Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Câu hỏi ôn thi sở văn hóa VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.91 KB, 52 trang )

CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
Câu 1: Trình bày khái niệm định nghĩa và các chức năng của văn hóa. Theo
anh (chị) chức năng nào của văn hóa là quan trọng nhất.
1. Định nghĩa văn hóa
Từ " văn hóa" có rất nhiều nghĩa. Xét về phạm vi bao quát, "văn hóa" được
dùng để chỉ những khái niệm có nội hàm hết sức khác nhau. Trong Tiếng Việt, văn
hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉhọc thức (trình độ văn hoá), lối
sống ( nếp sống văn hoá); theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ văn minh của một
giai đoạn (văn hoá Đông Sơn),...Trên thế giới, ủy ban UNESCO của Liên Hợp
Quốc thì xếp văn hoá bên cạnh khoa học và giáo dục, tức là đặt hai lĩnh vực này ra
ngoài khái niệm văn hoá. Trong khi theo nghĩa rộng thì thực ra văn hoá bao gồm tất
cả. Chính với cách hiểu rộng này, văn hoá mới là đối tượng đích thực của văn hoá
học.
Xét về quan hệ giữa các thành tố, phần lớn các định nghĩa đều coi văn hoá như
một phép cộng đơn thuần của những tri thức bộ phận. Định nghĩa văn hóa trong các
từ điển và các công trình nghiên cứu hầu hết đều mở đầu bằng câu "Văn hóa là một
tập hợp (phức hợp) của các giá trị...". Quan niệm cảm tính này là sản phẩm của
lịch sử, của thời kỳ chia tách các khoa học - khi mà văn hóa chưa được coi là đối
tượng của một khoa học độc lập. Cũng có khuynh hướng định nghĩa văn hóa như
một dạng hoạt động: Theo L.White, văn hóa là một phạm trù khoa học biểu thị một
lĩnh vực hoạt động đặc biệt chỉ có ở riêng xã hội loài người, với những quy luật
hành chức và phát triển riêng của mình
Việc phân tích các định nghĩa hiện có đã dẫn chúng tôi đến một định nghĩa về
văn hoá như sau :
Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác
giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.


2. Đặc trưng và chức năng của văn hóa
Tính hệ thống- chức năng tổ chức xã hội


-

Tính hệ thống là tính đặc trưng nhất của văn hóa, phản ánh tính đa dạng do

con người sáng tạo ra. Đặc trưng này cần để phân biệt hệ thống với tập hợp. Nó giúp
phát huy những mối liên hệ mật thiết giữa các hiện tượng, sự kiện của một nền văn
hóa, phát hiện những đặc trưng, những quy luật hình thành của nó.
Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa với tư cách là vật thể bao trùm của xã hội
thể hiện chức năng tổ chức xã hội. Chính văn hóa thường xuyên làm tăng độ ổn định
xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện cần thiết để ứng phó với môi trường
sống (tự nhiên và xã hội) của mình. Nó là nền tảng của xã hội nên được gọi là nền
văn hóa
Tính giá trị- chức năng điều chỉnh xã hội
-

Văn hóa do con người sáng tạo ra trong lịch sử cho nên nó chứa đựng tính

người, hữu ích cho con người. Văn hóa theo nghĩa đen là trở thành đẹp, có giá trị.
Tính giá trị là để phân biệt với phi giá trị là thước đo giá trị nhân bản của con người.
Tính giá trị của văn hóa có thể chia theo:
+ Mục đích: văn hóa gồm giá trị vật chất và giá trị tinh thần
+ Theo giá trị: chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ
+ Theo thời gian: giá trị vĩnh cửu, giá trị nhất thời (đã lỗi thời, đang hiện hành hoặc
đang hình thành)
Văn hóa có chức năng điều chỉnh xã hội. Nhờ chức năng này của văn hóa mà
giúp cho xã hội được trạng thái cân bằng động, không ngừng tự hoàn thiện và thích
ứng với biến động của môi trường, giúp định hướng các chuẩn mực làm động lực
cho sự phát triển của xã hội.
Tính nhân sinh- chức năng giao tiếp
-


Tính nhân sinh cho phép phân biệt văn hóa như một hiện tượng xã hội do con

người sáng tạo ra khác với giá trị tự nhiên. Do mang tính nhân sinh văn hóa trở
thành sợi dây nối liền con người với con nguời thực hiện chức năng giao tiếp và có
tác dụng liên kết họ lại với nhau.
Tính lịch sử- chức năng giáo dục


-

Tính lịch sử của văn hóa cho phép phân biệt văn hóa như một sản phẩm của cả

quá trình và được tích lũy qua nhiều thế hệ với văn minh như một sản phẩm cuối
cùng chỉ trình độ phát triển của từng giai đoạn. Tính lịch sử tạo cho văn hóa một bề
dày, một chiều sâu. Tính lịch sử được duy trì bằng truyền thống văn hóa . Truyền
thống văn hóa là những giá trị tồn tại ổn định được tích lũy và tái tạo trong cộng
đồng trải qua không gian và thời gian được đúc kết thành những khuôn mẫu xã hội,
được định hình dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán, nghi lễ, pháp luật và dư
luận.
Truyền thống văn hóa tồn tại nhờ giáo dục vì thế văn hóa có chức năng giáo
dục. Nhờ chức năng này văn hóa có vai trò quyết định trong việc hình thành nhân
cách con người. Từ chức năng này văn hóa có thêm 1 chức năng phát sinh là đảm
bảo tính kế tục của lịch sử. Đó là thứ gen xã hội di truyền phẩm chất con người cho
các thế hệ sau.
Với các chức năng trên, chứng tỏ văn hoá có một đời sống riêng, quy luật hoạt
động

riêng


nhưng

lại

không

nằm

ngoài

kinh

tế



chính

trị.

Vì sự phát triển và hoàn thiện con người và xã hội là mục tiêu cao cả của văn hoá.
Chức năng quan trọng nhất là chức năng giáo dục
Truyền thống văn hóa tồn tại được nhờ giáo dục. Chức năng giáo dục là chức
năng quan trọng của văn hóa. Nhưng văn hóa thực hiện chức năng giáo dục không
chỉ bằng những giá trị đã ổn định (truyền thống), mà còn bằng cả những giá trị
đang hình thành. Các giá trị đã ổn định và những giá trị đang hình thành tạo thành
một hệ thống chuẩn mực mà con người hướng tới. Nhờ nó mà văn hóa đóng vai trò
quyết định trong việc hình thành nhân cách ở con người, trồng người (dưỡng dục
nhân cách). Một đứa trẻ sau khi ra đời nếu được sống với cha mẹ, nó sẽ được giáo
dục theo truyền thống văn hóa nơi nó sinh ra, còn nếu bị rơi vào rừng, nó sẽ mang

tính cách của loài thú. Không phải ngẫu nhiên mà trong các ngôn ngữ phương Tây,
từ “văn hóa” (culture, cultura) đều có chứa một nghĩa chung là chăm sóc, giáo
dục…


Dễ dàng nhận thấy chức năng bao trùm của văn hóa là chức năng giáo dục, nghĩa là
định hướng xã hội, định hướng lý tưởng, đạo đức và hành vi con người vào điều
hay lẽ phải, theo đúng chuẩn mực xã hội.


Nó bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp, loại bỏ những sai lầm

và thấp hèn tồn tại trong tư tưởng, tình cảm mỗi người.


Nâng cao dân trí. Đó là nâng cao trình độ hiểu biết, trình độ kiến thức nhân

dân, bao gồm nhiều lĩnh vực: chính trị, văn hóa, khoa học kĩ thuật, …


Bồi dưỡng những phẩm chất lành mạnh, luôn luôn hướng con người tới

chân thiện mỹ để không ngừng hoàn thiện bản thân mình. Văn hóa giúp con người
biết được tốt xấu, thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Ví Dụ :
Tác phẩm “Cơ sở văn hóa Việt Nam” (1998) do Trần Quốc Vượng chủ biên
cho rằng chức năng giáo dục là chức năng bao trùm nhất của văn hóa. Chúng ta
thấy văn học là một thành viên quan trọng trong gia đình văn hóa đứng ra làm
nhiệm vụ đấy. Ở phương Tây, văn hóa là “Culture”, có nghĩa gốc là vun trồng,
chăm sóc, giáo dục. Văn học phải góp phần làm cho cái phần “con” (tự nhiên)

chuyển hóa nhiều hơn sang phần “người” (văn hóa). Còn ở phương Đông, thuật
ngữ văn hóa xuất phát từ “Văn trị giáo hóa”, tức là dùng văn chương, văn tự để
giáo hóa con người thì gọi là văn hóa. Văn học tỏ ra có ưu thế khi thực hiện chức
năng này. Nó không rao giảng những bài học bằng lý thuyết suông như tôn giáo,
đạo đức; không trừu tượng như triết học; không khô cứng như khoa học; cũng
không ép buộc như pháp quyền… Văn học thông qua những câu chuyện ly kỳ hấp
dẫn, những câu thơ ngọt ngào tha thiết, nó thấm vào lòng người những triết lý sống
đẹp. Nói như Arixtốt, đó là người đọc tự “thanh lọc” tâm hồn để sống tốt hơn. Bởi
thế ngày xưa, Khổng Tử bỏ công sưu tập Kinh thi với mục đích chính là dùng
những lời ca để giáo dục tính nhân văn cho con người. Đạo làm người trong “Lục
Vân Tiên” đã có ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa ứng xử của người dân Nam Bộ một
thời.


Câu 2: Hãy so sánh nét tương đồng và sự khác biệt của văn hóa văn minh.

1. Các khái niệm cơ bản
• Văn hóa: văn: đẹp
Hóa: sự chuyển đổi thành cái đẹp
là một hệ thống hữu cơ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra
và tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người
với môi trường tự nhiên và xã hội.
• Văn minh: văn: đẹp
Minh: là sáng (chỉ tia sáng của đạo đức biểu hiện ở chính trị,
pháp luật, văn học, nghệ thật…)
Là trình độ phát triển nhất định của văn hóa về phương diện vật chất đặc trưng cho
1 khu vực rộng lớn, 1 thời đại hoặc cả nhân loại
• Văn hiến: là văn hóa thiên về giá trị tư tưởng do người hiền tài truyền tải,
thể hiện tính dân tộc, lịch sử nhất định
• Văn vật: là truyền thống văn hóa tốt đẹp biểu hiện ở nhiều nhân tài trong

lịch sử và trong những di tích lịch sử. Văn vật thường gắn với những truyền
thống, thành quả văn hóa hoặc những thế hệ nhân tài tiêu biểu cho 1 miền, 1
vùng, 1 địa phương.
2. So sánh văn hóa với văn minh
- Giống: đều là toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra
trong tiến trình lịch sử


- Khác:
Văn hóa
+ Khi con người xuất hiện

Văn minh
+ Xuất hiện khi có nhà nước, chữ viết,

+ Phát triển liên tục và có bề dày

các thành thị, tiền tệ

lịch sử

+ Là lát cắt đồng đại, chỉ trình độ phát

+ Bao gồm cả giá trị vật chất và tinh triển cao
thần

+ Thiên về vật chất, kỹ thuật

+ Có tính dân tộc rõ rệt


+Có tính siêu dân tộc, tính chất quốc tế

+ Có lúc thăng lúc trầm

+Tiến lên không ngừng và ngày càng

+ Gắn với phương đông nông

phát triển cao

nghiệp

+Gắn với phương tây công nghiệp

Câu 3: Trình bày quá trình hình thành và những yếu tố tác động đến sự hình
thành của các thành tố văn hóa Việt Nam
Các thành tố cơ bản của văn hóa: Ngôn ngữ; Tín ngưỡng dân gian; Tôn
giáo, Phong tục tập quán lễ hội
- Yếu tố 1: Ngôn ngữ
+ Ngôn ngữ là 1 hệ thống tín hiệu. Theo nghĩa rộng thì ngôn ngữ là một
thành tố văn hoá nhưng là một thành tố chi phối đến các thành tố văn hoá khác.
+ Nguồn gốc tiếng Việt: Tiếng Việt - Mường chung (do 2 yếu tố chính tạo
nên là Môn – Khơme và Tày - Thái).
+ Cuộc tiếp xúc lớn thứ 1: Với Trung Quốc  chữ Hán Việt.
+ Cuộc tiếp xúc lớn thứ 2: Với Pháp  Chữ Nôm.
+ Cuộc tiếp xúc lớn thứ 3: Chữ Quốc ngữ.


- Yếu tố 2: Tôn giáo
+Tôn giáo: Tồn tại như một thực thể khách quan của lịch sử, tôn giáo là do

con người sáng tạo ra.
+ Tại Việt Nam có tồn tại những tôn giáo như:
1. Nho giáo: Sáng lập là Khổng Tử (người nước Lỗ) và được các nhân vật
sau này kế tục như Mạnh Tử, Tuân Tử, Đổng Trọng Thư, Tư Mã Thiên, Trình
Hạo…
2. Phật giáo: Sáng lập là Bồ đề đạt ma với Tứ Diệu Đế (Khổ đế, Tập đế, Diệt
đế, Đạo đế).
3. Đạo giáo: Lão tử, Trang tử.
4. Kito giáo: Tên gọi chung của tôn giáo thờ chúa Jêsu. Giáo lý là Kinh
thánh gồm hai bộ Cựu ước (46 quyển) và Tân ước (17 quyển).
- Yếu tố 3: Tín ngưỡng
+ Tín ngưỡng phồn thực: Khát vọng cầu mong sự sinh sôi nảy nở của con
người và tạo vật, lấy các biểu tượng về sinh thực khí và hành vi giao phối làm đối
tượng.
+ Tín ngưỡng thờ Thành Hoàng: Thành Hoàng có nghĩa gốc là hào bao
quanh thành  Thành hoàng làng là vị Thần bảo trợ một thành quách cụ thể. Tục
thờ xuất phát từ Trung Quốc.
+ Tín ngưỡng thờ Mẫu: Ảnh hưởng của chế độ Mẫu hệ  người Việt có
truyền thống thờ Nữ thần.
- Yếu tố 4: Lễ hội
+ Lễ hội sinh ra nhờ đời sống nông nghiệp sống bằng nghề trồng lúa nước.
+ Lễ hội gắn với một cộng đồng cư dân nhất định.
+ Nhân vật trung tâm được thờ phụng của cộng đồng là nhân vật chính của
ngày lễ hội.
+ Lễ hội chia làm 2 phần: Phần Lễ và phần Hội.


+ Trò diễn trong lễ hội là các lớp văn hoá tín ngưỡng của các thời kỳ lịch sử
khác nhau lắng đọng lại, phản ánh những sinh hoạt của cư dân nông nghiệp sống
với nghề trồng lúa nước, gắn kết nhân vật được phụng thờ.

+ Thức cúng trong lễ hội chia 2 loại: Thức cúng phổ biến và thức cúng mang
tính nghi lễ.
+ Giá trị lễ hội là giá trị cộng cảm và cộng mệnh.
 Lễ hội là một Bảo tàng văn hoá tuy nhiên vẫn còn có những lễ hội có yếu
tố phi văn hoá như mê tín dị đoan…
Câu 4: Quá trình giao lưu tiếp xúc, tiếp biến văn hóa Việt Nam trong lịch sử
và đương đại đã tạo nên sự đa dạng của văn hóa Việt Nam. Anh (chị) hãy
chứng minh nhận định trên.
1. Khái niệm
- Thuật ngữ “giao lưu và tiếp biến văn hoá” được sử dụng khá rộng rãi trong
nhiều ngành khoa học xã hội như dân tộc học, xã hội học, văn hoá học.v.v... ở
phương Tây, khái niệm này được dùng bởi những từ khác nhau. Người Anh dùng
Cultural Change (trao đổi văn hoá). Khái niệm Acculturation của người Hoa Kỳ
được các nhà nghiên cứu ở Việt Nam dịch với những nét nghĩa khác nhau: đan xen
văn hoá, hỗn dung văn hoá, giao thoa văn hoá. Cách dịch được nhiều người chấp
nhận là giao lưu và tiếp biến văn hoá.
- Nếu quy luật kế thừa là sự khái quát hoá quá trình phát triển văn hoá diễn
ra theo trục thời gian thì giao lưu và tiếp biến văn hoá nhìn nhận sự phát triển văn
hoá trong mối quan hệ không gian với nhiều phạm vi rộng hẹp khác nhau, tuỳ trình
độ phát triển và đặc điểm riêng của mỗi dân tộc.
- Khái niệm: Giao lưu và tiếp biến văn hoá là sự gặp gỡ, thâm nhập và học
hỏi lẫn nhau giữa các nền văn hóa. Trong quá trình này, các nền văn hoá bổ
sung, tiếp nhận và làm giàu cho nhau, dẫn đến sự biến đổi, phát triển và tiến bộ
văn hoá.


- Giao lưu văn hoá thực chất là sự gặp gỡ, đối thoại giữa các nền văn hoá.
Quá trình này đòi hỏi mỗi nền văn hoá phải biết dựa trên cái nội sinh để lựa chọn
tiếp nhận cái ngoại sinh, từng bước bản địa hoá nó để làm giàu, phát triển văn hoá
dân tộc. Trong tiếp nhận các yếu tố văn hoá ngoại sinh, hệ giá trị xã hội và tâm

thức dân tộc có vai trò rất quan trọng. Nó là "màng lọc" để tiếp nhận những yếu tố
văn hoá của các dân tộc khác, giúp cho văn hoá dân tộc phát triển mà vẫn giữ được
sắc thái riêng của mình.
- Quá trình tiếp xúc và giao lưu văn hoá thường diễn ra theo hai hình thức:
+ Hình thức tự nguyện: Thông qua các hoạt động như buôn bán, thăm hỏi, du
lịch, hôn nhân, quà tặng…mà văn hoá được trao đổi trên tinh thần tự nguyện.
+ Còn hình thức cưỡng bức: thường gắn liền với các cuộc chiến tranh xâm
lược thôn tính đất đai và đồng hoá văn hoá của một quốc gia này đối với một quốc
gia khác. Tuy nhiên, trên thực tế, các hình thức này lắm khi không thuần nhất. Có
khi trong cái vẻ tự nguyện, có những yếu tố mang tính cưỡng bức. Hoặc trong quá
trình bị cưỡng bức văn hoá, vẫn có những yếu tố tiếp nhận mang tính tự nguyện.
2. Giao lưu và tiếp biến trong văn hóa Việt Nam
Trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc, văn hóa Việt Nam đã có
những cuộc tiếp xúc và giao lưu với các nền văn hóa phương Đông và phương Tây
bằng những con đường và hình thức khác nhau. Cùng với sự hình thành các yếu tố
văn hóa bản địa, giao lưu và tiếp biến với văn hóa Đông - Tây đã trở thành động
lực to lớn cho sự biến đổi, phát triển và làm nên những sắc thái riêng của nền văn
hóa Việt Nam.
a. Giao lưu và tiếp biến với văn hoá Đông Nam Á
- Quá trình tiếp xúc và giao lưu với văn hoá Đông Nam á của người Việt cổ,
theo GS Hà Văn Tấn(1), diễn ra qua hai giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất, trước nền
văn hoá Đông Sơn, và giai đoạn thứ hai là từ văn hoá Đông Sơn (thiên niên kỷ thứ I
tr.CN) trở đi đến thế kỷ cuối của thiên niên kỷ thứ I tr.CN.


+ Giai đoạn thứ nhất, việc tiếp xúc và giao lưu văn hoá chủ yếu diễn ra giữa
các bộ lạc hay nhóm bộ lạc trong phạm vi đất nước ta. Lúc ấy văn hoá Việt Nam
vẫn mang các đặc trưng Đông Nam Á cả về vật chất cũng như tinh thần.
- Dựa vào cứ liệu của cỏc ngành khoa học xã hội và nhân văn, khoa học ngày
hôm nay đó xác định được vùng Đông Nam Á có một cơ tầng văn hoá riêng biệt,

phi Hoa, phi Ấn. Vùng Đông Nam Á tiền sử đã sáng tạo nên một nền văn hoá có
những nét tương đồng:
+ Thứ nhất, đó là một phức thể văn hóa lúa nước với ba yếu tố: văn hóa núi,
văn hóa đồng bằng, văn hóa biển, trong đó yếu tố đồng bằng ra đời sau, chiếm diện
tích không lớn nhưng đóng vai trò chủ đạo. Đông Nam Á trong lịch sử đã từng
được mệnh danh là cái nôi của cây lúa nước và một trong năm trung tâm cây trồng
lớn nhất thế giới. Vì vậy, Đông Nam Á mang những đặc trưng của vùng văn hóa,
văn minh nông nghiệp lúa nước. Cùng với sản xuất lúa nước, trâu bò được thuần
hóa và dùng làm sức kéo, đặc biệt là trâu. Công cụ dùng trong sản xuất, sinh hoạt,
chiến đấu, dụng cụ nghi lễ chủ yếu được chế tác bằng đồng và sắt .v.v..
+ Thứ hai: Hoạt động kinh tế chính của Đông Nam Á là sản xuất nông
nghiệp. Cư dân thành thạo nghề trông lúa nước và nghề đi biển.
+ Thứ ba: Trong cơ cấu gia đình truyền thống Đông Nam Á, người phụ nữ
có vai trò quyết định trong hoạt động gia đình. Đây cũng là một đặc điểm tạo nên
dấu ấn riêng của văn hóa Đông Nam Á so với các quốc gia trong khu vực văn hóa
phương Đông và phương Tây.
+ Thứ tư: Về mặt văn hóa tinh thần, ngay từ buổi đầu cư dân Đông Nam Á
đã hình thành cho mình một diện mạo văn hóa tinh thần khá phong phú và phát
triển ở trình độ cao. Điều đó thể hiện ở sự phát triển của tư duy nhận thức về xã hội
và thế giới, quan niệm về tính chất lưỡng phân, lưỡng hợp của thế giới .v.v.. Tín
ngưỡng Đông Nam Á buổi đầu là bái vật giáo với việc thờ các thần: thần đất, thần
mưa, thần lúa, thờ mặt trời, thờ cây, thờ đá, thờ cá sấu, đặc biệt là tín ngưỡng phồn
thực và thờ cúng tổ tiên.


- Giai đoạn thứ hai, vào thời kỳ Đông Sơn- thời kỳ kết tinh tinh thần dân tộc,
kết tinh văn hoá. Không chỉ giữa các nền văn hoá Đông Sơn, văn hoá Sa Huỳnh và
văn hoá Đồng Nai có sự trao đổi, tiếp xúc lẫn nhau, mà các nền văn hoá này đã có
trao đổi tiếp xúc khá mạnh mẽ với văn hoá Đông Nam Á. Chứng cứ là, người ta tìm
thấy khá nhiều trống đồng Đông Sơn ở Thái Lan, Ma Lai, Inđônêxia, và miền nam

Trung Quốc (thuộc khu vực văn hoá Đông Nam Á). Nhiều trống đồng có hoa văn,
hình người, hình chim tìm thấy ở Tấn Ninh (Nam Trung Quốc) mang phong cách
Đông Sơn. Rất nhiều rìu đồng đuôi én tìm thấy ở Inđônêxia được sản xuất theo
phong cách Đông Sơn (kiểu rìu làng Vạc- Nghệ An). Các đồ đồng này hoặc bằng
con đường buôn bán mà có mặt ở các nước trong khu vực, hoặc được chế tạo tại
chỗ theo phong cách Đông Sơn mà họ chịu ảnh hưởng.
- Nằm trong khu vực Đông Nam Á, văn hóa Việt Nam ngay từ thời kỳ tiền
sử và sơ sử đã mang những sắc thái của văn hóa Đông Nam Á.Tuy nhiên, trong quá
trình phát triển của lịch sử, giao lưu với văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ, những ảnh
hưởng mạnh mẽ của chúng đã khiến cho văn hóa cổ Đông Nam Á bị giải thể về
mặt cấu trúc. Những yếu tố, những mảnh vụn của chúng trở thành cơ tầng sâu văn
hóa Đông Nam Á trong các nền văn hóa của mọi quốc gia trong khu vực và được
bảo lưu như các yếu tố, các giá trị chung tạo nên những nét tương đồng văn hóa.
- Vào thời kỳ sơ sử, người Việt Nam đã tạo dựng cho mình một nền văn hóa
bản địa rực rỡ: văn hóa Đông Sơn, văn hóa Sa Huỳnh, văn hoá Đồng Nai. Trước
khi tiếp xúc và giao lưu với văn hoá Trung Hoa và Ấn Độ, Việt Nam đã hình thành
một nền văn hoá bản địa vừa có những nét tương đồng với Đông Nam Á vừa có cá
tính, bản sắc riêng. Điều này được thể hiện ở một số điểm như sau:
+ Địa bàn cư trú của người Việt đã tương đối ổn định, theo mô hình làng.
+ Phương thức sản xuất chính là nông nghiệp, trồng trọt, có kết hợp với chăn
nuôi và đánh bắt thuỷ hải sản. Trong sản xuất nông nghiệp, nổi bật là nền văn minh
lúa nước, dùng sức kéo là trâu bò.


+ Trình độ luyện kim đồng, sắt, chế tác các dụng cụ lao động, vật dụng, các
đồ trang sức…bằng đồng, sắt đạt đến một trình độ điêu luyện và có cá tính văn hoá
Việt.
+ Đã có tiếng nói tương đối ổn định, đó là hệ ngôn ngữ Việt- Mường.
+ Đã có một hệ thống huyền thoại trở thành "mẫu gốc", thành tâm thức cộng
đồng trong đời sống tinh thần người Việt. Hệ thống huyền thoại này phản ánh năm

lĩnh vực trụ cột lớn của đời sống cộng đồng dân tộc quan tâm như : nguồn gốc
giống nòi, làm ăn dựng xây đất nước, đánh giặc giữ nước, đời sống tâm linh và tình
yêu lứa đôi của con người. Tất cả, hoặc từng phần những nội dung đó được thể hiện
trong những huyền thoại rực rỡ như: Lạc Long Quân và Âu Cơ, Sơn Tinh- Thuỷ
Tinh, Thánh Gióng, An Dương Vương, Chử Đồng Tử và Tiên Dung… Đó là một
tài sản tinh thần to lớn có ý nghĩa tập hợp sức mạnh đoàn kết, ý thức tự cường văn
hoá của dân tộc Việt Nam trong suốt hành trình lịch sử.
- Một nghìn năm dưới ách đô hộ của các đế chế phương Bắc, văn hóa Đông
Sơn bị giải thể về mặt cấu trúc nhưng văn hóa Việt Nam vẫn phát triển. Những yếu
tố của văn hóa Đông Sơn vẫn được lưu giữ trong các xóm làng. Đây chính là sức
mạnh để chủ nhân văn hóa Việt Nam đủ bản lĩnh trong giao lưu tiếp biến với văn
hóa Trung Hoa mà vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc.
b. Giao lưu và tiếp biến với văn hóa Trung Hoa
Giao lưu và tiếp biến giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa là sự
giao lưu, tiếp biến liên tục qua nhiều thời kỳ của lịch sử. Trung Hoa là một trong
những trung tâm văn hóa lớn ở phương Đông, có nền văn hóa lâu đời và phát triển
rực rỡ.
- Văn hóa Trung Hoa là nền văn hóa nông nghiệp xuất phát từ nông nghiệp
trồng khô (trồng kê và lúa mạch) trên đất hoàng thổ của vùng trung du Hoàng Hà.
Do nằm trên ngã ba đường của các luồng giao lưu kinh tế - văn hóa Đông - Tây,
Nam - Bắc trong đại lục Châu Á và miền bình nguyên Âu - Á, nên văn hóa Trung
Hoa vừa mang những đặc điểm văn hóa du mục của các cư dân phương Bắc và Tây


Bắc, vừa thâu hóa nhiều tinh hoa của văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước của các
cư dân phương Nam. Lịch sử hình thành và phát triển của văn hóa Trung Hoa gắn
liền với lịch sử mở rộng lãnh thổ bằng các cuộc chinh phạt về mặt quân sự và
truyền bá văn hóa của tổ tiên người Trung Hoa từ phía Tây lưu vực sông Hoàng Hà
theo hướng từ Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam. Cùng với sự bành trướng về
phương Nam của các triều đại phong kiến Trung Hoa, đã diễn ra quá trình Trung

Hoa thâu hóa văn hóa phương Nam, Hán hóa các nền văn hóa phương Nam. Vị trí
địa lý và những diễn biến của lịch sử đã tạo các điều kiện gặp gỡ và tiếp xúc
thường xuyên giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa. Ngày nay, không thể
phủ nhận ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa đối với văn hóa Việt Nam là rất lớn.
Vấn đề đặt ra là trong cuộc tiếp xúc không cân sức này, người Việt làm thế nào để
văn hóa dân tộc vẫn tồn tại và phát triển, vẫn khẳng định được bản sắc văn hóa của
mình?
- Quá trình giao lưu tiếp biến giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa
diễn ra với hai hình thức: giao lưu cưỡng bức và giao lưu tự nguyện.
+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I
đến thế kỷ X và từ 1.407 đến 1.427. Suốt thiên niên kỷ thứ nhất sau Công nguyên,
các đế chế phương Bắc ra sức thực hiện các chính sách đồng hoá về phương diện
văn hoá nhằm biến nước ta trở thành một quận, huyện của Trung Hoa. Từ 1.407
đến 1.427 là giai đoạn nhà Minh xâm lược Đại Việt. Trong số các kẻ thù từ phương
Bắc, giặc Minh là kẻ thù tàn bạo nhất đối với văn hóa Đại Việt. Minh Thành tổ ban
lệnh cho viên tướng Trương Phụ chỉ huy binh lính vào xâm lược Việt Nam: "Binh
lính vào Việt Nam, trừ sách vở và bản in đạo Phật, đạo Lão thì không thiêu hủy,
ngoài ra hết thảy mọi sách vở khác, văn tự cho đến ca lý dân gian hay sách dạy trẻ
nhỏ ... một mảnh, một chữ đều phải đốt hết. Khắp trong nước, phàm những bia do
người Trung Quốc dựng từ xưa đến nay thì đều giữ gìn cẩn thận, còn các bia do An
Nam dựng thì phá hủy tất cả, một chữ chớ để còn".


+ Giao lưu tiếp biến văn hóa một cách tự nguyện là dạng thức thứ hai của
quan hệ giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa. Trước thời kỳ Bắc thuộc đã
từng diễn ra giao lưu tự nhiên giữa tộc người Hán với cư dân Bách Việt. Nghiên
cứu lịch sử văn minh Trung Hoa người ta thấy có nhiều yếu tố văn hóa phương
Nam đã được người Hán tiếp nhận từ thời cổ đại, những yếu tố này nhập sâu vào
văn hóa Hán, được hệ thống hóa, nâng cao "chữ nghĩa hóa" rồi truyền bá trở lại
phương Nam dưới dáng vẻ mới. Có thể nói, đó là sự giao lưu tiếp xúc hai chiều học

hỏi lẫn nhau giữa các nền văn hóa. Hiện nay đã phát hiện được trống đồng và nhiều
đồ đồng Đông Sơn trên đất Trung Hoa, đồng thời cũng phát hiện nhiều vật phẩm
mang dấu ấn Trung Hoa trong các di chỉ khảo cổ học ở Việt Nam. Trong nền văn
hóa Đông Sơn, người ta đã nhận thấy khá nhiều di vật của văn hóa phương Bắc
nằm cạnh những hiện vật của văn hóa Đông Sơn. Chẳng hạn những đồng tiền thời
Tần Hán, tiền Ngũ thù đời Hán, các dụng cụ sinh hoạt của quý tộc Hán như gương
đồng, ấm đồng .v.v.. Có thể những sản phẩm ấy là kết quả của sự trao đổi, thông
thương giữa hai nước.
- Ở thời kỳ độc lập tự chủ, nhà nước quân chủ Đại Việt được mô phỏng theo
mô hình nhà nước phong kiến Trung Hoa. Nhà Lý, nhà Trần về tổ chức chính trị xã
hội lấy cơ chế Nho giáo làm gốc tuy vẫn chịu ảnh hưởng rất đậm của Phật giáo.
Đến nhà Lê đã hoàn toàn tự nguyện và chịu ảnh hưởng của Nho giáo sâu sắc.
- Cũng cần nhận thức rõ rằng ngay cả trong giao lưu cưỡng bức, người Việt
luôn có ý thức chống lại sự đồng hóa về phương diện văn hóa, chuyển thế bị động
thành thế chủ động bằng cách bản địa hóa văn hóa Hán để tự làm giàu cho bản thân
mình mà không bị đồng hóa về phương diện văn hóa.
- Cả hai dạng thức của giao lưu, tiếp biến văn hóa cưỡng bức và tự nguyện
giữa văn hóa Việt Nam với văn hóa Trung Hoa đều là nhân tố cho sự vận động của
văn hóa Việt Nam trong diễn trình lịch sử. Người Việt luôn có ý thức vượt lên, thâu
hóa những giá trị văn hóa Trung Hoa để làm giàu cho văn hóa dân tộc và đã đạt
được những thành tựu đáng kể trong giao lưu tiếp biến với văn hóa Trung Hoa.


+ Về văn hóa vật thể: Người Việt tiếp nhận một số kỹ thuật trong sản xuất
như: kỹ thuật rèn đúc sắt gang để làm ra công cụ sản xuất và sinh hoạt, kỹ thuật
dùng phân bón để tăng độ màu mỡ cho đất, kỹ thuật xây cất nơi ở bằng gạch ngói.
Người Việt còn học hỏi kinh nghiệm dùng đá đắp đê ngăn sóng biển, biết cải tiến
kỹ thuật làm đồ gốm (gốm tráng men)…
+ Về văn hóa phi vật thể: Việt Nam tiếp nhận ngôn ngữ của người Trung
Hoa (cả từ vựng và chữ viết), tiếp thu hệ tư tưởng Trung Hoa cổ đại (Nho gia, Đạo

gia) trên tinh thần hỗn dung, hòa hợp với tín ngưỡng bản địa và các hệ tư tưởng
khác, mô phỏng hệ thống giáo dục theo tinh thần Nho giáo, tiếp nhận một số phong
tục lễ Tết, lễ hội .v.v..
c.. Giao lưu tiếp biến với văn hóa Ấn Độ
Ấn Độ là một trung tâm văn hóa văn minh lớn của khu vực phương Đông và
thế giới. Văn minh Ấn Độ lan tỏa khắp khu vực Đông Nam Á và trên nhiều bình
diện có ảnh hưởng sâu đậm đến văn hóa Việt Nam bằng nhiều hình thức.
Giao lưu và tiếp biến với văn hóa Ấn Độ diễn ra bằng con đường hòa bình.
Các thương gia, các nhà sư Ấn Độ đến Việt Nam với mục đích thương mại, truyền
bá, văn hóa, tôn giáo.
- Giao lưu với văn hóa Ấn Độ ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, không gian
văn hóa khác nhau thì nội dung giao lưu cũng khác nhau. Ở thiên niên kỷ đầu Công
nguyên, trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay có ba nền văn hóa: Văn hóa cùng châu thổ
Bắc bộ, văn hóa Chăm Pa và văn hóa Óc Eo. Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đến
ba vùng văn hóa này có khác nhau. Văn hóa Óc Eo chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn
Độ khá toàn diện. Trên nền tảng cơ tầng văn hóa bản địa, các đạo sĩ Bà la môn đến
từ Ấn Độ đã tổ chức, xây dựng một quốc gia mô phỏng mô hình của Ấn Độ ở tất cả
các mặt: tổ chức chính trị, thiết chế xã hội, đô thị, giao thông cùng với việc truyền
bá các thành tố văn hóa tinh thần như chữ viết, tôn giáo .v.v..
- Văn hóa Ấn Độ đã góp phần quan trọng vào quá trình hình thành vương
quốc Chăm Pa và một nền văn hóa Chăm Pa phát triển rực rỡ. Người Chăm đã tiếp


nhận mô hình văn hóa Ấn Độ từ việc tổ chức nhà nước cho đến việc tạo dựng và
phát triển các thành tố văn hóa. Họ đã rất linh hoạt trong tiếp biến văn hóa Ấn Độ
để tạo dựng nên nền văn hóa Chăm Pa với những sắc thái văn hóa đan xen giữa Ấn
Độ, Đông Nam Á và văn hóa bản địa Chăm đặc sắc. Điều này thể hiện trên các lĩnh
vực, đặc biệt là chữ viết, tôn giáo, kiến trúc và nghệ thuật.
- Giao lưu và tiếp biến với văn hóa Ấn Độ của người Việt ở vùng châu thổ
Bắc bộ lại diễn ra trong đặc điểm hoàn cảnh lịch sử riêng. Trước khi tiếp xúc với

văn hóa Ấn Độ, văn hóa của người Việt đã định hình và phát triển. Dưới thời Bắc
thuộc, người Việt tiếp nhận văn hóa Ấn Độ vừa trực tiếp qua các thương gia, các
nhà sư từ Ấn Độ sang và vừa gián tiếp qua Trung Hoa. Những thế kỷ đầu Công
nguyên, người Việt tiếp nhận văn hóa Ấn Độ trong hoàn cảnh đặc biệt: nước mất
và phải đối mặt với văn hóa Hán. Bởi vậy, ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ chỉ diễn
ra trong tầng lớp dân chúng nhưng lại có sức phát triển lớn. Vùng châu thổ Bắc Bộ
trở thành địa bàn trung chuyển văn hóa Ấn Độ, đặc biệt là tôn giáo. Giao Châu trở
thành trung tâm Phật giáo lớn ở Đông Nam Á. Người Việt tiếp nhận Phật giáo một
cách dung dị bởi đạo Phật ở một số nội dung giáo lý phù hợp với tín ngưỡng bản
địa Việt Nam.
***Nghiên cứu giao lưu tiếp biến giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Ấn Độ
cần chú ý những đặc điểm sau:
+ Người Việt đã tiếp nhận văn hóa Ấn Độ và đặc biệt là đạo Phật trên tinh
thần cơ bản là hỗn dung tôn giáo. Khi vào Việt Nam, Phật giáo đã tiếp xúc ngay
với tín ngưỡng bản địa của dân tộc và đã chung sống với chúng. Từ tín ngưỡng thờ
các hiện tượng tự nhiên, thờ nữ thần nông nghiệp, tín ngưỡng phồn thực của văn
hóa bản địa, người Việt đã thâu thái những yếu tố của đạo Phật và tạo nên một
dòng Phật giáo dân gian thờ Tứ Pháp hết sức đặc sắc .v.v..
+ Phật giáo Ấn Độ đến Giao Châu không chỉ là một hiện tượng tôn giáo mà
còn là một hiện tượng văn hóa. Cùng với đạo Phật, một tổng thể văn hóa Ấn Độ
ảnh hưởng đến Việt Nam ngay từ đầu Công nguyên như: ngôn ngữ, âm nhạc, vũ


đạo, nghệ thuật .v.v..Cũng hình thành ở Việt Nam những công trình văn hóa, nghệ
thuật có giá trị: hệ thống chùa, tháp .v.v..
+ Tiếp nhận văn hóa Ấn Độ ở thời kỳ Bắc thuộc có thể xem là một đối trọng
với ảnh hưởng của văn hóa Hán, thể hiện tinh thần chống đồng hóa văn hoá của
người Việt.
d. Giao lưu và tiếp biến với văn hóa phương Tây
Giao lưu và tiếp biến với văn hóa phương Tây đặc biệt ở nửa sau của thế kỷ XIX đã

tạo bước chuyển có tính chất bước ngoặt trong sự phát triển của văn hóa Việt Nam.
- Giao lưu với văn hóa phương Tây đã từng diễn ra rất sớm trong lịch sử.
Nghiên cứu văn hóa khảo cổ, người ta thấy trong văn hóa Óc Eo có nhiều di vật của
các cư dân La Mã cổ đại, chứng tỏ đã có những quan hệ thương mại quốc tế rộng
rãi. Thế kỷ XVI, các linh mục phương Tây đã vào truyền giáo ở vùng Hải Hậu (nay
thuộc tỉnh Nam Định) và chúa Trịnh vua Lê ở Đàng Ngoài cũng như các chúa
Nguyễn ở Đàng Trong, rồi nhà Tây Sơn đều có quan hệ với phương Tây. Tuy
nhiên, giao lưu văn hóa toàn diện thực sự diễn ra khi Pháp xâm lược Việt Nam.
- Về phía người Pháp, sau khi đã lập được ách đô hộ ở Việt Nam, họ rất có ý
thức dùng văn hóa như một công cụ để cai trị. Víi tinh thần yêu nước và lòng tự
trọng dân tộc, thái độ trước hết của người Việt Nam là chống trả quyết liệt cả về
phương diện chính trị và văn hóa. Có thể thấy thái độ ấy ở các nhà nho yêu nước ở
Nam Bộ cuối thế kỷ XIX như Nguyễn Đình Chiểu, Trương Công Định, Nguyễn
Trung Trực... Trong hoàn cảnh mất nước, người Việt có ý thức chống lại văn hóa
mà đội quân xâm lược định áp đặt cho họ: thái độ không học tiếng Tây, không mặc
đồ Tây, không dùng hàng Tây... Tuy nhiên, bằng thái độ mềm dẻo, cởi mở, dần dần
họ đã tiếp nhận những giá trị văn hóa mới để phát triển văn hóa dân tộc, sử dụng
chúng trong công cuộc đấu tranh chống ngoại xâm giành độc lập dân tộc.
- Trong lịch sử mấy ngàn năm, các cuộc giao lưu và tiếp biến với các nền
văn hóa trong khu vực chỉ làm đổi thay về phương diện yếu tố của văn hóa Việt
Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử, quá trình tiếp xúc toàn diện với văn hóa phương


Tây giai đoạn 1858 - 1945 đã khiến người Việt cấu trúc lại nền văn hóa của mình,
đi vào vòng quay của văn minh công nghiệp phương Tây. Diện mạo văn hóa Việt
Nam thay đổi trên các phương diện: Thứ nhất là chữ Quốc ngữ, từ chỗ là loại chữ
viết dùng trong nội bộ một tôn giáo được dùng như chữ viết của một nền văn hóa.
Thứ hai là sự xuất hiện của các phương tiện văn hóa như nhà in, máy in ở Việt
Nam ...Thứ ba là sự xuất hiện của báo chí, nhà xuất bản. Thứ tư là sự xuất hiện của
một loạt các thể loại, loại hình văn nghệ mới như tiểu thuyết, thơ mới, điện ảnh,

kịch nói, hội họa ...
Như vậy, với lối ứng xử thông minh, mềm dẻo, qua mỗi chặng đường thử
thách, văn hóa dân tộc lại trưởng thành và phát triển lên một bước mới. Cuộc hội
nhập lần thứ nhất, tiếp biến với văn hóa Ấn Độ và văn hóa Hán đã làm giàu cho
văn hóa Việt Nam, khiến cho dân tộc đủ mạnh, tạo cơ sở cho sự phát triển trong kỷ
nguyên Đại Việt. Hội nhập lần thứ hai, tiếp biến với văn hóa phương Tây đã góp
phần hiện đại hóa văn hóa dân tộc trên mọi phương diện.
e. Giao lưu và tiếp biến trong giai đoạn hiện nay
Hiện nay, chúng ta đang bước vào cuộc hội nhập lần thứ ba, hướng tới mục
tiêu xây dựng một nền văn hóa "tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc".
- Những thuận lợi
+ Chúng ta có một quốc gia độc lập thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, từ Mục
Nam Quan đến mũi Cà Mau. GLTBVH trong thời đại ngày nay là hoàn toàn tự
nguyện.
+ Cả dân tộc là một khối thống nhất với một nền văn hoá đa dạng phong phú
+ Sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đã có những bước phát triển đáng kể
trên tất cả các mặt, kinh tế, chính trị, khoa học, giáo dục, công nghệ.
+ Trình độ học vấn, nhận thức về văn hoá và vai trò của văn hoá của tất cả
các cấp lãnh đạo cũng như người dân được nâng cao, ý thức về quốc gia, lòng tự
hào dân tộc được khơi dậy mạnh mẽ, người dân được thoả sức sáng tạo và hưởng
thụ những giá trị văn hoá vật chất, tinh thần ở mọi khía cạnh.


+ Vị thế của đất nước được nâng cao, bình đẳng với tất cả các quốc gia trên
thế giới
+ Nghị quyết trung ương 5 khoá VIII đã xác định rõ: Văn hoá vừa là nền
tảng, vừa là động lực phát triển xã hội.
+ Đảng ta chủ trương mở cửa giao lưu quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Đối với
lĩnh vực văn hóa vừa tiếp thu, học hỏi những tinh hoa văn hoá thế giới dưới mọi
hình thức, vừa kiên quyết chống văn hoá độc hại. Đồng thời ra sức gìn gữ và phát

huy các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc.
- Những khó khăn
+ Việc tiếp thu những giá trị văn hoá tiên tiến của thế giới với mục đích:
Đưa nước ta ngày càng phát triển, nhất là hạ tầng cơ sở vật chất và khoa học công
nghệ, song một vấn đề lớn đặt ra và ngày càng trở lên gay gắt là sự mâu thuẫn giữa
bảo tồn và phát triển.
+ Tiếp thu khoa học công nghệ cũng đồng nghĩa với việc tiếp thu lối sống,
tác phong công nghiệp => nếp nghĩ, lối sống, đến cả không gian thôn dã của một
nền văn hoá nông nghiệp lúa nước đang bị mất dần.
+ Một hệ tư tưởng đạo đức không phù hợp với thuần phong mỹ tục, với các
giá trị đạo đức nhân văn truyền thống đang từng ngày thâm nhập vào đời sống văn
hoá của nhân dân ta.
+ Môt bộ phận dân chúng, nhất là thanh thiếu niên đang chạy theo lối sống
hưởng thụ, trong quan hệ ứng xử phai nhạt nghĩa tình, tất cả đều nhuốm màu
thương mại, tiếp thu văn hoá ngoại lai một cách thái quá, phủ nhận các giá trị
truyền thống.
+ Một số cấp lãnh đạo quản lý cũng còn chưa nhận thức được đầy đủ vai trò
của văn hoá đối với đời sống xã hội
+ Hoàn cảnh lịch sử => giao lưu tiếp biến VH thay đổi trên nhiều phương
diện:


+ Giao lưu TBVH trong thời đại tin học, kinh tế tri thức=> GLTBVH trở lên
đa dang và phức tạp cả về nội dung, loại hình lẫn phương thức
+ Các thế lực thù địch, phản động quốc tế không ngừng tìm cách chống phá
chúng ta về mọi mặt thông qua con đường giao lưu tiếp biến văn hoá, nhằm từng
bước chuyển hoá về tư tưởng ý thức hệ, đạo đức lối sống của nhân dân ta.
Câu 6: Trình bày đặc trưng của văn hóa Đông Sơn, văn hóa Sa Huỳnh, văn
hóa Đồng Nai từ đó chỉ ra tính chất bản địa của các nền văn hóa này trong
diễn trình lịch sử Việt Nam.

Cách đây khoảng 4000 năm, cư dân Việt Nam từ lưu vực sông Hồng đến lưu
vực sông Đồng Nai đã bước vào thời đại kim khí. Thời kỳ này trên lãnh thổ Việt
Nam hiện nay đã tồn tại 3 trung tâm văn hoá lớn của 3 quốc gia cổ nhất Đông Nam
Á:
a. Văn hoá Đông Sơn (miền Bắc) gắn với sự ra đời của nhà nước Văn Lang
của các vua Hùng và tiếp đó là nước Âu Lạc của vua An Dương Vương. Với nền
văn hoá Đông Sơn, kỹ thuật chế tác đồ đồng đã vươn lên trình độ khá cao so với
trình độ thế giới lúc đương thời. Sản phẩm đồng thời cũng là biểu tượng của văn
hoá Đông Sơn là trống đồng Đông Sơn. Quá trình hình thành và phát triển của văn
hoá Đông Sơn - văn minh sông Hồng ở miền Bắc là một quá trình hình thành nên
cái cốt lõi của người Việt cổ và nhà nước đầu tiên của họ. Đây là một nền văn hoá
thống nhất mà chủ nhân của nền văn hoá đó là một cộng đồng cư dân gồm nhiều
thành phần tộc người gần gũi nhau về nhân chủng và văn hoá. Văn hoá Đông Sơn
là một điển hình của nền văn hoá nông nghiệp lúa nước.
Theo truyền thuyết giai đoạn này khởi đầu từ khoảng giữa thiên niên kỉ thứ
III. trCN. Thời kỳ Hồng Bàng cho rằng bắt đầu từ năm 2879 TCN, là niên đại vua
Kinh Dương Vương, với quốc hiệu Xích Quỷ cho tới năm 207 trCN là năm Triệu
Đà thôn tính Âu Lạc.
Địa bàn của quốc gia dưới thời vua Kinh Dương rộng lớn, phía bắc tới sông
Dương Tử (cả vùng hồ Động Đình), phía nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành),


phía đông là Đông Hải (một phần của Thái Bình Dương), phía tây là Ba Thục (Tứ
Xuyên, Trung Quốc ngày nay). Về sau người Việt chỉ thấy có ở miền Bắc Việt
Nam ngày nay, có thể một phần do sự lấn áp của các tộc người Hoa Hạ từ phương
Bắc.
Đầu thời kỳ đồ đồng, người Việt gồm khoảng 15 nhóm Lạc Việt khác nhau sống
trên vùng núi phía Bắc và miền châu thổ sông Hồng. Để tiện việc trao đổi buôn
bán, phòng chống lụt lội, chống lại kẻ thù... những bộ tộc Lạc Việt thống nhất lại
thành một quốc gia lấy tên Văn Lang, định đô ở Phong Châu (Việt Trì, Phú Thọ).

Người đứng đầu tự xưng là Hùng Vương. Có ít nhất 18 đời Hùng Vương cai trị
trong thời đại Hồng Bàng. Các thông tin về các đời vua Hùng dựa nhiều vào các
truyền thuyết. Dân số nước ta cuối thời Văn Lang ước khoảng 500 ngàn người.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư: Vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần
Nông, đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh (nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung
Quốc), gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh
truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc (từ núi Ngũ Lĩnh
về phía Bắc), phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam (từ núi Ngũ Lĩnh về phía
Nam), xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỉ. Kinh Dương Vương làm
vua Xích Quỉ vào năm Nhâm Tuất 2897 TCN, lấy con gái Động Đình Hồ quân (còn
có tên là Thần Long) là Long nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc
Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai (con của Đế Nghi), tên là Âu
Cơ, đẻ một lần trăm người con trai. Một hôm, Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng:
"Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó".
Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền biển (có
bản chép là về Nam Hải), phong cho con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi vua.
Năm Quí Mão 258 TCN (có tài liệu gần đây xác định lại là năm 208), Thục
Phán, một thủ lĩnh của các bộ tộc Âu Việt chiếm Văn Lang, hợp nhất Âu Việt và
Lạc Việt thành một quốc gia lấy tên nước là Âu Lạc, xưng là An Dương Vương,


đóng đô ở Phong Khê. An Dương Vương cho xây Loa thành (Cổ Loa, Đông Anh,
Hà Nội).
Nhiều bằng chứng khảo cổ học như trống đồng Đông Sơn được tìm thấy ở
miền bắc Việt Nam có cùng niên đại với thời kỳ Hồng Bàng, đã chứng minh cho
một nền văn hóa đồ đồng rất phát triển - văn hoá Đông Sơn mà chủ nhân của nó là
cộng đồng cư dân Văn Lang. Ảnh hưởng của nó rộng lớn từ nam Trung Hoa, Thái
Lan đến toàn bộ vùng Đông Nam Á. Trống đồng Đông Sơn trở thành biểu tượng
của VHVN truyền thống.
b. Văn hoá Sa Huỳnh (miền Trung) được coi là tiền nhân tố của người Chăm

và vương quốc Chăm Pa. Văn hoá Sa Huỳnh là sản phẩm của cư dân nông nghiệp
trồng lúa, nhưng biết khai thác nguồn lợi của rừng và biển, và phát triển các nghề
thủ công.
c. Văn hoá Đồng Nai (miền Nam), một cội nguồn hình thành nền văn hoá Óc
Eo ở Nam Bộ vào những thế kỷ đầu công nguyên sau này. Văn hoá Óc Eo gắn với
vương quốc Phù Nam, một nhà nước tồn tại từ thế kỷ II đến thế kỷ VII ở châu thổ
sông Cửu Long. Văn hoá Đồng Nai cũng là sản phẩm của cư dân có hoạt động kinh
tế chủ yếu là nông nghiệp và thủ công.
Tính chất bản địa của các nền văn hóa này trong diễn trình lịch sử Việt
Nam- Tiến trình văn hoá Việt Nam thời tiền sử và sơ sử là tiến trình hình thành nên
những nền tảng của văn hoá Việt Nam, hình thành cốt lõi của người Việt cổ, là
phác thảo khởi nguyên về một nền văn hoá quốc gia dân tộc đa tộc người về sau.
- Nền tảng văn hoá đó là văn hoá bản địa - nội sinh, nằm trong cơ tầng văn hoá
chung của khu vực văn hoá Đông Nam Á thời bấy giờ, nó khác với hai nền văn hoá
văn minh Trung Quốc và Ấn Độ ở châu Á.
- Đỉnh cao của giai đoạn hình thành những nền tảng văn hoá nội sinh Việt
Nam là văn hoá Đông Sơn, văn hoá Sa Huỳnh và văn hoá Đồng Nai, cũng là ba
đỉnh cao của văn hoá Đông Nam Á, miền đông bán đảo Đông Dương. Ba trung tâm
văn hoá đó phát triển theo thế chân vạc, nhưng luôn có mối quan hệ qua lại với


nhau, đồng thời phát triển, giao lưu với nhiều văn hoá khác ở khu vực. Đồng thời,
ba trung tâm văn hoá ấy đều sẽ phát triển thành ba nền văn minh lớn ở Đông Nam
Á, ứng với ba quốc gia cổ đại là Văn Lang - Âu Lạc, Chăm Pa và Phù Nam.
- Như thế, trước khi chịu sự thống trị của các triều đại phong kiến Trung Quốc, đất
nước ta đã từng tồn tại một nền văn minh cổ như vậy, nên ý thức quốc gia dân tộc
của người Việt đã sớm hình thành và làm nên một sức mạnh đủ để dân tộc Việt
Nam vừa không bị Hán hoá lại vừa có khả năng thâu hoá những nhân tố của mô
hình văn hoá Trung Quốc trong quá trình xây dựng nhà nước Đại Việt tự chủ sau
này.

Câu 7: Trình bày đặc trưng văn hóa Việt Nam: Thời Lý, Trần và Hậu Lê.
Trên cơ sở đó chứng minh tính chất tang giáo đồng nguyên trong văn hóa Việt
Nam trong giai đoạn kỳ này.
1. Đặc trưng văn hóa thời Lý – Trần
Nhà Lý mở đầu giai đoạn phục hưng văn hóa bằng việc dời đô về Đại La và
đổi tên thành Thăng Long. Nhà Trần tiếp tục sự nghiệp của nhà Lý, đưa đất nước
phát triển về mọi mặt.
+ Về văn hóa vật thể
- Công trình kiến trúc
- Cho xây dựng nhiều cung điện, đền đài, thành lũy. Thành Thăng Long là
một công trình xây dựng thành lũy lớn nhất trong cá triều đại phong kiến
- Các công trình kiến trúc đời Lý phát triển mạnh và phong phú: Chùa Giạm,
chùa Một Cột, Tháp Báo Thiên, tháp Chương Sơn (Ý Yên – Nam Định), tháp Sùng
Thiện, Diên Linh (Chùa Dọi – Nam Hà)… Các tháp này có qui mô lớn, hòa hợp
kiến trúc các ngôi chùa và tượng Phật.
- Nghệ thuật điêu khắc trên đá, trên gốm thể hiện một tay nghề thuần thục và
một phong cách đặc sắc. Mỹ thuật thời Lý mang nhiều nét tương đồng với kiến
trúc, mỹ thuật Chăm cũng như một số nước Đông Nam Á.


 Trong ý thức của người Việt vẫn tiếp nhận những tinh hoa của văn minh
Trung Hoa nhưng vẫn có ý muốn quay trở lại với cội nguồn Đông Nam Á, vẫn
khẳng định sắc thái riêng của mình.
+ Các nghề thủ công
- Nghề thủ công khá phát triển ở thời nhà Lý, nhà Trần như: Nghề dệt, gốm,
mỹ nghệ. Đặc biệt nghề dệt có nhiều thành tựu: vải, lụa. Các sản phẩm gốm với đủ
các màu sắc, họa tiết trang trí đặc sắc được người thợ khéo tay, thông minh đời Lý
làm ra. Nghề gốm có bước phát triển đạt trình độ cao…
- Thời nhà Trần, nghề thủ công còn có những bước phát triển mới, hình
thành những làng nghề chuyên sản xuất một mặt hàng nhất định. Kinh thành Thăng

Long mở rộng chia thành 71 phường. Tại đây không chỉ có chợ mà còn có những
phường thủ công và phố buôn bán.
* Văn hóa phi vật thể
+ Hệ tư tưởng:
- Phật giáo để lại dấu ấn sâu đậm
Văn hóa thời Lý Trần là sự dung hòa tam giáo (Nho – Phật – Lão), cùng các
tín ngưỡng dân gian và có ảnh hưởng của tôn giáo Chămpa
- Từ thế kỷ X Phật giáo có những bước phát triển lớn, chùa chiền xuất hiện
nhiều. Thời kỳ này đạo Phật nhập thế. Pháp giáo thời kỳ này chung sống với tín
ngưỡng bản địa để tạo ra sắc thái đạo Phật với nét riêng Việt Nam. Nhà vua và tầng
lớp quý tộc rất sùng mộ đạo Phật.
1031 Triều Lý cho xây dựng 950 ngôi chùa
1129 Mở hội khánh thành 84.000 bảo tháp.
- Các sư tăng và tín đồ Phật giáo phát triển cả về số lượng và chất lượng.
Theo nhà sử học Lê Văn Hưu, thời Lý “nhân dân quá một nửa làm sãi, trong nước
chỗ nào cũng có chùa”. Nhiều vị cao tăng nổi tiếng là người Việt. Nhà chùa là nơi
đào tạo ra những sư tăng đồng thời cũng là những trí thứ của thời đại. Chính họ là
những người đặt nền móng cho chính sách tam giáo đồng nguyên. Các trí thức Phật


giáo đã gạt bỏ những nhân tố thụ động để tham gia vào sự nghiệp giải phóng và xây
dựng đất nước. Trong các thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, các cao tăng tham gia chính
sự ở triều đình: Thiền sư Vạn Hạnh vận động đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua, lập ra
triều Lý. Đời Trần, sư Đa Bảo Viên Thông đều tham gia chính sự.
- Đạo và đời gắn bó tới mức không chỉ có các nhà sư tham gia vào chính sự
mà ở thời Lý, Trần còn có khá nhiều vua quan quý tộc đi tu. Dòng Phật giáo Trúc
Lâm đời Trần là một sáng tạo rất riêng của Phật giáo Việt Nam, để lại những dấu
ấn đạm nét trong lịch sử tư tưởng văn học, kiến trúc…của văn hóa dân tộc. Phật
giáo giai đoạn này còn tác động đến cả hệ tư tưởng, tâm lý, phong tục và nếp sống
của đông đảo nhân dân ở các làng xã. Nó ảnh hưởng to lớn tới kiến trúc, điêu khắc,

thơ văn, nghẹ thuật
- Nhà chùa chiếm hữu khá nhiều ruộng đất do đó có một cơ sở kinh tế nhất
định cho mọi hoạt động.
+ Nho giáo
- Nho giáo thời kỳ này chưa ảnh hưởng mạnh đến xã hội và đời sống tinh
thần của người Việt. Cùng với việc tiếp tục tiếp nhận chữ Hán, chế độ giáo dục thi
cử theo tinh thần Nho giáo mới bắt đầu.
- Nhà Lý chăm lo đến việc học tập và thi cử để đào tạo nhân tài và lựa chọn
quan lại cho bộ máy hành chính.
1070 Nhà Lý dựng Văn Miếu, thời Chu Công và Khổng Tử (hai ông ổ của
Nho giáo), mở Quốc Tử Giám- trường học đầu tiên cho các hoàng tử và con em
quan lại trong triều đình.
1076 Triều đình mở khoa thi đầu tiên để lựa chọn nhân tài. Nội dung thi bao
gồm các môn: chữ viết, làm tính, hình luật.
- Đến nhà Trần, vương triều đã chính quy hóa việc học hành thi cử. Nhà
Trần lập Quốc học viện và Giảng Võ đường, lúc đầu dành riêng cho con em quý
tộc, sau mở rộng cho cả con em thứ dân (trường học được mở cả ở địa phương).
Thể lệ thi cử, học vị được quy định.


×