Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA MỘT NĂM GIA NHẬP WTO ĐẾN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.94 KB, 12 trang )

VIỆN NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ KINH TẾ TW
TRUNG TÂM THÔNG TIN TƯ LIỆU
--------------------------------------------------ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA MỘT NĂM GIA NHẬP WTO ĐẾN
KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM
Ngày 7/11/2007, tròn một năm Việt Nam chính thức trở thành thành viên
thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Nhìn lại một năm của mở
cửa, hội nhập, cơ hội và thách thức, có rất nhiều ý kiến khác nhau xung
quanh tác động của việc gia nhập WTO này đến kinh tế - xã hội của Việt
Nam.
Đứng ở góc độ người tiêu dùng, có ý kiến cho rằng một năm qua chúng ta
không cảm nhận được lắm về "cái lợi". Người tiêu dùng hy vọng giá các mặt
hàng ô tô, đường sữa... sẽ giảm nhưng thực tế giá những mặt hàng này
không những không giảm mà còn tăng vùn vụt. Bên cạnh đó, cũng có những
nhận xét, gia nhập WTO, người tiêu dùng được hưởng lợi từ việc hàng hóa
phong phú hơn, cạnh tranh hơn như giá một số mặt hàng điện tử, vải vóc,
quần áo, cước phí dịch vụ viễn thông...
Đối với các doanh nghiệp trong nước thì đây quả là một thách thức lớn vì
trong khi năng lực cạnh tranh còn hạn chế, các doanh nghiệp lại phải cạnh
tranh trong hoàn cảnh đặc biệt đó là cơ cấu kinh tế thế giới đã thay đổi
mạnh, kinh tế tri thức - dịch vụ đã phát triển rất mạnh. Hơn nữa, trong hoàn
cảnh tất cả các quốc gia thành viên đều đã mở cửa thì năng lực cạnh tranh
yếu của doanh nghiệp Việt Nam càng bộc lộ rõ.
Tuy nhiên, những ai đã kỳ vọng có những phép màu từ việc Việt Nam gia
nhập WTO có thể cảm nhận khác vì Việt Nam thực sự đã có tiến bộ quan
trọng trong phát triển và cải cách kinh tế. Nhiều nhà quản lý và chuyên gia
kinh tế đều chung nhận định những kết quả Việt Nam đạt được trong năm
qua là những hiệu ứng rất tốt do WTO mang lại, Việt Nam đã gặp nhiều
thuận lợi hơn khó khăn, thách thức. Có thể thấy rằng nền kinh tế năm qua
vẫn phát triển thuận lợi dù chịu những biến động không nhỏ của thị trường
thế giới và khu vực, đặc biệt là về giá cả. Năm 2007, kinh tế Việt Nam tăng
trưởng tới 8,5%, đầu tư nước ngoài và xuất khẩu đều đạt mức kỷ lục. Tựu


trung lại, lúc này có thể an tâm nói rằng Việt Nam đã thích nghi và đứng
vững sau một năm thực hiện cam kết WTO. Chúng ta đã kiểm soát được các
cam kết trong lộ trình dù thách thức phía trước là không nhỏ.


I - Tác động đến kinh tế
1. Tăng trưởng và lạm phát
1.1. Tăng trưởng
Mặc dù việc Việt Nam gia nhập WTO một năm qua chưa đem lại phép màu
nào nhưng rõ ràng nền kinh tế Việt Nam đang phát triển nhanh chóng với
mức tăng trưởng GDP dự kiến là 8,3% năm 2007 và 8,5% năm 2008.
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt
Nam quý III năm 2007 đạt khoảng 8,93%, cao hơn mức tăng trưởng 7,7%
của quý I và 8,0% của quý II. Điều này thể hiện xu thế khả quan về tốc độ
tăng trưởng GDP trong năm 2007. Tính chung trong 9 tháng đầu năm, tốc độ
tăng trưởng GDP ước đạt 8,3%, cao hơn mức tăng 8,1% của cùng kỳ năm
2006.
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam hầu như hoàn toàn từ ngành công nghiệp và
dịch vụ, và sự năng động của khu vực tư nhân được ghi nhận với mức tăng
20,5%, hơn gấp đôi tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp nhà nước.
Trong đó ngành sản xuất công nghiệp tăng mạnh 12,4% nhưng khai thác mỏ
lại có mức tăng trưởng rất nhỏ vì có sự sụt giảm 7,4% trong khai thác dầu
thô do sản lượng khai thác tại mỏ dầu Bạch Hổ, mỏ dầu lớn nhất Việt Nam,
giảm sút. Về dịch vụ, thương mại và tài chính tăng 10,4% và khách sạn, nhà
hàng do được lợi từ sự tăng mạnh tiêu dùng và du lịch, đã tăng 12,7%.
Tuy nhiên, trong khi đó, sau một năm gia nhập WTO, đúng như dự báo,
nông nghiệp là một trong những ngành chịu ảnh hưởng nhiều nhất. Nếu như
mía đường, sữa hay trồng trọt đón nhận sức cạnh tranh chưa đến mức khốc
liệt thì ngành chăn nuôi đã bị "đánh" vỗ mặt. Dù chưa khảo sát cặn kẽ tác
động của WTO nhưng một điều dễ thấy là do thị trường bấp bênh, chi phí

tăng vọt khiến số nông dân sống bằng nghề chăn nuôi địa phương này giảm
mạnh.
Nguyên nhân là do chăn nuôi ở Việt Nam quy mô nhỏ lẻ, nuôi trong điều
kiện thiết bị, kỹ thuật yếu kém, lại liên tục xảy ra dịch bệnh nên dẫn đến tăng
chi phí giá thành. Hơn nữa, điều quan trọng nhất đó là mặc dù đã gia nhập
WTO được một năm nhưng đến nay vẫn chưa có một cơ quan nào ở Việt
Nam giúp nông dân định hướng sản xuất, chúng ta vẫn chưa quy hoạch được
vùng chăn nuôi; định hướng tổ chức mô hình nuôi chưa rõ ràng. Hầu hết các
trang trại tập trung hình thành trong thời gian một năm trở lại đây đều là tự
phát, chưa tuân thủ theo vùng nuôi an toàn theo chuẩn quốc tế nên thường
gặp nhiều rủi ro, thường xuyên đối mặt với thua lỗ.


Bên cạnh đó, chính sách của nhà nước đã không đến được với người chăn
nuôi. Chính sách ưu đãi 40% lãi suất cho người dân vay chăn nuôi, nhưng
thực tế không một ngân hàng nào dám cho vay với quy mô lớn, vì sợ không
thu hồi được vốn do chăn nuôi gặp rủi ro cao. Nếu nhà nước không sớm can
thiệp, thì nhiều loại thực phẩm chăn nuôi khác cũng sẽ bị các tập đoàn nước
ngoài chi phối, và người tiêu dùng sẽ phải gánh hậu quả.
1.2. Lạm phát
Một vấn đề nổi bật bên cạnh tốc độ tăng GDP rất ấn tượng trong năm qua đó
là tỷ lệ lạm phát khá cao và vẫn đang tiếp tục xu hướng tăng. Tính chung từ
đầu năm tới nay, chỉ số giá (CPI) đã tăng 9,45%, vượt xa mục tiêu GDP đề
ra cho cả năm. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát cao trong thời gian
qua. Không kể những nguyên nhân như tiêu dùng tăng mạnh do chuyển tiền
kiều hối tăng, tăng lương, đặc biệt là cho lao động có tay nghề hay do cú sốc
về cung khi cúm gia cầm và các bệnh của lợn làm giá thực phẩm tăng lên,
một phần rất lớn là do tác động của việc gia nhập WTO. Chính việc gia nhập
WTO với việc hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới, giá cả của
Việt Nam chịu ảnh hưởng mạnh của thị trường thế giới, nhất là khi nền sản

xuất của Việt Nam nhập khẩu rất nhiều nguyên liệu đầu vào. Thêm vào đó,
hiệu ứng kéo theo từ việc gia nhập WTO của Việt Nam đó là tổng phương
tiện thanh toán của Việt Nam tăng lên do FDI, chuyển tiền kiều hối và đầu
tư gián tiếp tăng. Lượng vốn đầu tư nước ngoài cả trực tiếp và gián tiếp rất
lớn đổ vào nền kinh tế trong thời gian qua đã tạo sức ép cung tiền rất lớn để
hấp thụ nguồn vốn này. Nó làm tăng lượng tiền và phương tiện thanh toán
cần thiết trong lưu thông, cũng như tăng nhu cầu và sự cạnh tranh về nguồn
vốn đối ứng, nguồn nhân lực, vật lực để triển khai các dự án đầu tư, tức dễ
làm tăng giá tiền lương và các chi phí đầu tư vào khác, từ đó tạo áp lực tăng
lạm phát. Chỉ tính riêng Ngân hàng nhà nước, để hấp thụ được nguồn vốn
khổng lồ này, từ đầu năm đã mua vào 7 tỷ USD để tăng dự trữ ngoại hối,
bằng mức mua của cả 10 năm trước cộng lại. Như thế chỉ với riêng việc mua
này đã làm tổng lượng cung tiền ít nhất phải thêm hơn 112 ngàn tỷ đồng (đó
là chưa tính đến hệ số nhân, hệ số tạo ra tiền của hệ thống ngân hàng thương
mại có thể phát sinh liên quan đến bất cứ sự mua sắm tài sản nào của
NHNN, và chưa kể lượng tăng cung tiền khác). Như vậy, bản thân việc vốn
nước ngoài vào nhiều cộng với việc theo đuổi mục tiêu ổn định tỷ giá nhằm
có lợi cho xuất khẩu và đầu tư đã làm cho lạm phát có nguy cơ tăng lớn.
Ngoài ra, một nguyên nhân nữa là việc kiểm soát chống đầu cơ trong nước
chưa hiệu quả mặc dù Chính phủ đã đề ra nhiều biện pháp. Khi Việt Nam
vào WTO, Nhà nước phải chuyển từ quản lý trực tiếp theo cách định giá, cấp
phép, ra lệnh sang quản lý gián tiếp, xây dựng chính sách, các chuẩn, tiêu


chí để doanh nghiệp hoạt động theo. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi này
còn chậm và chưa hiệu quả. Do đó, trong khi hầu hết các nước khác cũng bị
ảnh hưởng bởi tình hình giá cả hàng hóa leo thang nhưng họ lại kìm chế
được lạm phát thì chúng ta lại không thành công. Giá thuốc, ôtô, sắt thép,
phân bón leo thang nhanh chóng một phần là do có hiện tượng đầu cơ đối
với các mặt hàng này. Trước kia, một số mặt hàng như xăng dầu, sắt thép,

thuốc.. do Nhà nước định giá, nhưng giờ thả theo giá thị trường, việc quản lý
không chặt nên đã để xảy ra hiện tượng đầu cơ.
Mặc dù vậy, nhiều chuyên gia kinh tế vẫn cho rằng, tỷ lệ lạm phát tương đối
cao nhưng vẫn trong tầm kiểm soát, và sẽ có xu hướng giảm còn 6,8% năm
2008, theo dự báo của ADB.
2. Xuất nhập khẩu
Năm đầu vào WTO, cả kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đều tăng
cao. Hàng hoá Việt Nam không bị phân biệt đối xử, không bị các đối tác ép
giá như trước. Việt Nam không những giảm thiểu được các vụ kiện Việt
Nam bán phá giá mà còn có quyền kiện các đối tác khác bán phá giá tại thị
trường Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã đủ sức cạnh tranh với
đối tác, xuất khẩu những mặt hàng thế mạnh, có chất lượng cao, góp phần
tăng kim ngạch xuất khẩu cho đất nước. Rõ ràng là, ngành xuất nhập khẩu
đã được hưởng lợi nhiều từ việc gia nhập WTO.
Xuất khẩu của Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2007 có quy mô đạt mức
cao nhất so với cùng kỳ từ trước tới nay. Qua 9 tháng, kim ngạch xuất khẩu
đã cao hơn tổng kim ngạch xuất khẩu đạt được trong cả năm từ 2005 trở về
trước. Bình quân 1 tháng đạt gần 4 tỷ USD, trong đó mấy tháng nay đạt trên
4 tỷ USD, cao hơn mức xuất khẩu trong cả năm từ năm 1994 trở về trước.
So với cùng kỳ 2006, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 35,3 tỷ USD tăng 19,4%
và cao gấp 2,4 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Với 39 tỷ USD trong 10 tháng
qua, kim ngạch xuất khẩu năm nay đang được Bộ Công Thương dự kiến ở
mức 48 tỷ USD, tăng trên 20% so với năm 2006. Tăng trưởng cao đạt được
ở cả khu vực trong nước và khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
(FDI), đáng lưu ý là khu vực kinh tế trong nước tăng cao hơn tốc độ tăng
chung, một hiện tượng hiếm thấy. Điều đó chứng tỏ, các doanh nghiệp trong
nước đã bước đầu tận dụng được cơ hội khi Việt Nam gia nhập WTO, với
các rào cản về hạn ngạch bị dỡ bỏ, rào cản về thuế suất thuế nhập khẩu vào
các nước được cắt giảm.
Những ngành hưởng lợi đáng kể của việc gia nhập WTO chính là dệt may và

điện tử máy tính. Tính chung 10 tháng đầu năm, một số đạt mức tăng trưởng
cao là hàng dệt may đạt 6,4 tỷ USD, tăng 31,6%, sau khi hủy bỏ hạn ngạch;


sản phẩm gỗ 1,9 tỷ USD, tăng 22,4%; hàng điện tử và linh kiện máy tính 1,7
tỷ USD, tăng 23,6%... Nhóm sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản tăng trưởng ổn
định và duy trì khả năng xuất khẩu do được lợi thế về giá. Những sản phẩm
có tốc độ tăng trưởng cao là: cà phê (tăng 84,1%); hạt tiêu (28,0%); nhân
điều (25,4%).
Ngoài những thị trường truyền thống tăng cao, nhất là Anh, Mỹ, Australia,
EU, còn mở rộng thị trường lên trên 200 nước và vùng lãnh thổ. Với đà này,
khả năng hệ số giữa kim ngạch xuất khẩu so với GDP sẽ đạt khoảng 67%,
thuộc loại cao trên thế giới, ở châu Á và trong khu vực.
Bên cạnh đó, nhờ xuất khẩu đạt quy mô và có tốc độ tăng khá, nên nhập
khẩu có điều kiện tăng tốc và đạt quy mô lớn, phục vụ đổi mới kỹ thuật công nghệ, sản xuất và tiêu dùng ở trong nước cũng như sản xuất hàng xuất
khẩu. Qua 9 tháng, tổng kim ngạch đã đạt 42,8 tỷ USD, tăng 30,3% so với
cùng kỳ năm trước, nhập khẩu hàng hóa máy móc thiết bị tăng 46,5%.
Tuy nhiên, nhìn tổng thể, việc gia nhập WTO chưa tạo ra sức bật cho xuất
khẩu và năm nay, Việt Nam còn bị nhập siêu nặng hơn và sẽ mắc nợ nhiều
hơn. Do nhập khẩu có quy mô lớn hơn và tăng cao xuất khẩu, nên nhập siêu
9 tháng đã lên đến 7,6 tỷ USD, tăng rất cao so với cùng kỳ năm trước (gấp
2,3 lần); tỷ lệ nhập siêu đã lên đến 21,6% cũng cao gấp đôi tỷ lệ của cùng kỳ
(10,1%). Mức nhập siêu này không những cao nhất so với cùng kỳ từ trước
tới nay mà còn cao hơn mức nhập siêu cả năm kể từ năm 2001. Với đà này,
mức nhập siêu cả năm có thể vượt trên 10 tỷ USD (chiếm hơn 20% kim
ngạch xuất khẩu), mức kỷ lục từ trước tới nay, vượt xa mức nhập siêu 4,3 tỷ
USD của năm 2005 và 5,1 tỷ USD của năm 2006. Đây là điều đáng phải lo
ngại.
Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng nhập siêu bao gồm: (1) Một là do tăng
cường nhập khẩu nhóm hàng máy móc- thiết bị- phụ tùng nhằm gia tăng đầu

tư và đẩy mạnh xuất khẩu. Nhập siêu tăng cũng là một hệ quả tất yếu của
việc gia tăng đầu tư sản xuất trong nước và các doanh nghiệp FDI sau khi
Việt Nam gia nhập WTO; (2) Hai là, tỷ lệ nội địa hóa thấp và ngành công
nghiệp phụ trợ kém phát triển. Thực tế, nền kinh tế Việt Nam vẫn phụ thuộc
quá lớn vào nguồn nguyên liệu, nhiên liệu và vật liệu nhập ngoại, bởi vì hầu
hết các ngành công nghiệp phụ trợ đến nay vẫn chưa có bước tiến triển đáng
kể, thậm chí phần lớn doanh nghiệp đầu tư nước ngoài làm hàng xuất khẩu
đều dựa vào nguồn nguyên liệu, vật liệu nhập khẩu (gia công cho nước
ngoài). Rõ ràng là lộ trình “nội địa hoá” được bàn thảo từ nhiều năm nay cho
đến nay chưa mang lại kết quả đáng kể. Trong bối cảnh ấy, với khả năng


ngày càng rộng mở về xuất khẩu do hội nhập WTO, thì việc hạn chế nhập
siêu sẽ trở nên hết sức khó khăn.
Một điểm khác đáng lưu ý, nhập siêu của khu vực kinh tế trong nước rất cao.
Trong khi tháng 4, khối doanh nghiệp trong nước chỉ xuất khẩu 1,78 tỷ
USD, thì nhập khẩu lên tới 2,8 tỷ USSD. Ngược lại, các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài xuất khẩu tới 2,17 tỷ USD thì nhập khẩu chỉ là 1,7 tỷ
USD. Điều này chứng tỏ hiệu quả và sức cạnh tranh của hàng hoá sản xuất
trong nước còn thấp, nên chưa tận dụng được cơ hội các nước cắt giảm thuế
suất thuế nhập khẩu đối với hàng hoá Việt Nam; đồng thời ngay trên thị
trường nội địa, hàng hoá sản xuất trong nước lại bị giảm thị phần do phải
cạnh tranh gay gắt hơn khi Việt Nam cũng phải cắt giảm thuế suất thuế nhập
khẩu đối với hàng hoá của các nước.
Thêm vào đó, không chỉ nhập khẩu những mặt hàng chủ yếu nêu trên tăng
mạnh mà nhập khẩu những mặt hàng khác cũng tăng mạnh, chẳng hạn như
tân dược, giấy, vải, xe máy, hàng điện tử... làm tăng kim ngạch nhập khẩu so
với cùng kỳ năm 2006 là 2,58 tỷ đồng. Sự gia tăng “đột biến” của nhập khẩu
của phần lớn các mặt hàng trong những tháng đầu năm 2007 phần nào chính
là hệ quả của việc cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu hơn 3.000 mặt hàng để

thực hiện cam kết gia nhập WTO, khiến hàng nhập khẩu trở nên rẻ hơn và
đổ mạnh vào thị trường trong nước. Đây cũng là dấu hiệu báo trước xu thế
tăng nhập khẩu sẽ còn tiếp tục mạnh lên trong những năm tới. Giá cả một số
mặt hàng nhập khẩu trong diện cắt giảm thuế suất cũng đã giảm ít nhiều,
nhưng chủ yếu là một số mặt hàng cao cấp, hàng nhập khẩu từ ngoài khu
vực ASEAN, người tiêu dùng trong nước, nhất là người có thu nhập thấp
chưa được hưởng lợi bao nhiêu.
3. Đầu tư
Có thể thấy rõ sau khi gia nhập WTO, đã có một làn sóng nhà đầu tư đổ vào
Việt Nam làm ăn. Dưới góc nhìn của cộng đồng quốc tế thì Việt Nam đã tạo
được niềm tin trong các nhà đầu tư nước ngoài đối với những cam kết của
mình ngay sau khi gia nhập WTO. Việc trở thành thành viên của WTO đã
giúp Việt Nam ngày càng nổi bật trên bản đồ thu hút đầu tư thế giới. Việt
Nam cũng đã tranh thủ tốt vốn đầu tư nước ngoài, chưa bao giờ cả thế giới
chú ý đến Việt Nam về mặt hợp tác đầu tư như bây giờ. Các doanh nghiệp,
tập đoàn lớn của Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore và Mỹ,... đang hướng đến
thị trường Việt Nam.
Vốn đầu tư nước ngoài chảy vào Việt Nam tăng nhanh trong 10 tháng đầu
năm 2007 đạt 11,2 tỷ USD, dự tính cả năm 2007 đạt 14-15 tỷ USD; còn
danh mục các dự án đang chờ cấp giấy phép và đang hoàn thiện lên đến 50


tỷ USD. Trong 9 tháng đầu năm, số dự án quy mô lớn được cấp giấy chứng
nhận đầu tư đã tăng hơn 50% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh một số dự
án lớn đầu tư vào công nghiệp nặng, đa số các dự án quy mô vốn lớn đầu tư
trong hoạt động kinh doanh bất động sản. Quy mô vốn đầu tư trung bình đạt
8 triệu USD/dự án, cao hơn mức 7,01 triệu USD/dự án bình quân cùng kỳ
năm trước. Theo các Tổ chức quốc tế thì Việt Nam xếp thứ 6 về hấp dẫn đầu
tư trên thế giới. Trong bối cảnh cạnh tranh thu hút vốn đầu tư trên thế giới
diễn ra gây gắt hiện nay thì xếp hạng này được coi là một động thái mới, là

cơ sở cho sự phát triển mạnh và bền vững.
Chính những nỗ lực của chính phủ trong việc hoàn chỉnh hệ thống pháp luật
cho phù hợp với thông lệ quốc tế, cải cách nền hành chính quốc gia tạo
thuận lợi cho các nhà đầu tư, mở rộng thị trường trong nước, hàng hoá, dịch
vụ phong phú đa dạng, nhất là hàng điện tự, gia dụng, công nghệ phẩm
nhiều và rẻ, chất lượng cao cùng với những khích lệ của việc Việt Nam gia
nhập WTO đã. Phần lớn tăng trưởng đầu tư là từ khu vực tư nhân trong nước
với phần đóng góp trong đầu tư tổng thể đã tăng lên khoảng 35% trong nửa
đầu năm 2007, so với mức tăng 23% trong 6 năm.
Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận là khả năng tiếp nhận của nền kinh tế đối
với đầu tư nước ngoài còn yếu. Dù lượng vốn đầu tư nước ngoài vào rất lớn,
việc sử dụng vẫn chưa thực sự hiệu quả, giải ngân cũng rất chậm chạp. Năm
2000 vốn đầu tư nước ngoài cam kết là 2,6 tỷ USD và đã đưa vào triển khai
được 2,4 tỷ USD. Đến năm 2006, đầu tư nước ngoài cam kết trên 10 tỷ USD
nhưng chỉ triển khai được 4,1 tỷ USD, nghĩa là tụt từ 92% xuống còn 40%.
Đây là vấn đề cần rút kinh nghiệm cho năm sau bởi nếu cứ tiếp tục như vậy,
chắc chắn nhà đầu tư sẽ nản chí.
Năm 2008 triển vọng tốt hơn nhưng còn tùy thuộc nỗ lực của Việt Nam.
Triển vọng tăng trưởng cao là hiện thực. Đây là cơ hội lớn đối với Việt
Nam. Trong thời gian ngắn có thể công nghiệp hóa, thu hút được nguồn vốn
lớn, đổi mới được công nghệ, tạo công ăn việc làm, xóa được đói nghèo.
4. Thị trường tài chính
Cùng với sự gia tăng nguồn vốn FDI, sự tham gia sâu rộng của các nhà đầu
tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán đã khiến nguồn vốn gián tiếp vào
Việt Nam thời gian gần đây tăng đáng kể. Đây được coi là một trong những
lĩnh vực được hưởng lợi nhiều nhất từ “hiệu ứng gia nhập WTO”, theo lời
các chuyên gia kinh tế. Thị trường chứng khoán hiện nay đã đạt 34% của
GDP so với mức 5% của đầu năm 2006.
Lộ trình cam kết mở cửa các lĩnh vực dịch vụ ngày càng sâu rộng đang tạo
ra sự cạnh tranh rất mạnh trên thị trường Việt Nam. Cùng với tài chính-ngân



hàng, bất động sản và dịch vụ phân phối đang nóng lên bởi sự tham gia ngày
càng nhiều của nhà đầu tư nước ngoài lớn. Sau 1 năm Việt Nam gia nhập
WTO, hoạt động ngân hàng đã có những tiến triển rõ rệt và xu hướng này sẽ
còn tiếp tục phát triển mạnh trong vài năm tới. Sự tham gia của các ngân
hàng nước ngoài sau khi Việt Nam mở cửa thị trường tài chính ngân hàng
theo cam kết gia nhập WTO đã giúp cho các định chế tài chính của Việt
Nam thay đổi và phát triển tích cực.
Không phủ nhận việc các ngân hàng nội địa đang phải chịu sức ép cạnh
tranh lớn từ các ngân hàng nước ngoài, song cũng phải thừa nhận sự có mặt
của các ngân hàng nước ngoài đã giúp các ngân hàng nội địa thay đổi nhận
thức, tích cực học hỏi và năng động hơn trong kinh doanh.
Sau một năm Việt Nam gia nhập WTO, vốn điều lệ của hầu hết các ngân
hàng thương mại cổ phần đã tăng gấp hơn 2 lần, tạo cơ sở cho các ngân hàng
mở rộng quy mô và mạng lưới kinh doanh, góp phần nâng cao vị thế của các
ngân hàng. Bên cạnh đó, cùng với việc tăng vốn, các ngân hàng còn tăng tốc
đầu tư hiện đại hóa công nghệ và cho đến nay, tất cả các ngân hàng thương
mại đều đã tham gia vào hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng. Một số
ngân hàng đã tỏ rõ sự vượt trội về công nghệ qua việc triển khai dịch vụ
thanh toán thẻ với hàng chục sản phẩm tiện ích như Ngân hàng Đông Á.
ngoài ra, để tăng năng lực cạnh tranh, nhiều ngân hàng cũng đang ráo riết
xây dựng và triển khai các phương án chiếm lĩnh thị phần, xác lập các chuỗi
sản phẩm chuyên biệt trong những phân khúc thị trường nhất định hay sáp
nhập và hợp tác kinh doanh với các ngân hàng khác ở trong và ngoài nước.
Một số ngân hàng lớn như Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam, còn đang nỗ lực hướng đến mục tiêu trở
thành những tập đoàn tài chính đa năng.
Phải khẳng định rằng sau một năm vào WTO, nền kinh tế Việt Nam đã và
đang trong quá trình hội nhập quốc tế, cả chiều rộng và chiều sâu tạo được

lòng tin của bạn bè trên thế giới và các nhà đầu tư, tạo đà cho các bước phát
triển tiếp theo của đất nước, để sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém
phát triển trước năm 2010. Tuy nhiên những hạn chế lớn sau một năm vào
WTO cũng đặt ra cần phải giải quyết. Đó là sự cạnh tranh lớn giữa các sản
phẩm của nước ta với sản phẩm của các nước, giữa doanh nghiệp của nước
ta với doanh nghiệp của các nước. Những doanh nghiệp của nước ta chưa
kịp thích ứng và ít hiểu biết về luật pháp quốc tế, quy mô lại nhỏ, công nghệ
lạc hậu nên sản phẩm không đủ sức cạnh tranh, phải thu hẹp sản xuất hoặc
phá sản, công nhân thất nghiệp dẫn đến những vấn đề xã hội bức xức. Đây là
hạn chế khó tránh khỏi trong quá trình phát triển. Nhiều chuyên gia kinh tế
cho rằng cả ở tầm vĩ mô và vi mô, nếu dự báo được trước hiện tượng này


trên bình diện cả nước và từng ngành, từng địa phương thì sẽ khắc phục
được bằng cơ cấu lại lao động, có chính sách đồng bộ trong đó chú trọng sự
dụng lao động có chất lượng cao.
II- Tác động đến xã hội
1. Việc làm
Một điều rất rõ ràng là, dưới hiệu ứng gia nhập WTO, sự tăng trưởng mạnh
mẽ của nền kinh tế cùng với đầu tư nước ngoài tăng mạnh trong một năm
qua đã đóng góp tích cực vào vấn đề giải quyết công ăn việc làm cho người
lao động. Theo sau các dự án với số vốn đầu tư lớn là các tập đoàn, các khu
công nghiệp và khu chế xuất… thu hút lao động tại chỗ rất lớn. Bên cạnh đó
để đáp ứng nhu cầu của quá trình hội nhập, nhà nước cũng đã có những cải
cách nhằm tạo ra sự thông thoáng trong đầu tư nước ngoài và khuyến khích
sự phát triển mạnh mẽ của khu vực tư nhân. Điều này đã có ảnh hưởng rất
tích cực tới đời sống xã hội. Sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp nước
ngoài và các doanh nghiệp tư nhân đã tạo ra được một số lượng lớn việc
làm, góp phần cải thiện đời sống lao động đặc biệt là lao động nông thôn, ổn
định của xã hội.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, một thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt đó
là tình trạng khan hiếm lao động có trình độ được đào tạo hiện nay. Nguồn
lao động chất lượng cao đang thực sự là vấn đề đáng báo động. Đặc biệt là
trong kỷ nguyên công nghệ hiện nay, khi mà chi phí lao động rẻ không còn
là lợi thế cạnh tranh tuyệt đối nữa.
2. Công bằng xã hội
Gia nhập WTO, ở một khía cạnh nào đó, người tiêu dùng được hưởng lợi từ
việc hàng hóa một số mặt hàng như điện tử, vải vóc, quần áo, dịch vụ viễn
thông…đa dạng hơn, phong phú hơn và giá cả cạnh tranh hơn. Mặc dù chưa
có nghiên cứu cụ thể nào được tiến hành song nhìn chung có thể nhận định
rằng một năm qua, tiêu dùng của người dân đang tăng lên, người dân đã chi
cho tiêu dùng nhiều hơn. Nếu như tổng bán lẻ hàng hoá, dịch vụ tăng danh
nghĩa những năm gần đây thường vào khoảng 20% thì năm 2007 theo tính
toán của các chuyên gia kinh tế, dự báo sẽ tăng 23-24%, nếu trừ đi lạm phát
tăng thực cũng khoảng 13-14%, mức cao nhất từ trước tới nay. Chính điều
này đã làm cho phúc lợi xã hội tăng, đời sống nhân dân được cải thiện.
Bên cạnh đó, một năm sau khi gia nhập WTO, tình hình văn hoá - xã hội
cũng có những bước tiến mới. Giáo dục và đào tạo cũng có những thay đổi
đáng kể, xuất hiện thêm các trường đào tạo nước ngoài, hệ thống các trường,
đại học, cao đẳng có liên kết với nước ngoài cũng đang có xu hướng tăng


lên. Việc mở cửa về kinh tế - xã hội đã đưa đến cho Việt Nam những cơ hội
mới trong việc tiếp thu những tiến bộ về tri thức, về văn hoá các nước trên
thế giới. Mở rộng giao lưu và hội nhập về văn hoá.
Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận, một năm qua, tình trạng phân hóa giàu
nghèo đã diễn ra sâu sắc hơn. Hội nhập đang tạo ra trong xã hội một nhóm
người cực giàu, kiếm tiền dễ dàng và một nhóm người có thu nhập cực thấp,
thậm chí không kiếm nổi tiền. Chênh lệch thu nhập và tiêu dùng vì thế cũng
đang có khoảng cách rất rõ, bất bình đẳng xã hội vì thế đang tăng lên.

Với mức lạm phát khá cao, một bộ phận dân cư đặc biệt là nhóm dân cư
vùng thiên tai, dịch bệnh, một bộ phận cán bộ công nhân viên, người nghỉ
hưu, nông dân,... trở nên khó khăn hơn vì mức tăng thu nhập danh nghĩa đã
thấp hơn mức tăng giá cả. Người dân đang phải đối mặt với tình trạng giá cả
leo thang chóng mặt. Các mặt hàng thiết yếu cho sinh hoạt hàng ngày của
người dân đều tăng giá trong đó đáng chú ý là giá của các mặt hàng thực
phẩm, các mặt hàng y tế, nhiên liệu… điều này ảnh hưởng tới chất lượng
cuộc sống và đặt ra những thách thức cho các cơ quan chính phủ trong việc
ổn định xã hội và phát triển kinh tế. Mặc dù Việt Nam cũng được lợi từ việc
bán dầu thô với giá cao hơn nhưng tiền thu vào cũng chỉ bằng hoá đơn nhập
khẩu xăng dầu. Khi số thu gia tăng nhờ dầu thô lên giá thì chính phủ có thêm
ngoại tệ dự trữ, nhưng khi xăng dầu lên giá thì giới tiêu thụ và người dân bị
thiệt vì ảnh hưởng của lạm phát nhập khẩu do xăng dầu sẽ đẩy vật giá lên
còn cao hơn nữa. Cái được của nhà nước và cái mất của người dân là một
vấn đề. Nếu nhìn toàn cảnh thì Việt Nam mới chỉ tiến tới chế độ làm gia
công cho các nước khác. Và nếu hội nhập theo kiểu như vậy thì khoảng cách
giàu nghèo trong xã hội sẽ ngày càng tăng. Trong năm qua, Việt Nam đã có
thêm rất nhiều triệu phú USD, nhưng đây vẫn chỉ là một thiểu số, tập trung ở
thành thị, chứ đại đa số dân chúng vẫn ở ngoài lề của việc hội nhập.
Mặt khác, nói rằng, gia nhập WTO, hàng hóa sẽ tràn ngập thị trường với giá
cả rẻ hơn một phần vì sự dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan.
Nhưng trên thực tế, một năm qua, phần lớn các mặt hàng mới được nhập
khẩu là hàng cao cấp, từ các nước châu Âu, các mặt hàng tiêu dùng trong
khu vực với giá cả phải chăng chưa được các nhà nhập khẩu hướng tới. Vì
vậy, đa số người dân chưa có điều kiện hưởng lợi ích từ việc này.
Năng lực cạnh tranh thấp và chậm được nâng cao, nhất là về nông sản, dịch
vụ, chính vì vậy, nông dân là những người “chịu trận” đầu tiên dưới tác
động của gia nhập WTO. Hàng nông sản đặc biệt là các sản phẩm từ chăn
nuôi đã tràn vào, gây khốn khó cho người dân khi mà chăn nuôi các hộ hầu
hết đều nhỏ lẻ, chưa được định hướng quy hoạch, ưu đãi của nhà nước,



không thể cạnh tranh với sản phẩm nhập ngoại. Bên cạnh đó, mặc dù giá
xuất khẩu gạo năm nay tăng rất cao nhưng nông dân vùng gạo xuất khẩu lại
chưa hưởng lợi nhiều bởi giá phân bón, xăng dầu tăng cao. Lợi ích nếu có
đều rơi vào các doanh nghiệp nhập khẩu hoặc những người buôn bán trung
gian, còn nông dân hầu như chẳng được mấy. Điều này tạo ra một sự bất
bình đẳng trong xã hội khi tổng thể nền kinh tế đi lên mà một nhóm người
lại trở nên khốn khó. Thêm vào đó, việc cải cách DNNN và đô thị hoá, công
nghiệp hoá dẫn đến nông dân mất đất, có thể dẫn đến những vấn đề xã hội
phức tạp.
Nhiều chuyên gia nhận định rằng: Nếu không đẩy mạnh các cải cách trong
nước, đặc biệt là cải cách thể chế, tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh
thuận lợi, hiệu quả thì Việt Nam sẽ không tận dụng được cơ hội của hội
nhập. Ngược lại, sẽ làm tăng mặt trái của nó là người nghèo, người yếu thế
rất dễ bị gạt ra bên lề của cuộc sống giàu - nghèo, bất bình đẳng xã hội tăng
lên, gây ra những tác động xã hội không lành mạnh.
Kết luận
Mới có một năm vào WTO, chưa đủ thời gian để có thể nhìn nhận và đánh
giá một cách sâu sắc, toàn diện những tác động của việc gia nhập WTO tới
sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, về lý thuyết, chưa có nước nào vào
WTO mà thất bại về kinh tế. Và trên thực tế, tính đến thời điểm này, tham
gia hội nhập quốc tế chúng ta được nhiều hơn mất. Nền kinh tế của chúng ta
bước đầu đã được hưởng lợi nhất định từ việc gia nhập đó, bằng chứng là
tăng trưởng, đầu tư, xuất khẩu đều tăng lên mạnh mẽ, vị thế của Việt Nam
được nâng lên trên trường quốc tế. Thế giới tiếp tục có cách nhìn vào Việt
Nam ngày càng tích cực hơn. Bạn bè tin cậy vào một Việt Nam như một
điểm đến an toàn, tiếp tục đổi mới, ổn định về chính trị xã hội, kinh tế đạt
mức tăng trưởng cao nhất so với những năm trước, đời sống nhân dân càng
được nâng cao. Sự ủng hộ hầu như đồng thuận Việt Nam làm thành viên

không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 20082009 thể hiện sự công nhận và đánh giá cao của cộng đồng quốc tế đối với
vị thế mới của ta. Điều quan trọng nhất là Việt Nam đã có thể đứng vững
trong tư thế thành viên chính của sân thương mại lớn nhất toàn cầu. Mặc dù
vậy, cũng phải nhìn nhận những thách thức song hành cùng những cơ hội mà
chúng ta đang có, đó là tỷ lệ lạm phát cao, khó kiểm soát, tình trạng nhập
siêu đáng chú ý, tình trạng thiếu hụt láo động chất lượng cao cho các ngành
nghề đòi hỏi công nghệ cao và tình trạng phân hóa giàu nghèo đang tăng lên
trong xã hội.


Bước vào năm thứ 2 là thành viên của WTO đặt ra cho nước ta nhiệm vụ
“Phát triển kinh tế với tốc độ cao (GDP từ 8,5% đến 9%), gắn liền với việc
nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và tình bền vững của nền
kinh tế, phấn đấu vượt ngưỡng “Nước đang phát triển có thu nhập thấp”,
ngay trong năm 2008…". Muốn vậy, bên cạnh tiếp tục thực hiện đầy đủ các
cam kết của mình với WTO, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp
luật về kinh tế thị trường; cải cách các thủ tục hành chính một cách mạnh mẽ
hơn; đẩy mạnh đổi mới các doanh nghiệp nhà nước; đổi mới công nghệ,
nâng cao chất lượng sản phẩm đủ sức cạnh tranh với các đối tác bên ngoài;
tiếp tục vận động và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nhất là các dự án
lớn, các dự án có công nghệ cao; có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao trong quá trình hội nhập quốc tế. WTO là một cuộc chơi, muốn
hay không muốn, khi đã gia nhập nghĩa là chúng ta đã chấp nhận cuộc chơi
này. Ở WTO, có những cái mà họ không cho phép dưới hình thức này nhưng
lại cho phép dưới hình thức khác. Chúng ta phải biết vận dụng các quy định
của tổ chức này để đưa ra những nguyên tắc phù hợp mà vẫn không trái với
quy định của WTO.
Một năm gia nhập WTO - mọi thứ mới chỉ là bắt đầu. Chặng đường hội
nhập còn rất dài, vừa đi chúng ta vừa học. Điều quan trọng là bước đi thận
trọng và biết rút kinh nghiệm của các quốc gia đi trước, họ cũng có những

thuận lợi lớn và cũng gặp những thách thức lớn. Và trên hết, phải ghi nhớ
rằng, dù có thực hiện các cam kết của WTO, dù có hội nhập sâu, nhưng Việt
Nam cần phải giải quyết hài hoà giữa phát triển kinh tế với giải quyết tốt các
vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường.



×