Tải bản đầy đủ (.doc) (241 trang)

Tài liệu bổ sung ôn thi đại học và cao đẳng liên thông môn quản trị du lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 241 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CƠNG NGHIỆP TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA THƯƠNG MẠI - DU LỊCH
---------------------------------------------

TÀI LIỆU BỔ SUNG ÔN THI
ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG LIÊN THƠNG MƠN QUẢN TRỊ DU LỊCH
(CĨ THỂ THAM KHẢO THÊM CÁC TÀI LIỆU KHÁC: KINH TẾ DU
LỊCH, TỔNG QUAN DU LỊCH, QUẢN TRỊ DU LỊCH…)

TS NGUYỄN VĂN HÓA

1


CHƯƠNG 1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ DU LỊCH
1.1 MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ DU LỊCH, KHÁCH DU LỊCH
1.1.1 Các quan điểm về du lịch
1.1.1.1 Du lịch và sự tiêu dùng: Năm 1938, tác giả Léveillé – Nizerolle viết
quyển sách nhan đề “Du lịch trong nền kinh tế đương thời” (Le tourisme dans
l’économie contemporaine) đã khẳng định: “Du lịch là tồn bộ hoạt động
khơng sinh lợi của con người khi họ rời khỏi nơi thường trú của họ”.
Hoặc trong tác phẩm có nhan đề “con mèo cái trên mái nhà nóng bỏng”
(La chatte sur un toit brulant) của tác giả Tennessee Nilliams có đoạn viết “Cái
Châu Âu này (đối với du khách cook) nào khác gì một cuộc bán đấu giá
rộng lớn, đúng là như vậy. Chẳng có gì khác cả. Tất cả sự tập trung tích
luỹ những ngơi nhà đổ nát, có gì đâu khác với một nơi bán khổng lồ sau vụ
cháy nhà, một cửa hàng tạp phẩm bất hạnh”.
Hai tác giả Léveillé-Nizérolle và Tennessee Nilliams đưa ra các quan điểm
trên cho rằng du lịch là hoạt động tiêu dùng và không sinh lợi là xét ở bản thân
du khách, được khách phải sử dụng phần thu nhập của họ đi du lịch là chỉ mất
tiền cho các nhu cầu ở, ăn uống, vận chuyển…


Thật vậy, các quan điểm của hai tác giả trên đây chỉ thấy và bị lừa vì hình
thức bề ngồi của nó vì:
- Có một sự trao đổi giá trị kinh tế (hữu hình) của tiền bạc – tài sản bỏ ra để
đổi lấy cái mà bằng mắt khơng thể thấy được, đó là giá trị khơng kinh tế - giá trị
văn hố (vui chơi, giải trí, phát triển tinh thần con người). Do đó, Marc Boyer
đã nói: “Du lịch có thể được định nghĩa như một sự trao đổi giữa một giá
trị kinh tế (hao mòn của các tài sản vật tư, tiền đổi lấy những giá trị văn
hoá (thẩm mỹ, tinh thần, sự khối lạc) ví như một con gà quay thơm uống
kèm với một chay rượu ngon trong một nhà hàng bình thường so với dùng tại
một nhà hàng sang trọng sẽ cho ta một sự khoái cảm về vị giác mà khơng thể
nào phân tích được hết những ý nghĩa trao đổi của nó”.
- “Sự tập trung-tích luỹ” của người dùng tàu để đánh bắt cá để có khoản lợi
nhuận ngày càng lớn, cuối cùng họ cũng sẽ trở thành du khách (theo tác giả
2


Tausch Wert) vì người đánh bắt cá khơng thể làm mãi cơng việc này, đến lúc
nào đó họ phải có nhu cầu vui chơi giải trí…Như vậy sự tiêu dùng có hai giai
đoạn: giai đoạn trung gian và giai đoạn sau cùng. Du khách (đạt ở trình độ cao)
thích vui chơi giải trí dùng chiếc tàu thuỷ để đi chơi thì đó là giai đoạn tiêu dùng
cuối cùng: bản thân người này trước đây dùng tàu thuỷ để đánh bắt cá là giai
đoạn tiêu dùng trung gian vì sau này họ trở thành thực khách.
Tóm lại, do có sự trao đổi giá trị kinh tế lấy giá trị không kinh tế và sự phân
biệt giai đoạn khác nhau của quá trình tiêu dùng cho phép chúng ta lựa chọn ra
được cách “cư xử” đối với du lịch.
1.1.1.2 Du lịch-một sự lãng phí : Tại hội nghị về được lịch, tháng 4 năm
1968, nhà tâm lý học Claire Lucques đã khẳng định: “Du lịch tự giải thích
như một hành vi lãng phí”. Thật vậy, nhận thức của Claire Lucques đã bị
méo mó dù quan sát quan điểm của ơng về cả khía cạnh kinh tế. Vì ta biết rằng
mỗi một sự tích luỹ về của cải đều mang theo nó một sự lãng phí - chi tiêu tiền

của. Nhưng ở một đất nước hoặc một xã hội giàu có thì có sự nhàn rỗi, từ đó tất
yếu “vui chơi giải trí và du lịch” được coi là một sản phẩm. Thì sự lãng phí hay
sự tiêu huỷ vật chất trong trạng thái giàu có để có được sản phẩm tinh thần kể
cả vật chất khác với mục đích cuối cùng là vui chơi gải trí, tạo nên sự sản khóái
tinh thần-tạo thế cân đối về mặt tình cảm tâm sinh lý của con người đã bị nhiểu
loạn bởi nền văn minh kỹ thuật thì thật là hữu ích và hữu ích không lường. Để
dẫn chứng, nhà văn nổi tiếng trên thế giới là Lamartine, ơng đã tìm thấy trên
bước đường đi du lịch của mình có một khả năng tích luỹ phong phú về kiến
thức văn hố, ơng đã viết: “con người toàn diện là con người đã đi du lịch
nhiều – rất nhiều, do đó đã thay đổi và tăng lên gấp hai mươi lần tư tưởng
và đời sống của mình”.
1.1.1.3 Du lịch- sự trao đổi các giá trị văn hoá đại chúng : Từ sự quan sát
khoa học và nghiêm túc, Marc Boyer đã đưa ra nhận thức của mình. Ơng ta coi
du lịch như là một sự trao đổi giữa giá trị kinh tế với giá trị văn hoá, du
lịch trở thành điểm gặp gở giữa thiên nhiên với con người. Sự trao đổi
giữa hai giá trị đó trên tinh thần tự nguyện và tự giác. Và theo Marc Boyer

3


qua du lịch tạo nên sự gặp gỡ giữa con người sống trong nền văn minh
công nghiệp và con người của nền kinh tế không phát triển.
Đối với René Menil, có mối quan hệ giữa khách tới viếng thăm người
được viếng thăm (Visiteur –Visité), mối quan hệ này thật kỳ lạ từ hai phía; hai
bên chủ và khách đều ngở ngàng về thói quen, tập quán, phong tục, và cách đối
xử; nhưng cái sự kỳ lạ ấy thật là bình dị do con người gắn bó với những cảnh
đẹp và thoáng qua một cách thản nhiên. Trong tác phẩm của mình được đăng
trên tạp chí Tâm lý học (1959), ơng khẳng định: “ta phải đi xa hơn nữa, tiến
xa hơn nữa để hiểu thấu sự thật về con người, cho tới lúc đó chỉ là nhận
thức trong cái thị giác kỳ quặc của mình”

1.1.1.4 Du lịch một hệ thống hình ảnh : Theo nhà xã hội học Oliver
Burgelin, ông coi du lịch như một hình ảnh xa vời so với thực tế. Một cuộc
viễn hành du lịch đã được tiến hành trong một vũ trụ đầy tín hiệu (biểu
hiện bằng những ngôi sao mà các hướng dẫn viên đánh dấu). Du khách
được hài lịng vì nhìn thấy được những tín hiệu phù hợp với các hình ảnh mà
hướng dẫn viên đưa ra trước cho họ.
Tác giả Edger Morin khơng có quan điểm xa xôi như Oliver Burgelin
coi du lịch là nhu cầu sâu lắng của con người
• Hướng thứ nhất là đưa con người trở về với thiên nhiên, mà một số
hình thức biểu hiện là nghỉ hè, nghỉ đơng. Nó có tác dụng cắt đứt hoặc phá vở
những khn khổ gị bó của cuộc sống trong xã hội hiện đại.
• Hướng thứ hai là con người tìm hiểu cuộc sống tương lai để tiến
bước. Hướng thứ hai này biểu hiện rõ nét trong du lịch. Con người tỏ một vẻ lo
buồn siêu hình (métaphisiques) và cả một ý thích phiêu lưu mạo hiểm.
1.1.1.5 Du lịch một khía cạnh tổ chức: Các nhà tư tưởng trong thời đại ngày
nay, du lịch cũng được phân tích - coi nó như một hệ thống tập trung các mối
liên hệ giữa cá nhân với cá nhân.
• Nhà tư tưởng thứ nhất là André Siegfried trong tác phẩm “những sắc
thái của thế kỉ thứ 20” (Les aspects được XX-sìecle), tác giả đã coi du lịch
thuộc cơng cụ hành chính. Nhận thức này làm nổi bật lên một vấn đề: “Du lịch
là một bộ phận cấu trúc của xã hội đương thời, được đóng khung trong
4


khn khổ hành chính và quy ước, quy chế ngày một chặt chẽ hơn. Chính
quyền phải có sự tổ chức nếu như muốn sản xuất có hiệu quả nhất. ”Tác
giả tỏ ra rất khâm phục đối với mạng lưới của các hãng lữ hành, những khách
sạn lớn hiện nay. Công tác tổ chức, phương pháp điều hành quản lý và nghiên
cứu thị trường trong những năm gần đây đã đi vào du lịch đại chúng. Việc sử
dụng hệ thống điện tốn để phân phối tốt hơn những làn sóng dồn dập những

được khách đi nghỉ hè, nghỉ đơng.
• Tác giả Enzensberger trong quyển “Một luận thuyết về du lịch” (Une
théoric de tourime, Paris, 1965) đã viết: “Nếu du lịch là một ngành công
nghiệp với quy mô vĩ đại như vậy thì nó phải có những điều kiện khơng
thể thiếu được để sản xuất hàng loạt: đẩy mạnh tiêu chuẩn hoá, dịch vụ
đảm bảo chất lượng…”
1.1.2 Nghiên cứu hoạt động du lịch
Du lịch là một ngành công nghiệp quan trọng. Nhiều năm qua các nhà
hoạch định, các nhà phân tích và các nhà chun mơn về du lịch đã dự tốn
rằng du lịch sẽ dần dần trở thành một ngành công nghiệp lớn nhất vào thế kỉ
thứ 21. Mặt dù sự lớn mạnh của ngành du lịch đang tăng lên đột ngột từ sau
chiến tranh thế giới thứ 2 nhưng nhiều cơ quan cấp chính phủ, các doanh
nghiệp và cá nhân có liên quan đến ngành du lịch cũng chỉ mới bắt đầu chú ý
thực sự đến hoạt động du lịch là vì:
• Thiếu nhiều thơng tin tin cậy về tầm quan trọng của ngành du lịch.
• Hầu hết các nước có các cách thức thu nhập dữ liệu về ngành du lịch
nhưng có nhiều sự khác biệt về chất lượng dữ liệu được thu nhập giữa các quốc
gia hoặc giữa các ngành có liên quan trong một quốc gia, do đó gặp rất nhiều
rắc rối trong việc phân tích hoạt động du lịch.
• Du lịch được coi là một lãnh vực phức tạp, đòi hỏi sự nghiên cứu từ
nhiều hướng của các ngành thuộc khoa xã hội, cũng nư từ các chuyên môn
khác nhau…
Thật vậy, xuất phát từ bản chất của du lịch, để đánh giá nghiên cứu đúng
về du lịch phải xét du lịch trên cơ sở tổng hợp những khía cạnh sau đây:
1.1.2.1 Nội dung nghiên cứu hoạt động du lịch
5


a. Du lịch như là kinh nghiệm của con người (Tourism as a humain
experience):

• Du lịch là hoạt động mà những cá nhân làm và hưởng thụ. Để hiểu
nhiều về hiện tượng du lịch chúng ta phải hiểu thái độ của mỗi cá nhân,
tâm lý của được khách và tiềm năng của được khách. Sự xem xét từng
nhóm người qua nhiều năm, sự lặp đi lặp lại giúp ta giải thích lai lịch
q khứ để có cách xử thế trong tương lai. Nó là một vấn đề nghiên cứu
có tầm quan trọng đặc biệt trong ngành du lịch. Thông tin này lại có ý
nghĩa vơ cùng quan trọng trong việc thiết chế và tạo ra sản phẩm du lịch
mới, có chiến dịch marketing để cải tiến thêm sản phẩm cho phù hợp với
sự mong đợi của khách.
• Khi con người đi du lịch, họ thường sử dụng mục đích chuyến đi
như một phần kinh nghiệm của họ: kinh nghiệm quá khứ về sản
phẩm tương tự hoặc sản phẩm cùng loại, những kiến thức về sự phân
loại sản phẩm và nhận thức về sự khác biệt giữa các sản phẩm của
khách.
b. Du lịch như là cách cư xử mang tính xã hội (Tourism as a social behaviour)
• Ngành du lịch hình thành từ kinh nghiệm cá nhân của con người,
tức là kinh nghiệm giữa con người nhiều ít, cao thấp rất khác nhau trong
một thế giới mênh mông biển người. Nhiều quyết định của cá nhân liên
quan đến kinh nghiệm du lịch, và bị ảnh hưởng bởi tâm lý cá nhân cũng
như kinh nghiệm xã hội, kể cả vai trò tự nhận thức xã hội của mỗi con
người.
• Du khách có thể là người - nạn nhân của tội ác hoặc gây nên những sự
hiềm khích làm hại đến xã hội do sự cố ý hoặc vơ tình của họ trong khi
giao tiếp với cộng đồng người.
• Sự hiểu biết về mặt xã hội của du khách và cách cư xử - giao tiếp về
mặt xã hội phù hợp với thói quen của người dân ở nơi tiếp đón sẽ góp
phần làm giảm sự xung đột, sự hiểu lầm hoặc sự hiềm khích trước đây,
họ trở nên thân thiện, sống chan hồ, hồ bình lẫn nhau.

6



Nói một cách tổng qt hơn, triển vọng mơn tâm lý học, và môn tâm lý
xã hội dựa vào du lịch, được khách là đối tượng nghiên cứu cuả các môn học
này.
c. Du lịch như là một hiện tượng địa lý (Tourism as a geographic phenomenon)
:
• Chuyến du hành từ nơi gởi khách đến nơi tiếp nhận có những nét
đặc thù riêng. Các ngành kinh tế giữa các địa phương hoặc các vùng
được tổ chức khác nhau. Nơi tiếp nhận khách thường chứa đựng các
hình ảnh có sức hấp dẫn nhanh cho các du khách từ nơi khác đến.
• Việc nghiên cứu về địa lý theo nhiều cách khác nhau góp phần nâng
cao sự hiểu biết về mặt du lịch, giúp cho việc xác định, phân tích sự
hình thành, tồn tại và phát triển của các vùng du lịch, khu du lịch. Việc
dự đoán dung lượng chuyến du hành từ nơi gởi đến nơi nhận khách
chính là việc nghiên cứu các vùng địa lý quan trọng có quan hệ nhau.
d. Du lịch như là một nguồn lực (Tourism as a resource):
• Nhiều cộng đồng địa phương đã cảm thấy thích thú mở mang và phát
triển du lịch vì chính nó là nguồn lực kinh doanh do được khách
mang tiền từ các địa phương, các vùng khác đến cho họ mà cũng chỉ cần
một số khía cạnh thuộc về tài nguyên thiên nhiên, tài ngun nhân tạo
tối thiểu.
• Sự thành cơng của ngành du lịch và lôi kéo khách đến thưởng thức
những đặc trưng riêng của địa phương. Nhưng thật không may mắn
nếu được khách đến quá đông so với dân cư ở nới đó hoặc theo kiểu học
địi của dân sở tại sẽ làm phá huỷ đi những nét độc đáo của dân tộc và
do sự “quá tải của du lịch sẽ giết chết du lịch” (trop de tourisme tue le
tourisme).
e. Du lịch như là hoạt động kinh doanh (Tourism as a business):
Hầu hết những người làm trong lĩnh vực du lịch – lãnh vực thu hút được số

người làm việc và mang lại thu nhập cao, những nhân viên hoặc những người
chủ của họ có thể mang lại thu nhập từ các việc nghiên cứu như:
• Sắp xếp lại tổ chức và cải tiến lại cơ cấu hoạt động kinh doanh.
7


• Đưa ra các chiến lược nhằm khắc phục những rủi ro và những sự bất ổn
của ngành.
• Tao ra những nổ lực trong hoạt động marketing.
• Đưa ra những chỉ dẫn trong công tác quản lý nhân viên, đào tạo các
nhân viên mới và phát triển nghiệp vụ chuyên môn cho các nhân viên cũ.
f. Du lịch như một ngành cơng nghiệp (Tourism as an Industry) :
• Ngành du lịch khơng chỉ có đến vài ngàn cơ sở kinh doanh, hơn nữa và
hơn rất nhiều trong thời gian tới. Nó gắn liền với sự phồn vinh của các
nước và sự ham muốn giàu có của mỗi cá nhân. Nói chính xác hơn, du
lịch là một nhóm gồm nhiều ngành có liên quan trong một thể thống
nhất như: vận chuyển (hàng không, đường sắt, đường bộ…) cơ sở lưu
trú, dịch vụ ăn uống, các hoạt động vui chơi giải trí, các sự kiện văn hoá
lịch sử, hoạt động bán lẻ…Đặt trưng quan trọng của ngành du lịch là sử
dụng khá nhiều lao động.
• Du lịch cịn là nguồn lưu chuyển tiền tệ quan trọng giữa các quốc
gia và giữa các vùng với nhau. Tất cả các chính phủ, ở từng chừng
mực nào đó điều kích thích sự phát triển du lịch vì nó mang lại của cải,
sự giàu có cho quốc gia và tạo việc làm mới giúp người dân thực hiện
nghĩa vụ lao động.
• Ở nhiều nước, du lịch tạo ra nguồn thu nhập rất lớn cho ngân sách
quốc gia nói chung và góp phần tăng ngân sách địa phương nói
riêng. Ngân khoản dành cho quảng cáo trong du lịch rất lớn. Những
khoản chi này được trích ra từ thu nhập của các đơn vị kinh doanh du
lịch. Nghiên cứu du lịch đóng vai trị khá quan trọng vì ngoài sự tác

động tăng trưởng cho bản thân ngành du lịch, ngành này cịn kích thích
sự phát triển của các ngành khác như: thông tin liên lạc, xây dựng, vận
chuyển công cộng…kể cả khu vực dịch vụ khác (khu vực hành chình sự
nghiệp: trường học, bệnh viện…)
• Nhiều phương tiện khách du lịch sử dụng được quản lý và điều hành
bởi các cơ quan nhà nước như: các công viên quốc gia và địa phương,
những di tích lịch sử, các viện bảo tàng, khu bảo tồn thiên nhiên, các bến
8


phà…Việc quy hoạch, bảo tồn những phương tiện nêu trên có ý nghĩa
vơ cùng to lớn vì nó chính là mục đích chính của chuyến đi.
1.1.2.2

Những thử thách gặp phải trong nghiên cứu hoạt động du lịch:

-

Thiếu phương tiện đo lường có thể tin tưởng được

-

Sự biến đổi rất lớn trong ngành công nghiệp du lịch

-

Sự khác nhau cơ bản trong hiện tượng du lịch từ nơi này đến nơi khác và
ở các vùng địa lý với nhau

-


Một sự rời rạc và thiếu tiêu chuẩn

-

Một tương lai không chắc chắn

1.1.3

Khái niệm về khách du lịch (Du khách)

Sự nghỉ ngơi là từ ngữ chính trong thời đại văn minh của chúng ta. Từ
ngữ này gồm ba bộ phận; du lịch, những sự thay đổi nơi ở và hoạt động cuối
tuần, thời gian nhàn rỗi hàng ngày. Những khái niệm liên quan đến du lịch là
chủ thể chính trong nhiều cụơc tranh luận. Chúng ta nhìn xa hơn về khái niệm
này.
Semuel Pegge sử dụng từ mới “tourist” để diễn tả những người đi du
lịch vào năm 1880. Trên tạp chí thể thao nước Anh đã gơíi thiệu từ “tourism”
vào năm 1811. Dù cả hai từ ngữ “tourist” (du khách ) và “tourism” (du lịch)
là hai từ đã được dùng từ hai thế kỉ qua nhưng đến nay và mai sau có thể vẫn
chưa có định nghĩa nào được chấp nhận vĩnh viễn. Việc thiếu một định nghĩa
được. xem là vĩnh viễn sẽ làm vở mộng những nhà phân tích và các nhà dự
đốn về du lịch. Tính khơng thống nhất và khơng chắc chắn của một khái niệm
gây ra nhiều khó khăn khi so sánh các dòng khách du lịch giữa các quốc gia với
nhau.
Vào năm 1973 Hội đồng các chuyên gia về thống kê của The short
Lived League of Nations (làODCD Tourism committee ngày nay) có đưa ra
định nghĩa của họ để mô tả “khách du lịch quốc tế là bất cứ ai thăm viếng
một quốc gia khác nơi mà họ thường trú, trong thời gian trên 24 giờ”. Hội
đồng các chuyên gia thống kê coi du khách quốc tế còn bao gồm những cá

nhân trực tiếp đi hội nghị đến làm việc hay cư trú, những sinh viên đi du học,

9


những người làm việc băng qua biên giới, và những người đi du lịch liên tục ở
một quốc gia không có giới hạn thời gian tối đa ở quốc gia đó.
Khoảng một thập kỷ sau, ở một hội nghị khác của Liên Hiệp Quốc về du
lịch tổ chức tại Roma (italia) vào năm 1963 đã đưa ra sự khác biệt để phân biệt
giữa khách du lịch (tourists) là người nghĩ lại hơn 24 giờ, còn khách tham
quan (excursionists) là người đi nghĩ dưới 24 giờ. Thuật ngữ liên quan đến sự
khác biệt này được thử nghiệp vào năm 1967 bởi nhóm chuyên gia thống kê
làm việc trong hội đồng thống kê Liên Hiệp Quốc. Họ đề nghị rằng, sự khác
biệt ở chỗ du khách (touruists) là những người ở lại qua đêm, khách tham
quan (day visitors hay excursionists) là những người không ở lại qua đêm.
Khái niệm sau, theo các chuyên gia bao gồm cả những người quá cảnh (tourist
travellers). Định nghĩa về du khách tại Roma lần này xác định: “du khách là
người đi thăm viếng tạm thời, nghỉ ngơi ít nhất 24 giờ trong quốc gia được
thăm viếng”, người đó đi với động cơ nghỉ ngơi của họ; đồng thời có đưa
ra định nghĩa về khách tham quan (excursionists) là “người thăm viếng
tạm thời nghỉ ngơi dưới 24 giờ”.
Tổ chức du lịch thế giới giới thiệu tóm tắt những từ ngữ này như sau:
Khách viếng thăm quốc tế (international visitor) là cá nhân đi vào
một quốc gia ở đó khơng phải là nơi thường trú của họ và họ khơng thuộc
vào một trong số những người sau đây:
• Dự định cư trú, định cư hay tìm kiếm một việc làm ở nước đến.
• Thăm viếng với tư cách là người ngoại giao hay viên chức quân sự
• Người làm ở cơ quan ngoại giao, quân sự của nước ngồi ở các nước sở
tại
• Người tị nạn, dân cư ngụ hoặc người làm việc ở vùng biên giới.

• Đến và ở với thời gian trên một năm.
Nhưng khách quốc tế (international visitors) có thể là:
• Đến thăm viếng với mục đích chữa bệnh, giải trí, tơn giáo, tham quan,
vấn đề gia đình, các sự kiện thể thao, dự hội nghị, học tập - nghiên cứu hay quá
cảnh để sang một quốc gia khác.
• Một thuỷ thủ hoặc phi cơng của nước ngoài nghỉ lại tại quốc gia.
10


• Một thương gia nước ngoài hoặc một khách thương mại lưu lại với thời
gian dưới một năm gồm cả các nhà kỹ thuật đến lắp đặt các thiết bị.
• Nhân viên của các tổ chức quốc tế đi công tác với thời gian dưới một
năm và có trở về với đất nước của họ.
Khách thăm viếng quốc tế (international visitors) gồm du khách quốc tế
(international tourists)

và khách tham quan quốc tế (international

excurrsionists) .
• Du khách quốc tế là khách đi thăm viếng, họ chi tiêu ít nhất một đêm
trong cơ sở lưu trú tại quốc gia tiếp nhận.
• Khách tham qua quốc tế là khách đi thăm viếng mà họ khơng có chi tiêu
ít nhất một đêm trong cơ sở lưu trú tại quốc gia tiếp nhận. Những người này
bao gồm khách ở lại trên tàu, khách du lịch quá cảnh như các hành khách đi
máy bay đến nhưng khơng có làm thủ tục nhập cảnh.
Hội nghị liên minh quốc hội về du lịch tổ chức tại La Haye (Hà Lan) từ
ngày 10 đến 14 tháng 4 năm 1989 đã xác định du khách quốc tế là người :
• Đi thăm một nước khác với nước mà họ cư trú thường xun.
• Mục đích của chuyến du lịch là tham quan, thăm viếng hay nghỉ ngơi
với thời gian không quá một năm, nếu trên một năm phải được phép gia hạn

• Khơng được làm bất cứ một cơng việc gì để được trả thù lao tại nước
đến do ý muốn hay do yêu cầu của các nước sở tại.
• Sau khi kết thúc đợt tham quan hay lưu trú phải rời khỏi nước tham
quan để trở về nước thường trú của mình hoặc đi đến một nơi khác.
Khơng được coi là khách quốc tế những người không thoả mãn những
điều kiện trên và đặc biệt là những người sau khi đã vào lưu trú một nước nào
đó với tư cách người du lịch, đi tham quan, lưu trú hoặc tìm cách kéo dài thời
gian của cuộc hành trình và lưu trú đến ở lại hẳn nước này hay để làm việc
(hành nghề có thù lao).
Các định nghĩa về “du lịch nội địa” và “du khách nội địa” khó có thể
thống nhất hơn đối với định nghĩa “du lịch quốc tế” và “du khách quốc tế”.
Thật vậy, có sự phản ứng dữ dội vè các khái niệm này giữa các tổ chức trong
một quốc gia và có sự khác biệt nhau khi tính tốn số lượng du khách ở các
11


quốc gia. Vào năm 1981, Tổ chức Du Lịch Thế Giới có đưa ra nhiều hướng chỉ
đạo để xác định thế nào là du lịch nội địa và du khách nội địa như sau:
• Coi là du khách nội địa (domestic travellers) gồm những công dân và
người ngoại quốc đối tượng tham quan trong nước.
• Tính vào du lịch gồm những người đi làm việc mang tính nghề nghiệp
của họ ở một nơi xa.
• Cần có sự phân bịêt giữa dịch vụ trú thường xuyên hoặc tạm thời trong
một thời gian ngắn với chuyến du hành.
• Cần phân biệt giữa sự lưu lại trên 24 giờ (hay ở qua đêm) với dưới 24
giờ (khơng ở lại qua đêm).
Tóm lại, ở hội nghị vào năm 1981, Tổ chức Du lịch Thế giới có đưa ra
định nghĩa về du khách nội địa là “người đi du lịch đến một nơi thuộc về đất
nước mà họ đang sinh sống và thời gian tối thiểu 24 giờ và tối đa ít hơn
một năm với mục đích giải trí, thể thao, hội họp, tập hợp, nghiên cứu,

thăm viếng bạn bè hay thân nhân, sức khoẻ, công vụ, hay tôn giáo”.
Khách tham quan nội địa (Domestic excursionist) là “một khách du lịch đi
trong nước mà họ đang sinh sống vì bất cứ một lý do gì (giống như du khách)
nhưng thời gian lưu lại ít hơn 24 giờ”
Mặt dù Tổ chức Du lịch Thế giới đã đưa ra các định nghĩa và những
hướng chỉ đạo trên, gần như mỗi quốc gia có đưa ra định nghĩa riêng và xác
định giới hạn phạm vi khác nhau để chỉ đạo cho việc tính tốn số lượng du
khách cho mình.
Ở HOA KỲ
• Hội đồng nghiên cứu Tài Ngun Du Lịch Quốc Gia (1973) cho rằng
du khách (tourist) là bất cứ ai đi du lịch xa nhà ít nhất 80 km vì bất cứ mục đích
gì nhưng khơng phải là làm việc và không kể đến thời gian của chuyến đi.
• Trung tâm dữ liệu du hành Hoa Kỳ (the US Travel Data Center) và
phòng điều tra Hoa Kỳ (The US Bureau of the census) đưa ra định nghĩa về
khách thăm viếng (visitor) là người đi du hành có khoảng cách ít nhất 160 km
xa nhà, ngoại trừ mục đích làm việc và không kể đến thời gian lưu lại.
Ở PHÁP
12


Du khách (touriste) được coi là tất cả những người mà họ rời bỏ nơi cư
ngụ thường xuyên của họ trong thời gian ít nhất 24 giờ và dưới 4 tháng với
mục đích nghỉ ngơi (nghỉ hè hay nghỉ cuối tuần), sức khỏe, hội họp-hội nghịhội thảo, công vụ và những hoạt động chun mơn của họ.
Ở CANADA
• Ngành thống kê Canada và ngành du lịch Canada sử dụng khoảng ít
nhất 80 km để trả lời cho các cơ quan nghiên cứu du lịch Canada và coi những
chuyến đi đó phải là những ngày nghỉ.
• Cơ quan điều tra du lịch là Ontrario (Ontrario Travel Survey), năm
1983 sử dụng khoảng cách tiêu chuẩn là 40 km để định nghĩa về du khách
(tourists) . Nhưng trái lại, British Colombia định nghĩa về “visitor” hay

“tourist” là một cá nhân đi du hành xa nơi anh ta thường trú như một người dân
và qua ít nhất một đêm, khơng có quan tâm đến khoảng cách là bao xa.
Ở VIỆT NAM:
• Theo Hán việt tự điển của Đào Duy Anh thì du lịch là đi chu du khắp
mọi nơi.
• Theo Việt Nam tự điển của Hội Khai trí Tiến Đức thì du lịch có nghĩa
là đi chơi khắp mọi nơi để xem xét.
• Theo từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản Khoa học Xã hội (1991) .
- Du hành là đi chơi phương xa
- Du lịch là đi chơi để xem phong cảnh ở phương xa.
- Du khách là người đi chơi ở phương xa hoặc người khách từ xa đến
chơi.
Các định nghĩa trên đây có nội dung quá nhỏ bé hoặc quá rộng, nó đều
khơng sát với thực tế hoạt động du lịch hiện nay.
Trong Quy chế quản lý kinh doanh du lịch (ban hành kèm theo nghị
định số 37-HĐBT ngày 28/01/1992 của Hội Đồng Bộ Trưởng) thì:
• “Du khách quốc tế” là người nước ngoài, người, Việt Nam định cư ở
nước ngoài đến và lưu lại qua đêm ở Việt Nam, cơng dân Việt Nam đi du lịch
nước ngồi.

13


• “Khách du lịch nội địa” là công dân Việt Nam rời khỏi nơi ở thường
xuyên, có sử dụng dịch vụ lưu trú ở qua đêm của các tổ chức kinh doanh du
lịch trong phạm vi lãnh thổ của nước Cộng Hồ Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
• “Kinh doanh du lịch “là việc thực hiện một hoặc một số hoặc tồn bộ
các dịch vụ du lịch nhằm mục đích sinh lợi.
Được sự chuẩn bị của Tổ chức Du lịch Thế giới, 3/1993 Uỷ ban Thống
kê Liên hiệp quốc (The United Nations Statistical Commission) in là tài liệu

thống kê du lịch (Recommendations on Tourism Statistics) mới và rõ ràng
nhất liên quan đến các khái niệm và cách phân loại gắn với du lịch.
1.1.4

Một số khái niệm khác :

“Du lịch” (tourism) là những hoạt động của người đi du hành đến và lưu
trú tại nơi ngồi mơi trường thường xun của họ trong thời gian liên
tục không quá một năm để nghỉ ngơi, kinh doanh và các mục đích
khác”.
Và cũng theo Tổ chức Du lịch Thế giới, dựa vào mối quan hệ trao đổi
giữa các quốc gia có những hình thức du lịch sau đây:
a. Du lịch nội địa: (Domestic tourism) là chuyến du hành của những
cư dân đi trong phạm vi quốc gia của họ.
b. Du lịch nội địa hay du lịch vào (inbound tourism) là chuyến du
hành của những người không là cư dân của quốc gia đến một quốc gia.
c. Du lịch hướng ngoại hay du lịch ra (Outbound tourism) là chuyến
du hành của cư dân đến một quốc gia khác.
Từ ba hình thức trên của du lịch có thể phối hợp lại theo cách thức khác
sẽ có ba loại hình du lịch như sau:
a. Du lịch trong nước : (Internal tourism) nó bao gồm du lịch nội địa
và du lịch vào.
b. Du lịch quốc gia: (National tourism) nó bao gồm du lịch nội địa và
du lịch. ra.
c. Du lịch quốc tế: (International tourism) nó bao gồm du lịch hướng
nội và du lịch hướng ngoại.
14


Thể hiện

Người du hành
(Travallers)
Khách thăm viếng
(Visistors)

Du khách (Tourists)

Khách du hành khác
(Other travelers)

Khách

tham

quan

(Excursionists)
(Overnight visitors)

(Same-day visistors)

Tuy nhiên, theo tơi du lịch có thể định nghĩa như sau:
“Du lịch là tập hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động
kinh tế bắt nguồn từ cuộc hành trình và lưu trú của các cá thể ở bên ngoài
nơi cư trú thường xuyên của họ với thời gian không quá một năm với mục
đích hồ bình, nơi đến cư trú khơng phải là nơi đến làm việc.”
Từ định nghĩa trên, du lịch gồm các yếu tố:
• Du lịch là mối liên hệ giữa khách và nơi tiếp nhận khách, giữa khách với
dân cư nơi tiếp nhận…
• Du lịch là một hiện tượng xã hội mang tính đại chúng, cho cả người giàu

sang và người nghèo đều có thể đi du lịch được. Nó khơng dành riêng cho đối
tượng cụ thể nào.
• Du lịch bao gồm các hoạt động kinh tế cho các đơn vị kinh doanh, kể cả
không kinh doanh cung ứng cho khách: khách sạn, nhà hàng, vận chuyển, an
ninh, cấp cứu…
• Cả ba yếu tố trên được hình thành từ cuộc hành trình và lưu trú tạm thời
của khách (ngồi nơi thường xun).
• Du lịch là hoạt động vì hồ bình hữu nghị giữa các dân tộc, cư dân của
các địa phương.
15


DU KHÁCH:
Khái niệm “du khách” hay “khách du lịch” …bằng tiếng Việt này rất dể
nhầm lẫn từ đó tính số lượng khách không thống nhất với nhau giữa các ngành
(thống kê hải quan, xuất nhập cảnh, du lịch …”do đó cần sử dụng từ tiếng Anh
để minh hoạ và cần sử dụng các từ ngữ tiếng Việt như sau:
Khái niệm “khách thăm viếng” (visitors) và “du khách” (tourists) sử
dụng có khác nhau giữa các quốc gia, chẳng hạn như Pháp thường dùng từ
touristes, Tây Ban Nha sử dụng từ visiteurs…Từ tourists sử dụng có khuynh
hướng nhấn mạnh vào các chuyến đi để hưởng thụ và sử dụng các tiện ích
thương mại. Từ visitors được chuộng hơn từ tourists.
Theo tổ chức Du Lịch Thế Giới, tính vào số liệu thống kê và phân tích
hoạt động du lịch – ngành du lịch thì nên sử dụng từ “khách thăm viếng”
(visitors). Vậy khách thăm viếng có hai loại là khách thăm viếng quốc tế và
khách thăm viếng nội địa.
a. Khách thăm viếng quốc tế: (international visitors) là bất cứ người nào
đi du hành đến một quốc gia khác với nơi cư trú thường xuyên của họ trong
thời gian liên tục không quá 12 tháng và họ đi với mục đích chính là đi thăm
viếng chớ khơng thực hiện hoạt động nào đó để có thu nhập trong thời gian ở

tại quốc gia họ thăm viếng, Khách thăm viếng quốc tế gồm:
• Du khách (tourists - overnight visitors) là người đi thăm viếng,
họ lưu lại ít nhất một đêm tại các cơ sở lưu trú tập thể hoặc tư nhân ở các
quốc gia được thăm viếng, đó gọi là du khách quốc tế.
• Khách tham quan: (same-day visitors) là người đi thăm viếng,
họ không có qua đêm tại các cơ sở lưu trú tập thể và tư nhận tại các quốc
gia được thăm viếng. Họ còn gọi là khách tham quan quốc tế (international
excursionists) . Khái niệm này cịn có cả những hành khách đi trên các tàu du
lịch, họ đến một quốc gia bằng tàu biển và trở lại tàu mỗi đêm khi ngủ, dù cho
tàu này neo ở cảng nhiều ngày. Nó cịn được tính cả cho những người trên các
du thuyền, xe lửa.
b. Khách thăm viếng nội địa (domestic visitors) : Khái niệm này dùng
để diển tả bất cứ cư dân nào trong quốc gia đi du hành đến những nơi trong
16


phạm vi quốc gia ngoài mội trường thường xuyên của họ trong thời gian liên
tục không quá 12 tháng và có mục đích chính là thăm viếng, khơng thực hiện
hoạt động nào để có thu nhập trong thời gian ở nơi thăm viếng.
Khách thăm viếng nội địa gồm hai nhóm:
• Du khách (tourists-overnight visitors) là người đi thăm viếng, họ lưu
lại ít nhất một đêm tại các cơ sở lưu trú tập thể và tư nhân ở nơi được thăm
viếng. Những người này còn gọi là du khách nội địa (domestic tourists).
• Khách tham quan (same- day visitors) là người đi thăm viếng, họ
khơng có qua đêm tại các lưu trú tập thể và tư nhân ở các nơi được thăm viếng.
Họ còn gọi là khách tham quan nội địa (domestic excursionists).
CẦU DU LỊCH: (TOURISM DEMAND)
Là hệ thống các yếu tố tác động đến sự hình thành các cuộc hành trình
lưu trú tạm thời của con người ở một nơi khác ngoài nơi ở thường xuyên của
họ để nghỉ dưỡng, chữa bệnh, thỏa mãn các nhu cầu về văn hoá, nghệ thuật,

giao lưu tình cảm, cơng vụ…
Các yếu tố tác động đó gồm: khả năng chi tiêu, mhu cầu, sở thích, thời
gian nghỉ ngơi, motel…
Theo Tổ chức Du lịch Thế giới, sự phân loại nhu cầu du lịch theo các
tiêu thức sau đây:
• Dựa vào mục đích của chuyến đi: du lịch nội địa, du lịch ra và du lịch
vào cũng chia làm 6 nhóm:
- Nghỉ ngơi, vui chơi giải trí và nghỉ hè
- Thăm viếng bạn bè và người thân.
- Kinh doanh và chuyên môn
- Chữa bệnh
- Tôn giáo, tín ngưỡng
- Khác
• Dựa vào thời gian lưu trú, chia ra các nhóm theo số đếm:
- Khách tham quan : 0
- Du khách có 5 phân nhịm: 1→3, 4→7, 8→28, 29→91, 92→365
- Dựa vào nơi gởi khách và nơi tiếp nhận khách của một chuyến đi.
17


Đối với du khách thì chủ yếu phân loại khách thăm viếng (visitors) theo
quốc gia cư trú tốt hơn là theo quốc tịch
• Dựa vào loại phương tiện vận chuyển, có 3 nhóm và các phân nhóm :
- Hàng khơng chia ra: Các chuyến bay định kỳ, các chuyến bay thất
thường và các dịch vụ khác.
- Đường biển, chia ra: phà và tàu chơ khách, tàu du lịch, khác.
- Đường bộ, chia ra: xe lửa, xe khách hoặc xe bus và các phương tiện
vận chuyển công cộng khác, xe riêng, xe cho thuê, những phương tiện bằng
đường bộ khác.
• Dựa vào cơ sở lưu trú du lịch : có 2 nhóm và các phân nhóm sau:

- Cơ sở du lịch tập thể
+ Khách sạn và cơ sở cùng loại, gồm: khách sạn và các cơ sở
tương tự.
+ Các cơ sở chun mơn hố, gồm: các cơ sở điều dưỡng, các trại,
nhà nghỉ của các cơ quan, các phương tiện công cộng dịch vụ chuyển được,
các trung tâm để tổ chức hội nghị.
+ Các cơ sở tập thể khác: các nhà của để nghỉ ngơi, địa điểm cắm
trại cho du khách, các cơ sở tập thể khác.
- Cơ sở lưu trú du lịch tư nhân:
Nhà riêng để cho thuê, phòng cho thuê trong gia đình, nhà thuê của các cơ
quan, những cơ sở lưu trú được cho ở miễn phí bởi thân thuộc hoặc bạn bè, cơ
sở lưu trú tư nhân khác.
CUNG DU LỊCH : (TOURISM SUPPLY)
Là tập hợp những hoạt động kinh doanh nhằm tạo ra để sẵn sàng giúp cho
việc thực hiện cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của con người thông qua tổ
chức vận chuyển, phục vụ lưu trú, phục vụ ăn uống, hướng dẫn tham quan
CHI TIÊU CỦA KHÁCH: (TOURISM EXPENDITURE)
Là tất cả những khoảng chi tiêu của khách thăm viếng hoặc người nhân
danh họ chi ra trong suốt cuộc hành trình và lưu trú của họ ở nơi tiếp nhận.

18


Chi tiêu của du khách gồm các khoản:
- Chuyến du hành theo giá trọn gói (package travel), kỳ nghỉ theo giá
trọn gói (package holidays)

và các chuyến du lịch theo giá trọn gói

(package tours)

- Lưu trú
- Ăn và uống.
- Vận chuyển
- Các hoạt động vui chơi giải trí, văn hố thể thao.
- Mua sắm
- Chi phí khác.
1.2. SẢN PHẨM DU LỊCH VÀ CÁC ĐẶC TRƯNG CỦA SẢN PHẨM DU
LỊCH
1.2.1. Khái niệm
“ Sản phẩm du lịch là sự kết hợp các dịch vụ và phương tiện vật chất
trên cơ sở khai thác các tiềm năng du lịch nhằm cung cấp cho du khách một
khoảng thời gian thú vị, một kinh nghiệm du lịch trọn vẹn và sự hài lịng”
«Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thoả mãn nhu cầu
của khách du lịch trong chuyến đi du lịch. » (LDL.VN 2006)
1.2.2. Những bộ phận cấu thành của sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch gồm những yếu tố kết hợp lại với nhau để cung cấp
cho thị trường mục tiêu những sự thoả mãn và lợi ích cho khách, gồm 2 nhóm
yếu tố:
- Những yếu tố hữu hình;
- Những yếu tố vơ hình
Hoặc 8 nhóm sau:
- Các yếu tố tự nhiên và nhân văn (yếu tố cơ bản)
+ Cảnh quan tự nhiên: bãi biển, núi rừng, thác, động thực vật, môi
trướng thiên nhiên…
+ Thành phố, làng mạc
+ Mơi trường, khí hậu
19


+ Di tích lịch sử, văn hố cách mạng, phong tục tập quán…

- Môi trường kế cận: những yếu tố tự nhiên có sức lơi cuốn- hấp dẫn
- Dân cư địa phương: thái độ của dân cư
-

Các trang thiết bị: trung tâm hội nghị, hội chợ, triển lãm, trường

đua…
- Các cơ sở kinh doanh lưu trú, ăn uống và thương mại
-

Các cơ sở hạ tầng xã hội phục vụ du khách: đường xá, sân bay, bến

cảng, điện, phương tiện thông tin liên lạc…
- Các hoạt động nhộn nhịp và bầu khơng khí đón tiếp
-

Hình ảnh (thương hiệu): được tạo ra từ nhân viên, người tổ chức

quản lý, tài liệu quảng cáo… đến thị trường mục tiêu
Nếu xét theo quá trình tiêu dùng của khách du lịch theo một chuyến
hành trình du lịch thì thành phần sản phẩm du lịch gồm các nhóm cơ bản:
- Dịch vụ vận chuyển
- Dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống
- Dịch vụ tham quan, giải trí
- Hàng hố tiêu dùng và đồ lưu niệm
- Các dịch vụ khác phục vụ khách du lịch: bảo hiểm, thủ tục v.v.
1.2.3. Các đặc trưng của sản phẩm du lịch:
- Sản phẩm du lịch về cơ bản là khơng cụ thể (chủ yếu tồn tại dưới dạng
vơ hình) hay trừu tượng
- Sản phẩm du lịch nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng đặc biệt.

- Quá trình sản suất và tiêu dùng sản phẩm DL diễn ra đồng thời cùng
một thời gian và địa điểm
- Sản phẩm du lịch gồm nhiều yếu tố khơng thể tách rời và có tính thời
vụ
- Tính rủi ro của sản phẩm du lịch cao
- Không thể dịch chuyển được;
- Không thể tồn kho;
- Mang tính thời vụ.
Sản phẩm của ngành du lịch hoặc của hãng lữ hành gồm 9 đặc trưng sau:
20


- Tính nhìn thấy được và khơng nhìn thấy được
- Tính đa dạng của các thành tố (yếu tố cấu thành) trong một sản phẩm
- Tính đa dạng của các thành viên tham gia (theo chiều ngang và chiều
dọc; bên trong và bên ngồi)
- Mơi trường địa lý bất di bất dịch (không thể di chuyển)
- Nơi cung ứng xa nơi cư trú của khách
- Tính đa dạng của các loại sản phẩm
- Tính dịch vụ của sản phẩm du lịch, thể hiện ở các đặc trưng:
+ Khách hưỡng thụ khơng bị tiêu huỹ đi
+ Phải có khách để tồn tại và thực hiện dịch vụ
+ Không thể tồn kho
+ Không thể tách rời (dịch vụ được tạo ra khách hưởng thụ ngay)
+ Không tương hợp hay không đồng nhất (giữa các thời điểm khác
nhau, giữa các nhân viên khác nhau, 1 nhân viên cũng khác nhau)
+ Khơng có sự co dãn của cung so với cầu trong ngắn hạn
+ Ln thay đổi
+…
- Tính phụ thuộc vào nền kinh tế-xã hội, nhà nước

- Tính thời vụ của sản phẩm
1.2.4 Các loại sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch rất đa dạng, có 5 loại chính sau:
- Sản phẩm du lịch gắn với một quần thể địa lý.
Quần thể địa lý có thể là: lục địa (vùng Bắc Mỹ, vùng Bắc Âu, vùng Đông
Nam Á…); vùng đa quốc gia (vùng sông Nil, vùng Pyrenné, vùng sông
Mékong…); vùng trong một quốc gia ( vùng Tây Bắc VN, vùng Tây nguyên
VN, vùng đồng bằng sông Cữu Long VN…); một địa phương (Tp. HCM,
Tp.Đà Nẳng, tỉnh Tiền Giang…).
Bản thân một quần thể địa lý chưa phải là sản phẩm du lịch, nó mới chỉ là
“nguyên liệu” cần thiết để nhà tổ chức kinh doanh du lịch tạo ra sản phẩm của
mình phải phối hợp nhiều ngành khác. Muốn tạo ra sản phẩm du lịch dựa vào
quần thể địa lý cần thực hiện 5 bước cơ bản sau:
21


b.1 Liệt kê tất cả những yếu tố nội tại và tương lai của quần thể địa lý đó
b.2 Nhận diện thị trường tiềm năng, phân khúc thị trường và lựa chọn thị
trừơng mục tiêu
b.3 Xác định tổng thể các sản phẩm và vị trí của chúng trên thị trường mục
tiêu đã chọn
b.4 Sản phẩm phải được tổ chức, nối kết để du khách mục tiêu có thể tìm
được lợi ích của họ
b.5 Phải tung sản phẩm ra thị trường với một hệ thống bán, khuyến mãi và
tuyên truyền quảng cáo hồn chỉnh
- Sản phẩm du lịch dưới dạng chìa khố trao tay.
Là sản phẩm trọn gói với một mức giá nhất định, như:
+ Sản phẩm trọn gói của một khách sạn, Resort, khu du lịch, khu vui chơi
giải trí, làng du lịch, nơi nghỉ dưỡng
+ Sản phẩm trọn gói của một nhà hàng, một bữa ăn

+ Sản phẩm trọn gói của một chuyến du lịch bằng tàu biển
+ Sản phẩm trọn gói của một chuyến du ngoạn, Tour du lịch (sinh thái, lặn
biển, tham quan, công vụ, hội thảo, hội nghị...), dã ngoại (Tour), tham quan
(Excursion), khám phá (Découvert), thám hiểm (Aventure)…
- Sản phẩm du lịch dưới dạng là một trung tâm, như: trung tâm nghỉ dưỡng,
trung tâm lặn biển, trung tâm trượt tuyết, trung tâm chữa bệnh, trung tâm
Spa…
- Sản phẩm du lịch dưới dạng là sự kiện, lễ hội: sự kiện thể thao, văn hố
giải trí
- Sản phẩm du lịch đặc biệt, có các loại hình thi đua, thể thao…như: thuyền
buồm, lướt ván, cưỡi ngựa, nhảy dù, hội nghị, hội thảo, hội chợ, triển lãm,
Casino, thi uống bia, thi ăn Hamberge, thi ăn trứng gà, …
1.3 PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM DU LỊCH VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020
1.3.1 Khái niệm về sản phẩm du lịch
Là khái niệm phức tạp và có nhiều cách tiếp cận khác nhau.
-

Theo nghĩa hẹp, SPDL đợc hiểu là bất kỳ thứ gì du khách mua, theo
nghĩa rộng hơn, đó là sự kết hợp giữa những gì du khách làm và những
22


cơ sở giải trí, tham quan, những phơng tiện và dịch vụ mà du khách sử
dụng để làm cho nó thành hiện thực Từ điển thuật ngữ Du lịch
(S.Medlik).
-

Theo Michael M. Coltman "Sản phẩm du lịch là một tổng thể gồm các
thành phần khơng đồng nhất hữu hình và vơ hình”


1.3.2 Các yếu tố cấu thành sản phẩm du lịch của một quốc gia hoặc địa
phương
Theo Tổ chức Du lịch Thế giới, SPDL được cấu thành bởi 2 nhóm chính:
các yếu tố tự nhiên và các yếu tố nhân văn.
1.3.2.1 Nhóm 1 gồm các yếu tố tự nhiên:
- Các điều kiện về khí hậu
- Tính hấp dẫn, đa dạng của tài nguyên DL
- Khả năng tiếp cận nguồn nước dồi dào
- Lòng hiếu khách của người dân tại điểm đến
- Nằm vị trí có khả năng tiếp cận tốt thị trường mục tiêu, hoặc các điều
kiện thuận lợi để phát triển các sân bay, cảng biển cần thiết.
1.3.2.2 Nhóm 2 gồm các yếu tố nhân tạo:
- Hệ thống giao thông tốt, có khả năng tiếp cận dể dàng tới các vùng
khác nhau trong cả nước, có sân bay tương xứng.
- Tập hợp khách sạn, khu du lịch và các tiện nghi lưu trú khác, các nhà
hàng, quán bar và các dịch vụ giải trí khác.
- Các phương tiện thể thao, giải trí đa dạng
- Chuỗi các phương tiện vui chơi và mua sắm
- Kinh tế địa phương tại mỗi điểm đến có thể cung ứng được các dịch vụ
cần thiết cho nhu cầu du lịch của du khách
- Kết cấu hạ tầng du lịch có đủ năng lực và có khả năng phát triển thêm
- Các dịch vụ cộng đồng phát triển tốt như cảnh sát, đội cứu hoả, các
dịch vụ y tế, bưu điện, ngân hàng,…
- Các hoạt động văn hoá nghệ thuật đương đại phát triển rộng rãi và sôi
nỗi
- Dân số địa phương đủ đáp ứng nhu cầu gia tăng về lao động du lịch.
23


1.3.3. Vai trò của cơ quan quản lý nhà nước về du lịch và doanh nghiệp du

lịch trong việc xây dựng sản phẩm du lịch
1.3.3.1 Vai trò của các cơ quan liên quan trong việc xây dựng sản phẩm
du lịch
• Cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở trung ương
• Các bộ ngành liên quan
• Cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở địa phương
• Doanh nghiệp du lich
• Các nhà cung cấp dịch vụ du lịch khác
1.3.3.2 Vai trò của cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở trung ương
• Hoạch định chính sách, định hướng xây dựng và phát triển sản
phẩm du lch và dch v du lch trờn ton quc
ã nh hướng đầu tư khai thác vµ Quản lý hoạt động khai thác tài
ngun du lịch.
• Hoạch định chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch
vµ phát triển sản phẩm du lịch
• Định hướng phát triển kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du
lịch,
• Định hướng phát triển các dịch vụ liên quan,
• Định hướng phát triển các loại hình vụ sản phẩm du lịch mới phù
hợp với thị trường và tiềm năng hiện có…
• Đầu mối hoạt động phát triển sản phẩm du lịch liên vùng, liên quốc
gia
• Đầu mối phối hợp liên ngành trong :
- Quản lý, khai thác tài nguyên du lịch,
- Định hướng phát triển kết cấu hạ tầng du lịch,
- Bảo đảm an ninh quốc phòng trong hoạt động du lịch,
- Hợp tác quốc tế về phát triển du lịch vµ sản phẩm du lịch
1.3.3.3 Vai trị của cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở địa phương

24



• Tổ chức triển khai các chiến lược, chủ trương, chính sách về xây
dựng và phát triển sản phẩm du lịch tại địa phơng.
• Quản lý các hoạt động khai thác tài nguyên du lịch, xây dựng và phát
triển sản phẩm và dịch vụ du lịch tại địa phương.
• Xây dựng các cơ chế phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển
du lịch vµ phát triển sản phẩm du lịch tại địa phương
• Tổ chức triển khai các kế hoạch, chương trình phát triển sản phẩm du
lịch quốc gia (vd: CTHDQG về DL).
• Tổ chức phát triển kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch,
phát triển các dịch vụ liên quan, các loại hình, sản phẩm du lịch mới
phù hợp với thị trường và tiềm năng của địa phương.
• Đầu mối cho các hoạt động phát triển sản phẩm trên địa bàn tỉnh và
chủ động liên kết vùng trong phát triển sản phẩm du lịch
1.3.3.4 Vai trị của các bộ ngành liên quan
• Phối hợp với ngành Du lịch quản lý, đầu tư khai thác tài nguyên du
lịch.
• Phát triển kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho khai thác tài
nguyên du lịch, hình thành các sản phẩm du lịch mới.
• Tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục cho khách du lịch vào Việt Nam
và tổ chức các loại hình du lịch.
• Đảm bảo an ninh quốc phịng, trật tự an tồn xã hội, tạo điều kiện
nâng cao tính hấp dẫn của điểm đến.
• Tạo điều kiện thuận lợi cho xây dựng và phát triển sản phẩm du lịch,
đặc biệt là sản phẩm du lịch liên vùng, liên quốc gia và dựa trên khai
thác tài nguyên du lịch ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo…
• Phối hợp đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển du lịch vµ phát triển
các dịch vụ hợp thành sản phẩm du lịch
1.3.3.5 Vai trò của doanh nghiệp du lịch


25


×