A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong cuộc sống hàng ngày, hầu như ai cũng có dịp tiếp xúc với động vật:
Động vật chăn nuôi như trâu, bò, lợn, gà, chó, mèo…, những loài động vật hoang dã:
chim, thú, bò sát, ếch nhái; những loài côn trùng như: gián nhà, sâu hại lúa,cây trồng,
bọ rùa…Ở chúng, mỗi loài có đời sống riêng, rất đa dạng và phong phú. Từ thời kì xa
xưa, loài người đã tiếp xúc với động vật, quan sát chúng cũng như thế giới xung quanh
và tìm thấy ở chúng có những đặc điểm đời sống kì lạ.
Vào thời kì hái lượm và săn bắt người nguyên thủy đã nhận thấy một số loài
chó có khả năng phát hiện ra con mồi từ xa và có thể giúp họ săn được mồi. Vì vậy,
chó là con vật được loài người thuần dưỡng và nuôi sớm nhất, cách đây khoảng 13 –
15 ngàn năm để giữ nhà và giúp người đi săn.
Khi loài người đã có dự trữ lương thực dự trữ, thì thường bị các loài chuột “tấn
công” ăn hại. Mèo là loài thú ăn thịt hay ăn chuột, tiêu diệt con vật gây thiệt hại lương
thực cách đây khoảng 6000 năm về trước.
Ở những khu vực nông nghiệp lúa nước phát triển cần sức kéo (cày), người ta
tìm thấy ở loài trâu rừng có sức kéo khỏe, hiền lành, thích hợp với khí hậu ẩm và ấm
có thể đáp ứng được nhu cầu đó.Trâu đã được thuần dưỡng ở Việt Nam khoảng 2000
năm trước Công nguyên.
Nếu quan sát những con vật quanh chúng ta sẽ phát hiện nhiều hiện tượng kì lạ.
Ví dụ: Vào lúc bình minh, khi có ánh sáng Mặt trời báo hiệu một ngày mới bắt
đầu, gà trống (cả gà rừng lẫn gà nhà) cất tiếng gáy, trong khi các loài gia cầm khác
không có tập tính này. Khi đạp mái con gà trống thường mổ vào một viên sỏi, nâng lên
đặt xuống và cất tiếng “cục, cục” gà mái tưởng là có thức ăn, chạy tới, gà trống xòe
một bên cánh, áp sát vào bên sườn, một chân hơi co lại và chạy cò cò qua phía trước
đến phía sau gà mái, nếu gà mái ưng thuận sẽ nằm bẹt xuống, gà trống nhảy lên mình
và giao phối.
Một con thạch sung bò trên trần nhà sẽ không có phản ứng gì khi một con
bướm đậu bất động ngay trước nó. Nhưng khi con bướm động đậy, đập cánh sẽ lôi
cuốn sự chú ý của con thạch sùng và con thạch sùng sẽ phản ứng lại là đớp lấy con
mồi. Như vậy thạch sùng chỉ bắt mồi động, không có phản ứng đối với con mồi bất
động. Đó là một dạng tập tính bắt mồi của thạch sùng.
Trong rừng già hay ở vùng núi đá vôi, vào lúc chiều tối những con tắc kè cất
tiếng kêu. Đó là một tín hiệu thông báo cho đồng loại khác giới để tìm gặp nhau.
Các loài linh trưởng thường sống theo bầy đàn. Trong mỗi đàn khỉ có sự phân
chia đẳng cấp giữa con đầu đàn với các con đực trưởng thành khác cũng như có mối
quan hệ đặc biệt với các con cái trưởng thành nào không có con nhỏ mà nó thích, đánh
đuổi các con đực trưởng thành mỗi khi con đực đến gần con cái.
Các loài côn trùng xã hội có sự phân chia đẳng cấp rõ ràng. Trong đàn ong mật
có ong chúa, là con ong cái duy nhất có khả năng sinh sản, ong thợ cũng là ong cái
nhưng không có khả năng sinh sản, chỉ có nhiệm vụ xây tổ, kiếm thức ăn mang về
nuôi cả đàn, đặc biệt nuôi những ấu trùng và bảo vệ, ong đực chỉ có nhiệm vụ giao
phối với ong chúa. Sau nhiệm vụ đó chúng thường bị đuổi ra khỏi đàn.
Quan sát thế giới động vật ta có thể tìm thấy nhiều hiện tượng kì lạ trong hoạt
động sống của chúng. Những hoạt động sống của mỗi loài có những đặc tính riêng
được gọi là tập tính. Tập tính động vật rất đa dạng. Hai loài vật dù có họ hàng rất gần
nhau nhưng không thể nào có tập tính giống nhau. Nhờ vậy ta có thể phân biệt được
hai loài chim có kích thước gần như nhau nhưng khác nhau tiếng hót, khác nhau cách
kiếm mồi, khác nhau cách làm tổ, nuôi con. Hay cùng là thú ăn thịt sống, nhưng cách
bắt mồi của chó rất khác mèo.
Tập tính là một loạt các hoạt động có phối hợp, có thể chỉ liên quan đến cử
động của một bộ phận cơ thể cũng có thể phức hợp nhiều động tác có sự tham gia của
toàn cơ thể.
Tập tính có rất nhiều dạng và đều nhằm mục đích giúp con vật tồn tại và phát
triển. Tập tính động vật phát triển phần lớn trong sự thích nghi phức tạp của suốt đời
của đời con vật. Vì vậy, nghiên cứu cơ chế hình thành tập tính là cần thiết trong
nghiên cứu hoạt động của các loài động vật nói chung và con người nói riêng.
B. NỘI DUNG
I. Khái niệm:
1. Khái niệm về tập tính động vật
Tập tính ở động vật là một chuỗi các phản ứng trả lời các kích thích bên trong cũng
như bên ngoài cơ thể nhờ đó mà động vật có thể tồn tại và phát triển được.
Tập tính là một loạt các hoạt động phối hợp và thường dẫn tới hoạt động của một
bộ phận cơ thể: ve vẩy tai, đuôi, đến mùa sinh sản các loài chim thường hót hoặc khoe
lông, hoặc có sự tranh giành con cái bằng giao đấu…Đôi khi tập tính lại là những phản
ứng bất động
VD như: Phản ứng tự vệ của con bọ que (giả chết). Các phản ứng tập tính đều
mang tính chất thích nghi, nghĩa là làm cho cơ thể sinh vật tiếp tục tồn tại, các phản ứng
này giúp con vật tránh xa các mối nguy hiểm hoặc giảm tối đa những sự đe dọa trước mắt
nhờ sử dụng một loạt các phản ứng điều hòaNội dung
2. Phân loại
2.1. Tập tính bẩm sinh (TTBS)
Tập tính bẩm sinh là những biểu hiện cơ bản cho cơ thể sống mà từ khi sinh ra đã
có sẵn, mang tính bản năng và được di truyền từ bố mẹ sang hay còn gọi là mang tính
bẩm sinh, mang tính nguyên thủy, không cần học hỏi trong đời sống. Chúng thường là
những vận động bản năng của cơ thể sống như chạy, nhảy, bay, săn mồi, giao hoan, bài
tiết…Các hoạt động này được quyết định bởi yếu tố di truyền, ít thay đổi và ít chịu ảnh
hưởng của môi trường sống.
- Theo Paplop TTBS là phản xạ không điều kiện. Bản năng là một chuỗi phản xạ
có điều kiện.
Ví dụ: Nhện giăng tơ bắt mồi.
- Những biểu hiện cơ bản của cơ thể sống mà từ khi sinh ra đã có sẵn, mang tính
bản năng, được di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
- TTBS là tập tính sơ cấp là những vận động bản năng của cơ thể sống chạy, nhảy,
bay, giao hoan.Và hầu hết những tập tính này ít chịu ảnh hưởng của môi trường sống,
được quyết định bởi yếu tố di truyền.
2.2. Tập tính thứ sinh (TTTS)
Tập tính thứ sinh là loại tập tính được hình thành và tiếp thu trong quá trình phát
triển cá thể, thông qua quá trình học tập. Chúng bao gồm các hoạt động như tìm kiếm
thức ăn, săn mồi, những hoạt động trong giao tiếp, những quan hệ giữa các cá thể trong
bầy đàn,…Chúng dễ dàng bị thay đổi hơn so với tập tính bẩm sinh và phụ thuộc rất nhiều
vào yếu tố môi trường. Thường biểu hiện ở nhóm côn trùng, đặc biệt rõ rệt ở những loài
sống thành tập đoàn (ong, kiến, mối…).
- Được hình thành và tiếp nhận sau một quá trình học tập của cơ thể động vật
- TTTS bao gồm:
+ Các hoạt động tìm kiếm thức ăn.
+ Săn bắt mồi.
+ Các hoạt động giao tiếp.
2.3. Tập tính hỗn hợp (TTHH)
Tập tính hỗn hợp là loại tập tính mang tính chất của hai loại tập tính bẩm sinh và
thứ sinh.Nó biểu hiện rất rõ ở những động vật bậc cao như thú, người.
- Ở một chừng mực nào đó TTBS và TTTS rất khó phân biệt.TTTS hình thành
trong đời sống cá thể lâu đời bền vững tinh xảo, trở thành gần giống với tập tính bẩm
sinh.
- Đa số tập tính ở ĐVBT là tập tính bẩm sinh.
3. Cơ sở thần kinh của tập tính
Tập tính bẩm sinh là chuỗi phản xạ không điều kiện được di truyền từ bố mẹ.Tập tí
nh
bẩm sinh thường bền vững.
Tập tính học được là chuỗi phản xạ có điều kiện được hình thành trongđời sống cá
thể, do học tập, rèn luyện mà có.
-
Quá trình hình thành tập tính là sự hình thành các mối liên hệ mới
giữa các nơron. Tập tính học được có thể thay đổi.
Sự hình thành tập tính học được ở động vật phụ thuộc vào mức độ
tiến hóa của hệ thần kinh.
3.1. Sự tương tác giữa động vật và môi trường xung quanh
‐ Mối quan hệ theo kiểu mạng lưới phức tạp
‐ Tương tác qua cơ quan cảm giác
3.2. Các dạng kích thích
Kích thích là những tác nhân tác động vào con vật, kích thích có thể từ bên ngoài
như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, nồng độ oxi, độ pH (kích thích ngoài) tới làm con vật cảm
nhận được thông qua các giác quan.
Kích thích có thể từ bên trong con vật do sự thay đổi sinh lý bên trong con vật
(kích thích trong).
3.3. Các giác quan
Các cơ quan cảm giác giúp con vật tiếp nhận các kích thích từ môi
trường, qua hệ thần kinh chuyển về thần kinh trung ương và các phần của cơ thể
rồi điều chỉnh mọi hoạt động của cơ thể tương ứng với điều kiện sống của môi trườ
ng.
3.3.1. Cơ quan xúc giác
Là bộ phận phổ biến của nhiều loài ĐV, là cơ quan đơn giản nhất và thường nằm ở
vỏ ngoài cơ thể.Đây là những nhúm lồi, những búi lông, hoặc râu cảm giác, giúp con vật
tiếp xúc chặt chẽ với môi trường.
Nhiều loài côn trùng sống ở trong nước giữ thăng bằng nhờ 1 túi khí dự trữ bám
trên cơ thể. Nhờ túi khí bám vào lớp lông không thấm nước mà con vật có thể nổi trên
mặt nước, vừa có khả năng định hướng và giữ thăng bằng cho cơ thể.
Ở ĐV bậc cao (ĐVCXS) cơ quan xúc giác đa dạng và phát triển hơn nhiều.Ở ĐV
bậc cao thường có các tế bào thần kinh cảm giác nằm trong cơ, gân và đầu các khớp
xương. Sự căng 1 số cơ, sự duỗi mạnh của 1 số khác, hoặc tư thế của 1 số xương và cơ,
giúp con vật nhận biết được tư thế sự vận động của mình, từ đó sẽ điều chỉnh để thăng
bằng.
Ở tai trong của nhiều nhóm ĐVCXS chứa 1 vật thể nhỏ, rắn nằm trên một khối
chất nhầy và nối với 1 sợi lông cảm giác gọi là đá tai. Khi di chuyển, nghiêng mình sang
phải hay trái, hạt đá tai cũng bị nghiêng sẽ gây kích thích lên lông cảm giác và nhờ đó cá
sẽ có các phản ứng trở lại để lấy lại thăng bằng của cơ thể. Ở người, khi ngồi trên tàu hỏa
hoặc ô tô chạy với tốc độ cao, nếu nhìn sang tàu, hoặc xe chạy cùng chiều, chúng ta sẽ có
cảm giác như chúng cùng đứng 1 chỗ, không di chuyển. Hoặc khi xe của chúng ta đang
đứng yên, nhìn xe khác di chuyển ta có cảm giác đang khởi hành.
3.3.2. Cơ quan đường bên
Là loại giác quan đặc biệt, thường có ở các nhóm ĐVCXS ở nước.Đây là những
dãy tế bào cảm giác, phân bố ở đáy nhiều hố nhỏ hay rãnh chạy dọc 2 bên thân con vật,
tạo thành đường thẳng.Mỗi tế bào cảm giác đều có dây tiếp nhận cảm giác. Nhờ những tế
bào cảm giác này mà con vật có thể nhận biết và phản ứng với bất kì rung động nào của
môi trường nước, có thể do kẻ thù, con mồi hoặc kẻ cạnh tranh gây ra.
3.3.3. Cơ quan tiếp nhận kích thích hóa học: Khứu giác và vị giác
Sự tiếp nhận hoặc phản hồi âm thanh mang tính chất cơ học, còn cơ quan thụ cảm
hóa học tiếp nhận kích thích theo cơ chế hóa học. Tùy mức độ tiến hóa của cấu trúc cơ thể
mà cq thụ cảm hóa học có sự phát triển và phân hóa khác nhau.
Ở động vật nguyên sinh, cơ quan thụ cảm còn rất sơ đẳng và sự thụ cảm còn ở mức
thấp nhất. Vì thế chúng không thể nhận biết rõ kẻ thù, cũng như vụn vật chất ăn được hay
không ăn được.
Ở nhóm ĐV phát triển cao hơn có 2 loại thụ cảm hóa học:
1.
Cơ quan khứu giác giúp con vật nhận biết mùi (thơm, thối) và có khả năng
nhận biết sinh vật từ xa.
2.
Cơ quan vị giác nhận biết vị và chỉ có thể nhận biết sinh vật trực tiếp
* Cq thụ cảm của côn trùng khá phức tạp. Ở nhóm ĐV này các tế bào thụ cảm
phân bố trên râu, quanh phần phụ miệng, hoặc rải rác trên cơ thể, tạo thành các
mấu, nhú lồi, hoặc rải rác trên cơ thể, tạo thành các mấu, nhú lồi, hoặc cq thụ cảm
riêng biệt.
Râu thụ cảm của côn trùng có thể phát triển tạo hình lược, dạng lá, chùy… (râu
ong có 15.000 tế bào cảm giác, râu bọ dừa có 50.000).
Nhặng xanh: cq thụ cảm vị giác nằm ở đầu vòi phình to.
Khả năng tiếp nhận cảm giác mùi, vị của côn trùng cũng khác nhau tùy nhóm, loài:
ong có thể nhận biết ngọt ở các nồng độ khác nhau, nhưng không cảm nhận được
vị đắng.
* 1 số nhóm ĐV bậc cao có cq thụ cảm hóa học rất nhạy cảm. Nhóm thú ăn thịt
thường nhờ khứu giác để phát hiện mồi và thú, mồi cũng nhờ khứu giác để phát
hiện và trốn tránh kẻ thù. Cq thụ cảm hóa học cũng rất phát triển trong đời sống
bầy đàn (cầy, chồn, hươu, nai các cá thể trong đàn nhận biết nhau qua mùi cơ thể).
Có một số loài sử dụng khứu giác nhạy cảm của loài khác trong đời sống cộng sinh
(Linh dương dựa vào mắt khỉ, khỉ dựa vào khứu giác Linh dương).Cơ quan khứu
giác của ĐVCXS thường nằm ở phía trước đầu, trên cao, ở trong lỗ mũi. Nhiều
loài bò sát có cq Jacobson, nằm ở vòm miệng, trong 1 hõm xương của hộp sọ,
thông với khẩu cái. Cơ quan này được lót bởi 1 lớp tế bào cảm giác, có khả năng
nhận biết các phần tử mùi trong không khí.
3.3.4. Cơ quan cảm thụ nhiệt
Chưa được nghiên cứu nhiều, đã phát hiện được ở một số loài động vật. Kết quả
nghiên cứu của nhà TT học Philip Callahan cho thấy: khi dùng một dây kim loại nung
nóng để trong đêm tối thì thấy vài loài bướm đậu vào dây với tư thế chuẩn bị giao phối.
Tác giả cho rằng nhờ thụ cảm nhiệt mà bướm nhận biết nhau. Rắn lục, rắn chuông
hoặc trăn có cq cảm giác nhiệt nằm 2 bên đầu. Đó là 2 hố lõm ở 2 bên má, gọi là hố má,
có thể cảm giác nhiệt, nhờ đó rắn có thể phát hiện mồi trong đêm tối và ở xa khoảng
50cm. Cơ quan này được tạo bởi màng mỏng phủ đáy hố má.
3.3.5. Cơ quan cảm thụ ánh sáng (thị giác)
Là 1 trong 5 giác quan chính của động vật.Khả năng thụ cảm thị giác của các
nhóm, loài ĐV khác nhau thì không giống nhau Ở trùng roi xanh (Euglena) tuy cơ thể chỉ
gồm 1 tế bào nhưng đã có điểm mắt. Nhờ đó, trùng roi xanh đã có những chuyển động
hướng dương, bơi lên mặt nước khi có ánh sáng mặt trờ, thực hiện chuyển động quang
hợp.
Nhiều nhóm ĐVKXS (giun, thân mềm) có cảm nhận mơ hồ về ánh sáng qua da,
chúng chỉ có thể phân biệt được tối sáng, không phân biệt được sự vật và không định
hướng được nguồn sáng (giun đất có tế bào thụ cảm ánh sáng phân bố khắp bề mặt cơ
thể).
Các nhóm ĐVKXS phát triển cao hơn có cơ quan thụ cảm ánh sáng phức tạp và
hoàn thiện hơn. Côn trùng có mắt kép, không có thấu kính, được cấu tạo bởi nhiều đơn vị
thị giác Ommatidia, giúp con vật có thị trường lớn.
Ở động vật bậc cao có mắt rất phát triển.
- Gồm 1 hệ thống quang học hoàn chỉnh, có 1 thấu kính chiếu hình sự vật trên
võng mạc.
- Võng mạc gồm hàng triệu tế bào cảm giác và mỗi tế bào tham gia vào cấu tạo
hình ảnh chung.
- Loại mắt này có độ phân biệt cao, có thể phân biệt được khoảng cách 1/90 ,
giúp con vật phát hiện được con mồi từ rất xa. Cơ chế hoạt động của cq thị giác: có 3
giai đoạn chính:
- In ảnh ở võng mạc
- Truyền ảnh từ mắt đến não
- Xử lý các ảnh ở não Ở ĐVCXS bậc cao, hình ảnh đầy đủ, rõ nét và giống hình
ảnh thật hơn.
3.3.6. Cơ quan cảm thụ âm thanh (thính giác)
Mỗi âm thanh đều gây ra sóng âm và được truyền từng làn trong không khí. Khi
màng sóng tới màng nhĩ, màng nhĩ rung động được truyền tới não làm cho con người nói
riêng và ĐV nói chung nhận biết được âm thanh. Màng nhĩ không chỉ có ở tai:
- Cào cào: chân
- Bướm đen và châu chấu: bên thân gần ngực
- Muỗi nghe được nhờ tơ và râu Nhìn chung, thính giác côn trùng không phát triển
bằng thính giác ĐVCXS, chúng không phân biệt được âm thanh có tần số khác nhau,
nhưng rất nhạy cảm với cường độ âm thanh.
Đa số ĐVCXS có thính giác phát triển tốt. Ếch nhái, bò sát, chim, thú đều có thể
phát ra âm thanh rất đa dạng (dơi: tai, miệng, lá mía) Thường các nhóm sâu bọ có cq cảm
giác có khả năng phát âm. Cơ quan phát âm của sâu bọ có bản chất khác nhau tùy nhóm:
- Ở dế: gân gốc cánh cọ vào nhau - Cào cào cọ ống chân sau lên gốc cánh trước
- Ở ve sầu màng phát âm ở dưới đốt ngực sau Âm thanh có vai trò quan trọng trong
cuộc sống của sâu bọ: đực cái gọi nhau, tìm nhau…
3.3.7. Tiến hóa cấu tạo hệ thần kinh
Động vật đơn bào (Protozoa), chưa có nơron
thần kinh, nhưng có thể cảm nhận kích thích nhờ điểm mắt và có một số cơ quan vận
chuyển như tiêm mao, roi.
Các nhóm động vật đa bào thấp (thân lỗ,
ruột khoang), hệ thần kinh đã hình thành ở mức độ sơ khai
3.3.8. Hormone và sự phát triển tập tính
Hormone tác động lên các cơ quan phản ứng lại kích thích: động vật sử dụng các p
hần
phụ và cấu trúc ngoài để thực hiện các tập tính khác
nhau. Hormone tác động lên sự phát triển của các cấu trúc đó.
‐ Ở ếch đực cơ phát triển nhằm đáp ứng quá trình kết đôi
‐ Ở cá cóc đực, prolactin rất quan trọng cho sự phát triển của vây đuôi
(sử dụng trong quá trình kết đôi).
‐ Ở nhiều loài chim sự phát triển và duy trì các đặc điểm giới tính thứ
cấp phụ thuộc vào các steroid giới tính (có androgen hay thiếu oestrogen).
‐ Ở phụ nữ, một số cơ bị ảnh hưởng bởi oestrogen và pregesteron.
Hormone ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển:
‐ Tăng cường sinh tổng hợp protein, do
đó kích thích quá trình phân bào và
tăng kích thước tế bào vì vậy làm tăng cường sự sinh trưởng của cơ thể.
‐ Kích thích chuyển hóa ở tế bào.
‐ Kích thích sự sinh trưởng và phát triển các đặc điểm sinh dục phụ ở con
đực và con cái.
Hormone: Một dạng kích thích bên trong.
Các tuyến nội tiết tiết hormone vào máu để đáp ứng ác kích thích từ bên
trong và bên ngoài.
Hormone có tác dụng chậm hơn các xung thần kinh và nhờ vậy tác động
tới sinh lý và tập tính.
Phản ứng nhanh của hệ thần kinh và ảnh hưởng kéo dài của hormon có
tác dụng bổ trợ lẫn nhau.
II. Cơ chế hình thành tập tính của động vật
1. Cơ chế hình thành tập tính
Tập tính bẩm sinh (bản năng) được lập trình sẵn ngay từ khi con vật mới ra đời.
Mang nét đặc trưng cho loài.
Tập tính học được hình thành trong quá trình sống, thông qua những phản ứng của
cơ thể với môi trường luôn biến động. Tập tính này luôn biến động: hình thành phù hợp
với điều kiện sống và bị loại bỏ nếu không còn phù hợp nữa.
Cơ chế hình thành và hoạt động của tập tính động vật là cơ chế thần kinh. Các cơ
quan cảm giác: xúc giác, khứu giác, thính giác, thị giác…giúp con vật tiếp nhận các kích
thích từ môi trường bên ngoài, qua hệ thần kinh chuyển giao chúng về thần kinh trung
ương và các phần của cơ thể rồi điều chỉnh.
1.1.
Tập tính bẩm sinh và học tập ở động vật non
+ Tập tính bẩm sinh và học được
Ví dụ: Tập tính hôn phối, được một hệ thống hoocmon điều khiển, do tuyến sinh dục và
mấu não dưới tiết ra. Một chu trình hoạt động tập tính sinh sản trọn vẹn, từ khoe mẽ, dẫn
dụ, tranh bạn tình, xây và canh tổ, ấp trứng, nuôi con… chỉ thể hiện được nếu các
hoocmon nói trên được tiết ra theo thứ tự nhất định.
Các tập tính động vật đã nêu là những tập tính bản năng mang tính chất bẩm sinh
mà mỗi cá thể động vật đều có được ngay từ khi nó mới sinh ra. Đây là những tập tính
sống còn, được quyết định bởi cơ chế di truyền, khó thay đổi và ít chịu ảnh hưởng của
điều kiện môi trường.
Tập tính bản năng nhiều khi gây ân tượng quá mạnh mẽ đối với con vật non, thậm
chí ngay cả đối với con mẹ. Đó là hiện tượng mèo mẹ nuôi chuột con, vịt con sau khi nở
có thể theo vịt mẹ bằng gỗ, hổ con bú mẹ chó…
Những loài tập tính bẩm sinh được quyết định theo cơ chế di truyền, nhưng vẫn có
thể thay đổi và được hoàn thiện dần qua kinh nghiệm và hoạt động, được gọi là tập tính
bản năng học được. Khả năng học tập, hoàn thiện một tập tính nào đó của động vật lại
phụ thuộc chủ yếu vào sự phát triển và cấu trúc của hệ thần kinh trung ương. Điều này
phụ thuộc hoàn toàn bởi nguồn vật chất di truyền. Nói cách khác, khả năng học tập qua
kinh nghiệm sống của các cá thể động vật được quyết định chủ yếu bởi sự phát triển và
tiến hóa của nhóm động vật đó. Những ví dụ sau đây chứng tỏ điều đó.
Ví dụ: Hiện tượng gà con, chim non ngồi xẹp xuống khi có tín hiệu báo động. Hành vi đó
xem như là tập tính bản năng. Gà con, chim non cũng có thể nghe tiếng báo động ngay từ
khi còn ở trong trứng, mới mở vỏ.
+ Sự hình thành qua kinh nghiệm của cá thể động vật
Thường có quan niệm động vật hoạt động hoàn toàn do bản năng điều khiển và
mới sinh ra đã có. Thực ra không hoàn toàn như vậy. Động vật non lớn dần và qua kinh
nghiệm sống chúng hoàn thiện các tập tính riêng của mình. Nói chung, động vật càng tiến
hóa
thì
càng
mang
nhiều
tập
tính
thứ
sinh
có
được
nhờ
học
tập.
Sự hình thành kinh nghiệm riêng ở động vật thể hiện rõ trong các hoạt động tập tính bắt
mồi của thú ăn thịt lớn như sư tử, báo, hổ, mèo...
+ Tập tính hình thành do luyện tập
Ví dụ: Để xác định rõ hơn tiếng hót của chim là do bẩm sinh hay do luyện tập,
người ta đã làm thí nghiệm với chim hoa mai. Kết quả thấy rằng, chim hoa mai được nuôi
cách biệt với đồng loại không biết hót, nhưng nếu nuôi với chim lớn, nó sẽ hót bình
thường như các con chim khác. Ở một số loài chim, tiếng hót của chúng có được là do bắt
chước. Sáo, quạ, vẹt có thể bắt chước tiếng nói của người, ở trình đọ cao như yểng.
1.2.
Các cá thể trưởng thành cũng luôn phải học tập và tiếp thu những kinh nghiệm
sống mới
Nhiều người cho rằng, động vật đã lớn. Trưởng thành khó học tập, ngay cả con
người lớn tuổi khó học hơn là các trẻ nhỏ hoặc những người ít tuổi. Quan niệm này có
đúng không? Các nhà tập tính học đã chứng minh con vật lớn cũng thường xuyên phải
học tập để sinh tồn. Ngay cả những động vật mà hệ thần kinh trung ương của chúng còn
kém phát triển cũng có thể học tập rút kinh nghiệm trong hoạt động sống để tồn tại. Tất cả
các con vật có thể có những hành động, tập tính mới, có được do học tập, rút kinh
nghiệm. Nhiều nhóm động vật có thể học, làm quen với một số hoạt động tập tính mới
như tìm đường ở ong, kiến, học hót, học làm một số công việc phức tạp. Chỉ khác với
người, con vật chưa biết tư duy nhưng con người cũng vậy, cũng phải học, học nữa, học
mãi, học suốt đời.
2. Cơ chế hình thành một số tập tính phổ biến ở động vật
2.1. Bản năng: Do bẩm sinh hoặc di truyền
Ví dụ: Tập tính hôn phối được một hệ thống hormon điều khiển, do tuyến sinh dục
và mấu não dưới tiết ra, là tập tính bẩm sinh
khó thay đổi và ít chịu ảnh hưởng của điều
kiện môi trường.
Tập tính cố định: không thay đổi
Ví dụ: Hấp dẫn bạn khác giới, ấp trứng, chăm sóc con non, đe dọa kẻ thù.
-
Trong tập tính ghép đôi việc phát ra các tính hiệu kích thích và kêu gọi bạn tình rất là
quan trọng. Thông thường, con đực sục sạo và quyến rũ con cái .Trò tán tỉnh bao gồm:
-
nhảy múa, gõ vào cơ thể, phát ra âm thanh, tiết ra mùi , phô trương ra hiệu…
Âm thanh đóng vai trò quan trọng giúp con đực dẫn dụ con cái.
Ví dụ:
+ Mùa xuân đến, châu chấu vùng Địa Trung Hải thường gọi con cái nhờ âm thanh
riêng, được phát ra ở lưng.
+ Rên rỉ là cách thức tìm bạn tình ở muỗi. Muỗi cái thông báo cho muỗi đực nhận
biết, đồng thời cũng là thông tin cho muỗi cái tránh xa.
+ Châu chấu, dế mèn, ve sầu đực phát ra âm thanh quyến rũ con cái.Ve sầu Bắc
Mỹ Magricicada septemdecim có giai đoạn ấu trùng 17 năm trong đất nhưng giai đoạn
trưởng thành sống tự do chẳng kéo dài được bao lâu, chỉ được vài tuần , chủ yếu để ca
hát, giao phối đẻ trứng duy trì nòi giống.
- Mùi vị cũng đóng vai trò quan trọng trong tập tính ghép đôi
Ví dụ:
+Loài rệp vỏ, con đực taọ một căn phòng đặc biệt. Sau đó, tiết ra mùi đặc
biệt khiêu gợi tỏa vào không khí. Con cái sau khi phát hiện được mùi, nó không
sao dừng lại và tìm đến chỗ con đực.
+ Con ngài hoàng đế tiết ra mùi thơm thu hút con đực từ xa 11km.
+ Nhiều loài bướm trong họ bướm cải và bướm phấn, đến mùa sinh sản con
đực thường thò ra túm lông màu vàng hoặc trắng ở cuối bụng để tiết ra một mùi
hắc giúp con đực dẫn dụ con cái và xua đuổi kẻ thù.
- Những kích thích thị giác cũng đóng vai trò quan trọng trong hôn phối của
nhiều loài động vật.
Ví dụ:
+ Đom đóm cái phát ra ánh sáng màu vàng vàng để thu hút con đực.
+ Nhện nhảy cái Habranattus dossenus yêu cầu bạn tình vừa nhảy vừa
múa.
- Quà tặng tình yêu:
Ví dụ
+ Ở loài bọ nhậy bụng đỏ, quà tặng là một tấm mền bằng the mỏng do con
đực dệt lấy từ những sợi tơ mịn .Con đực không chỉ mải mê giao phối với con cái
8trong 9 giờ đồng hồ, nó còn cẩn thận dùng tấm mền quấn lấy nàng, nhằm bảo vệ
nàng khỏi bị kẻ thù ăn thịt trong những giờ hoang lạc.
+ Bọ ngựa đực phải rất cẩn thận khi nó đến gần con cái để ghép đôi. Nếu
con cái đang đói , con đực có thể trở thành bữa ăn cho bạn tình.
Cùng với thời gian và sự phát triển, nhiều tập tính bản năng của động vật cũng biến đổi.
Ví dụ: Tập tính mổ của gà con là một kiểu tập tính bản năng.Tuy nhiên khả năng mổ
chính xác của chúng chỉ thực sự thành thục vài ngày sau khi nở.
Những tập tính bẩm sinh nhưng được hoàn thiện dần qua kinh nghiệm và hoạt động được
gọi là tập tính bản năng học được. Khả năng học tập, hoàn thiện một tập tính nào đó lại
phụ thuộc chủ yếu vào sự phát triển và cấu trúc của hệ thần kinh trung ương (phụ thuộc
vào sự phát triển và tiến hóa của từng nhóm động vật).
2.2. Tập nhiễm: Học hỏi, thói quen
Tập tính này giúp động vật thích nghi với môi trường sống.
Ví dụ: Chim nhận ra con mồi nào không độc dựa vào màu sắc. Voọc nhận dạng các
loại lá có thể ăn được.
Tập nhiễm hình thành qua:
+ Học hỏi qua quan sát
Ví dụ: Con non học cách săn mồi, kiếm thức ăn của bố mẹ.
+Sự hình thành kinh nghiệm cá thể ở động vật.
Sự hình thành kinh nghiệm riêng ở động vật thể hiện trong các hoạt động tập tính bắt mồi
của thú ăn thịt như sư tử, hổ, báo…Sự tham gia săn mồi của các cá thể con tùy thuộc vào
tuổi của chúng.
Ví dụ: Báo mẹ dạy con săn mồi: Sau khi bắt được con mồi, báo mẹ làm cho con mồi yếu
đi rồi cho con tập săn mồi. Nếu báo được con người nuôi dưỡng từ nhỏ thì khi lớn lên
được thả ra tự nhiên sẽ không có các kỹ năng săn mồi.
+ Học hỏi và rút kinh nghiệm
Ếch ăn ong bị đốt nhưng ăn chuồn chuồn thì không sao. Dần dần qua học hỏi
và rút kinh nghiệm. Ếch chọn được thức ăn phù hợp.
3. Tập tính vận động
Động vật có thể định hướng bằng:
+ Vật đánh dấu
+ Mặt trời, bầu trời đêm, phân cực của ánh sáng, lượng sang trong ngày.
+ Nhiệt độ và lượng mưa
+ Một số tín hiệu bên trong cơ thể, sự thay đổi bên trong não bộ tương ứng với các giờ
trong ngày, mùa
+ Từ trường, khứu giác.
Có 3 dạng vận động:
+ Vận động ngẫu nhiên (kinesis)
Nhiều sinh vật đơn bào và một số động vật đa bào thể hiện một đáp ứng rất đơn
giản đối với một số kích thích: Khi cảm nhận một kích thích, chúng chỉ bắt đầu di chuyển
hoặc dừng di chuyển, thay đổi vận tốc hoặc cọ quậy một cách ngẫu nhiên đáp lại một kích
thích gọi là vận động ngẫu nhiên.
Ví dụ: Những con rận trên quần áo người thể hiện dạng vận động mò mẫm, chúng
di chuyển ngẫu nhiên nhưng trở nên hoạt động hơn ở nơi khô và kém hoạt động ở những
vùng ẩm. Chúng càng di chuyển thì càng có cơ hội lớn hơn để tìm được một vùng ẩm
thuận lợi cho sự sống còn.Một khi đã ở chỗ thích hợp thì mức hoạt động giảm xuống, có
xu hướng giữ chúng ở lại đó.
Di chuyển ngẫu nhiên
+ Vận động định hướng (Taxis)
Trái ngược với vận động ngẫu nhiên là những chuyển động có định hướng, còn
được gọi là tập tính định hướng khiến cho động vật đặt cơ thể của nó ở một vị trí riêng
biệt so với một tín hiệu của môi trường.
Một trong những tập tính định hướng là hướng động.Tính hướng kích thích là
chuyển động ít nhiều tự động, hướng về hoặc rời khỏi kích thích.
Ví dụ: Cá hồi thể hiện tính theo dòng chảy, chúng tự động bơi theo hướng ngược
dòng. Nhiều động vật tìm nhau ghép đôi nhờ tính hướng mùi hóa chất. Các con cái của
nhiều loài, nhất là côn trùng phát ra các tín hiệu hoocmôn pheromone hấp dẫn con đực.
Các con đực có khả năng phát hiện những lượng nhỏ pheromone đó, nhận ra dấu vết mùi
và định hướng về phía nồng độ hóa chất tăng, cuối cùng hướng tới nguồn phát ra mùi đó.
Nhiều động vật có khả năng định hướng kì diệu, ví dụ chim non di cư, chuyển
động của đàn kiến, châu chấu, cua…Nhiều loài chim sinh sống và sinh ra ở phía bắc,
hàng năm di cư về phía nam cách nơi làm tổ hàng nghìn kilomet. Chim rẽ nở vào mùa hè
ở đảo Groenland phía Bắc Cực, lại bay rong đêm tối suốt quãng dường dài đến miền nam
vùng Tây châu Phi. Chim báo bão nở vào mùa thu trên đảo Tristadecunha. Di cư hàng đàn
qua Đại Tây Dương, đến mùa xuân lại quay về hòn đảo quê hương nhỏ bé.
Đến nay người ta đã xác định di cư là một tập tính di động của chim, kích thích
ngoài làm cho chim di cư là sự thay đổi độ dài ngày, nhiệt độ môi trường, màu lá vàng
cuối mùa thu…Những yếu tố này gây nên những thay đổi về nội tiết, kích thích thùy
trước tuyến yên hoạt động sản sinh ra hoocmôn, tác động lên tuyến sinh dục, gây ra sự
thay đổi phức tạp về tập tính, sinh lý dẫn đến sự di cư.
Như vậy, thúc đẩy sự di cư của chim là kích thích ngoài kết hợp với kích thích
trong tạo nên tập tính di cư mang tính di truyền được hình thành trong quá trình phát triển
tiến hóa của loài. Chim non sinh ra và lớn lên, đến mùa thu lại di cư theo bản năng di
truyền đó. Qua đó cho thấy khả năng định hướng trong di cư của chim là một tập tính bản
năng của loài, vì định hướng của mỗi loài chim di cư một khác, đặc trưng cho loài và ứng
với thời điểm di cư.
Bò sát định hướng di chuyển. Thí nghiệm làm một đường rối bằng tên để rùa bò tới
chỗ uống nước. Tuy trí thông minh hạn chế nhưng sau 38 lần mò mẫm tránh đường cụt,
rùa có thể đi thẳng 1 mạch tới nguồn nước mà không cần dò đi như lúc ban đầu. Nhiều
loại thằn lằn, rắn trong thiên nhiên cũng tìm được đường đi trong lãnh thổ ở gần vực nước
theo cách thử - nhầm như rùa.
Ngỗng đi theo mẹ. Khi ngỗng con nở, nó biết đi ngay, nhưng cách đi này có hướng
vì ngỗng thường theo mẹ. Sau khi theo mẹ một thời gian, nó không chịu theo động vật
khác. Nhưng nếu ấp trứng ngỗng trong lò, ngỗng nở ra tiếp xúc ngay với động vật (gà hay
người chẳng hạn), thậm chí một đồ vật nào đó di chuyển, nó sẽ đi theo ngay. Sau một thời
gian, ngỗng vẫn theo mẹ giả mà từ chối không theo mẹ ngỗng thật. Ngỗng con được “điều
kiện hóa” với dấu ấn của mẹ giả, kích thích này gây ra phản ứng đầu tiên theo mẹ.
+ Di cư (Migration)
Nhiều động vật cư trú ở một vùng địa lý suốt năm nhưng có một số loài thường di
cư qua những khoảng cách nhất định, đôi khi rất xa. Di cư theo mùa là sự di chuyển đều
đặn của động vật từ chỗ này đến chỗ khác vào những thời điểm xác định trong năm, nhờ
đó chũng luôn tìm được những vùng có nguồn thức ăn dồi dào và vùng sinh sống thuận
lợi nhất để sinh sản.
Trong mùa hè, cá voi xám ăn thỏa thích những động vật không xương sống nhỏ
định cư ở dưới đây, có rất nhiều ở các đại dương phía Bắc. Đến mùa thu, chúng rời vùng
sinh sống phương Bắc, bắt đầu một cuộc hành trình dài xuống phương Nam dọc theo bờ
biển Bắc Mỹ. Những tháng đầu mùa đông, chúng tới vùng ẩm bên ngoài vịnh California
(Mêhico) để sinh sản, và những con cá voi xám cái sinh con trước khi di cư ngược về
phương Bắc. Hàng trình một năm khoảng 20 nghìn kilomet là con đường dài nhất đối với
bất kì loài thú biển nào khác.
Các nhà nghiên cứu bắt đầu tìm hiểu về các loại tín hiệu môi trường mà các sinh
vật di cư sử dụng để định hướng trong khi di cư.
Ví dụ: Cá voi xám dường như sử dụng các vật mốc trên bờ biển để định hướng bơi
của chúng lên phía Bắc và xuống phía Nam. Di cư về phía Nam vào mùa thu, chúng định
hướng bằng đường bờ biển Bắc Mỹ ở bên trái hướng đi. Đến mùa xuân, di cư về phương
Bắc, chúng luôn giữ bờ biển ở bên phải. Quan sát và theo dõi, đôi khi thấy cá voi xám
nhô đầu đứng cao vượt khỏi mặt nước, dường như để quan sát định bị đất liền bằng mắt
các vật mốc trên bờ.
Nhiều loài chim di cư ban đêm định hướng theo các ngôi sao như các thủy thủ
trước đây. Trái lại, Bướm di cư về ban ngày, đậu trên cây gỗ vàc cây bụi vào ban đêm,
chúng có thể sử dụng mặt trời như con người sử dụng la bàn.
4. Tập tính kiếm ăn
4.1. Đối với động vật có tổ chức thần kinh chưa phát triển thì là tập tính kiếm mồi và săn
mồi là tập tính bẩm sinh.
VD: Ong bắp cày ký sinh Aphidius colemani là một loài ký sinh ăn tạp, tấn công
nhiều loài rệp vừng. Sau khi giao phối, con cái tấn công một con rệp vừng, đưa cơ quan
đẻ trứng của nó vào khoang bụng của con rệp vừng. Bất cứ loài rệp vừng nào cũng phù
hợp làm con mồi đối với ong bắp cày.
Khi ở trong cơ thể rệp vừng, các trứng tăng kích thước nhiều lần so với kích thước
ban đầu của nó. Ấu trùng sau đó nở và bắt đầu ăn ở dạng thấm lọc. Ấu trùng ký sinh sau
đó cắt một đường rạch nhỏ bên trong rệp vừng, gắn lớp biểu bì với lá bởi tơ và cuối cùng
tạo thành kén trong con rệp vừng đang chết, tạo thành nhộng. Khi trưởng thành, ong bắp
cày ký sinh sẽ cắt một lỗ tròn ở phần ngoại biên phía trên của “xác ướp” (giữa các tuyến
rệp sáp) để chui ra ngoài.
4.2. Đối với động vật có hệ thần kinh phát triển tập tính bắt mồi và săn mồi rất phong phú
và phức tạp. Phần lớn các tập tính này được hình thành do:
+ Học tập từ bố mẹ của chúng hay đồng loại
+ Do kinh nghiệm của bản thân và chúng được hoàn thiện dần để đảm bảo sự
sống sót của các loài trong tự nhiên.
Các tác nhân kích thích như: hình ảnh, âm thanh con mồi phát ra, nhiệt độ cơ thể
con mồi, mùi máu tanh → hình thành nên tập tính rình mồi, rượt đuổi mồi để tấn công và
vồ mồi.
Hiện tượng nhiều loài động vật ăn thịt, tránh ăn những con mồi nhỏ là đã học tập
được qua kinh nghiệm. Một số côn trùng cũng nhờ màu sắc báo hiệu là có chất độc, có
gai hay có vảy cứng khó nuốt mà thoát khỏi nguy hiểm. Nhiều loài chim ăn sâu bọ qua
nhiều lần thử thách đều biết rút kinh nghiệm, biết thay đổi phản ứng tích cực cho thích
hợp.
Tập tính kiếm ăn cũng được hình thành dần trong đời sống cá thể. Không hoàn hảo
từ đầu mà cần học hỏi kinh nghiệm để hoàn thiện. Chim non mới đầu mổ tất cả những gì
nhìn thấy, dần dần biết loại ra những thứ không ăn được. Khoảng một tháng sau có thể
bay thì việc chọn cách mổ lấy thức ăn mới ổn định.
+ Tập tính lựa chọn thức ăn:
Ví dụ: Trong tiến hóa, mỗi loài chim được hình thành và tồn tại đến nay là do
chúng đã chọn được nguồn thức ăn thích hợp và giữ được ưu thế về nguồn thức ăn đó.
Dựa vào môi trường sống có thể chia chim thành nhiều nhóm: chim rừng, chim đồng cỏ,
chim sa mạc, chim biển… ở một môi trường cũng có thể có nhiều loài cùng sống mà
không cạnh tranh nhau về thức ăn mà những loài khác ít ăn, không ăn hay không bắt được
để ăn. Ví dụ ở rừng có nhiều loài chim ăn côn trùng, nhưng mỗi laoì có chỗ kiếm ăn
riêng, chim đuôi cụt, chích chòe bắt côn trùng trong đám lá khổ ở mặt đất, chim gõ kiến
kiếm ăn dọc thân cây, chim đớp ruồi bắt côn trùng bay dưới tán rừng; chim sâu, chim bạc
má bắt sâu ở lá cây..
+ Tập tính tích lũy để dành thức ăn là một nét rất chuyên hóa trên con đường tiến
hóa tập tính, là một dạng của tập tính kiếm ăn thấy có ở nhiều loài động vật khác nhau,
không phụ thuộc vào thang bậc phân loại của chúng. Đồng thời tích lũy thức ăn còn là
một phương thức bảo vệ của động vật khi gặp điều kiện khó khan.