “Báo chí nói trong Luật này là báo chí Việt Nam, bao gồm: báo in (báo,
tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn), báo nói (chương trình phát thanh), báo
hình (chương trình truyền hình, chương trình nghe - nhìn thời sự được thực hiện
bằng các phương tiện kỹ thuật khác nhau), báo điện tử (được thực hiện trên mạng

9


thông tin máy tính) bằng tiếng Việt, tiếng các dân tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước
ngoài".
1.1.1.2. Truyền hình
Trong các giác quan của con người, mắt (thị giác) được coi là giác quan quan
trọng nhất. Hình ảnh cảm nhận từ mắt người chiếm tới 80% thông tin nói chung.
Con người không chỉ dừng lại ở hình ảnh mà mắt trực tiếp cảm nhận được. Đã từ
lâu họ muốn bằng cách nào đó nhìn được ảnh của mục tiêu ngoài phạm vi quan sát
trực tiếp của thị giác. Ý tưởng đó chính là truyền hình.
Truyền hình ra đời vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và ngày nay truyền
hình đã trở thành một phương tiện nghe - nhìn phổ biến trên thế giới. Xem truyền
hình, đã trở thành nhu cầu thiết yếu của người dân.
Thuật ngữ truyền hình (Television) có nguồn gốc từ tiếng Latinh và tiếng Hy
Lạp. Theo tiếng Hy Lạp, từ “Tele” có nghĩa là ''ở xa'', còn “videre” là ''thấy được'',
tiếng Latinh có nghĩa là xem được từ xa. Ghép hai từ đó lại “Televidere” có nghĩa là
xem được ở xa” [36,tr.8].
Truyền hình là kênh truyền thông chuyển tải thông điệp bằng hình ảnh động
và đầy đủ màu sắc vốn có từ cuộc sống cùng với lời nói, âm nhạc, tiếng động. Nhờ
thế, truyền hình đem lại cho công chúng bức tranh sống động với cảm giác như
đang trực tiếp, tiếp xúc và cảm thụ. Đó là bức tranh về cuộc sống thực nhưng được
thu nhỏ, được “rút gọn”, được “làm giàu thêm về ý nghĩa, làm sáng rõ hơn về hình
thức” và làm phong phú hơn về giá trị tinh thần. Giúp người xem nhận thức rõ hơn,

đúng hơn, trúng hơn, gần gũi và sinh động hơn về những sự kiện và vấn đề của cuộc
sống.
Hai tác giả người Pháp Brigitte Besse và Didier Desormeaux trong cuốn
“Phóng sự truyền hình” đã có quan niệm về truyền hình như sau: “Truyền hình đó là
hình ảnh, trước hết là hình ảnh. Đó là thế mạnh của nó và cũng là cái thu hút những
lời phê phán tệ hại nhất (phê phán nó hời hợt). Thế nhưng nếu không có hình ảnh,
truyền hình liệu sẽ trở thành một cái gì khác, không còn là truyền hình nữa. Làm
thông tin ở truyền hình là cho xem. Truyền hình là lời nói: Truyền hình, đó cũng là
10


lời nói, những từ ngữ, một nội dung. Làm thông tin trên truyền hình cũng là nói. Và
nói tức là mô tả bằng cách trả lời những câu hỏi: Ai? Khi nào? Ở đâu? Cái gì? Tại
sao?” [6, tr.67-68].
Với quan niệm trên sẽ có hai cách hiểu riêng rẽ về hai phương tiện ngôn ngữ
của truyền hình. Truyền hình tạo ra hiệu quả truyền thông tốt nhất khi nó kết hợp
hài hòa và linh hoạt giữa hai yếu tố hình ảnh và âm thanh trong một thứ ngôn ngữ
riêng khác với các loại hình báo chí khác (báo in, phát thanh).
Tác giả Tạ Ngọc Tấn, trong cuốn “Truyền thông đại chúng” đưa ra cái nhìn
bao quát, mạch lạc và rõ ràng hơn về khái niệm truyền hình: “Truyền hình là một
loại hình phương tiện truyền thông đại chúng chuyển tải nội dung thông tin bằng
hình ảnh động và âm thanh. Nguyên nghĩa của thuật ngữ vô tuyến truyền hình
(television) bắt nguồn từ hai từ “Tele” có nghĩa là ''ở xa'' còn “vision” là ''thấy
được'', tức là “thấy được ở xa”. Thực chất cội nguồn trực tiếp của truyền hình là
điện ảnh. Chính điện ảnh đã cung cấp cho truyền hình những ý tưởng, gợi ý đầu tiên
về một phương thức truyền thông cũng như một kho tàng những phương tiện biểu
hiện phong phú, có sức thuyết phục mạnh mẽ, làm cơ sở cho truyền hình có thể
thích ứng nhanh chóng với đặc trưng kỹ thuật riêng của mình” [33, tr.127].
Như vậy, có nhiều khái niệm về truyền hình của nhiều tác giả khác nhau.
Nhìn chung, có thể hiểu khái niệm truyền hình như sau:

Truyền hình là loại hình báo chí chuyển tải nội dung thông tin bằng hình ảnh
động và âm thanh tổng hợp (lời nói, tiếng động, âm nhạc, lời bình) tác động đồng
thời vào hai giác quan của công chúng (thính giác và thị giác).
1.1.2. Chương trình truyền hình, chuyên mục, thể loại
Chương trình truyền hình là chương trình phát sóng trên truyền hình được
sắp xếp, liên kết từ các tác phẩm truyền hình, các mục.
Chuyên mục là chương trình chính luận phát sóng định kỳ, có thể sử dụng
nhiều thể loại tác phẩm khác nhau, khai thác sâu sắc một lĩnh vực tri thức nhất định.

11


Thể loại báo chí là hình thức sáng tạo tác phẩm báo chí, phân chia theo mục
đích và phương thức phản ánh hiện thực khách quan, cách vận dụng ngôn ngữ và
phong cách cá nhân.
1.1.3. Giáo dục, pháp luật
1.1.3.1. Giáo dục
Theo Đại Từ Điển Tiếng Việt, Nguyễn Như Ý, NXB Thông Tin, 1998:
Giáo dục (1): tác động có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của
con người, để họ dần dần có được phẩm chất và năng lực yêu cầu đề ra
(2): Hệ thống các biện pháp và cơ quan giảng dạy – giáo dục của một nước
Trong tiếng Anh, từ “giáo dục” được biết đến với từ “education”, đây là một
từ gốc Latin được ghép bởi hai từ là “Ex” và “Ducere” – “Ex-Ducere”. Có nghĩa là
dẫn (“Ducere”) con người vượt ra khỏi (“Ex”) hiện tại của họ để vươn tới những gì
hoàn thiện, tốt lành hơn và hạnh phúc hơn.
Giáo dục được hiểu là quá trình hình thành và phát triển nhân cách dưới ảnh
hưởng của tất cả các hoạt động từ bên ngoài, được thực hiện một cách có ý thức của
con người trong nhà trường, gia đình và ngoài xã hội.
Ví dụ: Ảnh hưởng của các hoạt động đa dạng nội khóa, ngoại khóa của nhà
trường; ảnh hưởng của lối dạy bảo, nếp sống trong gia đình; ảnh hưởng của sách vở,

tạp chí; ảnh hưởng của những tấm lòng nhân từ của người khác;…
Giáo dục còn được hiểu là hệ thống những tác động có mục đích xác định
được tổ chức một cách khoa học (có kế hoạch, có phương pháp, có hệ thống) của
các cơ quan giáo dục chuyên biệt (nhà trường) nhằm phát triển toàn diện nhân cách.
Qua những môn học trên trường, lớp cũng như qua những hoạt động như báo cáo
thời sự, biểu diễn văn nghệ, cắm trại, thăm quan, … được tổ chức ngoài giờ lên lớp,
sẽ tạo ra những ảnh hưởng tích cực đến sự hình thành và phát triển nhân cách của
người được giáo dục, dưới tác động của giáo viên, của nhà giáo dục.
Trong thời đại ngày nay, nền giáo dục thế giới và của mỗi quốc gia đang
không ngừng cái cách đổi mới nhằm thích ứng tốt hơn với những xu thế phát triển

12


mới mẻ, năng động của toàn nhân loại và có khả năng tạo ra được những nguồn lực
mới để phát triển nhanh, bền vững.
Qua những phân tích ở trên có nhiều khái niệm về giáo dục, theo quan điểm
của tác giả có thể hiểu khái niệm giáo dục như sau:
“Giáo dục (theo nghĩa rộng) là: Quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách,
được tổ chức một cách có mục đích và có kế hoạch, thông qua các hoạt động và
quan hệ giữa người giáo dục và người được giáo dục, nhằm truyền đạt và chiếm
lĩnh những kinh nghiệm xã hội của loài người. Giáo dục (theo nghĩa hẹp): Là một
bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể, là quá trình hình thành niềm tin, lý tưởng,
động cơ, tình cảm, thái độ, những nét tính cách, những hành vi, thói quen cư xử
đúng đắn trong xã hội, thuộc các lĩnh vực đạo đức, lao động, tư tưởng chính trị,
thẩm mỹ, vệ sinh… Chức năng trội của giáo dục (theo nghĩa hẹp) là hình thành
phẩm chất đạo đức của con người”.
1.1.3.2. Pháp luật
Trước hết, xét về khái niệm “pháp luật” (droit) xuất xứ La-tin “directum” nói
lên khái niệm ngay thẳng, sự chính trực, khác với “luật pháp” (Loi) tiếng La-tin

“ligare” nghĩa là trói buộc. Theo Đại từ điển Tiếng Việt (Nhà xuất bản văn hóa –
thông tin, 1999) giải thích: "Pháp luật là quy tắc, hành vi của công dân do nhà nước
quy định, ban hành, buộc phải tuân theo không được trái phạm" (tr.1320).
Pháp luật, về bản chất nguyên gốc là mối tương quan giữa con người với con
người, giữa con người với tập thể, lâu dần trở thành quy tắc xử sự, mỗi người phải
tuân thủ khi giao tiếp với nhau cũng như giao tiếp với xã hội, sau này trở thành một
định chế, trở thành khoa học được mọi người tuân theo, được bảo đảm thực hiện và
có chế tài khi có sự vi phạm.
Hiểu theo khoa học pháp lý thì: pháp luật phải là hệ thống các quy tắc xử sự
mà mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội phải có nghĩa vụ tuân thủ. Thứ hai, pháp luật
phải do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện. Tiếp theo, pháp luật là một hiện
tượng xã hội vừa mang tính giai cấp vừa mang tính xã hội có quan hệ mật thiết với
nhau. Vì pháp luật do nhà nước ban hành, đại diện chính thức của toàn xã hội, mang

13


tính chất xã hội, ở mức độ nhiều hay ít (tùy vào hoàn cảnh cụ thể) pháp luật còn thể
hiện ý chí, lợi ích của các giai tầng khác trong xã hội. Trong xã hội có giai cấp tồn
tại nhiều quy phạm khác nhau thể hiện ý chí, nguyện vọng của các giai cấp, các lực
lượng xã hội, nhưng chỉ có một hệ thống pháp luật thống nhất chung cho toàn xã
hội. Tính giai cấp còn thể hiện ở mục đích điều chỉnh các mối quan hệ xã hội nhằm
hướng tới một trật tự phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị. Với ý nghĩa đó, pháp
luật chính là công cụ để thực hiện sự thống trị giai cấp, quản lí xã hội.
Trong luận văn này, khái niệm pháp luật được dẫn theo khái niệm của Giáo
trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Đại học luật Hà Nội, nhà xuất bản
Công an nhân dân 2008: "Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban
hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là
nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội".
1.1.4. Giáo dục pháp luật

Theo Từ điển Từ và ngữ Hán – Việt "Giáo dục là quá trình hoạt động có ý
thức, có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức nhằm bồi dưỡng cho con người những
phẩm chất đạo đức và những tri thức cần thiết để người ta có khả năng tham gia mọi
mặt của đời sống xã hội".
Công tác giáo dục pháp luật chính là việc tuyên truyền nâng cao nhận thức, ý
thức chấp hành pháp luật của các đơn vị, cơ quan nhà nước, người thi hành công vụ,
của cộng đồng, doanh nghiệp, nhân dân … những người trực tiếp tham gia các quan
hệ xã hội do pháp luật điều chỉnh. Việc giáo dục pháp luật phải là một quá trình liên
tục, thường xuyên, các cấp, các ngành phải trực tiếp tham gia với nhiều phương
thức tuyên truyền cụ thể, sinh động; phải xây dựng nếp sống văn hoá pháp luật, tự
giác chấp hành pháp luật và xử lý nghiêm minh, kịp thời, công khai những hành vi
vi phạm pháp luật. Xuất phát từ hai khái niệm giáo dục và pháp luật đã được phân
tích ở trên, có thể hiểu giáo dục pháp luật là:
Sự tác động định hướng của tổ hợp các quá trình xây dựng pháp luật, áp dụng
pháp luật, tuyên truyền, giải thích pháp luật, nhằm nâng cao ý thức pháp luật.

14


Trong các tài liệu khoa học về pháp luật ở nước ta hiện nay, các tác giả đã khá
thống nhất với khái niệm giáo dục pháp luật, theo quan điểm của tác giả có thể hiểu
khái niệm giáo dục pháp luật như sau:
“Giáo dục pháp luật là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của
chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục một cách có hệ thống và thường
xuyên nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp lý và hành
vi phù hợp với các đòi hỏi của pháp luật hiện hành”.
1.1.5. Giáo dục pháp luật trên truyền hình
Có thể nói, trong thời gian gần đây công tác giáo dục pháp luật trên truyền
hình đã và đang khẳng định một vị trí, vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội;
với vai trò là cầu nối giữa hoạt động xây dựng pháp luật và thực thi pháp luật, là

khâu đầu tiên của quy trình triển khai thực hiện pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc
sống, góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước, quản lý xã hội
bằng pháp luật.
Việc tuyên truyền, giáo dục pháp trên các chương trình truyền hình hiện nay
thường thông qua các hình thức như: xây dựng các chương trình chuyên biệt về vấn
đề pháp luật; tổ chức thi tìm hiểu pháp luật thông qua các trò chơi, giới thiệu các
chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước qua các chương trình thời sự,
cập nhật các thông tin một cách nhanh và chính xác nhất đến với người dân, ...
Việc giáo dục pháp luật thông qua truyền hình ngày càng có nhiều ưu thế hơn
so với một số hình thức khác, do đặc tính cơ bản là tính phổ cập nhanh chóng, kịp
thời và rộng khắp. Trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật truyền
hình đóng vai trò quan trọng, là công cụ, phương tiện hữu hiệu đưa pháp luật đến
với cán bộ, nhân dân, giúp cho đông đảo cán bộ, nhân dân kịp thời tiếp thu, nắm
bắt, tìm hiểu, nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật. Bên cạnh đó, còn góp
phần phản ảnh thực tiễn thi hành pháp luật và hướng dẫn dư luận xã hội ủng hộ,
biểu dương người tốt, việc tốt trong chấp hành pháp luật; lên án, phê phán những
biểu hiện tiêu cực, những hành vi vi phạm pháp luật trong xã hội, củng cố niềm tin
vào pháp luật, vào công lý trong mọi tầng lớp nhân dân.

15


Chính những ưu thế của truyền hình đã giúp cho việc tuyên truyền, giáo dục
pháp luật được triển khai một cách hiệu quả. Các văn bản quy phạm pháp luật của
Nhà nước sẽ được phổ biến đến cán bộ và các tầng lớp nhân dân. Trong đó, chú
trọng các nội dung pháp luật liên quan tới đời sống lao động và sinh hoạt, giúp nhân
dân nâng cao hiểu biết về pháp luật. Trong thời gian tới, đây sẽ là "kênh" quan trọng
góp phần đưa pháp luật vào cuộc sống. Đồng thời giúp những người làm công tác
pháp luật có thêm hình thức PBGDPL mới".
1.2. Vai trò của pháp luật và việc tuyên truyền giáo dục pháp luật trên

truyền hình
1.2.1 Vai trò của pháp luật đối với đời sống xã hội
Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là công
cụ không thể thiếu, bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường của xã hội nói
chung và của nền đạo đức nói riêng. Pháp luật không chỉ là một công cụ quản lý nhà
nước hữu hiệu, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ý thức đạo
đức, làm lành mạnh hóa đời sống xã hội và góp phần bồi đắp nên những giá trị
mới.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, việc tăng cường vai trò của
pháp luật được đặt ra như một tất yếu khách quan. Điều đó không chỉ nhằm mục
đích xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, mà còn hướng đến bảo vệ
và phát triển các giá trị chân chính, trong đó có ý thức đạo đức. Pháp luật càng chặt
chẽ, càng đầy đủ và được thi hành nghiêm chỉnh thì đạo đức càng được đề cao,
đồng thời khả năng điều chỉnh và giáo dục của đạo đức càng được mở rộng và ảnh
hưởng một cách toàn diện, tích cực đến mọi hành vi, mọi mối quan hệ giữa con
người với con người, giữa con người với xã hội. Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh,
thể hiện đúng đắn ý chí và nguyện vọng của số đông, phù hợp với xu thế vận động
của lịch sử sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Thực tế những năm vừa qua cho thấy, hệ thống pháp luật và việc thi hành
pháp luật đã có những tác động rõ rệt đến đời sống xã hội. Những quy định trong
Hiến pháp, trong các luật và văn bản dưới luật luôn đề cao tính nhân đạo và nhân

16


văn. Nói đúng hơn, đó là hệ thống pháp luật phục vụ cho việc thực thi các lợi ích cơ
bản của con người, đặc biệt là lợi ích của người lao động. Vì vậy, các nguyên tắc
định hướng cho việc xây dựng nội dung của hệ thống pháp luật, như công bằng,
nhân đạo, vì sự phát triển tiến bộ của con người và xã hội ... cũng chính là những
nguyên tắc đạo đức cơ bản mà nhân loại tiến bộ đã, đang và sẽ hướng tới. Có thể

nói, pháp luật góp phần rất lớn trong việc hình thành ý thức tôn trọng và chấp hành
những quy phạm chung, giúp con người có những hành vi ứng xử văn minh, phù
hợp với chiều hướng phát triển tiến bộ của thời đại.
Phương tiện truyền thông đại chúng hiện nay đã phát huy rất nhiều công
dụng cho việc phổ biến giáo dục pháp luật. Trên truyền hình xuất hiện nhiều các
đoạn quảng cáo mang tính tuyên truyền cho pháp luật rất cao, bên cạnh đó cũng
thông qua truyền hình, các nhà làm luật cũng phổ biến các luật mới sửa đổi hay mới
được thông qua. Điển hình có thể nói đến các quảng cáo cho luật giao thông. Ít ai
không biết đến chương trình “Tôi yêu Việt Nam” một chương trình giáo dục cho
người xem truyền hình về luật giao thông. Bằng những câu hỏi tình huống thú vị,
những phần quà hấp dẫn dành cho người thắng cuộc, chương trình đã rất thành
công. Bên cạnh đó còn có những chương trình như “Blog giao thông” luôn cập nhật
những biến đổi về luật giao thông cũng như các vi phạm mà người đi đường hay
mắc phải bằng những đoạn phim ngắn độc đáo, đó cũng là một cách tuyên truyền,
giáo dục rất hay và có hiệu quả.
Bên cạnh vấn đề giao thông đang là mối lo của toàn xã hội thì còn một vấn
đề đáng phải bàn đến đó là vấn đề thiên nhiên và môi trường. Thiên nhiên không
phải là một nguồn tài nguyên vô hạn. Có nhiều nguồn tài nguyên đang dần bị cạn
kiệt (mỏ quặng, dầu mỏ, nước ngầm....), rừng nguyên sinh bị tàn phá. Con người
đang đứng trước nguy cơ thiếu nước, thiếu năng lượng, không khí bị ô nhiễm... Việt
Nam hoàn toàn không phải một ngoại lệ trước tình hình đó, chính bởi vậy, cần có
những điều luật để xử lí các vi phạm liên quan đến tài nguyên môi trường nhằm bảo
vệ thiên nhiên. Đồng thời cũng cần phải có công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo

17


×