Tải bản đầy đủ (.doc) (138 trang)

Lợi thế cạnh tranh và một số giải pháp nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh của Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ trong bối cảnh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (910.41 KB, 138 trang )

trờng Đại học Kinh tế Quốc dân

khoa kế hoạch phát triển


CHUYấN THC TP
Đề tài:
Lợi thế cạnh tranh và một số giải pháp nhằm nâng cao lợi
thế cạnh tranh của Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trờng
Mỹ trong bi cnh hiện nay

Sinh viên thực hiện

: lê ngọc thắng

Lớp

: ktpt 47a

Giáo viên hớng dẫn

: ths. đặng thị lệ xuân


Hà Nội - 2009

2


Giới thiệu chung
1. Sự cần thiết:


Cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển với tốc độ vũ bão, đưa tới
một sự đột biến trong tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia và đưa xã hội loài người
bước vào một kỷ nguyên mới-kỷ nguyên của nền văn minh trí tuệ. Trong bối cảnh ấy,
xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá là đòi hỏi tất yếu đối với tất cả các quốc gia trên
thế giới và Việt Nam cũng không thể là một ngoại lệ.
Để hoà vào xu hướng hội nhập ấy, từ Đại Hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ
9 đã đề ra phương châm “Việt Nam muốn làm bạn và đối tác tin cậy với tất cả các
nước”. Trên thực tế, trong thời gian qua chúng ta đã không ngừng mở rộng quan hệ
kinh tế đối ngoại, tích cực tham gia vào các diễn đàn kinh tế song phương, đa phương,
các liên kết mậu dịch khu vực và liên khu vực.Đặc biệt là việc Việt Nam đã gia nhập tổ
chức thương mại thế giới WTO càng tạo ra nhiều lợi thế và thách thức cho Việt Nam
trong xuất khẩu sang các nước khác, đặc biệt là các thị trường lớn và đầy tiềm năng.
Toàn bộ nền kinh tế nói chung và hoạt động ngoại thương nói riêng đã có những bước
phát triển mạnh mẽ và đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Đặc biệt là, chúng ta đã tạo được một số nhóm hàng có tiềm năng, có chỗ đứng
trên thị trường nước ngoài-đó chính là những lợi thế cạnh tranh của Việt Nam. Để
vượt qua những thách thức, cạnh tranh có hiệu quả trong quá trình hội nhập kinh tế
toàn cầu thì Việt Nam cần phải phát huy được những lợi thế cạnh tranh của mình. Tuy
nhiên cần lưu ý là năng lực sản xuất của Việt Nam là có hạn nên ta không thể “dàn
trải” các lợi thế cạnh tranh trên tất cả các thị trường mà chỉ nên chọn một vài thị trường
trọng điểm và giàu tiềm năng.
Vì những lý do trên đây, người viết đã chọn đề tài “ Lợi thế cạnh tranh và một
số giải pháp nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh của Việt Nam khi xuất khẩu sang hai thị
trường Mỹ ”.

3


2.Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận chung về lợi thế cạnh tranh và thực tiễn tình hình

xuất khẩu một số mặt hàng sang thị trường Mỹ trong các năm gần đây, bài chuyên đề
có mục đích tìm ra nghiên cứu lợi thế cạnh tranh tổng thể của Việt Nam chú trọng vào
lĩnh vực xuất khẩu mà điển hình là một số mặt hàng có thể trở thành lợi thế cạnh tranh
của Việt Nam trên thị trường Mỹ, đồng thời đề ra một số giải pháp nhằm phát huy
được lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong thời gian tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là lý luận chung về lợi thế cạnh tranh, thị
trường xuất khẩu và một số lợi thế cạnh tranh của Việt Nam khi xuất khẩu hàng hoá
sang thị trường Mỹ.
Phạm vi nghiên cứu của chuyên đề giới hạn ở việc nghiên cứu hai lợi thế cạnh
tranh chủ yếu đó là lợi thế cạnh tranh tổng thể và lợi thế cạnh tranh quốc gia trong lĩnh
vực xuất khẩu các sản phẩm có thế mạnh của Việt Nam trên hai thị trường Mỹ mà
không mở rộng phạm vi sang các thị trường khác.Trước hết chọn thị trường Mỹ là vì :
Mặc dù trải qua cuộc khủng hoảng tài chính nhưng Mỹ vẫn là thị trường lớn và
đầy tiềm năng, hơn nữa Mỹ vẫn là một nền Kinh tế đầu tàu của thế giới.Việc Mỹ rơi
vào khủng hoảng làm người dân Mỹ trước kia họ sử dụng những mặt hàng cao cấp, thì
giờ đây trước khủng hoảng, họ sẽ chuyển sang sử dụng những mặt hàng rẻ hơn, những
mặt hàng thuần túy..Những mặt hàng này Việt Nam có khả năng sản xuất và có lợi thế
lớn.Và quan trọng hơn khi Việt Nam đã gia nhập WTO, cũng như ký các hiệp định
thương mại song phương đa phương với Mỹ tạo cơ hội lớn cho Việt Nam khi xuất
khẩu sang Mỹ

4


4. Phương pháp nghiên cứu:
Bài chuyên đề chủ yếu sử dụng phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích,
đánh giá dựa trên các nguồn tài liệu sưu tầm được kết hợp với những suy luận của cá
nhân để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu của đề tài.


5. Kết quả dự kiến:
Khắc phục từng bước những điểm yếu, không thể trông chờ, ỷ lại vào sự bảo hộ
của Nhà nước.
Rút ra được những bài học chung để áp dụng vào những thị trương tương tự.
Qua đó nâng cao được lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong bảng xếp hạng của
thế giới(WEF)

6. Bố cục của đề án:
Bố cục của bài khoá luận như sau:
Mục lục
Lời nói đầu
Chương I - Lý luận chung về lợi thế cạnh tranh và thị trường xuất khẩu
Chương II - Mỹ -Thị trường để Việt Nam có thể phát huy được lợi thế cạnh
tranh.
Chương III - Một số giải pháp nhằm nâng cao Lợi thế cạnh tranh của Việt Nam
khi xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Mỹ
Kết luận
Danh mục tham khảo

5


Chương I - Lý luận chung về lợi thế cạnh tranh và thị trường
xuất khẩu
I. Lợi thế cạnh tranh
1.Tìm hiểu và phân biệt các khái niệm về lợi thế cạnh tranh:
Để hiểu về lợi thế cạnh tranh, trước hết chúng ta phải hiểu thế nào là cạnh tranh.
Cạnh tranh là một khái niệm thường được dùng trong khoa học kinh tế và được
hiểu là sự ganh đua giữa các đối thủ để giành một nhân tố sản xuất hoặc thị phần

nhằm nâng cao vị thế của mình trên thương trường.
Lợi thế cạnh tranh là một khái niệm hay được nói đến trên báo chí cũng như
các phương tiện thông tin đại chúng khác trong mấy năm gần đây, nhưng trên thực tế
đây là một vấn đề còn tương đối mới lạ về mặt lý thuyết.Hơn nữa, chính vì khái niệm
này khá rộng nên bài chuyên đề chỉ xin nêu ra một số các khái niệm cơ bản về lợi thế
cạnh tranh
Báo cáo về cạnh tranh toàn cầu của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) định
nghĩa lợi thế cạnh tranh đối với một quốc gia là “Khả năng của nước đó đạt được
những thành quả nhanh và bền vững về mức sống, nghĩa là đạt được các tỷ lệ tăng
trưởng kinh tế cao được xác định bằng sự thay đổi của tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) trên đầu người theo thời gian”.
Uỷ ban cạnh tranh công nghiệp của Mỹ lại sử dụng định nghĩa lợi thế cạnh tranh
đối với một quốc gia như sau: “Lợi thế cạnh tranh đối với một quốc gia là lợi thế mà
ở đó, dưới các điều kiện thị trường tự do và công bằng, quốc gia đó có thể sản xuất
các hàng hoá và dịch vụ đáp ứng được các đòi hỏi của các thị trường quốc tế, đồng
thời duy trì và mở rộng được thu nhập thực tế của người dân nước mình”.
Diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức hợp tác và phát triển
kinh tế (OECD) cũng đã đưa ra một định nghĩa về lợi thế cạnh tranh quốc gia riêng, đó

6


là: “Khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia và vùng trong việc tạo ra việc
làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”.
Còn theo Báo cáo trong hội nghị của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) tổ chức
tại Học viện phát triển quản lý quốc tế ở Lausanne thì năng lực cạnh tranh của một
quốc gia (ở đây thuật ngữ “năng lực cạnh tranh” được dùng với ý nghĩa tương tự như
thuật ngữ “lợi thế cạnh tranh của một quốc gia”) được định nghĩa là khả năng thiết kế,
sản xuất và tung ra thị trường những hàng hoá và dịch vụ có đặc tính giá cả và phi
giá cả để hình thành một sự kết hợp có đặc tính hấp dẫn hơn so với các đối thủ

khác.
Trên cơ sở phân tích, WEF đã đưa ra bảng xếp hạng lợi thế cạnh tranh của các
nước trong đó có Việt Nam
Năm
Việt Nam

2006

2007

2008

77

68

70

Nguồn: Bảng khảo sát, công bố ngày 8-10-2008 tại Geneva xếp hạng tính
cạnh tranh của 134 nền kinh tế toàn cầu dựa trên phân tích những dữ liệu có sẵn
và bảng khảo sát ý kiến hơn 12.000 nhà lãnh đạo doanh nghiệp.
VN có 23 chỉ tiêu lợi thế và 90 chỉ tiêu bất lợi. Ưu điểm cạnh tranh của VN tập
trung ở tính hiệu quả của thị trường lao động (xếp hạng 47) nhờ có lợi thế về nhân
công giá rẻ. Trong khi đó, những yếu tố bất lợi làm giảm tính cạnh tranh của VN là
lạm phát, cơ sở hạ tầng không đồng bộ, trình độ lực lượng lao động không đồng đều,
tham nhũng và các chính sách thiếu ổn định.
Theo một cách hiểu khác thì lợi thế cạnh tranh của một quốc gia là nói đến so
sánh bản thân mình với đối thủ cạnh tranh để khai thác triệt để lợi thế <1>(< >này

7



ở phần trích dẫn tài liệu tham khảo) mà mình có sẵn, nhằm đạt những mục tiêu chủ
yếu và thứ yếu đã đặt ra. Thông thường, đối với một nước thì mục tiêu chủ yếu là "dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" như Đảng ta đã đề ra.
Một thuật ngữ khác cũng hay được nhắc tới là chiến lược cạnh tranh. Chiến
lược cạnh tranh là chiến lược của một doanh nghiệp hoặc của một quốc gia nhằm tăng
khả năng của mình trên thị trường trong nước hay quốc tế để đạt một số mục tiêu như:
tăng thị phần, tăng lợi nhuận<2> .
Còn chính sách cạnh tranh được hiểu là các biện pháp của Nhà nước nhằm
khuyến khích cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng và giám sát (hoặc chống lại) độc
quyền. Các khía cạnh của chính sách cạnh tranh bao gồm:
+Kiểm soát các hành vi lạm dụng vị thế để lũng đoạn thị trường của những hãng
có vị thế khống chế thị trường.
+Kiểm soát sự sáp nhập để ngăn ngừa quá trình độc quyền hóa.
+Kiểm soát và ngăn chặn sự thỏa thuận giữa các hãng nhằm hạn chế cạnh tranh.
+Kiểm soát các hành vi phản cạnh tranh.
Về năng lực cạnh tranh (sức cạnh tranh), có một số cách hiểu khác nhau.
Nhưng thường các cách hiểu đều thống nhất ở một điểm, năng lực cạnh tranh thường
có một ý nghĩa tương đối hẹp, được thể hiện qua một số các chỉ số nhất định được xây
dựng để đánh giá sức cạnh tranh. Khái niệm về “năng lực cạnh tranh” thường phù hợp
với cấp độ doanh nghiệp, nội dung cụ thể của khái niệm này là nếu một doanh nghiệp
có tổng chi phí cao hơn tổng chi phí của đối thủ cạnh tranh thì sản phẩm làm ra sẽ có
năng lực cạnh tranh yếu, dẫn đến việc doanh nghiệp đó sẽ phải từ bỏ hoạt động kinh
doanh hoặc thậm chí phá sản.
Như vậy sự khác nhau cơ bản nhất giữa lợi thế cạnh tranh và chiến lược cạnh
tranh là ở chỗ: lợi thế cạnh tranh là ưu thế mà một quốc gia đã có để có thể giành
được thắng lợi khi tham gia vào cạnh tranh quốc tế, còn chiến lược cạnh tranh là định
hướng chung của quốc gia đó để biến lợi thế cạnh tranh vốn có trở thành hiện thực.


8


Lợi thế cạnh tranh, chính sách cạnh tranh và năng lực cạnh tranh còn khác
nhau ở phạm vi được nói đến. Lợi thế cạnh tranh “thường” được hiểu dưới góc độ của
một quốc gia ( tuy cũng có khi lợi thế cạnh tranh được hiểu dưới góc độ của một doanh
nghiệp hoặc của một sản phẩm ). Chính sách cạnh tranh lại chỉ được hiểu một cách
bó hẹp trong phạm vi của một nước, thể hiện những chính sách của một quốc gia để
duy trì hoạt động cạnh tranh lành mạnh trong nước mình. Còn năng lực cạnh tranh
thường chỉ có ý nghĩa hạn hẹp trong một doanh nghiệp, đối với sản phẩm của doanh
nghiệp.
Tìm lợi thế cạnh tranh chính là cách tiếp cận lợi thế cạnh tranh . Thông thường
có 3 cách tiếp cận sau : thứ nhất, cách tiếp cận dựa trên vị thế chiến lược; thứ hai, cách
tiếp cận dựa trên quá trình chiến lược; thứ ba, cách tiếp cận dựa trên quan hệ chiến
lược. Sau đây, chúng ta lần lượt xem xét 3 cách tiếp cận trên:
* Nội dung cơ bản của cách thứ nhất là xác định được vị thế của ta, vị thế của
đối thủ một cách chính xác và khách quan, so sánh tương quan lực lượng giữa ta và đối
thủ cạnh tranh, từ đó định ra lợi thế cạnh tranh, xây dựng chiến lược cạnh tranh nhằm
khuyếch trương những điểm mạnh của mình, che chắn những điểm yếu; đồng thời tận
dụng những sơ hở, điểm yếu của đối phương để phát huy tiềm năng và sức mạnh sẵn
có. Trong một số tình huống thuận lợi, có thể áp dụng ngay một số sáng kiến mới lạ,
độc đáo để lật ngược tình thế và thay đổi luật chơi.
Các chiến lược cụ thể có thể lựa chọn theo cách thứ nhất là chiến lược tấn công,
chiến lược phòng thủ, chiến lược bắt chước y nguyên chiến lược của đối thủ, chờ khi
có cơ hội sẽ cải tiến, sáng tạo theo cách riêng và vượt lên đối thủ (các nhà sản xuất
hàng điện tử, điện máy gia dụng của Trung Quốc có vẻ như đang áp dụng chiến lược
này trên thị trường Việt Nam khi sản xuất các mặt hàng có mẫu mã giống hệt hàng hóa
cùng loại của Nhật Bản và dần dần “lấn sân” người Nhật); chiến lược rút lui về các vị
trí thích hợp khi nhận thấy tình thế không thuận lợi (lùi một bước nhưng tiến hai bước).


9


* Nội dung của cách tiếp cận thứ hai lại xoay quanh mục tiêu đã đặt ra. Mục
tiêu chúng ta đã đặt ra là gì ? Để đạt được mục tiêu đó, chúng ta cần phát huy những lợi
thế cạnh tranh nào? Và làm thế nào để xây dựng được lợi thế đó. Đi theo cách tiếp cận
này, chúng ta phải ý thức trước được rằng, không thể muốn gì được nấy, nghĩa là nếu
cái muốn là 100% thì thực hiện được khoảng 50% là đã thành công.
Cách tiếp cận thứ hai có thể đi theo một hướng khác gần thực tế hơn. Quan điểm
này được trình bày trong cuốn sách "Cạnh tranh cho tương lai"<3>: tìm lợi thế cạnh
tranh từ những cơ hội chưa được đối thủ cạnh tranh khai thác, thay đổi các luật chơi
trong môi trường cạnh tranh, tìm ra con đường riêng của chính mình, từ đó hoàn thành
các mục tiêu đã đặt ra trong tương lai. Cách này đã được các nhà sản xuất ô tô Nhật
Bản áp dụng rất thành công khi thâm nhập vào và chiếm lĩnh thị trường ô tô dân dụng
của Mỹ "ngay trước mũi" các "ông lớn" của nền công nghiệp ô tô Mỹ như General
Motor và Ford Motor.
Tuy nhiên hạn chế của phương pháp này là không phải là lúc nào cũng có sẵn
những "khoảng trống" trên thị trường trong bối cảnh "vạn người bán trăm người mua"
như hiện nay, đồng thời việc phát hiện ra những cơ hội tiềm tàng (nếu có) cũng rất khó
khăn và tốn kém, đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. Do vậy, cách tiếp cận thứ hai đòi
hỏi phải vận dụng thành thục phương pháp tư duy năng động sáng tạo và đột biến sáng
tạo nếu muốn đạt được thành công.
*Cách tiếp cận thứ 3 dựa trên quan hệ chiến lược có thể được thể hiện tóm tắt
dựa trên sơ đồ dưới đây:

10


Hình thành lợi thế cạnh tranh như thế nào


Nguồn thay đổi bên trong

Nguồn thay đổi bên ngoài

Nguồn lực sản xuất đa dạng

Linh hoạt đáp ứng tình thế

Tư duy sáng tạo và sáng tạo

Lợi thế cạnh tranh trong cách tiếp cận này được hình thành bằng cách xây dựng
các nguồn lực cả bên trong lẫn bên ngoài để phản ứng linh hoạt hơn, nhanh hơn, từ đó
xử lý tốt các tình huống có thể xảy ra. Đa dạng hóa các tư liệu sản xuất để phát triển
các nguồn lực bên ngoài, đồng thời phát huy tư duy sáng tạo và sáng tạo để tạo đòn bẩy
cho nguồn lực bên trong và từ đó tạo ra lợi thế cạnh tranh.
Để tiếp cận lợi thế cạnh tranh thành công bằng phương pháp này đòi hỏi các
nguồn lực phải dễ dàng chuyển đổi, sắp xếp lại để dễ tạo ra sự kết hợp mới và tính sáng
tạo rất cao.

2. Phân loại lợi thế cạnh tranh:
Để hiểu được lợi thế cạnh tranh một cách sâu sắc hơn, dưới những góc độ khác
nhau, với những đặc điểm khác nhau, ta cần phân loại lợi thế cạnh tranh.
Vậy lợi thế cạnh tranh cần được phân loại như thế nào? Một trong những khó
khăn là không có một sự thống nhất rộng rãi về việc phân loại khái niệm này. Lý do là

11


thuật ngữ lợi thế cạnh tranh được sử dụng để đánh giá cho tất cả các khu vực liên quốc
gia, các quốc gia (là quan điểm của bài khoá luận này) và cả các doanh nghiệp, các

ngành, và thậm chí còn được sử dụng để đánh giá một sản phẩm. Ở đây, người viết đưa
ra 2 tiêu chí phân loại lợi thế cạnh tranh: theo cấp độ và theo tính chất.

2.1. Phân loại lợi thế cạnh tranh theo cấp độ:
Nếu phân loại theo cấp độ, lợi thế cạnh tranh gồm 3 loại: lợi thế cạnh tranh của
một sản phẩm, lợi thế cạnh tranh của một doanh nghiệp và lợi thế cạnh tranh của một
quốc gia.
*Lợi thế cạnh tranh của một sản phẩm:
Lợi thế cạnh tranh của một sản phẩm có thể được hiểu như là năng lực cạnh
tranh của sản phẩm , tức là khả năng của sản phẩm đó có thể được tiêu thụ mạnh hơn
các sản phẩm cùng loại khác trên thị trường do những ưu thế về giá cả, chất lượng sản
phẩm, lao động bỏ ra để làm sản phẩm đó, uy tín sản phẩm, chất lượng của dịch vụ sau
bán hàng …
*Lợi thế cạnh tranh của một doanh nghiệp:
Trên thực tế thì khái niệm lợi thế cạnh tranh đầu tiên được dùng hạn chế trong
phạm vi 1 doanh nghiệp trong lý thuyết tổ chức công nghiệp. Một doanh nghiệp được
coi là có lợi thế cạnh tranh và được coi là có thể đứng vững trên thương trường cùng
với các nhà sản xuất khác, thông qua việc nó có thể cung cấp các sản phẩm thay thế,
hoặc đưa ra các sản phẩm tương tự với mức giá thấp hơn sản phẩm cùng loại, hoặc các
sản phẩm tương tự với các đặc tính về chất lượng hay dịch vụ cao hơn ( hay chí ít là
ngang bằng ).
Một điều cần chú ý là khi xác định lợi thế cạnh tranh của một doanh nghiệp hay
một ngành công nghiệp cần xem xét đến khả năng của doanh nghiệp hay ngành công
nghiệp đó trong việc sản xuất một hàng hoá hay dịch vụ ở một mức giá ngang bằng hay

12


thấp hơn mức giá phổ biến nhất mà không cần thiết phải có trợ cấp, trợ giá từ phía
chính phủ.

*Lợi thế cạnh tranh của một quốc gia:
Thương mại quốc tế ra đời cách đây hàng ngàn năm, nhưng phải đến thế kỷ 15
thì mới xuất hiện những nỗ lực nhằm giải thích nguồn gốc và lợi ích của thương mại
quốc tế. Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh của một quốc gia là lý thuyết mới để giải
thích về lợi ích của thương mại quốc tế xuất hiện trong thập kỷ 80 của thế kỷ 20. Biểu
dưới đây sẽ chỉ ra những thời điểm ra đời chủ yếu của các lý thuyết chủ yếu của
thương mại quốc tế, trong đó có lý thuyết về lợi thế cạnh tranh của một quốc gia.

Năm
1500

1600

1700

1800

1900
2000

Chủ nghĩa
trọng thương

Lợi thế tuyệt
đối Lợi thế so
sánh

Lý thuyết tỷ lệ
các yếu tố
Chu kỳ sống quốc tế của sản phẩm

Lý thuyết mới về thương mại
Lợi thế cạnh tranh quốc gia

Nguồn: Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc
tế- Bộ môn Kinh doanh quốc tế, Chủ biên:T.S Nguyễn Thị Hường, "Giáo trình
Kinh doanh quốc tế", tập I, NXB Thống Kê, Hà Nội, trang 205
Lý thuyết lợi thế cạnh tranh của một quốc gia được Michael Porter đưa ra vào
những năm 90 để giải thích tại sao một số nước lại có được vị trí hàng đầu trong việc
sản xuất một số sản phẩm nhất định. Lý thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia cho rằng,
khả năng cạnh tranh của một ngành sản xuất của một quốc gia phụ thuộc vào khả năng

13


sáng tạo và đổi mới của ngành đó. Công trình của Michael Porter có sự kết hợp những
kiến thức nhất định của các lý thuyết thương mại quốc tế khác, đồng thời chứa đựng
một số khám phá quan trọng.
Một trong những khám phá đó là, Michael Porter nhận thức được những giá trị
của các nguồn lực được đề cập đến trong lý thuyết tỷ lệ các yếu tố như nguồn lao động,
nguồn tài nguyên thiên nhiên, khí hậu … và các yếu tố quan trọng khác đối với những
sản phẩm mà quốc gia sẽ sản xuất và xuất khẩu và ông gọi tên những nguồn lực này là
các nguồn lực cơ bản, nhưng ông lại bổ sung thêm cái mà ông gọi là các yếu tố tiên
tiến.
Theo ông, các yếu tố tiên tiến là những yếu tố như trình độ kỹ năng của các
nhóm lao động khác nhau và chất lượng của hạ tầng công nghệ của một quốc gia. Các
yếu tố tiên tiến chính là kết quả của “tầm nhìn xa” và sự đầu tư dài hạn vào việc nâng
cao trình độ của nguồn nhân lực và phát triển công nghệ. Trong khi các yếu tố cơ bản
có thể tạo cơ sở ban đầu cho việc sản xuất một mặt hàng bất kỳ, đặc biệt là những mặt
hàng sơ chế và những mặt hàng có hàm lượng nguyên liệu cao, thì các yếu tố tiên tiến
là cần thiết để duy trì lợi thế cạnh tranh của quốc gia trong việc sản xuất mặt hàng đó.

Ta có thể lấy ví dụ về Nhật Bản. Hiện nay, Nhật Bản là một nước có lợi thế
cạnh tranh về mặt hàng ô tô và thép. Ô tô và thép Nhật tràn ngập trên thị trường thế
giới và đánh bại các đối thủ khác. Nhưng Nhật giành được lợi thế cạnh tranh rõ ràng
không phải vì các yếu tố cơ bản, vì nước này không có nguồn quặng sắt và phải nhập
khẩu phần lớn mặt hàng này. Nhật có được lợi thế cạnh tranh nhờ gia tăng được năng
suất và phát huy được lợi thế của mình trong việc sản xuất các mặt hàng đó thông qua
những nỗ lực như đào tạo và phát triển nhân lực, cải tiến công nghệ và áp dụng phương
pháp quản lý tiên tiến vào quy trình sản xuất.

14


2.2 Phân loại lợi thế cạnh tranh theo tính chất:
*Lợi thế cạnh tranh dạng tĩnh.
Lợi thế cạnh tranh trước hết tồn tại dưới dạng tĩnh, tức là lợi thế đang có. Lợi
thế dạng này có ưu điểm là đã có sẵn để khai thác, không cần tốn thêm chi phí nghiên
cứu và phát triển.
Lợi thế này thường tồn tại dưới dạng tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động thủ
công với giá nhân công rẻ …Tuy nhiên, hạn chế của lợi thế cạnh tranh loại này là ở chỗ
nó là lợi thế của quá nhiều nước, đặc biệt là các nước đang phát triển, nên dễ dẫn đến
sự trùng hợp về cơ cấu hàng xuất khẩu, từ đó gây tác động ngược trở lại làm triệt tiêu
lợi thế cạnh tranh.

*Lợi thế cạnh tranh dạng động.
Lợi thế cạnh tranh của bất kỳ nước nào cũng chỉ có tính chất tương đối, luôn
trong quá trình biến động và thay đổi. Cũng có những nước duy trì được lợi thế cạnh
tranh của mình trong một thời gian rất dài. Nhưng thường thì lợi thế cạnh tranh của các
nước có sự biến động trong một thời gian ngắn. Một quốc gia khi xuất khẩu một mặt
hàng nào đó, hiện nay đang có lợi thế cạnh tranh, nhưng trong một vài năm tới có thể
trở nên bất lợi và ngược lại. Trong mỗi giai đoạn phát triển, mỗi quốc gia sẽ lại tìm ra

được lợi thế cạnh tranh của mình trong điều kiện nguồn lực của quốc gia đó. Hay nói
một cách khác, đó chính là lợi thế cạnh tranh dưới dạng động hay lợi thế dưới dạng
tiềm năng.
Ví dụ như một quốc gia đông dân, ít vốn, lao động rẻ thì trước hết phải định
hướng lợi thế cạnh tranh của mình là các mặt hàng sử dụng nhiều lao động. Chính vì
vậy, khai thác tài nguyên và phát triển các mặt hàng sử dụng nhiều lao động để xuất
khẩu là sự lựa chọn của hầu hết các nước đang phát triển trong giai đoạn đầu của quá
trình công nghiệp hóa trong đó có Việt Nam. Trong các giai đoạn phát triển cao hơn
của quá trình công nghiệp hóa, cơ cấu sản phẩm xuất khẩu sẽ có sự thay đổi mang tính
quy luật, đó là chuyển dần từ sản phẩm sử dụng nhiều lao động rẻ, không cần tay nghề

15


cao như sản phẩm dệt, may, da giày, sản xuất nông lâm thủy sản hoặc nguyên liệu sơ
chế,... sang các sản phẩm xuất khẩu sử dụng nhiều lao động có tay nghề cao như ngành
hóa chất, điện tử, sắt thép, ô tô,.... Giai đoạn cuối cùng sẽ chuyển sang các sản phẩm
cần nhiều vốn và công nghệ cao như cơ khí chính xác, tự động hóa, thiết bị viễn thông,
tin học, hàng điện tử nghe nhìn cao cấp, ...

3. Lợi thế cạnh tranh tổng thể của một quốc gia và lợi thế cạnh
tranh quốc gia trong lĩnh vực xuất khẩu các sản phẩm có thế mạnh :(Ở
đây chuyên đề nghiên cứu năng lực cạnh tranh quốc gia và lợi thế cạnh
tranh trong xuất khẩu thông qua các xuất khẩu các sản phẩm chủ lực)
3.1. Lợi thế cạnh tranh quốc gia và các tiêu chí xác định lợi thế cạnh tranh
quốc gia:
Ở đây chuyên đề sẽ đi theo định nghiã của Báo cáo trong hội nghị của Diễn
đàn kinh tế thế giới (WEF) về lợi thế cạnh tranh quốc gia (ở đây thuật ngữ “năng lực
cạnh tranh” được dùng với ý nghĩa tương tự như thuật ngữ “lợi thế cạnh tranh của một
quốc gia”) đó là: là khả năng thiết kế, sản xuất và tung ra thị trường những hàng

hoá và dịch vụ có đặc tính giá cả và phi giá cả để hình thành một sự kết hợp có đặc
tính hấp dẫn hơn so với các đối thủ khác.
WEF đưa ra một tập hợp các tiêu chí xác định năng lực cạnh tranh tổng thể
của một quốc gia và phân chia các yếu tố này thành 8 nhóm chính:
a) Mức độ mở cửa: Thuế quan và các biện pháp phi thuế quan, khuyến
khích xuất khẩu, chính sách tỷ giá hối đoái.
b) Vai trò của chính phủ: Mức độ can thiệp của Nhà nước đặc biệt là trong
lĩnh vực xuất nhập khẩu, năng lực của Chính phủ, gánh nặng thuế và mức
độ trốn thuế, quy mô chính phủ, chính sách tài khoá, các mức thuế.

16


c) Hệ thống tài chính: Hiệu quả và cạnh tranh, rủi ro tài chính, đầu tư và
tiết kiệm.
d) Năng lực công nghệ: Năng lực phát triển công nghệ trong nước , đầu tư
công nghệ thông qua FDI hoặc chuyển giao của nước ngoài.
e) Kết cấu hạ tầng: Bưu chính viễn thông, điện lực, giao thông vận tải và
những hỗ trợ kết cấu hạ tầng khác.
f) Quản trị: Quản lý nguồn nhân lực, các yếu tố quản trị không liên quan
đến nhân lực như về các công tác điều hành vĩ mô.
g) Lao động: Kỹ năng tay nghề và năng suất, tính linh hoạt của thị trường
lao động, hiệu quả của các chương trình xã hội, quan hệ lao động ngành.
h) Thể chế: Chất lượng các thể chế pháp lý, thể chế điều chỉnh hoạt động
xuất khẩu

3.2. Lợi thế cạnh tranh quốc gia trong lĩnh vực xuất khẩu các sản phẩm có
thế mạnh, các yếu tố quyết định:
Lợi thế cạnh tranh quốc gia trong lĩnh vực xuất khẩu đó là việc sản xuất ra
những mặt hàng có lợi thế cạnh tranh, có khả năng cạnh tranh về nguồn lực, lợi thế so

sánh, giá cả chất lượng… so với các nước khác khi cùng xuất khẩu vào một thị
trường .Nó được quyết định bởi các yếu tố:

3.2.1 Nhu cầu và mức độ ổn định của nhu cầu trên thị trường thế giới:
Đây là một yếu tố then chốt và kiên quyết. Thị trường thế giới có nhu cầu và
nhu cầu đó phải ổn định thì mới có thể tiến hành sản xuất và xuất khẩu. Thị trường thế
giới không có nhu cầu, hoặc có nhu cầu nhưng lại thất thường thì không thể xuất khẩu
được, tức là lợi thế cạnh tranh không thể được phát huy. Thị trường thế giới bão hòa,
xuất khẩu gặp khó khăn và lợi thế cạnh tranh sẽ bị triệt tiêu. Điều này thể hiện rõ rệt
nhất trong hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam. Nông sản là mặt hàng có
lợi thế cạnh tranh của Việt Nam, nhưng trong nhiều năm qua tồn tại một thực tế là

17


lượng nông sản xuất khẩu của ta cao nhưng kim ngạch đạt được không đáng kể do sự
biến động thất thường của giá cả trên thị trường thế giới, ta không phát huy được lợi
thế cạnh tranh và người chịu nhiều thiệt thòi nhất chính là người nông dân trong nước.
Do vậy, công tác dự báo và dự báo chính xác nhu cầu của thị trường thế giới là
rất cần thiết và phải được tiến hành thường xuyên trên các mặt: thời gian, không gian,
số lượng, chất lượng hàng hóa... Ngoài ra, còn phải xét tới sự biến động và mức độ ổn
định tương đối của nhu cầu.
Xu hướng phổ biến của nhu cầu của thị trường thế giới ngày nay là ngày càng
tăng tỷ trọng của các sản phẩm công nghiệp - dịch vụ có hàm lượng khoa học - công
nghệ cao trong sản phẩm. Xuất khẩu những sản phẩm này đưa lại kim ngạch lớn so với
xuất khẩu nguyên liệu và sản phẩm ở dạng thô sơ. Như vậy có nghĩa là, lợi thế cạnh
tranh của các quốc gia cũng đang đòi hỏi phải có sự chuyển dịch theo hướng đáp ứng
những nhu cầu mới của thị trường thế giới.
Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ trong xu hướng chung. Quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cùng với tiến trình hội nhập quốc tế sẽ tạo ra những

điều kiện về khoa học - công nghệ cho phép chúng ta thực hiện mục tiêu chuyển dịch
lợi thế cạnh tranh theo hướng đó.

3.2.2. Sự ổn định của môi trường kinh doanh:
Môi trường kinh doanh là tổng thể các yếu tố bên ngoài tác động trực tiếp hay
gián tiếp đến các quyết định hoặc hoạt động của các đơn vị kinh doanh trên thị trường.
Nhóm các yếu tố bên ngoài có tác động gián tiếp đến các đơn vị kinh doanh được gọi
là các nhóm yếu tố môi trường vĩ mô. Thuộc nhóm này bao gồm : môi trường văn hoá
xã hội, môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường pháp lý, môi trường vật chất và môi
trường công nghệ. Nhóm các yếu tố bên ngoài có tác động trực tiếp đến các đơn vị
kinh tế là các yếu tố môi trường vi mô. Các yếu tố này gồm có: khách hàng, nhà cung
cấp, các đối thủ cạnh tranh, các nhóm quyền lợi trong doanh nghiệp.

18


Hiện nay trên thế giới, hầu hết các nước trên thế giới đang phát triển nền kinh tế
thị trường. Nhưng một trong những đặc trưng của nền kinh tế thị trường là phát triển có
tính chu kỳ. Tăng trưởng cao và khủng hoảng kinh tế là bạn đồng hành trong nền kinh
tế thị trường. Do đó, duy trì sự ổn định của môi trường kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường chính là một trong những yếu tố quyết định đến lợi thế cạnh tranh của một quốc
gia.
Duy trì sự ổn định của môi trường kinh doanh chủ yếu bao gồm việc duy trì sự
ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường chính trị và môi trường xã hội.
Duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô là làm giảm những biến động ngắn hạn trong
nền kinh tế và khuyến khích tăng trưởng bền vững lâu dài. Đây là điều kiện tiên quyết
cho việc tính toán kinh doanh của các chủ thể kinh tế, vì nếu giá cả thay đổi thất
thường, tỷ giá tăng mạnh hoặc giảm mạnh làm cho chủ đầu tư không tính toán nổi lỗ
lãi. Ngoài ra, sự ổn định kinh tế vĩ mô tạo ra sự tin tưởng của các chủ thể kinh tế vào
tương lai, tránh cho nền kinh tế khỏi những cuộc khủng hoảng kinh tế, dẫn đến sự tàn

phá nền kinh tế.
Sự ổn định về mặt chính trị cũng tạo ra môi trường thuận lợi đối với các hoạt
động kinh doanh, trong đó có hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu, góp phần nâng cao
lợi thế cạnh tranh của một quốc gia. Trong một xã hội ổn định về mặt chính trị, các nhà
kinh doanh được đảm bảo an toàn về đầu tư, quyền sở hữu và các loại tài sản khác. Do
đó các nhà kinh doanh sẵn sàng đầu tư những khoản tiền lớn vào các dự án kinh doanh
dài hạn, từ đó thúc đẩy nền sản xuất chung của một quốc gia phát triển.
Môi trường xã hội cũng có những tác động nhất định đến hoạt động của các tổ
chức kinh doanh. Các giá trị chung của xã hội, các tập tục truyền thống, lối sống của
nhân dân, các hệ tư tưởng tôn giáo và cơ cấu dân số, thu nhập của dân chúng đều có
ảnh hưởng đến hiệu quả của các hoạt động kinh doanh. Những vấn đề xã hội mà Nhà
nước phải quan tâm để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát huy được lợi thế cạnh
tranh quốc gia bao gồm : vấn đề việc làm, vấn đề xoá đói giảm nghèo, vấn đề công

19


bằng xã hội, vấn đề xoá bỏ những tệ nạn xã hội, vấn đề thái độ lao động, vấn đề bảo vệ
môi trường, y tế và giáo dục và vấn đề đạo đức kinh doanh.

3.2.3. Lợi thế so sánh:
Yếu tố thứ 3 quyết định lợi thế cạnh tranh của một quốc gia trong xuất khẩu sản
phẩm là lợi thế so sánh. Lý thuyết về lợi thế so sánh được nhà kinh tế học người Anh
David Ricardo xây dựng vào năm 1817 và trở thành một công cụ lý luận rất quen
thuộc trong khoa học kinh tế khi người ta muốn giải thích lợi ích của thương mại quốc
tế.
Các giả định của học thuyết này là:
*Thế giới chỉ bao gồm 2 nước, một nước kém phát triển và một nước phát triển.
*Hai nước trên chỉ trao đổi 2 mặt hàng.
*Những nguồn lực sản xuất nhất định (ví dụ như đất đai, lao động,vốn ...) kết

hợp với tỷ lệ cố định, giống nhau ở cả hai nước.
*Các nguồn lực sản xuất được tận dụng một cách triệt để.
*Lao động và vốn không di chuyển giữa 2 nước, nhưng tự do di chuyển trong
mỗi nước.
*Giá trị xuất khẩu ngang với giá trị nhập khẩu của mỗi nước.
*Không có chi phí vận chuyển<4>(<>ở phần trích dẫn cuối chuyên đề>.
Nội dung cơ bản của lý thuyết này như sau:
*Một nước (trong thế giới chỉ bao gồm 2 quốc gia) có lợi thế tuyệt đối trong sản
xuất cả 2 mặt hàng (2 nước chỉ trao đổi 2 mặt hàng) thì chuyên môn hóa sản xuất và
thương mại vẫn có thể mang lại lợi ích cho cả hai nước.
*Một nước được coi là có lợi thế so sánh khi nước đó không có được khả năng
sản xuất một mặt hàng đạt hiệu quả cao hơn so với các nước khác, nhưng nếu so sánh
hiệu quả sản xuất trong nước, nước đó có thể sản xuất mặt hàng đó có hiệu quả hơn so
với sản xuất mặt hàng kia.

20


Nói cách khác, thương mại vẫn đem lại lợi ích ngay cả khi một nước tỏ ra kém
hiệu quả hơn trong việc sản xuất cả 2 mặt hàng, nhưng vẫn có thể xác định được mặt
hàng mà mức độ kém hiệu quả sẽ nhỏ hơn so với mặt hàng kia.
Để hiểu một cách rõ ràng hơn vai trò của lý thuyết lợi thế so sánh trong giải
thích thương mại quốc tế, ta có thể đưa ra một ví dụ cụ thể như sau. Giả sử trên thế giới
có hai quốc gia là Mỹ và Việt Nam. Mỹ có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất cả hai
mặt hàng chè và cà phê, có nghĩa là Mỹ có khả năng sản xuất cả 2 mặt hàng này với
hiệu quả cao hơn Việt Nam. Bảng dưới đây cho biết số lượng lao động mà mỗi nước sử
dụng để sản xuất chè và cà phê:
Mặt hàng
Quốc gia


Cà phê

Chè

Mỹ

1

2

Việt Nam

6

3

Mỹ cần 1 đơn vị lao động để sản xuất 1 cà phê, và cần 2 đơn vị lao động để sản
xuất 1 tấn chè. Việt Nam cần 6 đơn vị lao động để sản xuất 1 tấn cà phê và cần 3 đơn
vị lao động để sản xuất 1 tấn chè.
Để dễ so sánh, ta có thể biểu thị lại hiệu quả sản xuất của 2 nước theo cùng một
gốc là 1 đơn vị lao động (bằng một số lượng lao động nhất định) như sau:
+Ở Mỹ, 1 đơn vị lao động = 1 tấn cà phê hoặc 1/2 tấn chè.
+Ở Việt Nam, 1 đơn vị lao động = 1/6 tấn cà phê hoặc 1/3 tấn chè.
Như vậy, với mỗi đơn vị lao động được sử dụng thì Mỹ đều sản xuất được nhiều
cà phê và chè hơn Việt Nam , hay nói cách khác Mỹ có lợi thế tuyệt đối trong việc sản
xuất cả 2 mặt hàng. Khi đó, phải chăng Mỹ sẽ không thu được lợi ích gì từ việc buôn
bán với Việt Nam - 1 quốc gia sản xuất kém hiệu quả hơn?

21



Điều này không đúng, bởi vì mặc dù Mỹ có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất cả
hai mặt hàng cà phê và gạo, nhưng nước này chỉ có lợi thế so sánh về mặt hàng cà phê,
tức là chỉ có thể sản xuất cà phê có hiệu quả hơn so với sản xuất gạo. Tuy không thể
sản xuất cả cà phê và chè với hiệu quả cao hơn Mỹ, nhưng Việt Nam lại có lợi thế so
sánh về mặt hàng gạo, tức là có thể sản xuất gạo một cách có hiệu quả cao hơn so với
sản xuất cà phê.
Một lần nữa giả sử rằng (đây chính là hạn chế của lý thuyết lợi thế so sánh vì đặt
ra quá nhiều giả định phi thực tế), Mỹ và Việt Nam quyết định trao đổi với nhau theo
tỷ lệ 1 tấn cà phê = 1 tấn chè.
Việt Nam có thể sử dụng 1 đơn vị lao động của mình để sản xuất 1/6 tấn cà phê.
Nhưng giải pháp tốt hơn là sử dụng 1 đơn vị lao động đó để sản xuất 1/3 tấn chè (là
mặt hàng Việt Nam có lợi thế so sánh) sau đó trao đổi với Mỹ lấy 1/3 tấn cà phê (là
mặt hàng Mỹ có lợi thế so sánh). Khi đó, nhờ chuyên môn hóa sản xuất và trao đổi,
Việt Nam có được lượng cà phê nhiều gấp đôi (1/3 tấn) so với trường hợp tự sản xuất
lấy cà phê (1/6 tấn).
Mỹ có thể bỏ ra 1 đơn vị lao động để sản xuất 1/2 tấn chè. Nhưng Mỹ nên sử
dụng đơn vị lao động đó để sản xuất 1 tấn cà phê (là mặt hàng Mỹ có lợi thế so sánh)
và trao đổi với Việt Nam để lấy 1 tấn chè (là mặt hàng Việt Nam có lợi thế so sánh).
Khi đó Mỹ cũng có được lượng chè nhiều hơn gấp hai lần(1 tấn) so với trường hợp tự
mình sản xuất bằng 1 đơn vị lao động (1/2 tấn). Như vậy, Mỹ cũng thu được lợi ích từ
thương mại dẫu nước này có lợi thế tuyệt đối kép.
Lợi ích của mỗi nước trong mô hình thương mại đơn giản này được thể hiện
trong hình sau:

22


Lợi ích
thương


1/2

mại

Lợi ích
thương

1/6

mại

1/2

1/6

Mỹ

Việt Nam
Quốc Nam

Như đã phân tích ở trên, lợi thế so sánh mang lại lợi ích cho các quốc gia tham
gia vào thương mại quốc tế, bất kể quốc gia đó có lợi thế tuyệt đối về một mặt hàng
nào hay không. Và cứ khi một quốc gia có thể sản xuất 1 mặt hàng và trao đổi mặt
hàng đó để thu được những lợi ích thương mại thì ta có thể ngầm hiểu rằng quốc gia đó
đã có lợi thế cạnh tranh về mặt hàng này. Lợi thế cạnh tranh này có được là do quốc
gia đó có thể sản xuất được mặt hàng đó có hiệu quả hơn các mặt hàng khác.

3.2.4.Các nguồn lực:
Lợi thế cạnh tranh của một quốc gia trong xuất khẩu còn được quyết định bởi

một nhân tố khác cũng rất quan trọng, đó là các nguồn lực trong quốc gia đó. Trước
hết cần điểm một lý thuyết quan trọng nói về vị trí của các nguồn lực trong lợi thế
cạnh tranh của một quốc gia.
Vào đầu thế kỷ 20, một lý thuyết thương mại mới xuất hiện khẳng định vai trò
của các nguồn lực đối với lợi thế cạnh tranh của một quốc gia. Trọng tâm của lý thuyết
này đề cập đến chi phí nguồn lực ở các quốc gia, theo đó mức chi phí của bất kỳ nguồn

23


lực nào đều đơn thuần là kết quả của cung và cầu: các nguồn lực có mức cung lớn
hơn so với mức cầu sẽ có chi phí thấp hơn so với các nguồn lực có mức cung nhỏ
hơn mức cầu.
Lý thuyết tỷ lệ các yếu tố phát biểu rằng, các quốc gia sẽ sản xuất và xuất khẩu
những mặt hàng đòi hỏi sử dụng nhiều nguồn lực (yếu tố) dồi dào và nhập khẩu những
mặt hàng đòi hỏi sử dụng nhiều nguồn lực (yếu tố) khan hiếm của các quốc gia đó. Lý
thuyết này là kết quả của công trình nghiên cứu của hai nhà kinh tế học là Eli
Heckscher và Bertil Ohlin nên còn gọi là lý thuyết Heckscher-Ohlin (H-O).
Lý thuyết tỷ lệ các yếu tố có sự khác biệt quan trọng so với lý thuyết lợi thế so
sánh. Lý thuyết lợi thế so sánh cho rằng một quốc gia nên thực hiện chuyên môn hoá
sản xuất mặt hàng mà mà quốc gia có thể sản xuất một cách có hiệu quả hơn so với
các mặt hàng khác. Nhưng lý thuyết tỷ lệ các yếu tố cho rằng, một nước nên thực hiện
chuyên môn hoá và xuất khẩu các mặt hàng sử dụng nhiều nguồn lực dồi dào nhất và
do đó rẻ nhất. Lý thuyết lợi thế so sánh nhấn mạnh đến năng suất của quá trình sản
xuất một mặt hàng cụ thể, còn lý thuyết tỷ lệ các yếu tố nhấn mạnh đến sự phong phú
của các nguồn lực đầu vào sản xuất mặt hàng đó.
Dựa trên nội dung cơ bản của lý thuyết tỷ lệ các yếu tố, ta có thể xác định một
số nguồn lực cụ thể quy định đến lợi thế cạnh tranh của một quốc gia khi xuất khẩu
sang các nước khác như sau
+Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên:

Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên bao gồm các yếu tố về khoảng cách, địa điểm,
khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, dân số, … Đây là những yếu tố có tác động quan trọng
đến lợi thế cạnh tranh của một quốc gia.
Lợi thế cạnh tranh của một quốc gia thể hiện một cách trực tiếp nhất ở những
hàng hoá mà nước đó xuất khẩu. Các nhà xuất khẩu khi xuất khẩu hàng hoá ra nước
ngoài đều phải tiến hành chuyên chở hàng hoá qua biên giới (trên bộ, trên không và

24


trên mặt nước), nếu vị trí địa lý thuận lợi, không cách trở thì chi phí vận chuyển thấp,
giảm được giá thành của hàng xuất khẩu và hạn chế rủi ro.
Khí hậu cũng là một yếu tố có ảnh hưởng đáng kể đến lợi thế cạnh tranh. Yếu tố
này bao gồm các đặc điểm về thời tiết, độ ẩm, bão lũ … Ví dụ như những nước có khí
hậu nhiệt đới gió mùa thường có lợi thế cạnh tranh là những mặt hàng nông sản nhiệt
đới hơn là những mặt hàng máy móc, đồ điện tử … bởi vì khí hậu này thường có độ ẩm
cao nên dễ trồng trọt, nhưng lại có tác động xấu đến độ bền của công nghệ.
Mặt khác, nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ cung cấp được các yếu tố đầu vào
phong phú, chất lượng cao và giá rẻ cho hoạt động sản xuất, từ đó có thể làm ra những
sản phẩm có khả năng cạnh tranh cả về giá cả và chất lượng.
+ Nguồn vốn đầu tư:
Nguồn vốn đầu tư (chủ yếu bao gồm vốn đầu tư trực tiếp từ Ngân sách Nhà
nước, nguồn vốn đầu tư của khu vực dân cư, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và vốn
ODA) là không thể thiếu được trong nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Nếu nguồn vốn
đầu tư hạn hẹp thì sẽ không thể đảm bảo duy trì được tốc độ phát triển của nền kinh tế
nói chung và những ngành có lợi thế cạnh tranh nói riêng và do vậy không phát huy
được hoàn toàn những điểm mạnh của những ngành này. Song cũng cần chú ý rằng,
lượng vốn đầu tư là cần thiết, nhưng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư đóng một vai trò
quyết định. Hiệu quả đầu tư thấp và lãng phí thì dù có tăng lượng vốn đầu tư lên bao
nhiêu lần thì cũng chỉ như “muối bỏ bể mà thôi”.

+Nguồn nhân lực:
Phát triển nguồn nhân lực được coi là khâu quyết định trong quá trình hình
thành lợi thế cạnh tranh của một quốc gia, nhất là xét về trung hạn và dài hạn.
Một trong những điểm yếu nội tại nghiêm trọng của hầu hết các nước đang phát
triển hiện nay là : lao động thiếu kỹ năng và năng suất thấp. Điểm yếu này đang từng
bước làm giảm lợi thế cạnh tranh dựa vào nguồn lao động dồi dào và rẻ của các nước
này. Không khắc phục được điểm yếu này, các nước đang phát triển khó có thể đạt

25


×