Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tình hình dân số thế giới thực trạng đáng lo ngại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.28 KB, 25 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HUẾ
KHOA SINH HỌC

BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: TÌNH HÌNH DÂN SỐ THẾ GIỚI - THỰC
TRẠNG ĐÁNG LO NGẠI

Giảng viên hướng dẫn : GS.TS Ngô Đắc Chứng
Sinh viên thực hiện

: Nguyễn Thị Hoài Phương

Lớp

: Động vật học – K24


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong xã hội hiện đại ngày nay, con người đang phải đối mặt với rất nhiều
những vấn đề toàn cầu. Một trong những vấn đề toàn cầu được toàn nhân loại quan
tâm nhất hiện nay chính là vấn đề: “Dân số”. Dân số đã và đang là một vấn đề làm
các giới chức lãnh đạo các quốc gia cũng như những nhà nghiên cứu về xã hội trên
thế giới thực sự “đau đầu”. Nhiều người đã gọi những vấn đề toàn cầu trong đó có
dân số là một bài toán chưa có cách giải chi tiết và đáp số cụ thể. Khái niệm “con
quái vật dân số” hay “quả bom dân số” đã trở lên không còn xa lạ gì với mỗi chúng
ta. Gọi như vậy phần nào đã cho chúng ta một cái nhìn khái quát nhất về tính nguy
hại và cấp thiết, cũng như những áp lực mà vấn đề dân số gây ra cho chúng ta. Việc
dân số thế giới gia tăng đã làm ảnh hưởng tới nhiếu vấn đề kinh tế xã hội như: tăng
trưởng kinh tế, giáo dục, văn hóa, môi trường…


Để cho mỗi chúng ta có một cái nhìn chính xác, tổng thể và toàn diện về thực
tình hình dân số thế giới hiện nay nhóm chúng em xin đưa vấn đề “Phân tích, đánh
giá tình hình dân số thế giới” vào bài tiểu luận của mình. Trong khuôn khổ bài tiểu
luận nhóm em không nghiên cứu được một các chi tiết mà chỉ đi nghiên cứu một số
khía cạnh mang tính nổi cộm và cấp thiết hiện nay.


THỰC TRẠNG DÂN SỐ HIỆN NAY TRÊN THẾ GỚI VÀ Ở VIỆT NAM
2. Tình hình phát triển dân số hiện nay.
2.1. Trên thế giới
2.1.1. Dân số thế giới tăng nhanh.
Dân số, tỉ suất tử và gia tăng tự nhiên (GTTN) của thế giới
Dân số tăng hàngTỉ suất (phần nghìn)
Tử
năm (triệu người) Sinh

GTTN

47,10

37,5

17,90

19,60

1955-1960

53,46


35,6

17,20

18,40

1960-1965

63,32

35,2

15,20

20,00

1965-1970

72,29

33,9

13,30

20,60

1970-1975

76,19


31,5

12,20

19,30

1975-1980

73,78

28,3

11,00

17,30

1980-1985

81,54

27,9

10,40

17,50

1985-1990

88,15


27,0

9,70

17,30

1990-1995

92,79

26,0

9,20

16,80

1995-2000

93,80

24,3

8,70

15,60

2000-2005

92,00


22,6

8,30

14,30

2005-2010

92,27

21,4

8,00

13,40

2010-2015

91,89

20,2

7,80

12,40

2015-2020

88,19


18,9

7,70

11,20

2020-2025

84,50

17,9

7,70

10,20

Thời kỳ
1950-1955

Dân số phát triển với tốc độ chóng mặt, xét trong toàn bộ tiến trình lịch sử xã
hội cho đến nay, tỉ lệ phát triển dân số trên phạm vi toàn thế giới ngày càng cao.


Vào những năm công nguyên, dân số thế giới chỉ vào khoảng 250 triệu người. Cách
đó 1.600 năm, dân số thế giới tăng trưởng rất chậm, đến năm 1650 dân số thế giới
chỉ tăng gấp đôi con số trên.
Dân số thế giới đã vượt qua ngưỡng 6 tỉ người vào cuối thập kỷ XX, đạt
6,616 tỉ người vào năm 2007, với tỷ lệ tăng dân số hằng năm 1,2% (so với 2% của
những năm thập kỷ 60 của thế kỷ XX). Chỉ trong vòng 12 năm, thế giới đã tăng
thêm 1 tỉ dân (từ 1987 - 1999), là giai đoạn ngắn nhất trong lịch sử loài người để có

thêm 1 tỉ dân và 1 tỉ tiếp theo sẽ đạt được sau 13 năm.Và đến ngày 20 tháng 10 năm
2010, Liên Hiệp Quốc đã công bố Bản báo cáo Dân số Thế giới năm 2010. Theo số
liệu thống kê của Liên Hiệp Quốc, dân số thế giới hiện nay là 6.877.200.000 người.
Dự đoán đến năm 2050, dân số thế giới có thể lên đến 9,51 tỷ người. Như vậy có
thể thấy thời gian để dân số thế giới tăng thêm gấp đôi, cũng như thời gian để Trái
Đất đón thêm 1 tỉ công dân mới ngày càng được rút ngắn một cách nhanh chóng.
Người ta tính rằng cứ 6 tháng dân số thế giới lại tăng thêm bằng số dân của nước
Pháp (50 triệu) và cứ sau 10 năm lại có một nước Trung Quốc ra đời ở những vùng
nghèo nàn nhất trên Trái Đất. Đó quả thật là những con số khủng khiếp.
2.1.2. Sự gia tăng dân số không đồng đều giữa các nước.

Tỷ lệ gia tăng dân số chủa các nước có sự chênh lệch rất cao.


Tốc độ tăng dân số ở các khu vực khác nhau trên thế giới là không giống
nhau. Có một nghịch lí là khu vực các nước nghèo và kém phát triển nhất lại là
những khu vực có tốc độ tăng dân số nhanh nhất. Theo điều tra của Cục Điều tra
dân số Mỹ, tốc độ tăng dân số nhanh nhất lại là ở các khu vực nghèo khổ nhất tại
châu Phi, Trung Đông và tiểu lục địa Ấn Độ, nơi trung bình một phụ nữ đẻ 7 con.
Trong tương lai gần, tốc độ phát triển dân số nhanh nhất vẫn là khu vực châu Phi và
Nam Á. Trong vòng nửa đầu thế kỉ XXI, dân số châu Phi sẽ tăng khoảng 2,4- 3 lần,
cao hơn tốc độ tăng dân số toàn cầu khoảng 1,7-1,8 lần. Cũng như vậy tốc độ tăng
dân số ở khu vực Nam Á cũng cao hơn tốc độ tăng dân số toàn cầu 10-15%.
Chỉ tính riêng trong giai đoạn 2000 - 2005, theo thống kê của Liên hợp quốc,
hằng năm dân số thế giới tăng thêm khoảng 76 triệu người, trong đó 6 nước có số
dân tăng thêm chiếm 45% là Ấn Độ (số dân tăng thêm chiếm 22%), Trung Quốc
(11%), Pa-ki-xtan, Ni-giê-ri-a, Mỹ, Băng-la-đét (mỗi nước 4%). Ngoài ra, 16 nước
khác có số dân tăng thêm chiếm 25%, trong đó In-đô-nê-xi-a (số dân tăng hằng năm
2,7 triệu), Băng-la-đét (2,6 triệu), Bra-xin (2,5 triệu), Ê-ti-ô-pi-a (1,8 triệu), Cộng
hòa Công-gô (1,5 triệu), Phi-líp-pin (1,5 triệu), Mê-hi-cô (1,4 triệu), Ai-cập (1,3

triệu), Áp-ga-ni-xtan (1,2 triệu), Việt Nam (1,1 triệu), Thổ Nhĩ Kỳ (1 triệu), U-ganđa (0,9 triệu), I-rắc (0,7 triệu), Kê-ni-a (0,7 triệu), Cộng hòa Tan-da-ni-a (0,7 triệu),
Cô-lôm-bi-a (0,7 triệu) và Xu-đăng (0,7 triệu). Trong khi dân số của nhiều nước,
đặc biệt là ở châu Phi và châu Á tiếp tục gia tăng trong vài thập niên tới, thì ở một
số nước phát triển đạt dưới mức sinh thay thế lại có xu thế suy thoái dân số trong
vòng 50 năm (2000 - 2050) như CHLB Nga (số dân giảm 35 triệu), U-crai-na (23
triệu), Nhật (15 triệu), Ba-lan (7 triệu), Ru-ma-ni (5 triệu), CHLB Đức (4 triệu), Bêla-rút và Bun-ga-ri (3 triệu). Như vậy, sức ép dân số đối với đa số các nước đang
phát triển, trong đó có nước ta do số dân tăng thêm hằng năm còn rất lớn trước đời
sống kinh tế, chính trị và xã hội, hạn chế đến khả năng cải thiện, phát triển và tiềm
ẩn nguy cơ tụt hậu.Dân số tăng nhanh nằm ở khu vực những nước đang phát triển,
với hơn 95% sự gia tăng dân số nằm ở khu vực này:
Hiện nay, dân số thế giới đang gia tăng với tỷ lệ trung bình là 1,2%/năm.
Cục điều tra dân số Mỹ dự báo, tốc độ này sẽ giảm xuống còn 0,5% năm 2050. Khi
đó, Ấn Độ sẽ vượt Trung Quốc trở thành nước đông dân nhất thế giới.


2.1.3. Dân số thế giới đang bị già hóa.

Tỷ lệ người già ở Nhật đang ở mức báo động (26,3%), đe dọa nền kinh tế nước này.
Dân số già hiện nay tồn tại ở các nước có nền kinh tế phát triển và là gánh
nặng nước của các quốc gia này.
Các nhà kinh tế Mỹ và thế giới cảnh báo, hiện trạng dân số già đi nhanh chóng đã
trở thành quả ""bom nổ chậm"" có thể tàn phá các nền kinh tế phát triển trên thế
giới.
Theo số liệu của Liên hợp quốc, dân số trên tuổi 60 ở Nhật Bản vào năm
2050 sẽ tăng tới 41,7% tổng dân số, từ mức vốn đã cao hiện nay là 26,3% . Số liệu
này tương ứng ở Đức sẽ là 35%, từ 25,1% hiện nay.
Vào giữa thế kỷ này, tỉ lệ người trên tuổi 60 ở Trung Quốc, Anh và Pháp cũng sẽ
chiếm từ 31 đến 33% tổng dân số.
2.1.4. Chất lượng dân số thấp.
Ngày 11/7, thế giới kỷ niệm Ngày Dân số Thế giới, với chủ đề “Giới trẻ và

sức khỏe sinh sản”. Riêng chủ đề này cũng nói lên được mục tiêu trọng tâm cũng
như niềm kỳ vọng của thế giới dựa vào giới trẻ để cải thiện chất lượng dân số đang
suy giảm nghiêm trọng trên thế giới.


Hơn một nửa dân số thế giới ở độ tuổi dưới 25. Khoảng 3 tỷ trẻ em và những người
trẻ tuổi đang hoặc sẽ ở trong độ tuổi sinh đẻ nhưng do thiếu kiến thức, hiểu biết
nhất là ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, thanh thiếu niên hầu như
không được trang bị kỹ năng sống và biết cách tự bảo vệ mình. Một nửa số ca
nhiễm HIV mới rơi vào giới trẻ. Mỗi ngày có 6.000 người nhiễm HIV ở lứa tuổi
này và hàng triệu thành niên khác đang phải sống trong đói nghèo, bị bóc lột và
sống trong tuyệt vọng bị xâm hại cả về thể xác lẫn tinh thần nhất là trẻ em gái. Dù
đã có nhiều biện pháp được tiến hành, song hiện vẫn có tới 218 triệu lao động trẻ
em trên thế giới.
Báo cáo của các cơ quan LHQ và các cơ quan điều tra dân số các nước cho
thấy giới trẻ đang là nạn nhân chính của các xu hướng biến đổi tiêu cực của dân số
thế giới. Theo các báo cáo này, dân số thế giới tăng với với tốc độ trung bình cao,
nhưng lại không đồng đều và tương xứng với tăng trưởng. Hiện mỗi năm, dân số
thế giới tăng thêm khỏang 78 triệu người, và cứ theo đà hiện nay, đến năm 2050, sẽ
có khỏang từ hơn 7 tỷ đến hơn 10 tỷ người trên trái đất. Tuy nhiên, lại có đến 90%
lượng dân số gia tăng lại ở các quốc gia đang phát triển; khiến thế giới ngày càng
đối mặt với nghịch lý đáng buồn là: các nước phát triển đối mặt với tình trạng dân
số già; còn các nước nghèo lại càng nghèo hơn do các nguồn lực không đủ đáp ứng
với số dân ngày càng phìng to. Bức tranh thế giới bị chia cắt thành 2 mảng đối lập:
3 nước thuộc hàng giàu có nhất thế giới là Nhật bản, Italy, Đức… lại dẫn đầu về sự
già hóa dân số, và bất chấp các biện pháp khuyến khích, phụ nữ ở các nước này vẫn
không hào hứng trong việc sinh con.
Cùng với nạn nhập cư trái phép, thiên tai, dịch bệnh, xung đột đã khiến chất
lượng dân số càng suy giảm nghiêm trọng. Để nâng cao chất lượng dân số, không
còn cách nào khác là phải cân đối giữa tăng trưởng và phát triển dân số, nâng cao ý

thức của người dân về việc thực hiện kế họach hóa gia đình hợp lý. Cùng với việc
giảm khỏang cách phát triển, thì tăng cường đối thoại giữa các nền văn hóa, các tôn
giáo cũng là một đòi hỏi nhằm hạn chế các tác động tiêu cực của xu hướng nhập cư
hiện nay.


2.1.5. Hiện trạng mất cân bằng giới tính khá cao.

Lớp học vắng bóng học sinh nữ (Trung Quốc)
Mới đây, các nhà nghiên cứu đã công bố kết quả nghiên cứu dân số mới nhất
tại Trung Quốc trên tạp chí British Medical Journal. Theo đó mỗi năm số trẻ nam
được sinh ra nhiều hơn trẻ nữ tới hơn một triệu em.Trong những thập niên gần đây,
tình trạng tỷ lệ bé trai sinh ra nhiều hơn số bé gái ở Trung Quốc ngày càng trở nên
nghiêm trọng hơn. Vào những năm 1960, 1970, tỉ lệ bé trai/bé gái vẫn ở mức
106/100. Tuy nhiên, số lượng các bé trai đã tăng vọt từ sau thập niên 1980. Đó là
các tỉ lệ 108,5/100 năm 1982; 110,9/100 năm 1987 và 111,3/100 năm 1990.
2.2. Tại Việt Nam
2.2.1. Quy mô dân số lớn
Việt nam là một quốc gia có quy mô dân số lớn, tốc độ phát triển dân số
ngày càng nhanh. Năm 2000 Việt Nam đặt 77,68 triệu người, đứng thứ 2 ở Đông
Nam Á, chỉ sau Indo-nêxia và xếp thứ13 trong tổng số hơn 200 nước trên thếgiới.
Quy mô dân số lớn còn thể hiện ở mối quan hệ giữa dân số và đất đai. Theo các nhà
khoa học tính toán mật độ dân số thích hợp chỉ nên dừng lại từ 35 đến 40 người/ 1
km 2, thì ởViệt Nam gấp 5 đến 6 lần “Mật độ chuẩn” và gần gấp 2 lần mật độ dân
số của Trung Quốc – nước đông dân nhất nhất thế giới.
Cùng với điều đó tốc độ phát triển dân số ngày càng nhanh. Đến năm 1921,
dân sốViệt Nam là 15,58 triệu người, Năm 1960 dân số tăng gấp đôi : 30,17 triệu
người, năm 1989 dân số đạt 60,47 triệu người. Giai đoạn 1921-1995 dân số nước ta
tăng 4,7 lần , trong khi đó dân số thế giới chỉ tăng 3,1 lần. Nếu 35 năm (1921- 1955)



dân số tăng lên 9,6 triệu người thì 40 năm tiếp theo ( 1955-1995) dân só bùng nổvới
48,9 triệu người tăng thêm.
Mặc dù tỷ lệ giảm sinh vừa qua đã giảm và còn tiếp tục giảm, nhưng kết qủa
giảm sinh chưa thật sự vững chắc, còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ gia tang dân số nhanh
trở lại, tư tưởng trọng nam khinh nữ có chuyển biến nhưng vẫn còn 16 tỉnh có tỷ số
giới tính khi sinh là 115 nam so với 100 nữ, vượt quá mức sinh sản tựnhiên (ở
những v ùng nông thôn nghèo, vùng sâu, vùng xa…tỷ lệ này còn cao hơn). Nếu
không duy trì sự nỗ lực thì quy mô dân số nước ta vào giữa thế kỷ XXI có thể nên
tới 125 triệu người hoặc cao hơn, và sẽ ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế, xã
hội của đất nước. Do đó công 3 tắc dân số cần tiếp tục đẩy mạnh, làm chuyển đổi
hành vi một cách bền vững trong việc thực hiện chuẩn mực gia đình ít con.
2.2.2. Cơ cấu dân số không hợp lý
Cơ cấu dân số ở nước ta trong thời gian qua là không hợp lí cả về giới tính,
nhóm tuổi, giữa thành thị và nông thôn. Thực tế cho thấy tình trạng mất bình đẳng
về giới ởnước ta vẫn xảy ra nhất là khả năng tiếp cận giáo dục, đào tạo về chăm sóc
sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình đối với phụ nữ và trẻ em gái còn nhiều hạn
chế.
Cơ cấu giới tính :
Tỷ lệ nữ trên tổng số dân ở nước ta không ổn định và biến động thất thường,
giao động từ50,3 % đến 50,7% (giai đoạn 1921-1939), 50,9% đến 51,4% (giai đoạn
1943-1970), tăng lên 52,1% (năm 1975), giảm dần và đạt 50,6% (năm 1989) lên và
ổn định ởmức 51,2% (trong một năm 90, thếkỷXX), riêng năm 1989 là 51,49% và
giảm xuống 50,85% (Năm 1999).
Năm 2007, một nghiên cứu khác của Viện nghiên cứu Phát triển xã hội được thực
hiện trên cả nước cho thấy, tỉ lệ giới tính khi sinh đã có sự chênh lệch đáng kể. Có
tới 16 tỉnh, thành có tỉ lệ giới tính khi sinh từ 115 - 128 bé trai/100 bé gái; ở 20 tỉnh,
thành khác là 111- 120 bé trai/100 bé gái. Cụ thể, tại Kiên Giang, cứ 125 bé trai thì
có 100 bé gái; tại Sóc Trăng là 124 bé trai/100 bé gái; tại Bắc Ninh là 123 bé



trai/100 bé gái; tại Hà Tây là 112 bé trai/100 bé gái; tại Bình Định 107 bé trai/100
bé gái…
Cơ cấu dân số theo nhóm tuổi :
Trước miền Nam giải phóng, dân số theo nhóm 0-14 tuổi chiếm 48%, dưới 20 tuổi
chiếm 60% . Ởmiền Bắc, theo số liệu điều tra năm 1960 nhóm tuổi 0-14 tuổi là
42,8%, và tương ứng các năm 1979, 1989 và 1999 là 42,55% , 39,82% và 33,4%.
Tỷ lệ người già từ 60 tuổi trở lên, tăng từ7,07% (năm 1979) ; 7,14% (năm 1989) tới
8,04% (năm 1999). Dân số phụ thuộc đă giảm từ49,62% (năm 1979), 46,96% (năm
1989) xuống 41,15% (năm 1999). Điều này chứng tỏ dân số phụ thuộc đang giảm
theo thời gian, xong tỷ lệ người già lại tăng lên.
Cơ cấu dân số thành thị và nông thôn :
Đầu thế kỷ XX dân số thành thị mới chiếm 2% dân số toàn quốc, đến năn 1943
chiếm 9,2%. Tỷ lệ dân số thành thị miền Bắc năm 1931 là 4,6%, miền Trung 3,4%
và miền Nam là 4,6%. Đến năm 1952 dân số thành thịlà 10%, năm 1960 là 15%,
năm 1970 là 17%. Năm 1980, cơ cấu dân số thành thị cả nước chiếm 19,1%. Tổng
điều tra dân số 1989 cho thấy, dân số thành thị các tỉnh miền núi và Trung Du Bắc
Bộ là 19,92%, Tây Nguyên là 22,13%. Tổng điều tra dân số năm 1999 tiếp tục cho
thấy dân số thành thịTây Nguyên giảm 5,43% và miền núi phía Bắc giảm 4,26% so
với năm 1989.
2.2.3 Chất lượng dân số thấp.
Nhìn một cách tổng quát chất lượng dân sốViệt Nam còn thấp, chưa đáp ứng
yêu cầu xây dựng nguồn nhân lưc chất lượng cao trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Các yếu tố về thể lực của người Việt Nam nhất là chiều cao
cân nặng sức bền còn rất hạn chế. Theo điều tra mức sống năm 1997-1998 tỷ lệ suy
dinh dưỡng ở người lớn là 65% với nam và 38% với nữ có tới 41,51% số trẻ em
thuộc diện thấp, còi (thấp hơn so với lứa tuổi ) và 40,1% trẻ em có cân nặng thấp
hơn so với tuổi. Ngoài ra có hàng triệu trẻ em bị tàn tật, mắc bệnh bẩm sinh, ảnh
hưởng bởi chất độc màu ra cam, về trí lực, mặc dù tỷ lệ biết đọc, biết viết khá cao
91,2% (năm 1999), nhưng 74% số người đã thôi học mới chỉ có trình độ phổ thông



cơ sở, số người đạt trình độ phổ trung học chỉ dao động trong khoảng từ 10% đến
15% (kết quả suy rộng mẫu điều tra năm 1999), 91,84% dân số từ 15 tuổi trở lên
không có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Theo số liệu năm 2002 của tổng cục dạy
nghề, chỉ có 17,7% trong tổng số gần 40 triệu lao động của Việt Nam được coi là có
kỹ năng chuyên môn. Tội phạm, tiêu cực xã hội tăng, trong đó có cả trẻ em đang là
lỗi bức bối của xã hội. Chỉ số phát triển con người ởViệt Nam (HDI) năm 1999 là
0,682 điểm, xếp hạng 101 trong số 162 quốc gia.
3. Nguyên nhân
3.1. Nguyên nhân dẫn tới gia tăng dân số và gia tăng dân số không đồng đều.
- Quan điểm lạc hậu.
Một số nước, đặc biệt là ở những nước phương đông vẫn còn những quan
điểm lạc hậu trọng nam khinh nữ, trời sinh voi, trời sinh cỏ, sinh con quý tử, muốn
có con trai, muốn đông con.
Ở các nước có nền nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nông nghiệp là chính vẫn
yêu cầu nhiều lao động tay chân, cần nhiều lao động tham gia vào sản xuất là
nguyên nhân dẫn tới gia tăng dân số ở các nước đang phát triển.
Tại một số quốc gia châu Phi, trung Đông, các quốc gia ở bán đảo Ấn Độ tỷ
lệ trẻ em trên số bà mẹ xấp xỉ 6 trẻ em trên một bà mẹ. Mỗi năm các quốc gia trên
tăng dân số khá nhanh.
- Hậu quả việc quan hệ tình dục sớm và bừa bãi.
Mỗi năm có khoảng 15 triệu phụ nữ trong độ tuổi 15 đến 17 tuổi sinh đẻ
chiếm khoảng 10% tổng số các trường hợp sinh con hằng năm trên thế giới.
Một số nước có tỷ lệ nạo phá thai cao như : Úc là một trong những nước
công nghiệp có tỷ lệ phụ nữ nạo phá thai cao cứ 1000 thiếu nữ (tuổi từ 15 đến 19)
có khoảng 24 thiều nữ phá thai và 20 thiếu nữ sinh con.
Việc thực hiện chính sách kế hoạch hóa gia đình và sử dụng các biện pháp tránh
thai ở các nước đâng phát triển vẫn còn nhiều hạn chế.
3.2. Nguyên nhân dẫn tới già hóa dân số.

Trong xu thế toàn cầu hóa, kinh tế thế giới ngày càng phát triển đồng đều,
đời sống vật chất, tinh thần và an sinh xã hội của các quốc gia ngày càng được nâng


cao, quyền con người được tôn trọng đúng nghĩa, do đó tuổi thọ của con người ngày
càng được nâng cao. Bên cạnh đó ở những nước phát triển xu hướng các cặp vợ
chồng sinh ít con (thậm chí là không muốn có con) để có điều kiện hưởng thụ cuộc
sống ngày càng nhiều, mặc dù chính phủ các nước này có các chính sách khen
thưởng, hỗ trợ nuôi con ăn học cho tới tuổi trưởng thành đối với những gia đình
sinh nhiều con, nhưng tỷ lệ tăng dân số ở hầu hết các quốc gia phát triển vẫn ở mức
thấp (dưới 1%). Song song đó là trào lưu tôn thờ chủ nghĩa độc thân của giới trẻ
ngày nay cũng có sức lan tỏa rộng rãi (nhất là ở Châu Âu và một số quốc gia phát
triển ở Châu Á như Nhật bản, Singapo,...) do nhu cầu học tập, nghiên cứu khoa học
và tác động của đời sống công nghiệp,...đó là một số nguyên nhân cơ bản dẫn tới
việc già hóa dân số thế giới.
3.3. Nguyên nhân dẫn tới mất cân bằng giới tính.

Cán cân về giới tính luôn nghiêng về nam giới
Tư tưởng “trọng nam khinh nữ” theo kiểu “chồng chúa, vợ tôi”, “xuất giá
tòng phu”, “mười gái không bằng một trai” vẫn còn tồn tại trong ý nghĩ của một bộ
phận dân cư, nhất là ở các vùng ven biển, vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số. Bởi lẽ, họ cho rằng con trai có trách nhiệm nhiều hơn con gái trong việc
phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ khi về già và lo liệu ma chay, thờ cúng sau khi cha
mẹ mất, đồng thời tâm lý sinh con trai còn để dự phòng trong trường hợp rủi ro (tai
nạn, tệ nạn xã hội…). Phải chăng niềm vui có một đứa trẻ nối dõi từ bao đời nay
vẫn tiếp tục ngự trị ở mỗi người đàn ông như thể đó là một phần trách nhiệm của họ
đối với dòng họ và chính bản thân gia đình mình.


Có thể nói sự mất cân bằng giới còn có nguyên nhân từ sự phát triển của

khoa học và công nghệ. Y học ngày càng phát triển đã giúp việc sinh con theo ý
muốn, làm cho tỷ lệ bé trai được sinh ra tăng lên rõ rệt. Thông qua sự hỗ trợ của các
biện pháp như siêu âm, lựa chọn giới tính nhờ ăn uống, các cặp vợ chồng có thể lựa
chọn giới tính thai nhi theo mong muốn.
Nguyên nhân chính vẫn là quan niệm trọng nam khinh nữ của những bậc làm
cha, làm mẹ. Phần lớn những người này lại chịu áp lực từ chính những bậc phụ
huynh của mình. Vì thế, nhiều phụ nữ, khi mang thai đến tháng thứ 4, thứ 5, nếu kết
quả siêu âm là con gái, họ sẵn sàng phá bỏ để… đợi lần sau. Cũng có nhiều phụ nữ
ở các vùng nông thôn không có khả năng tiếp cận dịch vụ chẩn đoán giới tính thai
nhi sớm, nên vô tư sinh tiếp con thứ 4, thứ 5 cho đến khi có con trai mới chịu dừng.
Ở Ấn Độ có một nghịch lý làm nguyên nhân dẫn tới mất bình đẳng giới tính
lại xuất phát từ một nguyên nhân thật mắc cười: Do theo phong tục cưới hỏi của
người Ấn Độ, gia đình họ nhà gái sẽ phải tốn rất nhiều tiền của cho họ nhà trai.
Chính vì thế, nhiều gia đình đã lựa chọn việc không sinh con gái.
4. Ảnh hưởng của tình hình dân số
4.1. Ảnh hưởng của tình tình dân số hiện nay tới các mặt đời sống xã hội.
4.1.1. Dân số và vấn đề nghèo đói, lạc hậu.
Ở phương Tây, có tác giả cho rằng: nếu dân số tăng lên 1% thì thu nhập quốc
dân tăng khoảng 4%. Ở nhiều nước kém phát triển thuộc châu Phi, tỉ lệ tăng dân số
hàng năm rất cao lên đến 3%, nếu muốn đảm bảo nhu cầu cho số dân mới tăng đó
thì thu nhập quốc dân bình quân mỗi năm phải tăng khoảng 13%, điều đó là vô cùng
khó khăn ngay cả với một quốc gia phát triển chứ đừng nói là một quốc gia kém
phát triển. Trong phạm vi một quốc gia, việc bùng nổ dân số sẽ khiến cho mức sống
của người dân trong nước bị hạ xuống, mức sống của người dân giảm dẫn tới các
dịch vụ chăm sóc tối thiểu không được đáp ứng, dịch bệnh gia tăng. Trên phạm vi
quốc tế, bùng nổ dân số sẽ dẫn tới sự chênh lệch trong phân phối của cải giữa các
khu vực, khiến cho những nước giàu vẫn cứ giàu, những nước nghèo vẫn cứ nghèo,
mặt bằng chất lượng dân số của thế giới bị kéo tuột xuống.



4.1.2. Dân số và vấn đề bệnh tật.
Mặc dù chưa có nhà khoa học nào khẳng định được mối liên hệ giữa vấn đề
bùng nổ dân số và bệnh tật, tuy nhiên trên thực tế, tại các quốc gia đang và kém
phát triển, những nước có tốc độ bùng nổ dân số cao nhất thế giới cũng là những
nước mà ở đó vấn đề dịch bệnh đang trở nên rất nghiêm trọng. Có thể lấy ví dụ sau
để thấy được điều đó: theo thống kê năm 2000, thế giới có khoảng 40 triệu người bị
nhiễm AIDS, trong đó 90% là ở các nước đang phát triển, chủ yếu là ở các quốc gia
châu Phi (chiếm tới 2/3 số người mắc bệnh).Bùng nổ dân số dẫn tới điều liện sống
nghèo khổ, chiến tranh xung đột triền miên khiến cho các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe cho người dân không được đảm bảo chính là nguyên nhân chính dẫn tới bệnh
tật tràn lan ở châu lục này.
4.1.3. Dân số và vấn đề tài nguyên thiếu hụt.
Trong xã hội công nghiệp hiện đại, để đảm bảo cho cuộc sống của mỗi
nguời, mỗi năm phải đào lên được 25 loại khoáng sản trong lòng đất. Tài nguyên
dầu lửa, nếu tiếp tục được khai thác với tốc độ như trong thập niên 90 của thế kỉ
trước thì sẽ cạn kiệt đến năm 2016. Tài nguyên than trên thế giới cũng chỉ còn dùng
được 1500 năm nữa, và ước tính 12 loại tài nguyên khác chỉ duy trì đựoc 50 năm
nữa là cùng. Trong đó nghiêm trọng nhất là phải kể tới vấn đề thiếu nước ngọt. Vào
đầu thế kỉ XXI, một số vùng Nam Á, Trung Mỹ, nhất là Bắc Phi, Đông Phi, Tây Phi
đã xuất hiện tình trạng thiếu nước ngọt hoàn toàn.
5.1.4. Dân số và vấn đề thiếu đất canh tác, lương thực căng thẳng.
Với sự tăng trưởng cùa dân số trên toàn thế giới, bình quann ruộng đất canh
tác theo đầu người ngày một giảm đi. Năm 1950 bình quân ruộng đất theo đầu
người trên thế giới là 8,5 mẫu, năm 1960 giảm xuống chỉ còn 7,1 mẫu, năm 1968 là
6,1 mẫu, năm 1974 còn 5,6 mẫu và tới năm 1960 chỉ là 3,9 mẫu. Ruộng đất canh tác
giảm đi tất nhiên không chỉ vì lí do dân số bùng nổ mà còn do nhiều nguyên nhân
khác như quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, tuy nhiên nguyên nhân dân số tăng
lên vẫn là nguyên nhân chủ yếu. Ruộng đất giảm, dân số tăng nhanh làm cho vấn đề
lương thực trên phạm vi toàn cầu ngày càng trở lên căng thẳng. Đầu năm 2008 vừa
qua đã xảy ra cuộc khủng hoảng lương thực lớn và chưa bao giờ vấn đề an ninh



lương thực lại được đặt ra cấp thiết như lúc này. Hiện nay đại đa số các đang phát
triển tại châu Á, châu Phi và Mỹ La-tinh đã phải nhập lương thực, đó là một minh
chứng rõ ràng cho hậu quả của việc bùng nổ dân số tại các nước này.
4.1.5. Dân số và vấn đề an ninh, xã hội.
Dân số tăng nhanh gây ra nhiều bất ổn trong xã hội, đó là nạn cướp bóc,
khủng bố,…Dễ thấy khi dân số tăng cao, việc kiếm được miếng ăn sẽ ngày càng trở
lên khó khăn hơn, và để đảm bảo sinh tồn cho mình người ta có thể sẵn sàng làm
mọi việc, kể cả phạm tội. Nghiêm trọng hơn, xuất phát từ vấn đề dân số quá nhiều
dẫn tới việc thiếu đất sống, thiếu “không gian sinh tồn” có thể dẫn tới các cuộc xung
đột, chiến tranh giữa các nhóm người, gây nên những hậu quả to lớn.
Có thể thấy vấn đề bùng nổ dân số đối với vấn đề nghèo đói, dịch bệnh, ô
nhiễm môi trường, khan hiếm tài nguyên đều có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp.
Bản thân các vấn đề đó đã là các vấn đề mang tính toàn cầu, có ảnh hưởng tới sự
tôn vong của nhân loại, chính vì vậy, không còn gí nghi ngờ nữa, vấn đề bùng nổ
dân số cũng là một vấn đề có tầm ảnh hưởng sâu sắc, rộng lớn tới tương lai của
nhân loại.
4.2. Ảnh hưởng của gia tăng dân số tới môi trường.
4.2.1. Sự gia tăng dân số thế giới tác động đến môi trường như thế nào?
Tác động môi trường của sự gia tăng dân số thế giới có thể mô tả bằng công
thức tổng quát:
I= C.P.E
Trong đó:
C: Sự gia tăng tiêu thụ tài nguyên trên đơn vị đầu người.
P: Sự gia tăng tuyệt đối dân số thế giới.
E: Sự gia tăng tác động đến môi trường của một đơn vị tài nguyên được loài người
khai thác.
I: Tác động môi trường của sự gia tăng dân số và các yếu tố liên quan đến dân số.



Các tác động tiêu cực của tình trạng gia tăng dân số hiện nay trên thế giới biểu hiện
ở các khía cạnh:
• Sức ép lớn tới tài nguyên thiên nhiên và môi trường trái đất do khai thác quá
mức các nguồn tài nguyên phuc vụ cho các nhu cầu nhà ở, sản xuất lương thực,
thực phẩm, sản xuất công nghiệp v.v...
• Tạo ra các nguồn thải tập trung vượt quá khả năng tự phân huỷ của môi trường
tự nhiên trong các khu vực đô thị, khu sản xuất nông nghiệp, công nghiệp.
• Sự chênh lệch về tốc độ phát triển dân số giữa các nước công nghiệp hoá và các
nước đang phát triển gia tăng, dẫn đến sự nghèo đói ở các nước đang phát triển và
sự tiêu phí dư thừa ở các nước công nghiệp hoá. Sự chênh lệch ngày càng tăng giữa
đô thị và nông thôn, giữa các nước phát triển công nghiệp và các nước kém phát
triển dẫn đến sự di dân ở mọi hình thức.
• Sự gia tăng dân số đô thị và sự hình thành các thành phố lớn - siêu đô thị làm
cho môi trường khu vực đô thị có nguy cơ bị suy thoái nghiêm trọng. Nguồn cung
cấp nước sạch, nhà ở, cây xanh không đáp ứng kịp cho sự phát triển dân cư. Ô
nhiễm môi trường không khí, nước tăng lên. Các tệ nạn xã hội và vấn đề quản lý xã
hội trong đô thị ngày càng khó khăn.
4.2.2. Sử dụng đất
Thực hiện các yêu cầu tài nguyên của một dân số đang phát triển cuối cùng
đòi hỏi một số hình thức sử dụng đất thay đổi - để cung cấp cho việc mở rộng sản
xuất thực phẩm thông qua thanh toán bù trừ rừng, tăng cường sản xuất trên đất đã
trồng, hay để phát triển cơ sở hạ tầng cần thiết để hỗ trợ tăng số lượng nhân lực .
Trong suốt ba thế kỷ qua, số lượng đất canh tác của Trái đất đã tăng hơn 450 phần
trăm, tăng từ 2,65 triệu km vuông đến 15 triệu km vuông. Một quy trình liên quan,
phá rừng, cũng là quan rõ ràng: Một sự suy giảm diện tích rừng thuần trong số 180
triệu mẫu Anh đã diễn ra trong khoảng 15-năm 19801995, mặc dù những thay đổi
về diện tích rừng rất khác nhau giữa các vùng. Trong khi nước đang phát triển đã
trải qua một lỗ ròng là 200 triệu mẫu Anh, các nước phát triển thực sự trải qua một
sự gia tăng ròng, là 20 triệu mẫu Anh



Những kiểu thay đổi sử dụng đất có một số tác động sinh thái. Chuyển đổi
đất nông nghiệp để sử dụng có thể dẫn đến xói mòn đất, và các hóa chất thường
được sử dụng trong phân bón cũng có thể làm suy thoái đất. Nạn phá rừng cũng
gắn với sự xói mòn đất và có thể làm giảm khả năng của đất để giữ nước, do đó
tăng tần suất và mức độ nghiêm trọng của lũ lụt. Con người gây ra những thay đổi
trong sử dụng đất thường dẫn đến chia cắt sinh cảnh và mất, nguyên nhân chính của
các loài suy giảm. Trong thực tế, nếu tỷ giá hiện tại của thanh toán bù trừ rừng tiếp
tục, một phần tư của tất cả các loài trên trái đất có thể bị mất trong vòng 50 năm tới.

4.2.3. Biến đổi khí hậu toàn cầu
Những năm gần đây đã được trong số các nóng nhất được ghi nhận. Nghiên cứu
cho thấy nhiệt độ có bị ảnh hưởng bởi tăng nồng độ các khí nhà kính, mà hấp thụ
bức xạ mặt trời và hâm nóng bầu không khí. Nghiên cứu cũng cho thấy nhiều thay
đổi trong khí quyển là con người gây ra. Ảnh hưởng nhân khẩu học xuất hiện chủ
yếu trong ba lĩnh vực. Đầu tiên, đóng góp liên quan đến sản xuất công nghiệp và
dẫn tiêu thụ năng lượng phát thải carbon dioxide từ việc sử dụng nhiên liệu hóa
thạch; thứ hai, sử dụng đất thay đổi, chẳng hạn như phá rừng, ảnh hưởng đến việc
trao đổi carbon dioxide giữa Trái đất và bầu khí quyển, và thứ ba, một số quy trình
nông nghiệp , chẳng hạn như lúa, gạo trồng trọt và chăn nuôi, có trách nhiệm giải
phóng khí nhà kính vào khí quyển, đặc biệt là khí mê-tan. Theo một ước tính, tăng
trưởng dân số chiếm 35 phần trăm của sự gia tăng toàn cầu trong CO 2 phát thải từ
năm 1985 và 2100 và 48 phần trăm của sự gia tăng ở các nước đang phát triển trong
thời gian đó. Như vậy, cả hai đều quan tâm đến vấn đề nhân khẩu học và sự phát
triển của sản xuất bền vững và quá trình tiêu thụ được câu trả lời trung ương đến
các quá trình liên quan đến sự nóng lên toàn cầu.
4.2.4. Môi trường trở nên tệ hơn.



Y

tế

công

cộng:

Ô uế nước, cùng với vệ sinh kém, giết chết hơn 12 triệu người mỗi năm, hầu hết
ở các nước đang phát triển. Ô nhiễm không khí làm chết gần 3 triệu. Các kim loại
nặng và các chất gây ô nhiễm khác cũng gây ra vấn đề sức khỏe phổ biến rộng rãi.




Thực

phẩm

cung

cấp:

Sẽ có đủ lương thực để đi xung quanh? Trong 64 trong 105 nước đang phát
triển nghiên cứu bởi các thực phẩm Liên Hiệp Quốc và Tổ chức Nông, dân số đã
tăng trưởng nhanh hơn so với nguồn cung cấp thực phẩm. Áp lực dân số đã xuống
cấp khoảng 2 tỷ ha đất canh tác - một khu vực rộng của Canada và Hoa Kỳ


Nước


ngọt:

Việc cung cấp nước ngọt là hữu hạn, nhưng nhu cầu đang tăng cao khi dân số
tăng lên và sử dụng mỗi đầu người tăng lên. Đến năm 2025, khi dân số thế giới dự
kiến là 8 tỷ đồng, 48 quốc gia có 3 tỷ người sẽ phải đối mặt với tình trạng thiếu.


Đường bờ biển và đại dương:
Một nửa trong số tất cả các hệ sinh thái ven biển đang bị áp lực bởi mật độ dân

số cao và phát triển đô thị. Một làn sóng ô nhiễm đang tăng lên trong vùng biển của
thế giới. thủy sản đang được khai thác quá mức Dương, và sản lượng đánh bắt cá
đang xuống.


Rừng:
Gần một nửa diện tích rừng ban đầu của thế giới đã bị mất, và mỗi năm một

16.000.000 ha được cắt, ủi sập, hoặc bị đốt cháy. Rừng cung cấp trên US $ 400 tỷ
đồng cho nền kinh tế thế giới hàng năm và là quan trọng để duy trì hệ sinh thái lành
mạnh. Tuy nhiên, hiện nay nhu cầu đối với sản phẩm rừng có thể vượt quá giới hạn
tiêu thụ bền vững 25%.


Đa dạng sinh học: 2 / 3 số loài trên thế giới đang suy giảm.
Đa dạng sinh học của trái đất là rất quan trọng cho sức sống tiếp tục nông

nghiệp và y học - và có lẽ ngay cả với cuộc sống trên trái đất của chính nó. Tuy
nhiên, hoạt động của con người đang đẩy hàng ngàn loài thực vật và động vật vào

tuyệt chủng. Hai trong số ba loài được ước tính là suy giảm.


GIẢI PHÁP HẠN CHẾ SỰ GIA TĂNG DÂN SỐ
6. Giải pháp.
6.1. Bùng nổ dân số là vấn đề mà một quốc gia không thể một mình giải quyết
được .

Các quốc gia cần có chiến lược hợp tác trong lĩnh vực dân số.
Thực vậy, các nước nghèo là những nước có tốc độ bùng nổ dân số nhiều
nhất nhưng bản thân các nước này vì thiếu các yếu tố về vốn, công nghệ nên không
đủ khả năng thực hiện các chương trình dân số một cách hiệu quả, do đó nhất thiết
phải có sự giúp đỡ, tài trợ của các quốc gia phát triển hơn. Trên thực tế, từ cuối thế
kỉ XX, khi hiện tượng bùng nổ dân số xuất hiện thì cũng là lúc các nước bắt đầu
ngồi lại với nhau để bàn bạc về vấn đề này. Có thể kể đến 3 hội nghị toàn cầu lớn
bàn về vấn đề dân số là hội nghị năm 1974 tại Bucharest, hội nghị năm 1984 tai
Mexico city và hội nghị năm 1994 tại Cairo. Đặc biệt là trong hội nghị Cairo năm
1994, các nước đã đề ra được một chương trình kế hoạch hành động 20 năm cho
vấn đề dân số, các nước giàu còn còn cam kết sẽ dành 0,7% GNP để giúp đỡ các


nước kém phát triển, lạc hậu trong vấn đề dân số (tuy nhiên trên thực tế chỉ có vài
nước Bắc Âu là thực hiện cam kết này). Ngoài các hội nghị trên còn phải kể tới
hàng loạt các hội nghị cấp khu vực và vai trò của các tổ chức quốc tế khác mà nổi
lên là vai trò của UNFPA-Quỹ dân số Liên Hợp Quốc. Thành viên của UNFPA là
tất cả các nước thành viên Liên Hợp Quốc. Vai trò của UNFPA là trợ giúp các nước
đang phát triển thông qua việc cung cấp các dịch vụ có chất lượng trong sức khỏe
sinh sản và kế hoạch hóa gia đình; thúc đẩy việc thực hiện chiến lược dân số do hội
nghị Cairo thông qua năm 1994; thúc đẩy sự hợp tác và điều phối giữa các tổ chức
Liên Hợp Quốc, các tổ chức song phương, các chính phủ, các tổ chức phi chính phủ

và khu vực tư nhân trong việc giải quyết các vấn đề về dân số và phát triển. Từ khi
bắt đầu hoạt động năm 1969 đến nay, tổ chức này đã cung cấp 5 tỉ USD cho việc
viện trợ các nước đang phát triển. Giữa Việt Nam và UNFPA trong thời qua cũng
đã có sự hợp tác khá chặt chẽ và hiệu quả. Những nỗ lực trên đã chứng tỏ rằng vấn
đề bùng nổ dân số đã và đang nhận được ngày càng nhiều sự quan tâm của cộng
đồng quốc tế, do đó có thể khẳng định lại một lần nữa vấn đề bùng nổ dân số là một
vấn đề toàn cầu.
6.2. Giải pháp trên phạm vi toàn cầu.
Tình trạng bùng nổ dân số thực sự đã gióng lên hồi chuông báo động cho
toàn nhân loại. Câu hỏi đặt ra lúc này là “Làm thế nào để ngăn chặn cũng như làm
giảm sự gia tăng dân số, già hóa dân số, bất bình đẳng giới và nâng cao chất lượng
dân số trong thời gian sắp tới?”. Đây cũng chính là những gì mà toàn nhân loại đang
hướng tới.
Có nhiều biện pháp được đưa ra, nhiều phương thức được áp dụng đã mang
lại hiệu quả cho thực trạng này. Trong hàng loạt biện pháp, có thể kể ra ở đây
những biện pháp tối ưu nhất mà các quốc gia cũng như các khu vực có thể áp dụng
để làm giảm độ nóng của gia tăng dân số.
- Với những khu vực có sự tăng trưởng mạnh mẽ về dân số như châu Phi;
một số nước châu Á và một số khu vực khác thì biện pháp nên làm ngay là phối hợp
với các tổ chức thế giới (UNFPA, UNICEFT) trong chương trình vận động toàn dân
nhận thức rõ tác hại cũng như những mặt trái của việc gia tăng dân số quá nhanh,


chỉ rõ những tác động xấu của bùng nổ dân số đến y tế, giáo dục, lương thực, thực
phẩm, tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường và dịch bệnh dẫn đến tỷ lệ tử vong tăng
cao. Cần phải hướng ý thức của người dân tại các nước này tới những nguy hại của
bùng nổ dân số ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của họ.
- Tuyên truyền phổ biến rộng rãi tác hại của vấn đề bùng nổ dân số trên các
phương tiện thông tin đại chúng. Giáo dục ý thức của người dân thông qua những
khẩu hiệu thiết thực. Chỉ rõ những lợi ích cũng như thuận lợi do việc có ít con đem

lại.
- Hợp tác quốc tế - Hội nghị quốc tế bàn và cùng giúp đỡ nhau vượt qua
khủng hoảng về bùng nổ dân số. Kêu gọi những nỗ lực chung từ các quốc gia trong
việc làm giảm sự tăng dân số. Xây dựng những chiến lược cho vấn đề giảm dân số
nhằm hoạch định chính sách cho các quốc gia dựa trên đặc thù riêng của mình, đồng
thời là nền tảng cho các dự án của các tổ chức quốc tế về vấn đề dân số.
- Nâng cao khả năng tiếp cận đối với các dịch vụ về sức khỏe, bao gồm kế
hoạch hóa gia đình.
- Cho các cặp vợ chồng quyền được quyết định số con mà mình muốn.
- Mở rộng hơn nữa các cơ hội về giáo dục, nâng cao hiểu biết cho con người,
một thực tế chứng minh rằng những người phụ nữ và nam giới được giáo dục có xu
hướng muốn một gia đình nhỏ hơn.
- Cải thiện tình trạng trẻ em bị chết sau sinh: chỉ khi các cặp vợ chồng cảm
thấy yên tâm về những đứa con mà mình sinh ra, về khả năng sống sót của chúng,
các cặp vợ chồng mới sẵn sàng sinh ít con hơn.
- Đầu tư cho phụ nữ: Mở rộng cơ hội cho những phụ nữ trẻ tuổi trong vấn đề
nâng cao nhận thức, phụ nữ có học vấn sẽ có nhiều quyền lựa chọn hơn, có tiếng
nói hơn trong gia đình và trong xã hội. Khi vai trò phụ nữ được tăng lên, tình trạng
“trọng nam khinh nữ” cũng được khắc phục bởi đây chính là một trong những
nguyên nhân của việc sinh nhiều con dẫn đến gia tăng dân số.
- Giáo dục cho lứa tuổi vị thành niên ở tất cả các quốc gia, đặc biệt là những
quốc gia có tỷ lệ sinh cao nhận thấy được mối đe dọa do sự bùng nổ dân số đem lại,


đề cập đến các biện pháp về quan hệ tình dục an toàn, ngăn chặn vấn đề quan hệ
tình dục quá sớm ở lứa tuổi này. Trên thế giới hiện nay, nạo phá thai ở lứa tuổi vị
thành niên đang là một vấn nạn ở hầu hết các quốc gia.
6.3. Giải pháp cụ thể đối với Việt Nam
- Các nhà chức trách phải phối hợp với tổ chức dân số thế giới để điều chỉnh mức
tăng dân số các nước về mức cân bằng.

- Cần củng cố và kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác Dân số - Kế hoạch hóa gia
đình ở các cấp.
- Đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền với nội dung và hình thức phù
hợp với từng vùng, từng nhóm dân cư...nhằm giảm gia tăng dân số.
- Mở rộng và nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh
sản và kế hoạch hóa gia đình.
- Tạo môi trường tâm lý, xã hội tích cực thúc đẩy phong trài thực hiện chính
sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.
- Cán bộ nhà nước đi đầu, gương mẫu trong công tác dân số.
- Bản thân mỗi công dân cần có nhận thức đầy đủ về vấn đề dân số, sự gia
tăng dân số chóng mặt và tác hại của nó, để có thể phòng tránh sự bùng nổ dân số,
gia tăng chất lượng dân số để hạn chế tác hại của số lượng dân số khổng lồ.



KẾT LUẬN
Sau khi đi vào tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân, hậu quả và đề ra một số giải
pháp cơ bản nhóm tụi em xin tổng kết một cách khách quan về vấn đề trên. Dân số
hiên nay xuất hiện những đầu hiện bùng nổ dân số và một số hệ lụy của nó như: cơ
cấu dân số già, chất lượng dân số thấp, bất bình ổn giới tính và các vấn đề trên vẫn
còn nhiều khác biệt giữa các quốc gia. Ở các quốc gia đang phát triển thì vấn đề
bùng nổ dân số trở thành một vấn nạn trực tiếp và cấp bách nhất. Các quốc gia đang
phát triển không những phải đối mặt với bùng nổ dân số mà còn đứng trước nguy
cơ bất bình đẳng giới và chỉ số phát triển con người thấp. Trái ngược hoàn toàn với
các quốc gia đang phát triển, các quốc gia phát triển thì đứng trước nguy cơ suy
giảm dân số và dân số bị già hóa một cách nghiêm trọng. Chình vì sự suy thoái dân
số không đồng đều giữa các nước nên việc giải quyết các vấn đề trên có tính toàn
cầu và đòi hỏi có sự tham gia của tất cả các nước trên thế giới. Đặc biệt, các quốc
gia có nền kinh tế phát triển cần tăng cường hợp tác giúp đỡ các quốc gia đang phát
triển. Tuy nhiên, mỗi quốc gia cần có những chính sách riêng biệt tùy thuộc vào

thực trạng vấn đề ở mỗi quốc gia. Chúng ta cũng đã thấy được hậu quả nặng nề mà
các vấn nạn dân số có thể gây ra cho chúng ta. Vì những lý do trên, mỗi chúng ta
cần phải có ý thức về dân số, vận dụng các kiến thức trên để tuyên truyền cho gia
đình, mọi người và vận dụng vào chính bản thân mỗi chúng ta.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Giáo trình Sinh thái môi trường cơ bản, Ngô Trung Sơn – phó viện Khoa học
công nghệ và quản lý môi trường, trường đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí
Minh.
[2] Theo một số tờ báo uy tín của USA Today
[3] Giáo trình Dân số và môi trường của đại học khoa học tự nhiên.
[4] Dân số và phát triển TS. Nguyễn Quốc Anh, 26/02/2001, Hà Nội.
[5] Số liệu của tổng cục thống kê dân số và nhà ở Việt Nam.
[6] Theo báo Việt Báo.vn
[7] Trang web: />Truy cập: 29/04/2016.


×