Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Phân tích tình hình tài chính của công ty cổ phần lắp máy điện nước và xây dựng hà nội thời ký 2002 2004 15k

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (445.21 KB, 77 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần phải có các
yếu tố: lao động, tài chính và công nghệ. Trong đó tài chính là quan trọng nhất,
quyết định sự làm ăn thành bại của doanh nghiệp. Cùng với sự đổi mới sâu sắc
và mạnh mẽ của nền kinh tế nhiều thành phần, có sự quản lý của nhà nước, mỗi
doanh nghiệp phải tìm cho mình một hướng đi thích hợp để theo kịp xu hướng
phát triển của đất nước nói riêng và thế giới nói chung. Vì vậy, nhu cầu tài chính
cho hoạt động sản xuất kinh doanh, cho đầu tư phát triển mở rộng thị trường là
rất quan trọng. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp phải có một nguồn tài chính vững
mạnh mà cụ thể là phải có một nguồn vốn dồi dào, thì mới đáp ứng các yêu cầu
trên.
Thực tế cho thấy rằng, với cơ chế mới, doanh nghiệp lúc này được tự chủ
trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tự chủ tài chính, đồng thời có trách nhiệm
bảo toàn ổn định nguồn tài chính của riêng mình. Nhờ đó, nhiều doanh nghiệp
đã thích nghi kịp thời với tình hình mới, hiệu quả sản xuất kinh doanh tăng rõ
rệt, tập trung chủ yếu vào các ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, xây
dựng và dịch vụ; đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư xây lắp đang được mọi cấp,
mọi ngành, mọi người trong toàn xã hội quan tâm. Thành công của ngành xây
dựng đã tạo tiền đề không nhỏ đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá trên đất nước ta. Yêu cầu đặt ra đối với các doanh nghiệp hiện nay là phải
xác định nhu cầu vốn thường xuyên, cần thiết, tối thiểu; xác định được doanh
nghiệp hiện nay thừa hay thiếu vốn; hiệu quả sử dụng vốn ra sao và các giải
pháp nào cần thực hiện để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
mình. Đây cũng chính là những vấn đề đáng quan tâm hiện nay và thu hút được
sự chú ý của các nhà đầu tư tài chính doanh nghiệp vì vốn là yếu tố chủ yếu
quan trọng trong tình hình tài chính của công ty.

1



Công ty cổ phần lắp máy điện nước và xây dựng là doanh nghiệp nhà nước
(vốn nhà nước trên 50%), sản xuất kinh doanh năng động, nhiều chỉ tiêu kinh tế
đạt và vượt so với kế hoạch đã đề ra, giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao
động, thực hiện nghĩa vụ đầy đủ đối với nhà nước. Tuy nhiên, vấn đề sử dụng
vốn của doanh nghiệp sao cho hiệu quả sinh lợi với mức cao nhất, đang là bức
súc của doanh nghiệp. Muốn vậy phải không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn của doanh nghiệp.
Từ vai trò, ý nghĩa thực tiễn nêu trên, trong thời gian thực tập em đã dần
tiếp cận với thực tiễn và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận trong suốt quá trình
học tập. Đồng thời, khi đi sâu tìm hiểu thực tế và nghiên cứu về Công ty cổ phần
lắp máy điện nước và xây dựng Hà Nội, cùng với sự giúp đỡ tận tình của thầy
giáo Phan Công Nghĩa và các phòng ban của công ty, đặc biệt là phòng tài chính
kế toán, em càng thấy rõ được tầm quan trọng và bức thiết của vấn đề điều chỉnh
và ổn định tình hình tài chính của công ty. Mà cụ thể hơn là vấn đề quản lý và
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp nói chung, của Công ty cổ
phần lắp máy điện nước và xây dựng Hà Nội nói riêng. Do đó, em xin chọn đề
tài “Phân tích tình hình tài chính của Công ty cổ phần lắp máy điện nước và
xây dựng Hà Nội thời kỳ 2002-2004” làm chuyên đề thực tập của mình.
2. Nội dung nghiên cứu
Như ta đã biết tài chính của doanh nghiệp bao gồm rất nhiều chỉ tiêu, với
giới hạn của đề tài, em xin phép đi sâu phân tích hệ thống chỉ tiêu về vốn sản
xuất kinh doanh là nhân tố quyết định sự thành bại của đơn vị, trong giai đoạn
hiện nay.
Gồm các nội dung sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về vốn sản xuất kinh doanh.
- Nghiên cứu thống kê tình hình sử dụng vốn sản xuất kinh doanh.
- Nghiên cứu đề xuất các giải pháp sử dụng có hiệu quả vốn sản xuất kinh
doanh trong doanh nghiệp.
3. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
2



- Đề tài tập trung nghiên cứu mặt lượng trong mối quan hệ với mặt chất của
quá trình sử dụng vốn và giải pháp nhằm sử dụng vốn có hiệu quả. Cụ thể là đi
sâu nghiên cứu qui mô, kết cấu, các quan hệ so sánh, các nhân tố liên quan đến
quá trình sử dụng vốn của doanh nghiệp.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là sử dụng số liệu thống kê và kế toán của
Công ty cổ phần lắp máy điện nước thời kỳ 2002 đến 2004.
4. Kết cấu của đề tài
Nội dung của đề tài ngoài lời nói đầu và kết luận bao gồm những chương
sau:
Chương I: Hệ thống chỉ tiêu thống kê về tình hình hoạt động tài chính tại
Công ty cổ phần lắp máy điện nước và xây dựng Hà Nội.
Chương II: Phương pháp thống kê phân tích tình hình hoạt động tài chính
của Công ty cổ phần lắp máy điện nước và xây dựng Hà Nội.
Chương III: Phân tích tình hình hoạt động tài chính tại Công ty cổ phần
lắp máy điện nước và xây dựng Hà Nội thời kỳ 2002-2004

3


CHƯƠNG I
HỆ THỐNG CHỈ TIÊU THỐNG KÊ VỀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG TÀI
CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN LẮP MÁY ĐIỆN NƯỚC VÀ XÂY
DỰNG HÀ NỘI
I. HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH CỦA DOANH NGHIỆP

1. Doanh nghiệp và môi trường hoạt động của doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường.
1.1. Khái niệm doanh nghiệp

Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động
sản xuất kinh doanh trên thị trường nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu.
Doanh nghiệp là một cách thức tổ chức hoạt động kinh tế của nhiều cá
nhân. Nhiều hoạt động kinh tế chỉ có thể thực hiện được bởi các doanh nghiệp
chứ không phải bởi các cá nhân.
Theo luật doanh nghiệp Việt Nam: Doanh nghiệp là một tổ chức kinh
doanh có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật, nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh
doanh, tức là thực hiện một, một số hoặc tất các công đoạn của quá trình đầu tư,
từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng trên thị trường nhằm mục đích
sinh lợi.
Các doanh nghiệp ở Việt Nam bao gồm các: Doanh nghiệp Nhà Nước,
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty liên
doanh, doanh nghiệp tư nhân.
1.2. Môi trường hoạt động của doanh nghiệp
Để đạt được mức doanh lợi mong muốn, doanh nghiệp cần phải có những
quyết định về tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh và vận hành quá trình trao
đổi. Mọi quyết định đều phải gắn kết với môi trường xung quanh. Bao quanh
doanh nghiệp là một môi trường kinh tế xã hội phức tạp và luôn biến động. Có
thể kể đến một số yếu tố khách quan tác động trực tiếp tới hoạt động của doanh
nghiệp như:
- Doanh nghiệp luôn phải đối đầu với công nghệ. Sự phát triển của công
nghệ là một yếu tố góp phần thay đổi phương thức sản xuất, tạo ra nhiều kỹ
thuật mới dẫn đến những thay đổi mạnh mẽ trong quản lý tài chính doanh
nghiệp.

4


- Doanh nghiệp là đối tượng quản lý của Nhà Nước. Sự thắt chặt hay nới

lỏng hoạt động của doanh nghiệp được điều chỉnh bằng luật và các văn bản quy
phạm pháp luật, bằng cơ chế quản lý tài chính.
- Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phải dự tính được khả năng rủi
ro, đặc biệt là rủi ro tài chính để có cách ứng phó kịp thời và đúng đắn. Doanh
nghiệp, dưới sức ép của thị trường cạnh tranh, phải chuyển dần từ chiến lược
trọng cung cổ điển sang chiến lược trọng cầu hiện đại. Những đòi hỏi về chất
lượng, mẫu mã, giá cả hàng hoá, về chất lượng dịch vụ ngày càng cao hơn, tinh
tế hơn của khách hàng buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên thay đổi chính
sách sản phẩm, đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu quả và chất lượng cao.
- Doanh nghiệp thường phải đáp ứng được đòi hỏi của các đối tác về mức
vốn chủ sở hữu trong cơ cấu vốn. Sự tăng, giảm vốn chủ sử hữu có tác động
đáng kể tới hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt trong các điều kiện kinh tế
khác nhau.
2. Tài chính của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
2.1. Khái niệm tài chính
Tài chính của doanh nghiệp là hệ thống các luồng chuyển dịch giá trị, các
nguồn vận động của những nguồn tài chính trong quá trình tạo lập hoặc sử dụng
các quỹ tiền tệ hoặc vốn hoạt động của doanh nghiệp, nhằm đạt tới mục tiêu
doanh lợi trong khuôn khổ của pháp luật. Tài chính doanh nghiệp phản ánh các
quan hệ kinh tế đa dạng trong các quá trình đó của hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Các quan hệ đó là:
- Quan hệ giữa các doanh nghiệp với Nhà nước. Đây là mối quan hệ phát
sinh khi doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước, khi Nhà nước góp
vốn với doanh nghiệp.
- Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính: Quan hệ này được
thông qua việc doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ như vay ngắn hạn, phát
hành cổ phiếu, trái phiếu, gửi ngân hàng, đầu tư chứng khoán… Còn các nhà tài
trợ được các doanh nghiệp trả lãi vay, vốn vay, lãi cổ phần.
- Quan hệ giữa doanh nghiệp và các thị trường khác: Trong nền kinh tế thị
trường, doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp khác trên thị

trường hàng hoá dịch vụ, thị trường sức lao động. Đây là những thị trường mà
tại đó doanh nghiệp tiến hành mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng, tìm kiếm
lao động… Điều quan trọng là doanh nghiệp thông qua thị trường có thể xác
định nhu cầu hàng hoá và dịch vụ cần thiết cung ứng. Trên cơ sở đó doanh

5


nghiệp hoạch định ngân sách đầu tư, kế hoạch sản xuất, tiếp thị, nhằm thoả mãn
nhu cầu thị trường.
- Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp: Đây là quan hệ giữa các bộ phận sản
xuất kinh doanh, giữa cổ đông và người quản lý, giữa cổ đông và chủ nợ, giữa
quyền sử dụng vốn và quyền sở hữu vốn. Các quan hệ này được sử dụng thông
qua hàng loạt chính sách của doanh nghiệp như chính sách cổ tức, chính sách
đầu tư, chính sách về cơ cấu vốn chi phí…
2.2. Tài chính của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Vai trò của tài chính doanh nghiệp sẽ trở nên tích cực hay thụ động, thậm
chí có thể là tiêu cực đối với kinh doanh trước hết phụ thuộc vào khả năng, trình
độ của người quản lý, sau nữa nó còn phụ thuộc vào môi trường kinh doanh, phụ
thuộc vào cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô - sự can thiệp và phương thức can thiệp
bằng bàn tay hữu hình của Nhà nước vào nền kinh tế.
Trước đây, khi chưa có luồng gió đổi mới của Đảng, nền kinh tế ở nước ta
với đặc điểm là đơn giản hoá hình thức sở hữu và thành phần kinh tế, Nhà nước
đã can thiệp quá sâu vào từng khâu của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Trong điều kiện đó vai trò của tài chính doanh nghiệp đã trở nên hết sức
thụ động, tác động của nó đến sản xuất kinh doanh là rất yếu ớt.
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường với những chính sách, cơ chế
quản lý đổi mới hàng loạt, vai trò tài chính của doanh nghiệp ngày càng được đề
cao và đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, tài chính doanh nghiệp có những vai trò sau:

- Tài chính doanh nghiệp là một công cụ khai thác thu hút các nguồn tài
chính nhằm đảm bảo nhu cầu đầu tư phát triển của doanh nghiệp.
- Tài chính doanh nghiệp có vai trò trong việc sử dụng vốn một cách tiết
kiệm và có hiệu quả.
- Tài chính doanh nghiệp có vai trò là đòn bẩy kích thích và điều tiết sản
xuất kinh doanh.
- Tài chính doanh nghiệp là công cụ quan trọng để kiểm tra các hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
II. CHỈ TIÊU THỐNG KÊ VÀ HỆ THỐNG CHỈ TIÊU THỐNG KÊ

1. Chỉ tiêu thống kê và hệ thống chỉ tiêu thống kê
1.1. Chỉ tiêu thống kê
Chỉ tiêu thống kê phản ánh lượng gắn với chất của các mặt, các tính chất cơ
bản của hiện tượng số lớn trong điều kiện địa điểm và thời gian cụ thể. Tính chất

6


của các hiện tượng cá biệt được khái quát hoá trong chỉ tiêu thống kê. Do đó chỉ
tiêu thống kê phản ánh những mối quan hệ chung của tất cả các đơn vị tổng thể.
Chỉ tiêu thống kê có hai mặt: Khái niệm và mức độ.
- Khái niệm có nội dung là định nghĩa và giới hạn về thuộc tính, số lượng,
thời gian của hiện tượng.
- Mức độ có thể biểu hiện bằng các thang đo khác nhau, phản ánh quy mô
hoặc cường độ của hiện tượng.
Căn cứ vào nội dung, có thể chia các chỉ tiêu thống kê thành hai loại: Chỉ
tiêu chất lượng và chỉ tiêu khối lượng:
- Chỉ tiêu chất lượng biểu hiện các tính chất, trình độ phổ biến, mối quan
hệ của tổng thể. Có một số chỉ tiêu chất lượng không thể biểu hiện được bằng
con số một cách trực tiếp (chỉ dừng lại ở các khái niệm và phải biểu hiện một

cách gián tiếp thông qua các chỉ tiêu khác). Trong thống kê xã hội, người ta
thường gặp loại này.
- Chỉ tiêu khối lượng biểu hiện qui mô của tổng thể.
Nhìn chung các hiện tượng mà thống kê cần nghiên cứu đều rất phức tạp.
Để phản ánh chính xác chúng, cần phải xây dựng một hệ thống chỉ tiêu thống kê
với 4 nguyên tắc sau:
- Hệ thống chỉ tiêu thống kê phải phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
- Hiện tượng càng phức tạp, nhất là các hiện tượng trừu tượng, số lượng chỉ
tiêu cần nhiều hơn so với các hiện tượng đơn giản.
- Để thực hiện thu thập thông tin, chỉ cần điều tra các chỉ tiêu sẵn có ở cơ
sở, nhưng cần hình dung trước số chỉ tiêu sẽ phải tính toán nhằm phục vụ cho
việc áp dụng các phương pháp phân tích, dự đoán ở các bước sau.
- Để tiết kiệm chi phí, không để một chỉ tiêu thừa nào trong hệ thống.
1.2. Hệ thống chỉ tiêu thống kê
Hệ thống chỉ tiêu thống kê là tổng hợp các chỉ tiêu có thể phản ánh các
mặt, các tính chất quan trọng và các mối liên hệ cơ bản giữa các mặt, các tổng
thể và giữa tổng thể nghiên cứu với các hiện tượng liên quan.
Để phục vụ cho phân tích hiệu quả sử dụng vốn trong một doanh nghiệp thì hệ
thống chỉ tiêu bao gồm:
- Chỉ tiêu qui mô vốn sản xuất
- Chỉ tiêu cấu thành và kết cấu vốn
- Chỉ tiêu về tình hình trang bị vốn
- Chỉ tiêu hiệu quả của việc sử dụng vốn

7


2. Nguyên tắc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu thống kê về
tình hình tài chính của doanh nghiệp
- Đảm bảo tính hướng đích: đối tượng nghiên cứu của thống kê thường là

hiện tượng phức tạp. Vì vậy việc nghiên cứu phải có quá trình chặt chẽ và khoa
học, các chỉ tiêu phải được áp dụng một cách khoa học và hiệu quả. Điều đó có
nghĩa là chỉ tiêu được lựa chọn phải mô tả được sự kiện hiện tượng khác nhau
trong quá trình hoạt động kinh tế xã hội, từ mặt lượng sang mặt chất với nhiều
góc độ khác nhau. Để từ đó đưa ra những nhận xét và kết luận cần thiết cho hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Đảm bảo tính hệ thống: tức là các chỉ tiêu phải có mối liên hệ hữu cơ
với nhau. Định rõ chỉ tiêu tổng hợp và chỉ tiêu bộ phận, chỉ tiêu thứ yếu và chỉ
tiêu chủ yếu. Các chỉ tiêu và mục tiêu phải phù hợp với nhau, phù hợp với các
chỉ tiêu được tính toán với các tổ chức quốc tế và các nước khác trên thế giới về
nội dùng, phạm vi và phương pháp tính nhờ đó đảm bảo việc so sánh được.
- Đảm bảo tính khả thi: tức là phù hợp với khả năng, điều kiện về nhân tài
vật lực.
- Đảm bảo tính hiệu quả: thông tin được coi là hàng hoá, quá trình tạo ra
thông tin coi như sản xuất. Thông tin được coi như đầu vào của quá trình sản
xuất. Vì vậy nội dung thông tin phải phù hợp với mục đích nghiên cứu, với nhu
cầu thông tin cho quản lý vĩ mô và quản trị kinh doanh. Không dựa vào những
thông tin thừa không chính xác.
- Đảm bảo tính thích nghi: thông tin thu được phải phù hợp với cuộc điều
tra, phù hợp với nội dung điều tra. Không sử dụng các thông tin không có thực
hoặc những thông tin không phù hợp trong quá trình điều tra tìm hiểu.
3. Hệ thống chỉ tiêu thống kê hiện hành (hiện có) về tình hình hoạt
động tài chính tại Công ty cổ phần lắp máy điện nước và xây dựng HN.
Công ty cố phần lắp máy điện nước và xây dựng có tổng số vốn của nhà
nước chiếm trên 50%, là doanh nghiệp của nhà nước, vì vậy hệ thống chỉ tiêu
thống kê hiện hành của doanh nghiệp nhằm đáp ứng cho yêu cầu của chế độ báo
cáo doanh nghiệp nhà nước do Bộ trưởng bộ kế hoạch - đầu tư ra quyết định số
62/2003/BKH.
Bên cạnh đó chế độ báo cáo quý, năm của doanh nghiệp theo Quyết định
của Bộ tài chính cũng được doanh nghiệp triển khai thực hiện.

Cũng như bất kỳ một công ty nào khi hoạt động đều phải cố định và cân
bằng vốn. Vì vậy muốn hoạt động có hiệu quả Công ty Cổ phần lắp máy điện

8


nước đã xây dựng các chỉ tiêu đánh giá về tổng vốn kinh doanh, phù hợp với
tình hình hạch toán của đơn vị, theo các chỉ tiêu sau:
3.1. Chỉ tiêu về quy mô vốn sản xuất
Để tiến hành bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải
có vốn. Đó là tiền đề cần thiết cho việc hình thành và hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ dùng vốn này để mua sắm các yếu tố của quá
trình sản xuất kinh doanh như sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao
động. Do sự tác động của lao động vào đối tượng lao động thông qua tư liệu lao
động mà hàng hoá dịch vụ được tạo ra và tiêu thụ trên thị trường. Cuối cùng, các
hình thái vật chất khác nhau đó được chuyển hoá về hình thái tiền tệ ban đầu. Để
đảm bảo sự tồn tại phát triển của doanh nghiệp, số tiền thu được do tiêu thụ sản
phẩm phải đảm bảo bù đắp toàn bộ các chi phí đã bỏ ra và có lãi. Như vậy, số
tiền đã ứng ra ban đầu không những được bảo tồn mà nó còn được tăng thêm do
hoạt động kinh doanh mang lại. Toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình
tiếp theo cho sản xuất kinh doanh được gọi là vốn. Vốn được biểu hiện bằng tiền
của giá trị vật tư tài sản và hàng hoá của doanh nghiệp, tồn tại dưới 2 hình thức
vật chất: cụ thể và không cụ thể. Từ đó có thể hiểu, vốn là biểu hiện bằng tiền
của toàn bộ tài sản của doanh nghiệp được sử dụng vào hoạt động sản xuất
kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.
Quy mô vốn sản xuất kinh doanh là chỉ tiêu tuyệt đối, thời kỳ và được tính
theo đơn vị giá trị. Vốn sản xuất là giá trị của những tài sản được sử dụng làm
phương tiện phục vụ cho quá trình sản xuất bao gồm vốn cố định và vốn lưu
động. Trong đó vốn cố định là bộ phận cơ bản nhất. Để nghiên cứu chỉ tiêu này
nguồn số liệu lấy từ báo cáo quyết toán tài chính của doanh nghiệp.

3.1.1. Quy mô vốn cố định.
Vốn cố định là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh, là hình thái tiền
tệ của giá trị các tài sản cố định trong doanh nghiệp được tính theo giá còn lại.
Quy mô vốn cố định là chỉ tiêu tuyệt đối, thời điểm và được tính theo đơn
vị giá trị. Để biểu hiện quy mô vốn cố định trong một thời kỳ nhất định nhằm
tính toán và phân tích một số chỉ tiêu kinh tế ta cần tính vốn cố định bình quân:
Bằng công thức:

Vc =

Vcdk +Vcck
(1)
2

Vc : Vốn cố định bình quân trong kỳ

Vcdk: Vốn cố định đầu kỳ
Vcck: Vốn cố định cuối kỳ
9


Trong đó: Vcdk (hay Vcck) = ∑ P i.Si
Với Pi : Đơn giá tài sản cố định bình quân i (i = 1,n)
Si : Số lượng tài sản cố định hiện có đầu kỳ hay cuối kỳ.
* Phân biệt vốn cố định và tài sản cố định
+ Xét vốn cố định là xét về mặt giá trị, xét về mặt tài chính, còn xét về tài
sản cố định là xét về mặt hiện vật, vật chất.
+ Giá trị tài sản cố định có thể tính theo nhiều loại giá khác nhau, vốn cố
định chỉ xét theo giá còn lại, không tính phần đã khấu hao là bộ phận của vốn
khấu hao.

* Phân biệt vốn cố định và vốn đầu tư xây dựng cơ bản
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản liên quan đến việc tái sản xuất tài sản cố định,
còn vốn cố định là giá trị của tài sản cố định đã được hình thành, là một bộ phận
của vốn sản xuất kinh doanh.
3.1.2. Quy mô vốn lưu động.
Vốn lưu động trong doanh nghiệp là một bộ phận của vốn kinh doanh là
hình thái tiền tệ của giá trị các tài sản lưu động của doanh nghiệp.
Vốn lưu động là chỉ tiêu tuyệt đối, thời điểm, được tính theo đơn vị tiền tệ,
theo giá hiện hành, theo giá so sánh và giá cố định.
Vì vậy, để biểu hiện quy mô vốn lưu động trong một thời kỳ nhằm mục
đích tính toán, phân tích các chỉ tiêu liên quan đến vốn lưu động thì phải tính
vốn lưu động bình quân.
Bằng công thức:

Vldk +Vlck
Vl =
(2)
2

Vl : Vốn lưu động bình quân trong kỳ

Vldk: Vốn lưu động đầu kỳ
Vlck: Vốn lưu động cuối kỳ
Vl1
+
Vl 2 +
... +
Vl ( n
hoặc Vl = 2
n−

1


1)

V ln
+
2

Trong đó:
Vl : vốn lưu động bình quân kỳ nghiên cứu.

VL1, VL2... VLn: vốn lưu động có ở tháng 1,2… tháng n trong kỳ
nghiên cứu.
10


3.2. Chỉ tiêu về cấu thành và kết cấu vốn
3.2.1. Chỉ tiêu về cấu thành vốn kinh doanh.
+ Cấu thành vốn sản xuất kinh doanh theo đặc điểm chu chuyển vốn bao
gồm:
* Vốn cố định.
* Vốn lưu động.
+ Cấu thành vốn sản xuất kinh doanh theo nguồn vốn bao gồm:
* Nguồn vốn do chủ kinh doanh đầu tư.
* Nguồn vốn tự bổ sung.
* Nguồn vốn liên doanh liên kết.
* Nguồn vốn tín dụng
3.2.2. Chỉ tiêu về cấu thành vốn cố định.
+ Cơ cấu vốn cố định theo nguồn gốc:

* Nguồn vốn do chủ kinh doanh đầu tư
* Nguồn vốn tự bổ sung.
* Nguồn vốn liên doanh liên kết.
* Nguồn vốn tín dụng.
+ Cơ cấu vốn cố định theo loại tài sản cố định
+ Cơ cấu vốn cố định theo các đơn vị thành viên
3.2.3. Chỉ tiêu về cấu thành vốn lưu động.
+ Cơ cấu vốn lưu động theo nguồn vốn
+ Cơ cấu vốn lưu động theo vai trò của vốn trong sản xuất
* Tài sản lưu động (là bộ phận chủ yếu)
* Tài sản lưu thông.
3.3. Chỉ tiêu về tình hình trang bị vốn cố định cho lao động
Tình hình trang bị vốn cố định cho lao động sản xuất kinh doanh phản ánh
mức trang bị kỹ thuật cho lao động, tạo điều kiện tăng năng suất lao động.
Để đánh giá tình hình trang bị vốn cố định cho sản xuất kinh doanh có thể
sử dụng chỉ tiêu mức trang bị vốn cố định cho lao động
Vc
T

Công thức: MVC =
(3)
MVC
: Mức trang bị vốn cố định cho lao động sản xuất kinh doanh.
VC
: Vốn cố định dùng cho sản xuất kinh doanh trong kỳ
: Số lao động bình quân trong kỳ.
T
3.4. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn

11



Mục đích của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là lợi nhuận. Muốn
vậy, các doanh nghiệp phải khai thác và sử dụng triệt để mọi nguồn lực sẵn có,
tức là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, là yêu cầu bắt buộc đối với các doanh
nghiệp. Để đạt được điều đó, các doanh nghiệp cần có một hệ thống chỉ tiêu
đánh giá hiệu quả sử dụng vốn sản xuất doanh nghiệp.
3.4.1. Hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh.
- Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
người ta sử dụng một số chỉ tiêu sau:
*Hiệu suất (hay hiệu năng) tổng vốn (Htv)
Q
Được nghiên cứu qua công thức:
Htv =
(4)
Vtv
Htv: Hiệu suất (hiệu năng)
Q : Kết quả sản xuất (kết quả tiêu thụ)
Vtv : Vốn sản xuất kinh doanh bình quân
Trong đó:
+ Kết quả sản xuất có thể là tổng giá trị sản xuất (GO), giá trị gia tăng
(VA), giá trị gia tăng thuần (NVA)
+ Kết quả tiêu thụ có thể là doanh thu bán hàng (G) và doanh thu thuần
(DT).
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn sản xuất kinh doanh tham
gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ thì thu được bao nhiêu đồng kết
quả sản xuất (hay doanh thu tiêu thụ). Hiệu suất sử dụng vốn kinh doanh càng
lớn, hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh càng tăng và ngược lại, hiệu suất sử dụng
vốn kinh doanh càng thấp, hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh càng giảm.
* Vòng quay toàn bộ vốn trong kỳ:

Được nghiên cứu qua công thức: Ltv =

D
(5)
Vtv

Ltv: Vòng quay tòan bộ vốn trong kỳ
D: doanh thu tiêu thụ sản phẩm
Vtv : Vốn sản xuất kinh doanh bình quân
Ý nghĩa: Đây là hệ số phản ánh hiệu suất sử dụng toàn bộ vốn hay tài sản
của doanh nghiệp trong kỳ. Chỉ tiêu cho biết trong kỳ tổng vốn của doanh
nghiệp quay được mấy vòng (hay chu chuyển được mấy lần). Nói chung vòng
quay toàn bộ vốn càng lớn thể hiện hiệu suất sử dụng vốn càng cao.
* Mức doanh lợi toàn bộ vốn

12


Hệ số này phản ánh khả năng sinh lời của mỗi đồng vốn đầu tư vào hoạt
động kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp
Được nghiên cứu qua công thức: Rtv =

M
(6)
Vtv

Rtv: mức doanh lợi của tổng vốn
M: Lợi nhuận
Vtv : Vốn sản xuất kinh doanh bình quân
Lợi nhuận để tính mức doanh lợi toàn bộ vốn có thể tính theo lợi nhuận từ

việc tiêu thụ sản phẩm trong kỳ (từ hoạt động sản xuất kinh doanh) hoặc tính
theo lợi nhuận ròng.
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn kinh doanh đem lại bao nhiêu
đồng lợi nhuận. Mức doanh lợi vốn kinh doanh càng lớn thì hiệu quả sử dụng
vốn càng cao và ngược lại.
3.4.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu:
Hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu được phản ánh qua cách tính và so sánh
các chỉ tiêu sau:
Hiệu năng vốn chủ sở hữu (HvSH)
Được nghiên cứu qua công thức: HvSH =

D
(7)
Vsh

HvSH: Hiệu năng vốn chủ sở hữu
D : Doanh thu
Vsh : Vốn chủ sở hữu bình quân
Chỉ tiêu cho biết cứ 1 đơn vị tiền tệ vốn chủ sở hữu đầu tư vào tài sản trong
kỳ tạo ra được mấy đơn vị kết quả sản xuất (hay doanh thu)
Vòng quay vốn chủ sở hữu (LvSH)
Được nghiên cứu qua công thức: LvSH =

D
(8)
Vsh

LvSH: Vòng quay vốn chủ sở hữu
D: Doanh thu bán hàng (doanh thu thuần)
Vsh : Vốn chủ sở hữu bình quân

Chỉ tiêu cho biết trong kỳ vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp quay được
mấy vòng hay chu chuyển được mấy lần.
Mức doanh lợi vốn chủ sở hữu
Được nghiên cứu qua công thức: RvSH =
RvSH: Mức doanh lợi của vốn chủ sở hữu
M: Lãi ròng trước thuế
13

M
(9)
Vsh


Vsh : Vốn chủ sở hữu bình quân

Ý nghĩa: Chỉ tiêu này đo lường mức sinh lợi của một đồng vốn chủ sở hữu,
phản ánh trình độ sử dụng vốn của người quản lý doanh nghiệp, bởi vậy chỉ tiêu
này càng cao càng tốt.
Trên đây là một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh
nghiệp nói chung. Để đánh giá chính xác hơn về hiệu quả sử dụng vốn cần tiến
hành đánh giá hiệu quả sử dụng từng loại vốn.
Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu
Mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là tạo ra lợi nhuận ròng cho các chủ
nhân của doanh nghiệp đó. Doanh lợi vốn chủ sở hữu là chỉ tiêu đánh giá mức
độ thực hiện của mục tiêu này.
Được nghiên cứu qua công thức: TvSH =

M
x 100 (10)
Vsh


TvSH: Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu
M: Lợi nhuận sau thuế
Vsh : Vốn chủ sở hữu bình quân
Ý nghĩa: cứ một đồng vốn chủ sở hữu đưa vào kinh doanh mang lại bao
nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Mặt khác, doanh lợi vốn chủ sở hữu lớn hơn
doanh lợi tổng vốn điều đó chứng tỏ việc sử dụng vốn vay rất có hiệu quả.
3.4.3. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
Hiệu suất (hay hiệu năng) sử dụng vốn cố định (Hc)
Được nghiên cứu qua công thức: Hc =

D
(11)
Vcđ

Hc : Hiệu suất (hiệu năng) vốn cố định
D : Doanh thu trong kỳ
Vcđ : Vốn cố định bình quân
Hiệu suất sử dụng vốn cố định phản ánh một đồng vốn cố định trong kỳ tạo
ra bao nhiêu đồng kết quả sản xuất hay doanh thu tiêu thụ hàng hoá. Đối với
doanh nghiệp chỉ tiêu này càng lớn càng tốt.
Mức doanh lợi vốn cố định (Rc)
Được nghiên cứu qua công thức: Rc =
Rc: Mức doanh lợi vốn cố định
M: Lợi nhuận thuần trong kỳ
Vcđ : Vốn cố định bình quân

14

M

Vcđ

(12)


Ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn cố định tham gia vào hoạt
động sản xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Do đó
chỉ tiêu này càng lớn càng tốt.
3.4.4. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh
nghiệp.
3.4.4.1. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả chung của vốn lưu động
Mức doanh lợi vốn lưu động (RVL)
Được nghiên cứu qua công thức: Rvl =

M
(13)
Vl

Rvl: Mức doanh lợi vốn lưu động
M: Lợi nhuận trước thuế trong kỳ
Vl : Vốn lưu động bình quân trong kỳ
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh cứ một triệu đồng vốn lưu động đưa vào
sản xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra được mấy đồng lợi nhuận. Mức doanh lợi
càng lớn thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao và ngược lại.
Mức đảm nhiệm vốn lưu động (H`VL):
Được nghiên cứu qua công thức: H`VL =

Vl
(14)
D


H`Vl: Mức đảm nhiệm vốn lưu động
Vl : Vốn lưu động bình quân trong kỳ
D: Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ảnh để tạo ra một đồng doanh thu tiêu thụ trong kỳ thì
phải cần bao nhiêu đồng vốn lưu động.
3.4.4.2. Các chỉ tiêu phản ánh tốc độ chu chuyển của vốn lưu động
Số vòng quay (số lần chu chuyển) của vốn lưu động (LVL)
Được nghiên cứu qua công thức: LVL =

D
(15)
Vl

LvL: Vòng quay vốn lưu động trong kỳ
D: Tổng doanh thu bán hàng (doanh thu thuần) trong kỳ .
Vl : Vốn lưu động bình quân trong kỳ
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh mỗi đơn vị vốn lưu động bình quân bỏ vào
kinh doanh có thể mang lại bao nhiêu đơn vị doanh thu. Nó phản ánh tốc độ chu
chuyển vốn lưu động trong kinh doanh. Chỉ tiêu này tăng hay giảm biểu hiện
trình độ và hiệu quả sử dụng tăng hay giảm tương ứng theo tỷ lệ thuận.
Độ dài bình quân một vòng quay vốn lưu động
Được nghiên cứu qua công thức: d =
15

N
Lvl

(16)(ngày/vòng) hoặc (lần)



N: số ngày theo lịch của kỳ nghiên cứu trên thực tế N được tính theo số
chẵn (tháng: 30 ngày, quý: 90 ngày, năm: 360 ngày)
LVL: Số vòng quay của vốn lưu động
Ý nghĩa: Vốn lưu động của doanh nghiệp quay một vòng thì hết bao nhiêu
ngày.
Nếu kết quả so sánh, tốc độ phát triển của vòng quay vốn lớn hơn 1, độ dài
bình quân nhỏ thua 1 phản ánh tốc độ chu chuyển vốn lưu động của doanh
nghiệp kỳ nghiên cứu nhanh hơn kỳ gốc, chứng tỏ doanh nghiệp đã tiết kiệm
vốn lưu động.
Số vốn lưu động tiết kiệm (∆VL)
Được nghiên cứu qua công thức: ∆VL =

D1
x ∆d (17)
N

hoặc ∆VL = ∆H`VL × D1
Trong đó:
D1 : Tổng doanh thu bán hàng (doanh thu thuần) kỳ nghiên cứu.
N : Số ngày theo lịch của kỳ nghiên cứu
∆d : Số chênh lệch độ dài bình quân một vòng quay VLĐ kỳ nghiên cứu
so với kỳ gốc.
∆H`VL : Chênh lệch mức đảm nhiệm vốn kỳ nghiên cứu so với kỳ gốc.
Với hệ thống chỉ tiêu hiện đang được sử dụng để phân tích tình hình hoạt
động tài chính của doanh nghiệp như vậy là tương đối đầy đủ. Các chỉ tiêu được
xây dựng có tác dung bổ trợ và làm sáng tỏ chỉ tiêu cần phân tích. Chỉ tiêu qui
mô vốn cho biết tiềm năng về vốn trong doanh nghiệp, nhưng với khả năng như
vậy doanh nghiệp đã sử dụng nó như thế nào và đem lại lợi ích ra sao lại phải
cần đến các chỉ tiêu về doanh thu, lợi nhuận, số vòng quay của vốn, mức doanh

lợi ... Nhưng khi phân tích không thể gói gọn trong một vài chỉ tiêu độc lập mà
cần phải xem xét mối tương hỗ qua lại giữa các chỉ tiêu thì sẽ cho ra kết quả
chính xác, mới có những kiến nghị phù hợp.
III. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG CHỈ TIÊU THỐNG KÊ VỀ
TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN LẮP MÁY
ĐIỆN NƯỚC VÀ XÂY DỰNG HÀ NỘI

Như ta đã biết nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đảm bảo an toàn tài chính
cho doanh nghiệp. Hoạt động trong cơ chế thị trường với những rủi ro tiềm tàng
về tài chính là khá lớn, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải luôn đề cao tính an toàn,
đặc biệt là an tòan tài chính. Đây là vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại
và phát triển của doanh nghiệp. Để nâng cao hiệu quả hiệu quả sử dụng vốn, một

16


trong các phương pháp hết sức quan trọng là doanh nghiệp phải thiết lập và
nghiên cứu các đặc trưng tài chính của đơn vị mình thông qua các chỉ tiêu đánh
giá hiệu quả sử dụng vốn.
Vì vậy, để hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu thống kê về tình hình họat động tài
chính của công ty cổ phần lắp máy điện nước, trước yêu cầu mở rộng sản xuất
và quản lý kinh tế sao cho có hiệu quả mang lại lợi nhuận cao nhất, với hệ thống
chỉ tiêu hiện có tại đơn vị có thể phân tích, nhận định được tình hình tài chính
của doanh nghiệp và đưa ra nhưng kiến nghị thiết thực nhất.
Như vậy hệ thống chỉ tiêu bao gồm:
- Chỉ tiêu qui mô vốn sản xuất
+ Qui mô vốn cố định
+ Qui mô vốn lưu động
- Chỉ tiêu cấu thành và kết cấu vốn
+ Chỉ tiêu cấu thành vốn kinh doanh

+ Chỉ tiêu cấu thành vốn cố định
+ Chỉ tiêu cấu thành vốn lưu động
- Chỉ tiêu về tình hình trang bị vốn
- Chỉ tiêu hiệu quả của việc sử dụng vốn
+ Chỉ tiêu hiệu quả vốn kinh doanh : Hiệu suất, vòng quay vốn, mức doanh
lợi
+ Chỉ tiêu hiệu quả vốn chủ sở hữu: Hiệu suất, vòng quay vốn, mức doanh
lợi
+ Chỉ tiêu hiệu quả vốn cố định: Hiệu suất mức, doanh lợi, suất tiêu hao
TSCĐ
+ Chỉ tiêu hiệu quả vốn lưu động: Hiệu quả chung, tốc độ chu chuyển vốn.
Khi nghiên cứu tình hình tài chính doanh nghiệp, chỉ tiêu qui mô vốn cho
ta biết khả năng tài chính của doanh nghiệp cũng như việc phát triển và bảo toàn
nguồn vốn này ra sao thông qua phương pháp so sánh tăng trưởng qua các năm.
Biết được khả năng tài chính của doanh nghiệp thông qua chỉ tiêu qui mô vốn,
nhưng đi sâu mổ xẻ vấn đề này ta phải xem xét thực chất của nguồn hình thành
và kết cấu vốn thông qua chỉ tiêu cấu thành và kết cấu vốn. Với qui mô vốn như
vậy, tình hình trang bị cho lao động như thế nào có phù hợp hay không lại được
nghiên cứu qua chỉ tiêu mức trang bị vốn cho một lao động. Các chỉ tiêu nói trên
đã cho phép hình dung một cách khái quát về khả năng sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Nhưng khi nghiên cứu về tình hình tài chính của doanh nghiệp
chỉ có các chỉ tiêu như vậy là không đầy đủ (qui mô vốn, cấu thành và kết cấu
17


vốn, mức trang bị 1 lao động) mà phải đánh giá được hiệu quả của việc sử dụng
vốn ra sao thông qua các chỉ tiêu về khả năng sinh lời, tốc độ luân chuyển vốn.
Vì nó phản ánh quan hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá trình sản xuất kinh
doanh thông qua thước đo tiền tệ hay cụ thể là mối tương quan giữa chi phí bỏ
ra với kết quả thu được. Như vậy với hệ thống chỉ tiêu hiện có trong doanh

nghiệp ta có thể phân tích một cách đầy đủ về tình hình sản xuất kinh doanh
cũng như hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
Hệ thống chỉ tiêu nói trên có thể khai thác một cách dễ dàng trong sổ sách
kế toán, các chế độ báo cáo thống kê và tài chính của doanh nghiệp.

18


CHƯƠNG II
PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH THỐNG KÊ TÌNH HÌNH
TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN LẮP MÁY ĐIỆN NƯỚC VÀ
XÂY DỰNG HÀ NỘI
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH THỐNG KÊ

1. Đặc điểm và yêu cầu của phân tích thống kê.
Cơ sở để phân tích thống kê là hệ thống số liệu thống kê được thu thập
thông qua quá trình xây dựng hệ thống chỉ tiêu của từng đơn vị tổng thể để tính
toán được các trị số của chi tiêu đó. Từ các đặc trưng riêng của tổng thể qua xử
lý số liệu ta chuyển thành các đặc trưng chung của tổng thể, chuẩn bị cho công
tác phân tích.
Căn cứ vào kết quả xử lý số liệu, kết hợp với mục đích nghiên cứu ta lựa
chọn xây dựng những mô hình phân tích phù hợp trên cơ sở áp dụng một cách
linh hoạt các phương pháp phân tích thống kê. Các mô hình phân tích phải nêu
rõ những vấn đề cần giải quyết trong phạm vi nhất định và phải phân tích trên cơ
sở phân tích lý luận lý luận kinh tế xã hội. Phải căn cứ vào toàn bộ sự kiện và
đặt chúng trong mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau.
Như vậy đặc điểm cơ bản của phân tích thống kê là lấy số liệu thống kê
làm tư liệu để phân tích, thông qua các công cụ là phương pháp thống kê.
2. Vấn đề cơ bản của phân tích thống kê
Phân tích thống kê là giai đoạn cuối cùng của quá trình nghiên cứu thống

kê, từ các biểu hiện về lượng nhằm nên lên một cách tổng hợp bản chất và tính
quy luật của các hiện tượng và quá trình kinh tế - xã hội trong các điều kiện thời
gian và không gian cụ thể. Khi phân tích thống kê, người ta căn cứ vào các tài
liệu báo cáo và điều tra đã được tổng hợp để tính các chỉ tiêu cần thiết, so sánh
và biểu hiện các chỉ tiêu đó dưới dạng bảng số liệu hoặc đồ thị thống kê, từ đó
rút ra những kết luận đáp ứng mục đích nghiên cứu và đề xuất các biện pháp giải
quyết.
Vấn đề cơ bản của phân tích thống kê là phải tìm ra tính qui luật và bản
chất của hiện tượng để từ đó rút ra kết luận và đề ra hướng giải quyết.
3. Nhiệm vụ của phân tích thống kê
Nhiệm vụ chủ yếu của phân tích là đánh giá tình hình thực hiện các mục
tiêu, chỉ ra những nguyên nhân hoàn thành hoặc không hoàn thành các mục tiêu,
nêu rõ sự biến động và xu hướng phát triển của hiện tượng nghiên cứu trong mối
quan hệ với các hiện tượng có liên quan, phát hiện ra các năng lực tiềm tàng có
19


thể khai thác trong doanh nghiệp, chỉ ra những thuận lợi và khó khăn, những yếu
tố thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp. Từ đó có thể dự đóan
sự phát triển trong tương lai.
Trong phân tích thống kê, không có mẫu báo cáo phân tích nào có thể áp
dụng cho mọi trường hợp; mà tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu vào điều kiện
cụ thể về nội dung và đặc điểm của hiện tượng, về nguồn số liệu hiện có mà xây
dựng những mô hình phân tích phù hợp trên cơ sở áp dụng một cách linh hoạt
các phương pháp phân tích thống kê. Trong nhiệm vụ cụ thể cần phần biệt phân
tích tĩnh và phân tích động, từ đó có thể kết hợp với nhau trong quá trình phân
tích. Phân tích tĩnh là phân tích hiện tượng ở trạng thái đứng yên trong tổng thể
ví dụ: cơ cấu, nghiên cứu độ đồng đều, độ phân tán). Phân tích động, phân tích
sự biến động ở thời gian khác nhau để tìm ra qui luật biến động, mức độ biến
động từ đó tìm ra mức độ ảnh hưởng của các nhân tố và vai trò của các nhân tố.

II. CHỌN PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH THỐNG KÊ TÌNH HÌNH TÀI
CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN LẮP MÁY ĐIỆN NƯỚC VÀ XÂY DỰNG
HÀ NỘI.

1. Nguyên tắc chọn phương pháp
- Đảm bảo tính hệ thống: tức là khi lựa chọn các phương pháp phải có
mối liên hệ hữu cơ với nhau. Phải xem xét kỹ lưỡng mối liên hệ của phương
pháp với đặc điểm của hiện tượng nghiên cứu vì không phải bất kỳ một phwong
pháp nào cũng có thể phân tích được tất cả cá hiên tượng kinh tế và cũng không
phải chỉ sử dụng một phương pháp để phân tích. Để có thể kết hợp nhiều
phương pháp với nhau tạo thành một hệ thống các phương pháp tính đúng bản
chất và tìm ra được quy luật của hiện tượng. Ngoài ra khi lựa chọn các phương
pháp phải phù hợp với các phương pháp phân tích đã quy định trong nước và
các tổ chức quốc tế, các nước khác trên thế giới về nội dung, phạm vi và phương
pháp phân tích nhờ đó đảm bảo việc so sánh được.
- Đảm bảo tính hướng đích: đối tượng nghiên cứu của thống kê thường
là hiện tượng phức tạp. Vì vậy việc nghiên cứu phải có quá trình chặt chẽ và
khoa học, các phương pháp phải được áp dụng một cách khoa học và hiệu quả.
Điều đó có nghĩa là phương pháp đưa ra phải mô tả được sự kiện hiện tượng
khác nhau trong quá trình hoạt động kinh tế xã hội, từ mặt lượng sang mặt chất
với nhiều góc độ khác nhau. Để từ đó đưa ra những nhận xét và kết luận cần
thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

20


- Đảm bảo tính khả thi: tức là phương pháp được lựa phải phổ biến và
phù hợp với điều kiện nghiên cứu, đồng thời phải đáp ứng được yếu cầu trong
nghiên cứu
- Đảm bảo tính hiệu quả: mỗi phương pháp phân tích nghiên cứu được

lựa chọn phải đáp ứng được những yêu cầu của công tác nghiên cứu, mỗi
phương pháp phải bộc lộ những ưu nhượng điểm khác nhau nên khi sử dụng
phải quan tâm đến thông tin thu thập được thời gian nghiên cứu và đặc biệt phải
phụ thuộc vào nhiệm vụ phân tích của hệ thống.
- Đảm bảo tính thích nghi: phương pháp nghiên cứu phải phù hợp với
cuộc điều tra, phù hợp với nội dung điều tra. Không sử dụng các phương pháp
không có thực hoặc những phương pháp không phù hợp trong quá trình điều tra
tìm hiểu.
2. Các phương pháp thống kê hiện dùng để phân tích tình hình hoạt
động tài chính tại Công ty cổ phần lắp máy điện nước và xây dựng Hà Nội.
Tại doanh nghiệp các phương pháp thống kê hiện dùng để phân tích tình
hình hoạt động tài chính gồm có: Phương pháp phân tổ, phương pháp bảng
thống kê, phương pháp dãy số biến động theo thời gian, phương pháp chỉ số.
- Phương pháp phân tổ được dùng để phân chia chỉ tiêu lao động (theo giới
tính, theo trình độ, theo đơn vị...), phân chia chỉ tiêu doanh thu (theo ngành sản
xuất kinh doanh, theo đơn vị), phân chia chỉ tiêu vốn (theo đơn vị, theo tính chất
luân chuyển, theo nguồn hình thành), phân chia kết quả sản xuất kinh doanh,
phân chia các khoản nộp ngân sách...
Từ phương pháp phân tổ ta có thể sử dụng các phương pháp phân tích
thống kê khác như phương pháp chỉ số, phương pháp cân đối.
- Phương pháp bảng thống kê được dùng ở hầu hết các chỉ tiêu thống kê
hiện có tại doanh nghiệp. Trình bày số liệu thông qua biểu bảng sẽ hợp lý, khoa
học và rõ ràng hơn, từ đó áp dụng các phương pháp chỉ số, phân tổ thống kê để
phân tích.
- Phương pháp dãy số biến động theo thời gian có hai yếu tố: thời gian và
chỉ tiêu phản ánh hiện tượng nghiên cứu. Tại doanh nghiệp dãy số biến động
theo thời gian dùng để phân tích các chỉ tiêu về tốc độ phát triển của các chỉ tiêu
kết quả sản xuất kinh doanh như: sản lượng, doanh thu, lợi nhuận, thuế phải
nộp; các yếu tố của quá trình sản xuất như: lao động, vật tư...
- Phương pháp chỉ số chỉ sử dụng ở mức độ nào đó khi phân tích sự biến

động của giá cả đối với vật tư hàng hoá, TSCĐ (thường dùng chỉ số cá thể và chỉ
số tổng hợp).
21


3. Chọn phương pháp phân tích thống kê tình hình hoạt động tài chính
tại Công ty cổ phần lắp máy điện nước và xây dựng Hà Nội.
Phân tích tình hình hoạt động tài chính của doanh nghiệp, giúp cho doanh
nghiệp đưa ra những quyết định chính xác hơn trong quá trình sử dụng vốn,
nhằm mang lại hiệu quả cao. Vì vậy ta phải xem xét, đánh giá hiệu suất sử dụng
vốn cũng như mức doanh lợi của việc sử dụng vốn trong quá trình sản xuất kinh
doanh. Từ đó phân tích, đánh giá ảnh hưởng của hiệu quả sử dụng vốn bộ phận
đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh chung, phát hiện ra tính qui luật, đề ra các
biện pháp khai thác khả năng tiềm tàng, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
của doanh nghiệp.
Với nhiệm vụ nêu trên, các phương pháp phân tích thống kê cần dùng là:
- Phương pháp phân tổ
- Phương pháp bảng kê
- Phương pháp dãy số biến động theo thời gian
- Phương pháp chỉ số
- Phương pháp đồ thị thống kê
Xét về đặc điểm cơ bản của các chỉ tiêu phân tích tình hình tài chính đó là
chỉ tiêu giá trị có quan hệ mật thiết với nhau, có thể phân thành các tổ tiểu tổ và
so sánh theo thời gian của từng chỉ tiêu. Vì vậy các phương pháp phân tích nêu
trên là có thể vận dụng được.
4. Đặc điểm vận dụng của các phương pháp
- Phân tổ thống kê là phương pháp cơ bản của tổng hợp thống kê, là một
trong những phương pháp quan trọng của phân tích thống kê. Phương pháp nay
dễ ứng dụng trong thực tế có thể phân tổ theo một tiêu thức họăc nhiều tiêu thức.
Với đặc điểm của chỉ tiêu tài chính mà cụ thể là các chỉ tiêu về vốn ta có thể

phân tổ theo một tiêu thức hoặc nhiều tiêu thức.
- Phương pháp dãy số theo thời gian: do đặc điểm của phương pháp này có
2 thành phần là thời gian và các mức độ cho phép ta có thể nghiên cứu biến
động theo thời gian tìm ra tính qui luật của hiện tượng. Hệ thống chỉ tiêu tài
chính được nghiên cứu theo phương pháp dãy số theo thời gian sẽ biết được sự
biến động của từng loại vốn qua các năm, sự biến động đó bị tác động bởi các
nguyên nhân nào thông qua cách phân tổ các mức độ.
- Phương pháp chỉ số nghiên cứu sự biến động về mức độ của hiện tượng
qua thời gian, phân tích mức độ ảnh hưởng và xác định vai trò của các nhân tố
khác nhau đối với sự biến động chung của hiện tượng. Ví dụ: phân tích biến
động của doanh thu do ảnh hưởng của hiệu suất sử dụng vốn; hoặc phân tích
22


biến động của lợi nhuận thuần do ảnh hưởng của mức doanh lợi trên vốn kinh
doanh...
5. Kiến nghị về phương pháp phân tích tình hình hoạt động tài chính
tại doanh nghiệp
Về số lượng phương pháp phân tích đang áp dụng tại doanh nghiệp như
vậy là chưa đầy đủ, cần thêm các phương pháp sau:
- Phương pháp chỉ số được nêu ở trên, nhưng số chỉ tiêu dùng phương pháp
này chưa nhiều (mới chỉ dùng trong phân tích giá cả), vì vậy cần sử dụng
phương pháp này rộng rãi hơn.
- Phương pháp đồ thị
Như vậy các phương pháp phân phân tích tình hình tài chính của doanh
nghiệp gồm:
5.1. Phương pháp phân tổ
5.1.1. Khái niệm, ý nghĩa và nhiệm vụ của phân tổ thống kê.
a/ Khái niệm: Phân tổ thống kê là căn cứ vào một (hay một số) tiêu thức
nào đó để phân chia các đơn vị thuộc hiện tượng nghiên cứu thành các tổ (tiểu

tổ) có tính chất khác nhau.
Tiêu thức phân tổ là tiêu thức thống kê được lựa chọn làm căn cứ để tiến
hành phân tổ thống kê và việc lựa chọn này phải được giải quyết chính xác phù
hợp với mục đích nghiên cứu và điều kiện lịch sử cụ thể.
b/ Ý nghĩa: Phân tổ thống kê là phương pháp được dùng rất phổ biến trong
tất cả các giai đoạn nghiên cứu thống kê. Trong điều tra thống kê dùng trong
điều tra chọn mẫu, trong tổng hợp thống kê thì phân tổ là phương pháp cơ bản
để tổng hợp thống kê, trong phân tích thống kê phân tổ là cơ sở để vận dụng các
phương pháp thống kê khác.
c/ Nhiệm vụ:
- Phân chia các loại hình kinh tế xã hội của hiện tượng nghiên cứu.
- Biểu hiện kết cấu của hiện tượng nghiên cứu: Xác định chính xác các bộ
phận có tính chất khác nhau trong tổng thể, sau đó tính toán tỷ trọng của từng bộ
phận.
- Biểu hiện mối liên hệ giữa các tiêu thức.
5.1.2 Các loại phân tổ thống kê
a/ Phân tổ theo một tiêu thức (phân tổ giản đơn)
- Khái niệm: Phân tổ theo một tiêu thức là xây dựng tần số phân tổ của một
tập hợp theo một tiêu thức. Đây là cách phân tổ giản đơn nhất và cũng là cách
thường được sử dụng nhất.
23


- Xác định số tổ và các khoảng cách tổ: Tuỳ thuộc vào phân tổ theo tiêu
thức số lượng hay tiêu thức thuộc tính:
+ Khi phân tổ và khoảng cách tổ: các tổ được hình thành thường do các
loại hình khác nhau, song không nhất thiết mỗi loại hình hình thành nên một tổ.
+ Khi phân tổ theo tiêu thức số lượng: tuỳ vào lượng biến nhiều hay ít mà
giải quyết khác nhau:
Trường hợp số lượng các lượng biến ít thì mỗi lượng biến có thể hình thành

nên một tổ và gọi là phân tổ không có khoảng cách tổ.
Trường hợp số lượng các lượng biến thiên nhiều: tuỳ thuộc vào quan hệ
lượng chất cụ thể xem lượng biến tích luỹ dần đến một mức độ nào đó thì chất
mới thay đổi và làm nẩy sinh một tổ mới. Mỗi tổ gồm một phạm vi lượng biến
với hai giới hạn là giới hạn trên và giới hạn dưới.
Chênh lệch giữa giới hạn trên và giới hạn dưới gọi là khoảng cách tổ và gọi
là phân tổ có khoảng cách tổ. Khoảng cách tổ không nhất thiết phải đều nhau.
b/ Phân tổ kết hợp: là cách phân tổ theo nhiều tiêu thức và lần lượt theo
từng tiêu thức một, ở mỗi tiêu thức cách làm như phân tổ giản đơn, cần chú ý
sắp xếp các thứ tự tiêu thức.
c/ Phân tổ lại:
- Là thành lập các tổ mới trên cơ sở các tổ cũ đã có sẵn từ trước nhằm đáp
ứng mục đích nghiên cứu nào đó.
- Vận dụng: thường vận dụng trong các trường hợp các tài liệu trước được
phân tổ không thống nhất với nhau nên không so sánh được, hoặc các tài liệu
trước được phân thành quá nhiều số tổ nhỏ nên chưa phân biệt được các loại
hình khác nhau, hoặc các tài liệu phân tổ cũ chưa hợp lý và không phản ánh
đúng tình hình thực tế.
- Phương pháp: lập các tổ mới bằng cách thay đổi các khoảng cách tổ của
phân tổ cũ, hoặc lập các tổ mới theo tỷ trọng của mỗi tổ chiếm trong tổng thể.
d/ Phân tổ nhiều chiều
- Khái niệm: phân tổ nhiều chiều là loại phân tổ mà ở đó các tiêu thức
nguyên nhân đồng thời làm các tiêu thức phân tổ. Vì vậy người ta phải đưa các
tiêu thức phân tổ về dạng một tiêu thức tổng hợp, rồi căn cứ vào một tiêu thức
này để phân tổ nhưng phân tổ theo một tiêu thức.
Tiêu thức tổng hợp có ý nghĩa là với lượng biến của các tiêu thức khác
nhau có trị số và đơn vị tính khác nhau khi đó được đưa về dạng tỷ số thì đã xoá
bỏ được sự khác nhau đó. Vì vậy, mặc dù các tiêu thức khác nhau nhưng nếu các

24



tỷ số của nó giống nhau thì sẽ có vai trò như nhau trong việc biểu hiện tính chất
của hiện tượng.
5.2. Phương pháp bảng thống kê
a/ Khái niệm: bảng thống kê là hình thức biểu hiện các hình thức tài liệu
thống kê một cách hợp lý, có hệ thống rõ ràng nhằm nêu nên các biểu hiện về
lượng của các hiện tượng nghiên cứu.
b/ Cấu thành của bảng thống kê:
- Theo hình thức gồm 3 bộ phận:
+ Các hàng ngang và cột dọc: phản ánh quy mô của bảng.
+ Tiêu đề: phản ánh nội dung của bảng, gồm hai loại là tiêu đề chung
phản ánh tên bảng, tiêu đề nhỏ là các tiêu đề hình thành trong các đầu bảng đầu
mục.
+ Các tài liệu và con số: phản ánh các đặc trưng về lượng của hiện tượng
nghiên cứu.
- Theo nội dung gồm 2 bộ phận:
+ Chủ đề (chủ từ): giải thích đối tượng nghiên cứu gồm những đơn vị
loại hình nào.
+ Giải thích (tân từ): gồm các chỉ tiêu giải thích các đặc điểm của đối
tượng.
c/ Các loại bảng: gồm 3 loại
- Bảng giản đơn: phân chủ đề không phân tổ chỉ liệt kê các đơn vị.
- Bảng phân tổ: đối tượng nghiên cứu ở phần chủ thể được phân chia thành
các tổ.
- Bảng kết hợp: đối tượng nghiên cứu ở phần chủ thể được phân tổ từ 2 tiêu
thức trở lên.
d/ Yêu cầu của bảng thống kê
- Quy mô bảng không nên quá lớn
- Các chỉ tiêu đề, tiêu mục cần chính xác, gọn, dễ hiểu.

- Các chỉ tiêu giải thích cần sắp xếp hợp lý, phù hợp với mục đích nghiên
cứu.
- Các cột cần phải được ký hiệu
- Thống nhất cách ghi số liệu vào bảng theo các ký hiệu sau:
+ Các số liệu phải được ghi theo trình độ chính xác như nhau.
+ Nếu không có số liệu thì ghi dấu (-)
+ Nếu số liệu còn thiếu sẽ bổ sung sau thì ghi dấu (…)
+ Không có liên quan nếu biết sẽ vô nghĩa thì ghi dấu (x)
25


×