Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ NÉT ĐẶC SẮC CỦA VĂN HỌC ĐBSCL, CẦN LƯU GIỮ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.6 KB, 12 trang )

/>
PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ - NÉT ĐẶC SẮC CỦA VĂN HỌC ĐBSCL, CẦN LƯU GIỮ

PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ - NÉT ĐẶC SẮC CỦA VĂN HỌC ĐBSCL, CẦN
LƯU GIỮ
LÊ XUÂN
(Hội Nhà văn TP Cần Thơ)
Phongdiep.net
1- “Ngôn ngữ là thứ của cải vô cùng quý báu và lâu đời của dân tộc” (Bác
Hồ). Vì thế việc bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt là rất quan trọng và cần
thiết. Tuy nhiên, trong quá trình giao thoa văn hóa giữa các vùng, các miền,
các nước… một bộ phận ngôn ngữ cũng bị “cải cách” theo, hoặc bị biến
dạng, biến thể theo chiều hướng có lợi, hoặc có hại. Nó sẽ làm rối thêm, làm
mất đi bản sắc dân tộc của từng vùng, từng miền trên một đất nước từ lâu đã
có sự thống nhất về chữ viết và ngôn ngữ.
Trong thời kì hội nhập quốc tế hiện nay, nhiều thứ có thể “hòa tan”, “hòa
hợp”, “biến màu”, “biến chất”, thì ngôn ngữ liệu có thoát khỏi guồng quay đó?
Song, chúng ta cũng không đáng lo ngại lắm về sự “xâm thực” của ngôn ngữ
ngoại lai, nhất là thứ ngôn ngữ “chát” trên mạng của thế hệ 8x, 9x… Bởi dân
tộc ta từ lâu đã có quá trình giữ gìn và phát triển vốn ngôn ngữ của toàn dân.
Bằng chứng rõ nhất là chữ Hán của Trung Hoa một thời gian dài mấy thế kỷ
được dùng làm văn tự, nhưng sau đó ông cha ta cũng chỉ “mượn” để sáng
tạo ra chữ Nôm. Một số từ tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga… khi vào Việt
Nam cũng bị “biến đổi” cho phù hợp với cách cảm, cách nghĩ của người Việt.
Những người có công trong việc “Việt hóa” một số từ ngữ đó, phần lớn là
tầng lớp trí thức có trình độ cao. Và chúng ta không thể không kể đến vai trò
của các nhà văn, nhà thơ, những người đã dùng ngôn ngữ toàn dân, ngôn
ngữ bác học để đưa vào tác phẩm văn chương, phản ánh cuộc sống muôn
màu muôn vẻ của con người và xã hội. Riêng ở Nam Bộ, phương ngữ thể
hiện khá rõ trong các tác phẩm văn học, trên các phương diện ngữ âm, ngữ
pháp, ngữ nghĩa và phong cách diễn đạt


2- Về mặt địa lý, Nam Bộ được tính từ các tỉnh Bình Phước, Tây Ninh đến
Cà Mau. Phương ngữ Nam Bộ có những nét khu biệt với phương ngữ Bắc
Bộ hay Trung Bộ, mà những phương ngữ khác khó xâm nhập. Nếu ở miền
Bắc tiếng Hà Nội khác tiếng Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Thanh Hóa,
Nghệ An, Quảng Bình… thì ở Nam Bộ tiếng Sài Gòn và tiếng 13 tỉnh, thành


khu vực ĐBSCL nói chung không khác nhau mấy. Nghĩa là chúng có sự thống
nhất tương đối cao. Nếu phần lớn các tỉnh phía Bắc gọi cái bát, Nghệ An, Hà
Tĩnh gọi là cái đọi, thì ở Nam Bộ gọi là cái chén. Nếu ở các tỉnh phía Bắc nơi
thì gọi cha- mẹ, bố- mẹ, thầy- u, nơi gọi là cậu -mợ, bố- bầm, thầy- bu, ảiêm (người Thái)… thì ở Nam Bộ gọi là ba- má, tía- dú. Ngược lại, có một số
từ ngữ ở miền Bắc, miền Trung gọi bằng một tên, như: thuyền hay đò thì ở
Nam Bộ lại có nhiều tên gọi khác nhau để chỉ rõ đặc trưng, công dụng, kích
cỡ của mỗi loại khi tham gia giao thông thủy, như: tàu, ghe. Riêng loại “ghe”
có tới hơn chục tên gọi: ghe chài, ghe be, ghe bầu, ghe cui, ghe cửa,
ghe giàn, ghe lồng, ghe lườn, ghe ngo, ghe tam bản, rồi xuồng ba lá, vỏ lãi,
tắc ráng, trẹt… Chỉ ghe thương hồ của người Gia Định, ca dao có câu:
Ghe ai đỏ mũi xanh lườn
Phải ghe Gia Định xuống vườn thăm em.
Gọi nước lên hay xuống, ở Nam Bộ có tới mấy chục từ ngữ để diễn tả,
như: nước lớn, nước ròng, nước rong, nước kém, nước đứng, nước nhửng,
nước ương, nước đổ, nước ngập, nước nổi, nước quay, nước lụt, nước giựt,
nước rút, nước chảy, nước trôi, nước nhảy, nước bò… Riêng nước ròng còn
được phân biệt: nước ròng cạn, nước ròng sát, nước ròng rặc, nước ròng kiệt,
hay còn gọi tắt là nước cạn, nước sát, nước rặc, nước kiệt.
(* Xem phụ lục: Bảng đối chiếu so sánh ba nhóm phương ngữ tiếng
miền Bắc, miền Nam)
Trong quá trình giao lưu giữa các vùng, miền, các dân tộc trong và ngoài
nước thì một số phương ngữ Nam Bộ đã có sự vay mượn làm phong phú
thêm vốn từ ngữ của cộng đồng cư dân ở xen lẫn nhau, như: nói

“sáng say, chiều xỉn, tối xà quần” thì đều chỉ người say rượu ở những mức
độ khác nhau (người Kinh gọi là say, người Hoa gọi là xỉn, người Khmer gọi
là xà quần).
Trong các tác phẩm văn học của Nam Bộ, ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ lịch
sử, từ ngữ dùng cũng khác nhau. Một số từ ngữ trong tiểu thuyết của Hồ Biểu
Chánh những năm đầu thế kỷ XX nay ít dùng.
Ví dụ: Ông miêu tả cảnh ngoài đồng ruộng chỉ bằng vài nét đơn sơ mà
gây ấn tượng: Một bữa nọ nhằm tiết tháng bảy, trời mưa lu ầm, lu ỳ. Ngoài
đồng nông phu làm lăng xăng, người thì phát cỏ, kẻ thì lo trục đất. Mấy đám
mạ gió thổi dợn sóng vàng vàng, trong hào ấu trái già cuống đỏ đỏ (Phụ nữ
Tân văn – số 32, trang 31). Và đây là cảnh ngoài đồng với bao màu sắc âm
thanh ở một vùng quê Nam Bộ cách ta gần thế kỷ: Mặt trời chen lặn,
ếch uệch oạc kêu vang mé hào, trâu no nần đi lần về xóm. Lúa cấy đã giáp
đông hết rồi, đám nào chưa bén thì coi vàng khè, đám nào đã nở thì coi
xanh mướt. (Phụ nữ Tân văn số 35, trang 30).


Trong các câu hò, điệu lý Nam Bộ thì phương ngữ khi chân chất, mộc
mạc, khi gồ ghề, gai góc. Hãy nghe lời một chàng trai Nam Bộ chọc ghẹo cô
gái: Con cò nó mổ con lươn/ Bớ chị ghe lườn muốn tía tôi hôn? Hay: Anh
thương em từ đầu tới đít/ Đêm anh muốn nằm khít bên em. Hoặc: Gío đưa
buồn ngủ lên bờ/ Mùng em có rộng cho qua ngủ nhờ một đêm? Hay: Xắn
quần em lội qua lung/ Quần em lỡ tụt anh hun chỗ nào?/ Anh hun thì hun má
đào/ Quần em lỡ tụt cắm sào ngủ luôn.
Sau Hồ Biểu Chánh, nhiều nhà văn Nam Bộ là bậc thầy sử dụng
phương ngữ, như: Sơn Nam, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Anh
Đức, Trang Thế Hy, Anh Động… Lớp kế tiếp có: Lương Hiệu Vui, Nguyễn
Thanh, Võ Đắc Danh, Nguyễn Lập Em, Hồ Tĩnh Tâm, Phan Trung Nghĩa, Ngô
Khắc Tài, Phạm Thị Ngọc Điệp, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Thị Diệp Mai, Anh
Đào, Trầm Nguyên Ý Anh…

Nhưng sử dụng phương ngữ Nam Bộ hiện đại thì nhà văn trẻ Nguyễn
Ngọc Tư thành công hơn cả. Cũng tả cảnh, tả người và sự việc nhưng ngôn
ngữ của Nguyễn Ngọc Tư trong các truyện ngắn đã khác xa thời Hồ Biểu
Chánh và các anh chị trước mình. Nhiều từ ngữ Nam Bộ được chị đưa vào
đúng lúc đúng chỗ, khắc họa chiều sâu tâm lý nhân vật và cảnh sắc thiên
nhiên vùng sông nước. Ví dụ: Ai đó vãi từng chùm chim én lên cao, chúng
cố chao liệng để khỏi phải rơi như lá… Ngôn ngữ trong các truyện ngắn, ký,
tản văn của Nguyễn Ngọc Tư vừa dân dã, mộc mạc vừa gần gũi, tươi tắn.
Đến với văn của chị, độc giả có thể hình dung rất rõ về vùng đất Nam Bộ.
Từ những mé đìa lục bình, đám trâm bầu, chòm quao, trái giác nấu canh
chua bông súng đến cách gọi tên nhân vật: anh Hai Nhớ, dì út Thu Lý, dì
Tư, út Thà, Sáu Tâm… hay lời ăn tiếng nói thường ngày: trời đất, chèn ơi,
đúng chóc hà, nói gì lãng xẹt vậy ta, nói chơi hoài, như vầy, chút đỉnh,
mình ên… đều gợi lên dáng hình thiên nhiên, con người xứ sở miền Nam. Có
lần chị đã tự bộc bạch về văn mình một cách rất thật thà trước các đối tượng
độc giả Đôi lúc ví văn của mình như quả sầu riêng, người thích thì nói nó
thơm, người không thích thì chê rằng thúi.
Văn của Nguyễn Ngọc tư có nhiều so sánh, miêu tả độc đáo: Những trái
dưa hấu bóng mẩy thẳm xanh chất tầng tầng trên chợ (Giao thừa). Tả dòng
sông như một người bạn tâm tình với nhiều từ láy: Đêm sông trăng, ngồi trên
nhà có thể nhìn thấy một dòng chảy líu ríu, sáng loáng. Ban đêm, con sông
trước nhà tôi không ngủ, nó thức theo những chiếc tàu rầm rì chảy qua, theo
tiếng mái chèo quẩy chách bụp rất đều. Có những câu văn kể xen tả thật ấn
tương, gợi cảm: Bây giờ, gió chướng non xập xòetrên khắp cánh đồng bất
tận. Ven các bờ ruộng, bông cỏ mực như những đường viền nhỏ liu riu làm
dịu lại mảng rực vàng của lúa.


Chất giọng đặc sệt của miệt vườn Nam Bộ không lẫn vào đâu được: Buổi
chiều đi làm mướn về, họ tụt xuống ao tắm tápthứ nước chua lét vì phèn,

rồi xối lại đúng hai gàu. Nước vo cơm dùng để rửa rau, rửa rau xong dành rửa
cá. Cảnh sắc Nam Bộ tràn vào trong tác phẩm cứ gần gũi, tự nhiên như chính
vùng đất ấy: Cù lao Mút Cà Tha nằm gần cuối sông Dài, trên nó một chút có
một nhánh sông khác rẽ về phía mặt trời, rộn rịp được đoạn đó rồi thôi.
Còn đây là miêu tả tâm lý nhân vật có số phận hẩm hiu, éo le:: Bữa kia
mới ác, thấy Bi lon ton chơi một mình ngoài sân, bỗng không kìm được,
Xuyến xốc Bi lên chạy một đoạn rồi thất thần dừng sững lại, kêu lên hai
tiếng, trời ơi, mình làm khổ nó rồi, mình nghèo như vầy… (Duyên phận so
le)
Chị luôn khám phá những suy tư, trăn trở, dằn vặt trong tâm hồn nhân
vật: Đâu có. Có mà, nước mắt anh rớt lên con tướng này nè, đó, nó ướt
nhẹp đó thấy chưa. Hết cười lớn, nói lớn, ừ, tại tao thương con chốt. Qua
sông là không mong về… Nhiều câu văn giàu cảm xúc, chứa chất hoài
niệm: Ra tới lu nước bà tựa người vào đó, mặt soi xuống nước, bật khóc. Ước
gì nước đừng trong như vậy để khỏi phát hiện một nhan sắc tàn
phai. Với những lời độc thoại nội tâm sâu sắc có sức cuốn hút: Ông Sáu
ngừng lại, lấy tay quệt nước mắt, cái con bìm bịp quỷ nầy nó cũng bỏ qua
mấy lần nhưng ngủ một đêm trên đọt dừa nó lại quay về. Sao cổ không
quay lại? (Biển người mênh mông).
Ở “Cánh đồng bất tận” giọng văn thật day dứt, trăn trở: Sau giấc ngủ dài,
bản năng nó không trở dậy. Trái tim nó chỉ là hòn than nhỏ, không thể
hâm nóng lại cơ thể đã ngã màu tro. Sợi dây xúc cảm như lối đi lâu lắm
không người lui tới, cỏ dại mọc bít mất, đường đứt, cầu gẫy. Ở đó luôn ẩn
chứa những trăn trở, suy tư và nỗi niềm yêu thương: Đàn bà, với cha, càng
trải nghiệm càng chán chường. Càng gieo rắc càng đau. Vết thương cũ mở
miệng toang hoác, không da thịt nào có thể lấp đầy…Với ký ức trống trơn,
họ phơi phới ra đi, còn mình thì nhớ hoài, đau hoài… Hàng loạt câu hỏi tu từ
buông ra như tiếng kêu thống thiết trước cuộc đời đa đoan: Có ai chờ chúng
tôi trên những cánh đồng khơi, Đêm nay tôi sao thế này? Vì nhìn thấy niềm
hy vọng ư? Và tôi ngủ trong nỗi xốn xang… Mà, đã ngấm, đã xé toang lòng

với nỗi đau chia cắt rồi chưa sợ sao?.
Nhà văn Nguyên Ngọc đã nhận xét về văn Nguyễn Ngọc Tư: Mấy năm
nay chúng ta đều rất thích Nguyễn Ngọc Tư. Cô ấy như một cái cây tự nhiên
mọc lên giữa rừng tràm hay rừng đước Nam Bộ vậy, tươi tắn lạ thường, đem
đến cho văn học một luồng gió mát rợi, tinh tế mà chân chất, chân chất mà
tinh tế, đặc biệt “Nam Bộ” một cách như không, chẳng cần chút cố gắng nào
như các tác giả Nam Bộ đi trước…


Nói đến phương ngữ Nam Bộ ta không thể không nhắc đến tác giả viết ký
xuất sắc Võ Đắc Danh trong những năm gần đây. Hãy chầm chậm đọc một
đoạn văn trong bài ký “Mẹ tôi” của anh để thưởng thức chất Nam Bộ ấy: Mẹ
tôi phải ra đồng từ lúc hừng đông cho đến khi hàng xóm lên đèn, tấm thân
gầy lần mò trên bờ mẩu giữa tiếng nhái bầu đồng thanh một khúc nhạc
buồn trên đồng nước bao la khi trời chạng vạng. Đêm đêm, tôi ngủ bằng
điệu ru của tiếng ống bả chấp chân trong căn nhà dột nát, mẹ phải che cho
tôi bằng những tấm lá chầm.
Hay trong bài ký “Rơm rạ dại khờ”, văn của Võ Đắc Danh như “thơ văn
xuôi”, rất giàu so sánh liên tưởng, nhịp điệu: Chị mặc bộ bà ba màu đen, cái
dáng cao cao,... từng cơn gió lùa qua, chị nghiêng vành thúng, lúa hột tuôn
xuống, lúa lép bay bay, bụi rơm bay bay, tà áo chị cũng bay bay,... ngược theo
chiều gió là..., những đường nét cong của vòng eo, vòng ngực căng tròn. Tôi
cứ nhìn ngẩn ngơ... và, tôi không ngờ khi mình không còn “dại khờ” như chị
nghĩ thì đó lại là mùa lúa cuối cùng tôi được gần gũi chị... khi tôi biết được tình
yêu thì hình ảnh người con gái trong tôi là chị. Là chị với những giấc ngủ trưa
trong chòi rạ giữa đồng, là chị với đôi thùng nước, chiếc đòn gách oằn vai đi
giữa đồng rạ khô trong bóng chiều thấp thoáng, quần áo ướt mem bó sát thân
gầy, là chị ngồi dưới cây rơm quấn từng con cúi làm bếp um trâu, là chị
ngồi đốt rơm sáng bừng cả một khúc sông,... là chị..., ngực căng tròn đứng
trên giàn giê lúa…

Còn thơ thì nhiều tác giả đưa phương ngữ Nam Bộ vào khá thành công.
Trong đó phải kể đến các nhà thơ: Lê Chí, Nguyễn Bá, Kim Ba, Vũ Hồng,
Trịnh Bửu Hoài, Phù Sa Lộc, Đinh Thị Thu Vân, Song Hảo, Thu Nguyệt, Thai
Sắc, Hữu Nhân, Trương Trọng Nghĩa, Lê Ái Siêm, Võ Tấn Cường, Huỳnh
Thúy Kiều… Xin dẫn đôi câu thơ Vũ Hồng trong bài “Người phương Nam” để
bạn đọc rõ hơn một nét tính cách của người Nam Bộ - những người mang
trong mình dòng máu của Đồ Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa, Phan Văn Trị…rất hào
phóng, hào hiệp, điệu nghệ, bao dung:
Người phương Nam khá sắc
Người phương Nam ngày xưa áo tơi
Dòng Hàm giang cuộn sóng không lời
Đêm sâu đối ẩm tràn chung rượu
Rượu say tim bốc đến tận trời
… Người phương Nam say thì say trọn
Người phương Nam buồn thì buồn sâu.
Và đây là những câu thơ đầy ám ảnh của nhà thơ trẻ Huỳnh Thúy Kiều ở
Cà Mau:


Cá lìm kìm rượt nhau xé dòng vọng tưởng
Châu thổ buồn thèm vực khúc đỗ quyên.
(Theo em về vùng cổ tích)
Đồng ngửa cổ
Ào ào cơn ngực sấm
Dẫm cuồng phong
Vác cuốc bửa màu chiều.
Con dế nhủi khóc đêm thanh vắng
Lẻ bạn tình nước mắt chảy trăng non.
(Nói với quê hương)
Nghiêng vạt gió hứng ánh trăng từ đỉnh trời rơi xuống

Chuông thời gian gõ vỡ đêm thượng tuần
Anh đã gặt xong mùa bão táp
Thu vào mây bóng kinh thành buốt nụ sao hoa.
(Cổ tích cho em)
Mùa hạ run nỗi niềm giáp hạt
Cỏ ngậm đầy nụ đắng cánh đồng xưa …
(Thiên đường cây xanh lá)
3- Tuy nhiên, khi lạm dụng phương ngữ Nam Bộ quá nhiều thì sẽ làm cho
câu văn, câu thơ thêm rối rắm, khó hiểu đối với nhiều người ở những vùng,
miền khác, làm giảm sự trong sáng của tiếng Việt. Giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc trong phương ngữ Nam Bộ nói riêng và ngôn ngữ nói chung là một
điều cần thiết trước sự xâm thực của ngôn ngữ ngoại lai trong thời hội nhập
quốc tế. Ngày nay, trước sự bùng nổ về thông tin trên các phương tiện truyền
thông như báo nói, báo hình, báo viết, báo điện tử trên internet… nhiều người
dùng “ngôn ngữ lóng” để buôn bán, hay “ngôn ngữ chát” của giới trẻ để giao
lưu, và sáng tác trên các website, blog làm mất đi bản sắc của ngôn ngữ tiếng
Việt. Đó là điều đáng báo động! Để kết thúc bài viết nhỏ này, tôi xin dẫn một
đoạn trong bài thơ vui Tình yêu tin học của tác giả Văn Thông đăng trên báo
QĐND với những từ ngữ của giới Tin học đã bước vào văn chương:
Miền domain anh vẫn mãi đi tìm
Lạc chốn nào trong hàng triệu website
Đến thăm em bằng địa chỉ email
Niềm thương nhớ trải dài trên keyboard.
Chân tình em chẳng thể nào download…
L.X
---------------------------------------------------------------------------------* BẢNG SO SÁNH MỘT SỐ CẶP TỪ PHƯƠNG NGỮ BẮC- NAM
DANH TỪ - NGỮ DANH TỪ


Tiếng Bắc

Thầy U
Anh Cả
Đàn
Cầy
Rọ
Lọ
Lạc
Củ sắn
Củ đậu
Ngô
Dứa
Na
Lá mơ
Ngan
Hoa
Ngọn
Bát
Phong bì
Cái chõng
Xe đạp
Chăn
Có chửa
Cốc
Cây bút
Cây trứng gà
Hồng xiêm
Đậu phụ
Cái xẻng
Mộc nhĩ
Cái màn

Vành xe
Bà nội

Tiếng Nam
Ba Má
Anh Hai
Đờn
Chó
Giỏ
Chai
Đậu phộng
Khoai mì
Củ sắn
Bắp
Khóm
Mãng cầu
Lá thúi địt
Vịt xiêm
Bông
Đọt
Chén
Bao thơ
Bộ vạt
Xe máy
Mền
Có bầu
Ly
Cây viết
Cây lê-ki-ma
Sa-bô-chê

Đậu hủ
Cái leng
Nấm mèo
Cái mùng
Cái niềng
Bà tía


Cá chuối, cá quả
Ai ngờ
Quần đùi

Cá lóc
Ai dè
Xà lỏn

TÍNH TỪ - NGỮ TÍNH TỪ
Tiếng Bắc

Tiếng Nam

Béo
Gầy
Ốm
Ngậy
Phét, phịa, khoác lác
Quên
Muộn
To
Gượm đã

Điên
Hãi quá
Hài lòng
Dối quanh
Vướng họng
Buồn nôn
Xinh cực
Thế thôi
Len lén
Chòi gác
Một mình
Thích đùa
Khoe mẽ
Trắc trở
Quá dại
Sướng quá
Thích quá
Lắm mồm

Mập
Ốm
Bịnh
Béo
Dóc

Trễ
Bự
Từ từ
Khùng
Sợ ghê

Rất ưng
Lòng vòng
Mắc cổ
Muốn ói
Đẹp hết chê
Vậy đó
Tròm trèm
Chốt gác
Mình ên
Dỡn chơi
Chảnh
Trặc trẹo
Quá khờ, quá ngu
Phê quá
Đã quá
Lét chét


Hết sạch
Bệnh phong
Nổi trội, ưu tú
Không có kết quả gì
Gỉa vờ
Cai sữa
Nghiện
Không từ chối
Cằn nhằn
Chơi tới cùng

Hết trơn, hết trọi

Bệnh cùi
Gạo cội
Ăn trớt
Ngó lơ
Dứt sữa
Ghiền
Chịu chơi
Cà riềng
Chơi tới bến

ĐỘNG TỪ - NGỮ ĐỘNG TỪ
Tiếng Bắc

Tiếng Nam

Kỳ
Bơi
Vặt
Vồ
Véo
Chắn
Điêu
Cố ăn
Xơi cơm
Đắp
Bổ đôi
Ăn chấm
Đánh chén
Trụng
Bê xô

Lải nhải
Hãm phanh
Xoè ô
Lánh mặt
Giỏi mắng

Cọ
Lội
Bẻ
Chụp
Ngắt
Che
Ngoa
Ăn ráng
Mời cơm
Trùm
Xẻ nửa
Ăn vụng
Nhậu nhẹt
Nhúng
Xách thùng
Nói dai
Đạp thắng
Mở dù
Đi trốn
Chửi hay


Đi phà
Làm bộ kiêu kỳ

Làm dáng
Đâm
Ăn nhờ
Bắt nạt
Vay nợ
Làm lấy lệ
Tán gái
Lệ tuôn trào
Cãi lấy được
Đối xử đẹp
Nói vắng mặt
Lật mặt kẻ khác
Nhìn
Nói nhảm
Giành giật

Qua bắc
Chãnh chọe
Làm duyên
Thọt
Ăn ké
Ăn hiếp
Hỏi bạc
Làm sơ sơ
Dê gái
Chảy nước mắt
Cãi bai bãi
Chơi ngon
Nói lén
Chơi móc lò

Ngó
Làm xàm
Chụp giựt
---------------

-----------------------------------------------TÀI LIÊ ÊU THAM KHẢO
1- Đào Duy Anh: Hán - Viêêt từ điển - NXB Trường Thi - Sài Gòn, 1957.
2- Nguyễn Văn Ái chủ biên: Từ điển phương ngữ Nam Bộ - NXB TP HCM,
1984.
3- Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường: Văn hóa và cư dân
ĐBSCL, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1990.
4- Nguyễn Du: Truyêên Kiều - NXB Văn học, Hà Nôêi, 1980.
5- Mạc Đường: Qúa trình phát triển dân cư và dân tộc ở ĐBSCL từ thế kỷ XV
đến thế kỷ XIX – Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 3 (204)/1982.
6- Nguyễn Đình Khoa: Loại hình nhân chủng và nguồn gốc lịch sử người
Khmer Nam Bộ- Tạp chí Dân tộc học số 9/1981.
7- Trần Ngọc Lang: Phương Ngữ Nam Bộ - NXB KHXH, Hà Nội, 1995.
8- Sơn Nam: Nói về miền Nam, cá tính miền Nam, thuần phong mỹ tục Việt
Nam - Biên khảo - NXB Trẻ, 2007.
9- Sơn Nam: Lịch sử khẩn hoang miền Nam- NXB Sài Gòn, 1973.
10- Lưu Văn Nam: Người Khmer Nam Bộ xưa và nay - NXB TP Hồ Chí Minh,
1999


11- Vũ Ngọc Phan: Ca dao, dân ca, tục ngữ Viêêt Nam - NXB KHXH, Hà Nôêi,
1980.
12- Vương Hồng Sển: Từ vị Tiếng Việt miền Nam - NXB Văn học, 1993.
13- Huỳnh Công Tín: Từ điển Từ ngữ Nam Bộ - NXB Chính trị Quốc gia - Hà
Nội, 2009
14- Huỳnh Công Tín: Cảm nhận bản sắc Nam Bộ - NXB Văn hóa - Thông tin,

2006
15- Ngô Đức Thịnh: Người Khmer ĐBSCL là thành viên của cộng đồng dân
tộc Việt Nam- Tạp chí nghiên cứu Lịch sử số 3 (216)/1984.
16- Bùi Đức Tịnh: Lược khảo nguồn gốc địa danh Nam Bộ - NXB Văn Nghệ
TP
Hồ Chí Minh, 1999.
17- Phan Thị Yến Tuyết: Tín ngưỡng cúng việc lễ- một tâm thức về cội
nguồn của cư dân Việt khẩn hoang tại Nam Bộ - Tạp chí Dân tộc học số
1(101)/1999.
18- Khoa Ngữ văn Đại học Cần Thơ: Ca dao - dân ca ĐBSCL - NXB Văn
Nghệ, 2001.
19- C.Mac- Ph.Ăng-ghen - V.I Lê-nin: Về Văn học và Nghêê thuâêt - NXB Sự
thâêt, TP Hồ Chí Minh, 1977.
20- Vũ Ngọc Phan: Ca dao, dân ca, tục ngữ Viêêt Nam - NXB KHXH, Hà Nôêi,
1980.
21- Vương Hồng Sển: Từ vị Tiếng Việt miền Nam - NXB Văn học, 1993.
22- Nhiều tác gia: Cơ sở Lý luâên văn học - 3 tâêp - giáo trình ĐH Sư phạm Hà
Nôêi, 1984.
23- Nhiều tác gia: Văn hóa sông nước Cần Thơ - NXB Văn Nghệ, TP HCM,
2009.
24- Nhiều tác gia: Từ điển Văn học - Tập I & II -NXB Khoa học Xã hội - Hà
Nôêi, 1983.
25- Trung tâm Từ điển Ngôn ngữ: Từ điển Tiếng Viêêt - Hà Nội - Việt Nam,
1992.
26- Một số bài trên Internet của các tác giả: Phạm Văn Tình, Đông La,
Chu Thị Thơm, Võ Tấn Cường, Ngô Khắc Tài, Nguyễn Thị Hoa, Bùi Thị Ngọc
Ánh, Hồ Trường, Lê Văn Thảo, Tiểu Quyên, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Phạm
Đình Minh, Tiêu Đình, Thái Phan Vàng Anh, Lê Thiếu Nhơn, Phong Điêêp,
Trần Nhương, Nguyễn Ngọc Tấn…
27- Môôt số bài trên Tạp chí: Ngôn ngữ học, Ngôn ngữ và Đời sống, Tạp chí

Văn học, Tạp chi Xưa và Nay, Tạp chí Văn nghêê Dân gian Viêêt Nam, Tạp chi
Kiến thức ngày nay, Tạp chí Tài hoa trẻ, Tạp chí Thế giới mới, Tạp chí văn
nghệ của 13 tỉnh, thành khu vực ĐBSCL
28- Môôt số bài trên báo: Văn Nghêê, Văn Nghêê trẻ, Tuần báo Văn Nghêê TP
HCM, báo địa phương của 13 tỉnh, thành khu vực ĐBSCL.


29- Văn của các tác gia: Hồ Biểu Chánh, Lê Văn Thảo, Nguyễn Quang
Sáng, Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Anh Động, Nguyễn Ngọc Tư, Võ
Đắc Danh, Nguyễn Thanh, Nguyễn Lập Em, Hồ Tĩnh Tâm, Phan Trung Nghĩa,
Ngô Khắc Tài, Phạm Thị Ngọc Điệp, Nguyễn Thị Diệp Mai, Anh Đào, Trầm
Nguyên Ý Anh…
30- Thơ của các tác gia: Nguyễn Đình Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa, Phan Văn Trị,
Lê Chí, Nguyễn Bá, Đinh Thị Thu Vân, Nguyễn Đình Bổn, Vũ Hồng, Kim Ba,
Bùi Văn Bồng, Huỳnh Thúy Kiều, Trịnh Bửu Hoài, Phù Sa Lộc, Đinh Thị Thu
Vân, Song Hảo, Thu Nguyệt, Thai Sắc, Hữu Nhân, Trương Trọng Nghĩa, Lê Ái
Siêm, Võ Tấn Cường… Nhà thơ Nga Raxum Gazatop và Maiacopski…



×