Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Quản trị marketing đề tài ai là khách hàng của starbucks

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.36 KB, 11 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
ĐẠI HỌC KINH TẾ


CASE STUDY
Học phần: Quản trị Marketing
Đề tài: “Ai là khách hàng của Starbucks”

Thành phố Huế, tháng 01/2016


Giới thiệu chung về tập đoàn Starbucks
Starbucks đầu tiên được mở ở Seattle, Washington, ngày 30 tháng 3 năm 1971,
do ba sinh viên tại Đại học San Francisco: Jerry Baldwin sư phạm tiếng anh , Zev
Siegl sư phạm lịch sử, Gordon Bowker nhà văn.
Cái tên Starbucks được lấy từ tác phẩm văn học Moby-Dick do Bowker đề
xuất (Ban đầu, hãng dự định lấy tên là Pequod cũng lấy cảm hứng từ tiểu thuyết
Moby-Dick). Sau này cái tên còn truyển cảm hứng cho việc đặt tên nhân vật trong
một bộ phim của Mỹ Battlestar Galactica (1978-2004) nhưng bỏ đi chữ “s” tức là
“Starbuck”. Nhưng những người khi xem phim thì vẫn liên tưởng đó là một cái tên
của công tý café Starbucks. Thời gian đó Starbucks như là một thương hiệu biểu
tượng của Mỹ.
Quán café đầu tiên của STB được đặt ở số 2000 đường Western Avenue từ
1971 tới 1976 sau đó được di chuyển đến số 1912 đường Pike Place Market. Thời
gian này thì công ty chưa bán hạt cà phê rang và cà phê chưa pha chế.
Hiện nay tập đoàn được điều hành bởi Howard Schultz, một người gia nhập
hãng vào năm 1982 với vai trò Giám đốc hoạt động bán lẻ và tiếp thị. Và Howard
Schultz như là một điều tự hào của người Seattle bên cạnh Bill Gates. Hai người được
xem như là người tài năng trong kinh doanh được sinh ra và lớn lên ở Seattle.



I. Mô tả cách thức Starbucks phân đoạn thị trường cà phê và chọn thị
trường mục tiêu trong thời gian đầu
1. Cách thức Starbucks phân đoạn thị trường cà phê
Trong thời gian đầu, Starbucks không phân ra nhiều đoạn thị trường, chỉ tập
trung vào phân khúc khá cao cấp, hướng đến những người “muốn trải nghiệm cùng
Starbucks” với nhũng dịch vụ cá nhân hoàn hảo và bầu không khí tuyệt vời.
* Tiêu thức địa lý:
Các thành phố, đô thị lớn ở Mỹ.
* Tiêu thức nhân khẩu:
- Nhóm khách hàng có thu nhập cao, chuyên nghiệp, trình độ học vấn cao.
- Phần lớn là phụ nữ da trắng có độ tuổi 24 – 44 tuổi.
* Tiêu thức tâm lý:
- Thích trải nghiệm cùng Starburks.
- Nơi khẳng định giá trị bản thân.
* Tiêu thức hành vi:
- Giao tiếp giữa người pha chế và khách hàng trong lúc uống café và khách
hàng có thể làm những gì mình thích.
- Khách hàng có thể đi cùng bạn bè hoặc đi một mình và nằm dài thoải mái trên
ghế đọc sách, thưởng thức những bản nhạc phù hợp tâm trạng.
2. Lựa chọn thị trường mục tiêu trong thời gian đầu
Thị trường mục tiêu là kinh doanh cà phê cho người sành ăn, cà phê hơi và cà
phê sữa, cung cấp cho khách hàng “nơi thứ ba” sau ngôi nhà và nơi làm việc, xây
dựng xung quanh quán cà phê lớn với dịch vụ cá nhân hoàn hảo và bầu không khí
tuyệt vời. Khách hàng mục tiêu của Starbucks trong thời gian này là những khách
hàng tương đối giàu có, chuyên nghiệp hơn, sống ở những thành phố lớn và có trình
độ học vấn cao hơn tầng lớp bình dân khác trong xã hội.
II. Mô tả sự thay đổi của khách hàng Starbucks? Sử dụng lý thuyết phân
đoạn thị trường và chọn thị trường mục tiêu để lý giải cho sự thay đổi đó?
1. Sự thay đổi của khách hàng Starbucks



1.1. Giai đoạn nên kinh tế khủng hoảng ảnh hưởng đến Starbucks
Năm 2007 đi vào lịch sử của Starbucks như một năm đáng để quên nhất. Giá
cổ phiếu của công ty theo chỉ số Nasdaq của thị trường chứng khoán Phố Wall đã sụt
giảm 42% trong năm đó, đưa Starbucks trở thành một trong những cổ phiếu có mức
giảm điểm tệ nhất trong lịch sử công ty.
Năm 2008, cơn bão khủng hoảng tài chính đã đánh mạnh vào nền kinh tế Mỹ.
Starbucks cũng không ngoại lệ khi đóng cửa hơn 800 cửa hàng tại Mỹ và cắt giảm lao
động nhiều nhất trong lịch sử của tập đoàn. Theo tổ chức tư vấn thương hiệu nổi tiếng
toàn cầu Interbrand, sự đi xuống của Starbucks còn là hậu quả của việc tăng trưởng
nóng trước đó nhiều năm.Tổng lợi nhuận giảm xuống 53%
Năm 2009: giá trị cổ phiếu cua Starbucks giảm 50%, tương ứng 10$/cổ phiếu
Một thời gian dài, Starbucks đã tự mình cuốn theo cuộc đua mở rộng hệ thống
cửa hàng. Starbucks dần rời xa nhóm khách hàng truyền thống. Sự thay đổi này ảnh
hưởng đến hoạt động kinh doanh của Starbucks. Tuy vậy, những khó khăn mà
Starbucks gặp phải không hoàn toàn do sai lầm của công ty. Khủng hoảng kinh tế
cũng là một trong những nguyên nhân. Giá nguyên vật liệu đầu vào khi đó ở thời kỳ
đỉnh cao, buộc hãng phải tăng giá bán sản phẩm. Trong khi đó, nỗi lo suy thoái và
lạm phát buộc người tiêu dùng, nhất là tại thị trường lớn nhất của Starbucks là Bắc
Mỹ, phải thắt lưng buộc bụng khiến doanh thu của hãng lao dốc. Ngoài ra, các hãng
đồ ăn nhanh như McDonald’s cũng đưa đồ uống cà phê vào thực đơn, hút mất của
Starbucks một lượng khách hàng hàng không nhỏ.
1.2. Starbucks tăng trưởng quá nhanh
Năm 1987, Starbucks đã có 11 cửa hàng và 100 nhân viên, và đã mơ ước xây
dựng thương hiệu cà phê nổi tiếng và tạo trải nghiệm đặc biệt cho khách hàng trong
các cửa hàng, hy vọng có thể mở rộng các cửa hàng từ bờ biển phía tây đến khắp
nước Mỹ.
Giấc mơ bắt đầu trở thành hiện thực và Starbucks đã trở thành một thương hiệu
lớn. Starbucks có một chút may mắn và sự nhạy bén trong kinh doanh. Trong 15 năm
đầu, Starbucks đã xây dựng được thương hiệu cà phê độc đáo này trên khắp nước

Mỹ, và xây dựng được một tổ chức dựa trên các giá trị.
Tăng trưởng và thành công có thể bao hàm rất nhiều sai lầm. Khi mở quá nhiều
cửa hàng và khi tiến hành rà soát lại một số cửa hàng hoạt động kém hiệu quả, STB
nhận ra rằng các cửa hàng bị buộc phải đóng cửa mới hoạt động chưa đầy 18 tháng.


Số tiền đầu tư và số tiền phải bỏ đi - những quyết định đó đã được đưa ra một cách
tùy tiện. Đó là một con đường rất nguy hiểm và kéo STB thụt lùi. STB cần phải tập
trung phát triển chất lượng dịch vụ khách hàng một cách có nguyên tắc chứ không
phải chạy theo số lượng.
1.3. Kết quả của sự thay đổi
Giai đoạn đầu, Starbucks sử dụng cùng một chương trình marketing cho cả 02
thị trường (Chuyên môn hóa sản phẩm). Nhưng sau đó, Starbucks đã đa dạng hóa sản
phẩm, thay đổi hương vị, mở rộng kênh phân phối để đáp ứng tốt hơn cho từng phân
khúc thị trường: cung cấp cà phê hòa tan Via cho những khách hàng không có điều
kiện để đến cửa hàng Starbucks có thể thưởng thức tại nhà, văn phòng hoặc trên
đường đi; bổ sung thêm một số hương vị vào cà phê đáp ứng thị hiếu của khách hàng;
mở rộng các kênh phân phối như rạp hát, quán ăn nhanh, máy bán hàng tự động,...
nhằm gia tăng doanh thu.
Kể từ năm đầu của thế kỉ XXI Starbucks bắt đầu vươn xa và có 6000 cửa hàng
tại hơn 30 quốc gia trên thế giới. Điều này đồng nghĩa với việc xa rời với những
khách hàng truyền thống và cũng mở ra một thị trường rộng mở vô cùng lớn.
Starbucks giờ đây đón nhận nhiều khách hàng với nhiều lứa tuổi, mức thu nhập, trình
độ và sắc tộc khác nhau. Starbucks mong muốn mở rộng trải nghiệm cho tất cả các
khách hàng, nhận và đáp ứng sở thích độc đáo và nhu cầu của họ. Khách hàng mục
tiêu được mở rộng dần sang cả nhóm khách hàng có thu nhập thấp hơn, học vấn thấp
hơn và ít chuyên nghiệp hơn (Nhóm khách hàng bình dân)
2. Lý giải sự thay đổi
Do quy mô ngày càng lớn, khách hàng của Starbucks cũng ngày nhiều hơn, với
nhiều đối tượng khách hàng khác nhau. Phân đoạn thị trường Startbucks cũng có

nhiều thay đổi. Phân khúc thị trường Starbucks khai thác là những khách hàng nam
và nữ ở mọi lứa tuổi: từ khách hàng trẻ tuổi cho đến khoảng trên 60 tuổi, có mức thu
nhập từ thấp, trung bình và cao. Họ đến với Starbucks không chỉ để đắm chìm hàng
giờ tại đây. Theo thống kê những khách hàng hiện tại thì đến 80% khách hàng đến
mua café take away để mang đi. Xét phân khúc theo vị trí địa lý, đó là thị trường ở đô
thị hay những thành phố lớn. Vị trí đặt quán café Starbucks đưa “không gian” cà phê
của mình lên trên trời qua các chuyến bay của 5 hãng hàng không, mở cửa hàng trên
du thuyền du lịch, thậm chí là cả trên tàu chiến Mỹ. Starbucks chấp nhận trả giá cao
để chiếm lĩnh các bất động sản ở vị trí trung tâm, nơi thương mại sầm uất và thu hút
nhiều du khách.


Sự thay đổi trên đã ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Starbucks, 80%
cà phê Starbucks được khách hàng tiêu dùng ngoài cửa hàng.
2.1. Những khách hàng này có mức thu nhập khá cao, chuyên nghiệp, có trình
độ học vấn khá cao và muốn được trải nghiệm: Starbucks lúc này là giảm giá sâu
nhằm thu hút họ đến cửa hàng.
2.2. Khách hàng là những người vẫn muốn uống cà phê cao cấp nhưng không
thể đến được cửa hàng hoặc tự pha chế cho mình: Starbucks cung cấp giải pháp cà
phê hòa tan Via.
2.3. Đối với những đối tượng trước đây thường không phải là khách hàng của
mình: Starbucks đã chọn Seattle Best Coffee để cung cấp cho khách hàng tại các máy
bán hàng tự động, xe cà phê, cửa hàng thức ăn nhanh…
III. Mức tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận của Starbucks có thể đạt
như trước “khủng hoảng” hay không? Tại sao?
1. Starbuck đã vượt qua khủng hoảng như thế nào?
Trong các năm 2007-2008, Starbucks rơi vào một cuộc khủng hoảng nghiêm
trọng, nhưng với tài lãnh đạo của CEO Howard Schultz, chuỗi cửa hiệu cà phê lớn
nhất thế giới này đã vượt qua được sóng gió. Hiện nay, Starbucks tiếp tục khẳng định
vị trí số 1 trên thị trường đồ uống cà phê, với 10 tỷ doanh thu hàng năm và 150.000

nhân viên.
Năm 2007 đi vào lịch sử của Starbucks như một năm đáng để quên nhất. Giá
cổ phiếu của công ty sụt giảm 42% trong năm đó, đưa Starbucks trở thành một trong
những cổ phiếu có mức giảm điểm tệ nhất trong chỉ số Nasdaq của thị trường chứng
khoán Phố Wall.
Những khó khăn mà Starbucks gặp phải không hoàn toàn do sai lầm của công
ty. Giá nguyên vật liệu đầu vào khi đó ở thời kỳ đỉnh cao, buộc hãng phải tăng giá
bán sản phẩm. Trong khi đó, nỗi lo suy thoái và lạm phát buộc người tiêu dùng, nhất
là tại thị trường lớn nhất của Starbucks là Bắc Mỹ, phải thắt lưng buộc bụng, đẩy
doanh thu của hãng lao dốc. Ngoài ra, các hãng đồ ăn nhanh nh McDonald’s cũng
đưa đồ uống cà phê vào thực đơn, hút mất của Starbucks một lượng khách hàng hàng
không nhỏ.
Sau 8 năm giữ vị trí Chủ tịch Hội đồng quản trị, Schultz chuyển sang nắm giữ
vị trí CEO sau sự ra đi của người tiền nhiệm Jim Donald vào giữa năm 2007. Sau 2


năm liên tục thực hiện những biện pháp cải tổ mạnh tay, Schultz đã đưa Starbucks trở
lại từ “cõi chết”.
- Tháng 1/2008, Starbucks đóng cửa 7.100 cửa hàng tại Mỹ trong vòng 3 giờ
rưỡi để đào tạo lại nhân viên pha chế làm sao để cho ra loại cà phê espresso hoàn hảo.
Tất cả các hãng tin lớn gồm CNN, ABC, NBC, CBS và Fox News cùng đưa tin về sự
kiện này. Starbucks chịu thiệt hại 6 triệu USD trong ngày hôm đó.
- Ngay sau khi nhậm chức CEO, Schultz đề nghị mọi người viết email thẳng
cho ông để bày tỏ ý kiến. Ngay lập tức, ông nhận được 5.000 bức email.
- Lần đầu tiên trong lịch sử công ty, Schultz thuê các chuyên gia tư vấn bên
ngoài để tìm ý tưởng đưa Starbucks thoát khỏi khó khăn.
- Cũng là lần đầu tiên trong lịch sử Starbucks, công ty này đầu tư vào một
chiến dịch quảng cáo lớn trên toàn quốc. Chương trình quảng cáo này được phát ngay
trong thời điểm mùa tranh cử tổng thống Mỹ mùa thua năm 2008, thu hút được 70
triệu lượt xem.

- Schultz bổ nhiệm một Giám đốc công nghệ. Vị trí này được trao cho Chris
Bruzzo, một nhân vật đến từ Amazon.com. Bruzzo đã tiến hành nâng cấp website của
Starbucks và cải thiện tổng thể hình ảnh truyền thông xã hội của công ty.
- Starbucks giới thiệu loại cà phê rang có tên Pike Place để chứng minh thái độ
nghiêm túc của mình đối với cà phê. Hãng quyết định chỉ giao cà phê còn nguyên hạt
cho các cửa hàng, yêu cầu nhân viên pha chế phải nghiền cà phê tại chỗ. Bất kỳ cốc
cà phê nào pha quá 30 phút mà chưa được sử dụng sẽ bị hủy bỏ.
- Schultz ra quyết định loại món bánh sandwich hâm nóng cho bữa sáng khỏi
thực đơn tại các cửa hiệu Starbucks. Ông cho rằng, mùi bánh sandwich quá mạnh đã
lấn át mùi hương cà phê trong kho. Vài tháng sau đó, sau khi đã cải thiện món bánh
sandwich bằng những thành phần lành mạnh hơn, Schultz mới cho đưa món này trở
lại thực đơn.
- Starbucks thay thế tất cả những máy tính tiền và máy tính đã cũ kỹ. Trước đó,
các cửa hiệu của Starbucks dùng những chiếc máy tính chạy Microsoft-DOS lỗi thời.
Ước tính, hệ thống mới giúp khách hàng của Starbucks tiết kiệm được 700.000 giờ
chờ đợi xếp hàng thanh toán.


- Vào tháng 1/2009, Starbucks đóng cửa 600 cửa hiệu, đồng nghĩa với sa thải
7% số nhân viên trên toàn cầu, tiết kiệm 850 triệu USD chi phí. Khoảng 70% trong số
các cửa hàng bị đóng cửa này mới chỉ được mở trong vòng 3 năm trước đó.
- Starbucks thay thế toàn bộ máy pha cà phê espresso bằng loại máy cao cấp
Mastrena có xuất xứ từ Thụy Sỹ.
- Schultz còn cải tổ toàn bộ hoạt động của chuỗi cung cấp để đưa sản phẩm tới
các cửa hiệu theo cách hiệu quả hơn và cải thiện công tác lưu kho hàng hóa. Năm
2008, chỉ có 3/10 đơn hàng của Starbucks được giao hàng hoàn hảo tới kho. Đến nay,
tỷ lệ này đã là 9/10.
- CEO của hãng bán lẻ Costco từng nói rằng, mất khách hàng trong bối cảnh
kinh tế đi xuống còn tốn kém hơn cả việc đầu tư để giữ khách. Làm theo lời khuyên
này, Schultz thực hiện phát tặng thưởng cho khách hàng. Đến tháng 7/2008, tổng số

phần thưởng mà khách hàng của Starbucks tích lũy được trên thẻ đã có trị giá lên tới
150 triệu USD.
- Starbucks cải tổ lại bộ phận giải trí, giảm bớt số lượng đĩa CD và đầu sách đã
bắt đầu có dấu hiệu quá nhiều trong các cửa hiệu của hãng.
- Schultz quyết định tiếp tục duy trì chế độ bảo hiểm y tế cho nhân viên. Điều
này đồng nghĩa với việc giữ vững các nguyên tắc của công ty. Vào năm 2009, chế độ
này tiêu tốn 250 triệu USD, tăng gần 50% tính trên mỗi nhân viên so với năm 2000.
Starbucks là công ty Mỹ đầu tiên thực hiện bảo hiểm y tế toàn diện và tặng cổ phiếu
cho nhân viên làm việc bán thời gian.
- Starbucks cải tổ bộ máy lãnh đạo, sau đó bổ sung thành viên từ các công ty
công nghệ vào Hội đồng quản trị, bao gồm Giám đốc hoạt động Sheryl Sandberg của
Google.
- Starbucks áp dụng thiết kế mới cho toàn bộ các cửa hiệu. Sau khi về đầu quân
cho Starbucks, nhà thiết kế nổi tiếng Arthur Rubinfeld đã sa thải gần như tất cả các
nhân viên thiết kế của hãng này. Các cửa hiệu được trang trí với màu sắc nhẹ nhàng
hơn, kiến trúc nổi bật hơn, ánh sáng đặc biệt và đồ đạc sắp xếp có chiến lược hơn.
- Vào tháng 6/2009, Schultz tuyên bố sẽ tăng lương cho nhân viên theo thành
tích công việc.
- Starbucks cam kết sẽ nâng gấp đôi khối lượng thu mua các loại cà phê có
chứng nhận bình đẳng thương mại hàng năm lên 18 triệu kg vào năm 2009.


- Schultz tìm cơ hội với cà phê uống liền, tung ra sản phẩm VIA. Sản phẩm này
được chào đón nồng nhiệt và Schultz được giới truyền thông ca ngợi.
2. Doanh thu và lợi nhuận sau khủng hoảng

Doanh thu của Starbucks giai đoạn 2008-2011

Doanh thu của Starbucks giai đoạn 2006-2015
Bảng: Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu Starbucks 2006-2015

Năm
2006/07 2007/08 2008/09 2009/10 2010/11 2011/12 2012/13 2013/14 2014/15
Tỷ lệ tăng
trưởng
20.86% 10.33% -5.86%
9.53%
9.27% 13.68% 11.97% 10.45% 16.51%
doanh thu


IV. Những khó khăn thương hiệu Starbucks phải đối mặt
tại thị trường Việt Nam. Phân tích sự thay đổi chiến lược của
Starbucks khi kinh doanh tại nước ta
1. Những khó khăn mà thương hiệu Starbucks đang đối diện tại thị trường
Việt Nam hiện nay
Với vị trí là quốc gia xuất khẩu cà phê lớn thứ hai trên thế giới, mặc dù sản
lượng cà phê cao cấp mà Starbucks sử dụng là Arabica chỉ chiếm 6 - 7%, nhưng cũng
đủ để hãng này sử dụng trong giai đoạn đầu thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Có
thể, việc mở rộng chuỗi cửa hàng sẽ làm cho Starbucks gặp khó về nguồn cung chất
lượng cao.
Vậy bài toán mà chuỗi cửa hàng cà phê lớn nhất thế giới - Starbucks, phải đối
mặt là gì? Chính là "gu" thưởng thức rất riêng của người Việt khi xem cà phê không
phải là thức uống nhanh, trong khi với Starbucks - cà phê vừa là fastfood, vừa là
thưởng thức. Bởi vậy, bước chân vào thị trường Việt Nam, hãng đồ uống này sẽ phải
cạnh tranh trực tiếp với 2 đối thủ vốn đã có "tiếng" và có độ phủ ở mọi phân khúc
khách hàng là Trung Nguyên, Highlands, hay Gloria Jeans. Thực tế, nếu như
Highlands và Gloria Jeans giành được sự ưu ái của phân khúc trung lưu và cao cấp,
giới văn phòng, giới trẻ, thì Trung Nguyên lại đậm chất "bình dân" hơn khi có đủ đối
tượng khách hàng, từ giới văn phòng, người có thu nhập cao đến giới trẻ, người buôn
bán, thu nhập trung bình.

Khảo sát về thói quen uống cà phê của người Việt cho thấy có đến 44,7%
người tiêu dùng lựa chọn yếu tố khẩu vị (trong đó cà phê có vị đắng và mùi thơm
được ưa thích nhất); 39,9% chọn phong cách quán (yên tĩnh, sang trọng, dễ tụ tập bạn
bè), và chỉ có 15,4% lựa chọn nhãn hiệu. Đây sẽ là "bài toán khó" để Starbucks tìm ra
lời giải: làm thế nào để tạo sự thích nghi với văn hóa cà phê Việt?
Nếu như các hãng fastfood nổi tiếng thế giới lựa chọn hình thức nhượng quyền
làm bàn đạp để thâm nhập thị trường nước ngoài, thì Starbucks lại nói không với hình
thức này. Ba mô hình kinh doanh thường được hãng này lựa chọn là: tự thành lập và
quản lý các cửa hàng Starbucks; liên doanh với công ty địa phương để xây dựng và
quản lý các chuỗi cửa hàng; cấp phép hoạt động cho một công ty và kiểm soát với
những điều kiện hết sức ngặt nghèo.
2. Phân tích sự thay đổi chiến lược của Starbucks khi kinh
doanh tại nước ta


Thực tế tại châu Á, thị trường ghi dấu ấn thành công của Starbucks là Trung
Quốc, và mới đây là Ấn Độ: hãng cũng đã thâm nhập bằng chính các liên doanh. Lần
này với Việt Nam, Starbucks lại không lựa chọn hình thức liên doanh, mà thông qua
cấp phép hoạt động cho một công ty duy nhất là Coffee Concepts để xây dựng chuỗi
coffee Starbucks tại Việt Nam.
Không hổ danh tên tuổi của một trong những thương hiệu đắt giá bậc nhất thế
giới, chiến lược kinh doanh mà hãng này lựa chọn ở từng quốc gia đã giúp Starbucks
gặt hái được nhiều thành công. Theo một chuyên gia về thương hiệu, lựa chọn liên
doanh ở một thị trường "khó tính" và không có văn hóa sử dụng cà phê như Trung
Quốc hay Ấn Độ là bước đi khôn ngoan của hãng này để tránh sự mạo hiểm. Trong
khi đó tại Việt Nam, Starbucks gặp khá nhiều thuận lợi khi người tiêu dùng đã có
"văn hóa" uống cà phê từ rất lâu đời, và một bộ phận giới trẻ dễ thích nghi với xu
hướng tiêu dùng mới, hiện đại. Do vậy, vấn đề quan trọng nhất với Starbucks tại thị
trường Việt Nam chính là năng lực quản lý chuỗi vận hành hiệu quả.
Stabucks đã nhắm đúng khi chọn Coffee Concepts Việt Nam trực thuộc Tập

đoàn Maxim Hồng Kông - vốn có nhiều kinh nghiệm trong quản lý chuỗi 130 cửa
hàng hiện đại tại Hồng Kông và Trung Quốc. Với mong muốn của ông Jinlong Wang
- Chủ tịch Starbucks khu vực châu Á - Thái Bình Dương, muốn đưa Starbucks trở
thành "nơi thứ ba", bên cạnh văn phòng và gia đình, thì sự hiện diện của hãng này sẽ
tạo nên cuộc chiến tại thị trường cà phê Việt Nam.



×