Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Vai trò của chủ nợ trong thủ tục giải quyết phá sản theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐOÀN THỊ NGỌC MAI

VAI TRÒ CỦA CHỦ NỢ
TRONG THỦ TỤC GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐOÀN THỊ NGỌC MAI

VAI TRÒ CỦA CHỦ NỢ
TRONG THỦ TỤC GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. LÊ THỊ CHÂU


Hà Nội – 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu
của riêng tôi.Các kết quả trong Luận văn chưa được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.Các số liệu, ví dụ và trích
dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực.
NGƯỜI CAM ĐOAN

Đoàn Thị Ngọc Mai


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ VAI TRÒ CỦA CHỦ NỢ TRONG QUÁ
TRÌNH GIẢI QUYẾT TUYÊN BỐ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP .............. 11
1.1. Khái niệm và phân loại chủ nợ ............................................................. 11
1.1.1. Khái niệm chủ nợ ............................................................................ 11
1.1.2. Phân loại chủ nợ.............................................................................. 14
1.1.3. Thẩm quyền của Hội nghị chủ nợ.................................................. 22
1.2. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về quy định vai trò của chủ
nợ trong Luật phá sản và gợi mở cho Việt Nam .......................................... 24
1.2.1. Vai trò của chủ nợ trong pháp luật phá sản của Cộng hòa Pháp .... 24
1.2.2. Vai trò của chủ nợ trong pháp luật phá sản Nhật Bản .................... 27
1.2.3. Vai trò của chủ nợ trong Luật Phá sản của Cộng hòa nhân dân

Trung Hoa ................................................................................................. 29
Chương 2: VAI TRÒ CỤ THỂ CỦA CHỦ NỢ TRONG CÁC GIAI ĐOẠN
GIẢI QUYẾT YÊU CẦU PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP THEO QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT PHÁ SẢN HIỆN HÀNH………………………………34
2.1. Các quy định trước khi thực hiện thủ tục tố tụng tại Tòa án ................ 35
2.2. Các quy định về thủ tục tố tụng tại tòa án để giải quyết yêu cầu thông
báo phá sản DN ............................................................................................ 35
2.2.1. Vai trò của chủ nợ trong quá trình nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
................................................................................................................... 35


2.2.2. Vai trò của chủ nợ đối với việc được thông báo khi DN mất khả
năng thanh toán ......................................................................................... 39
2.2.3. Vai trò của chủ nợ đối với việc cung cấp tài liệu chứng cứ chứng
minh DN lâm vào tình trạng phá sản ........................................................ 40
2.2.4 Vai trò của chủ nợ trong việc thương lượng với DN trước khi Tòa
án thụ lý đơn ............................................................................................. 43
2.2.5 Vai trò của các loại chủ nợ khi tham gia Hội nghị chủ nợ .............. 46
2.2.6 Vai trò của chủ nợ trong việc thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
của DN lâm vào tình trạng phá sản ........................................................... 52
2.2.7. Vai trò của chủ nợ trong giai đoạn tuyên bố phá sản ..................... 63
2.2.8. Vai trò của chủ nợ trong việc phân chia tài sản:............................. 66
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA CHỦ NỢ
TRONG THỦ TỤC PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP ....................................... 73
3.1. Thực tiễn một năm thi hành LPS 2014 ................................................. 73
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về vai trò của
chủ nợ trong quá trình giải quyết yêu cầu phá sản DN................................ 74
3.3. Các giải pháp về tăng cường công tác thi hành pháp luật .................... 86
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 91



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DN

:

Doanh nghiệp

GQPS

:

Giải quyết phá sản

HNCN

:

Hội nghị chủ nợ

LPS

:

Luật phá sản

TTPS

:


Thủ tục phá sản

TAND

:

Tòa án nhân dân

DN

:

Doanh Nghiệp

HNCN

:

Hội nghị chủ nợ

NLĐ

:

Người lao động

HTX

:


Hợp tác xã


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nền kinh tế càng phát triển thì mối quan hệ giữa các doanh nghiệp lại
càng trở nên căng thẳng, phức tạp. Để có thể tồn tại và phát triển, các doanh
nghiệp không ngừng cạnh tranh nhau, không ngừng tìm cách để bài trừ, loại
bỏ lẫn nhau. Tự do cạnh tranh và phá sản là những thuộc tính vốn có của kinh
tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp nào không đáp ứng
được những đòi hỏi nghiệt ngã của thương trường, của sức ép cạnh tranh sẽ bị
đào thải. Để loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, mất khả năng
thanh toán các khoản nợ đến hạn, đồng thời phòng ngừa, khắc phục những
hậu quả, rủi ro mà những doanh nghiệp này có thể gây ra cho nền kinh tế, mỗi
quốc gia đều phải xây dựng và thực thi một cơ chế phá sản có hiệu quả. Tuy
nhiên, do tính chất nhạy cảm và mức độ ảnh hưởng rộng tới nhiều đối tượng
khác nhau trong đời sống kinh tế nên cơ chế phá sản luôn đòi hỏi sự can thiệp
mềm dẻo, linh hoạt của Nhà nước, phù hợp với những yêu cầu thực tiễn mà
hoạt động kinh doanh đặt ra.
Phá sản là một hiện tượng kinh tế - xã hội tất yếu trong nền kinh tế thị
trường. Bên cạnh những hậu quả gây ra cho nền kinh tế mà các doanh nghiệp
bị phá sản gây ra, phá sản cũng có những ảnh hưởng tích cực không thể phủ
nhận, đó là việc cơ cấu lại nền kinh tế một cách có trật tự, đào thải những
doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả ra khỏi thương trường, bảo đảm một môi
trường kinh doanh phát triển bền vững. Ở Việt Nam, sau gần 30 năm tiến
hành đổi mới toàn diện đất nước kể từ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần
thứ VI vào tháng 12 năm 1986, cho đến nay, nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa vẫn đang trên đà phát triển và dần được định hình rõ
nét. Bằng chứng là số lượng các doanh nghiệp gia tăng mạnh mẽ với đa dạng

1


loại hình kinh doanh, mang lại một bức tranh đầy màu sắc. Tuy nhiên, cùng
với sự phát triển của xã hội và sự hội nhập kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt
Nam cũng phải đương đầu với những cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài, đối
diện với không ít nguy cơ và thách thức to lớn khiến cho hàng loạt doanh
nghiệp ở nước ta làm ăn thua lỗ, bị phá sản hoặc đứng trước bờ vực phá sản.
Trong bối cảnh đó, pháp luật về phá sản ở Việt Nam cần phải bắt kịp với xu
thế của thời đại, có sự điều chỉnh phù hợp để đảm bảo việc thực thi trên thực
tế một cách có hiệu quả.
LPS 2014 được đánh giá là một bước tiến bộ lớn trong kỹ thuật lập
pháp so với Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 và LPS 2004, đưa những
quy định của pháp luật về phá sản tiến gần với những quy định phá sản của
các nước đang hội nhập và phát triển. Tuy nhiên, với những gì đang diễn ra
trong thời gian qua, khi đánh giá về hiệu quả điều chỉnh của LPS 2004,
nhiều ý kiến cho rằng văn bản này có hiệu quả điều chỉnh quá thấp, ít tính
khả thi cũng như không phản ảnh hết yêu cầu và thực trạng giải quyết phá
sản ở Việt Nam. Trong thực trạng đó, việc sửa đổi bổ sung LPS 2004 nói
riêng và tiếp tục hoàn thiện pháp luật phá sản nói chung là một yêu cầu cấp
thiết. Đáp ứng yêu cầu đó, LPS 2014 đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp
thứ 7 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2014 và đã có hiệu lực kể từ ngày
01/01/2015.
Giải quyết phá sản đối với doanh nghiệp là một quá trình tố tụng tư
pháp với sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau, trong đó, thể hiện rõ nét
vai trò quan trọng của các chủ nợ. Bên cạnh vai trò quyết định của Tòa án,
chủ nợ được xem là người góp công sức to lớn trong việc giải quyết phá sản
doanh nghiệp. Điều đó dựa trên tinh thần bảo vệ quyền và lợi ích cho chủ thể
bị ảnh hưởng lớn nhất trước nguy cơ một doanh nghiệp bị phá sản, vì một
“con nợ chết” sẽ kéo theo hàng loạt chủ nợ có thể đứng trước nguy cơ mất

2


trắng tài sản và lâm vào tình trạng bi đát về tài chính. Bởi vậy, LPS 2014 đã
có những quy định xuyên suốt đề cao vai trò của các chủ nợ trong quá trình
tiến hành thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực tiễn thi
hành cho thấy việc triển khai vai trò của các chủ nợ theo tinh thần của LPS
còn gặp nhiều khó khăn, nguyên nhân là do các chủ nợ chưa thấu hiểu hết
được vai trò quan trọng của mình trong việc giải quyết phá sản doanh nghiệp;
đồng thời những quy định của LPS 2014 vẫn còn nhiều bất cập, chưa bắt kịp với
sự phát triển của xã hội và tư duy lập pháp tiên tiến trên thế giới cũng như thiếu
tính khả thi khiến cho các chủ nợ chưa phát huy được vai trò của mình trên thực
tế. Hơn thế nữa, trong giai đoạn kinh tế suy thoái và đang có dấu hiệu phục hồi
như hiện nay, việc các chủ nợ khẳng định được vai trò của mình trong quá trình
xử lý phá sản doanh nghiệp có ý nghĩa rất lớn đối với hiệu quả giải quyết thật tốt
các vụ phá sản nhằm cơ cấu lại một nền kinh tế có trật tự, thúc đẩy sự phát triển
vượt trội ở giai đoạn hậu suy thoái. Đây là yêu cầu có tính cấp thiết cả về mặt lý
luận pháp lý và thực tiễn thi hành, nó tác động không nhỏ đến sự phát triển của
nền kinh tế - xã hội của nước ta, do đó, tác giả đã lựa chọn vấn đề “Vai trò của
chủ nợ trong thủ tục giải quyết phá sản theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài
luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Có thể nhận thấy kể từ khi pháp luật về phá sản bắt đầu hình thành ở
nước ta, cụ thể là từ khi Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 ra đời cho đến nay,
đã có khá nhiều công trình khoa học nghiên cứu và phân tích các quy định
trong hệ thống pháp luật phá sản, chỉ ra những bất cập mà LPS hiện hành
đang mắc phải, trong đó có cả những quy định về chủ nợ và vai trò của nó.
Xung quanh vấn đề này, đã có nhiều công trình nghiên cứu do các nhà khoa
học và người làm công tác thực tiễn ở Việt Nam thực hiện. Các công trình
nghiên cứu về các chủ nợ được thực hiện dưới nhiều hình thức và cấp độ khác

nhau, trong đó có thể kể đến các công trình nghiên cứu tiêu biểu sau:
3


- Luận án tiến sĩ luật học của TS. Trương Hồng Hải (2004) :“Luật phá
sản doanh nghiệp Việt Nam dưới góc độ so sánh và phương hướng hoàn
thiện”. Luận án này tập trung nghiên cứu so sánh LPS DN năm 1993 của Việt
Nam với LPS của một số nước như Đức, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Cộng hòa liên
bang Nga, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa …với những vấn đề chủ yếu: Xác
định tình trạng phá sản, phạm vi đối tượng của LPS, quản lý tài sản phá sản,
mô hình thủ tục phá sản. Luận án nghiên cứu, đánh giá LPS Việt Nam trong
mối quan hệ so sánh với LPS của một số quốc gia trên cơ sở vận dụng các
nguyên tắc của luật so sánh. Mặc dù đã nêu và phân tích được một số nét về
vấn đề tài sản và quản lý tài sản theo LPS, nhưng luận án chủ yếu đi sâu vào
các khía cạnh về mặt thủ tục tố tụng, chưa nêu lên các đặc thù về vai trò của
các chủ nợ trong DN khi giải quyết yêu cầu phá sản.
- Đề tài khoa học cấp Bộ của Bộ kế hoạch và đầu tư (2004): “Thực trạng
phá sản doanh nghiệp và giải pháp hoàn thiện pháp luật về phá sản doanh
nghiệp ở Việt Nam”do ThS. Nguyễn Kim Anh làm chủ nhiệm. Nội dung của
đề tài này chủ yếu tập trung nghiên cứu và đánh giá pháp luật về phá sản ở
Việt Nam và một số nước trên thế giới, tìm hiểu thực trạng áp dụng pháp luật
phá sản ở Việt Nam, chỉ ra những bất cập trong việc thực thi pháp luật về phá
sản và kiến nghị giải pháp hoàn thiện. Công trình này đã đề cập một cách có
hệ thống và toàn diện các vấn đề của LPS. Tuy nhiên, cho đến nay, khi LPS
2004 đã trải qua 10 năm thi hành, LPS 2014 trải qua hơn 01 năm thi hành thì
các phân tích của tác giả phần nào chưa bao quát hết các vấn đề phát sinh và
một số kiến nghị đã thể hiện tính không phù hợp với điều kiện áp dụng của
nền kinh tế Việt Nam.
- Luận văn Thạc sỹ Luật học của ThS. An Phương Huệ (2004): “Luật
Phá sản của Việt Nam và Luật Phá sản của Cộng hòa Pháp – những nét

tương đồng và khác biệt” - luận văn tập trung phân tích các quy định của pháp
4


luật Phá sản Việt Nam trong mối liên hệ so sánh với Luật Phá sản Pháp, từ đó
rút ra những bài học kinh nghiệm góp phần hoàn thiện pháp luật phá sản ở
nước ta. Nhắc đến việc phân tích các quy định của pháp luật về thủ tục phá
sản, trong đó tác giả có đề cập đến vai trò của chủ nợ khi tham gia quá trình
giải quyết phá sản với tư cách là một chủ thể quan trọng, không thể không kể
đến Luận văn thạc sỹ luật học “Quyền của chủ nợ là người lao động trong
quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp” của Th.s Trần
Ngọc Diệp. Luận văn này tập trung nghiên cứu về nội dung quyền lợi của
người lao động trong vai trò là chủ nợ trong quá trình giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản. Luận văn không chỉ làm rõ vấn đề mà còn có những so
sánh, đưa ra được những kinh nghiệm quốc tế liên quan đến đề tài. Đồng thời
trong nội dung đề tài cũng đã đề xuất được các phương án, đưa ra các kiến
nghị có ích để hoàn thiện hơn nữa pháp luật về phá sản ở Việt Nam.
- Luận án tiến sĩ của TS. Vũ Thị Hồng Vân (2008): “Quản lý và xử lý tài
sản phá sản theo quy định của pháp luật phá sản Việt Nam”. Đề tài nghiên
cứu phân tích và luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý và xử lý tài
sản phá sản, đưa ra đánh giá và đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện
các quy định của pháp luật Việt Nam trong thủ tục phá sản DN, tạo sơ sở
pháp lý để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ và những chủ
thế khác có liên quan đến quá trình giải quyết các vụ án phá sản ở Việt Nam.
- Đề tài khoa học của Bộ tư pháp do PGS.TS. Dương Đăng Huệ và ThS.
Nguyễn Thanh Tịnh làm chủ nhiệm: “Thực trạng pháp luật về phá sản và
việc hoàn thiện môi trường pháp luật kinh doanh tại Việt Nam”. Đề tài đã đi
sâu vào phân tích những quy định của pháp luật Việt Nam về thủ tục phá sản
và tập trung vào vấn đề thực trạng thực hiện quản lý, thanh lý tài sản của DN.
Đề tài đã làm rõ thực trạng giải quyết yêu cầu mở TTPS, phát hiện những tồn

tại, hạn chế của LPS 2004, các văn bản pháp luật có liên quan cũng như các
5


yếu tố khác làm ảnh hưởng đến việc giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Trong phạm vi nhất định, đề tài cũng đã đề cập tới một số vấn đề về vai trò
của chủ nợ trong quá trình GQPS nhưng chưa đi sâu tìm hiểu kỹ.
Bên cạnh đó, có thể kể đến các công trình nghiên cứu dưới dạng bài viết
tạp chí đề cập đến một số khía cạnh liên quan đến LPS và có nhắc đến các
quy định về chủ nợ như bài viết “Về một số nội dung của LPS 2004” của tác
giả Ngô Cường được đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối
cao, số 16/2007; bài viết “Những vướng mắc trong quá trình thực hiện Luật
Phá sản” của tác giả La Minh Tường đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa
án nhân dân tối cao, số 15/2012; hay bài viết “Mạn đàm về một số quy định về
Hội nghị chủ nợ trong Luật Phá sản 2004” của tác giả Nguyễn Thị Tình và
Đỗ Phương Thảo được đăng trên Chuyên đề báo Pháp luật số tháng 6/2013;
v.v.. Hầu hết các công trình nghiên cứu đều tập trung khai thác một cách tổng
thể các quy định của LPS để từ đó đánh giá và đưa ra được những kiến nghị
hoàn thiện pháp luật.
Xét về góc độ nghiên cứu riêng về chủ nợ trong LPS thì có rất ít công
trình nghiên cứu tập trung phân tích sâu sắc vấn đề này, có thể kể đến một vài
công trình nghiên cứu hướng đến đối tượng nghiên cứu là chủ nợ như bài viết
“Điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục Phá sản” của tác
giả Trần Văn Tú và Nguyễn Văn Giang được đăng trên tạp chí Nghiên cứu
lập pháp, Văn phòng quốc hội, số 03/2012.
Tuy nhiên, hầu như chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách
toàn diện về vai trò của chủ nợ - một chủ thể rất quan trọng tham gia vào quá
trình giải quyết phá sản doanh nghiệp. Do đó, với đề tài nghiên cứu của mình,
trên cơ sở kế thừa những đánh giá, phân tích của các công trình nghiên cứu
trước, tác giả hy vọng sẽ góp thêm một “đường nét” mới mẻ vào “bức tranh”


6


hoàn thiện LPS nước nhà và không có sự trùng lặp bởi các công trình nghiên
cứu khác.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định của LPS 2014 và
thực trạng về vai trò của chủ nợ trong DN kể từ khi DN lâm vào tình trạng phá
sản đến khi kết thúc quá trình giải quyết yêu cầu phá sản đối với DN.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài:
Về nội dung, luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về
các loại chủ nợ và vai trò của nó trong suốt quá trình giải quyết phá sản theo
pháp luật phá sản Việt Nam, đồng thời luận văn cũng phân tích những bất
cập; hạn chế của pháp luật phá sản gây khó khăn cho các chủ nợ trong việc
phát huy vai trò của mình trên thực tế; từ đó đưa ra cái nhìn bao quát và đề xuất
những giải pháp nhằm nâng cao vai trò của chủ nợ, góp phần hoàn thiện LPS.
Về không gian, luận văn nghiên cứu dựa trên phạm vi các quy định của
pháp luật phá sản Việt Nam hiện hành và hướng đến đối tượng chính là các loại
chủ nợ của DN, chủ yếu là các quy định của LPS 2014, ngoài ra, Luận văn còn
có sự đối chiếu với các quy định của Luật phá sản doanh nghiệp 1993; LPS 2004
và đôi nét so sánh với pháp luật phá sản của một số nước trên thế giới.
Về thời gian, xuất phát từ tình hình thực tiễn là nền kinh tế Việt Nam chúng
ta đang trong quá trình chuyển đổi và hội nhập, do vậy, luận văn chỉ giới hạn
nghiên cứu trong giai đoạn chủ yếu từ năm 2004 trở lại đây, đặc biệt là trên cơ
sở các quy định của LPS 2014 và một số vấn đề cần đối chiếu thuộc LPS 2004.
Và để đảm bảo tính hiệu lực cũng như khả năng áp dụng vào thực tế của luận
văn, tác giả xin được đưa ra những phân tích, đánh giá trên cơ sở của LPS
2014, kể từ thời điểm được thông qua. Tuy nhiên, do là một luật mới được
ban hành, mới được áp dụng nên tác giả chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu


7


trong các quy định của LPS 2014, từ đó rút ra những vấn đề vẫn còn tồn tại
hoặc có thể phát sinh sau khi Luật được áp dụng.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu, luận văn sử dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu khoa học khác nhau như: Chương 1 của luận văn được triển
khai thông qua phương pháp phân tích các vấn đề chung về các chủ thể của
LPS và phân chủ nợ, kết hợp với phương pháp so sánh, đối chiếu với pháp
luật phá sản một số nước khác. Đối với chương 2, tác giả sử dụng phương
pháp phân tích nhằm cụ thể hóa và làm rõ những quy định của pháp luật phá
sản về vai trò của chủ nợ trong quá trình giải quyết phá sản doanh nghiệp. Từ
đó, ở chương 3, bằng phương pháp đối chiếu, phương pháp kết hợp nghiên
cứu lý luận với thực tiễn, phương pháp thống kê – phân tích nhằm làm rõ thực
tiễn thi hành LPS 2014, tác giả đưa ra những kiến nghị góp phần hoàn thiện
các quy định của pháp luật nhằm phát huy vai trò của chủ nợ trong suốt quá
trình tiến hành thủ tục phá sản doanh nghiệp.
Dù là sử dụng phương pháp nào để xây dựng các nội dung của luận văn
thì các phương pháp nghiên cứu trong luận văn vẫn được thực hiện trên nền
tảng của phương pháp duy vật lịch sử, duy vật biện chứng; trên cơ sở các
quan điểm, đường lối về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam.
6. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài trên, tác giả mong muốn phân tích làm
sáng tỏ thực trạng các quy định của LPS về vai trò của chủ nợ trong quá trình giải
quyết phá sản doanh nghiệp, trên cơ sở đó đề xuất, kiến nghị về những phương
hướng và giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định của LPS về vai trò của
chủ nợ, góp phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trên thực tế.

Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
được xác định cụ thể như sau:
8


- Một là, về phương diện lý luận, luận văn hệ thống hóa sẽ phân tích
làm rõ những vấn đề lý luận về chủ nợ và vai trò của nó, những yếu tố tác
động đến vai trò của chủ nợ trong quá trình giải quyết yêu cầu phá sản
doanh nghiệp.
- Hai là, về thực tiễn, luận văn tiến hành phân tích nội dung cơ bản của
pháp luật phá sản về vai trò của chủ nợ trong quá trình tiến hành thủ tục phá
sản doanh nghiệp và thực tiễn áp dụng và thi hành LPS 2014.
- Ba là, luận văn nghiên cứu, so sánh và giới thiệu kinh nghiệm về quan
điểm xây dựng, hoàn thiện pháp luật phá sản về vai trò của chủ nợ của một số
nước trên thế giới và rút ra bài học cho Việt Nam.
- Bốn là, luận văn nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nhằm góp phần
hoàn thiện các quy định của Luật phá sản về vai trò của chủ nợ, cũng như
việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật phá sản trong tương lai tạo điều kiện để
các chủ nợ phát huy được vai trò của mình trên thực tế..
7. Những kết quả nghiên cứu mới của Luận văn
Luận văn đã phân tích, đánh giá một cách cụ thể, toàn diện và có hệ
thống về vai trò của chủ nợ trong quá trình giải quyết phá sản theo pháp luật
Việt Nam.
Trong khuôn khổ một Luận văn thạc sỹ, tác giả sẽ làm sáng tỏ một cách
có hệ thống những vấn đề lý luận về chủ nợ và vai trò của chủ nợ trong quá
trình tham gia vào thủ tục phá sản. Trên cơ sở các quy định của LPS hiện
hành, tác giả còn đi sâu bình luận, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật
về vai trò của chủ nợ trong thủ tục phá sản, có sự dẫn chiếu tới Luật Phá sản
doanh nghiệp cũ và LPS 2014 mới nhất. Cuối cùng, từ những bất cập, hạn chế
của pháp luật và thực tiễn thi hành Luật Phá sản nói chung, tác giả đưa ra

những quan điểm và kiến nghị góp phần nâng cao về vai trò của chủ nợ trong
giải quyết phá sản doanh nghiệp trong LPS 2014.

9


8. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần lời nói đầu và phần kết luận, mục lục và danh mục tài liệu
tham khảo chủ yếu, luận văn được kết cấu với 3 chương:
Mở đầu: Tổng quan về tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và phương
pháp nghiên cứu.
Chương 1: Khái quát về địa vị pháp lý của chủ nợ trong quá trình giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp;
Chương 2: Thực trạng pháp luật về vai trò của chủ nợ trong các giai
đoạn giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp;
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao vai trò của chủ nợ trong thủ tục
phá sản doanh nghiệp.

10


Chương 1:
KHÁI QUÁT VỀ VAI TRÒ CỦA CHỦ NỢ TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI
QUYẾT TUYÊN BỐ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP
Phá sản là một hiện tượng hết sức bình thường, tồn tại tất yếu và phổ
biến trong nền kinh tế thị trường nơi sự cạnh tranh lẫn nhau luôn tồn tại. Phá
sản là một thủ tục tố tụng tư pháp đặc biệt, trong đó không thể không nhắc
đến sự hiện diện của những chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng này với
những vai trò và địa vị pháp lý riêng biệt. Trước hết, có thể hiểu chủ thể tham
gia quan hệ giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp là tất cả những người có

quyền và nghĩa vụ độc lập khi tham gia vào tố tụng phá sản. Theo quy định tại
LPS 2014 , những chủ thể này bao gồm: Chủ nợ; Doanh nghiệp mắc nợ; Tòa
án; HNCN; Doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản. Mỗi chủ thể đều được
LPS xác lập cho một vị trí pháp lý khác nhau nhưng tất cả đều có chung một
mục tiêu là cùng phối hợp chặt chẽ để đạt được kết quả cuối cùng là giải
quyết ổn thỏa vụ việc phá sản của doanh nghiệp.
1.1. Khái niệm và phân loại chủ nợ
1.1.1. Khái niệm chủ nợ
Chủ nợ là một khái niệm chung tồn tại trong quan hệ pháp luật dân sự,
theo đó, khi một đối tượng cho vay thì người đó sẽ là chủ nợ trong quan hệ
với người đi vay – là con nợ. Trong hoạt động kinh doanh, khái niệm này có
thể được hiểu theo nghĩa rộng hơn, theo đó, chủ nợ có thể là các tổ chức, cá
nhân có quyền buộc cá nhân, tổ chức khác thực hiện được những nghĩa vụ để
bù trừ cho một khoản tiền hay công việc mà trước đó chủ nợ đã thực hiện thay
cho con nợ. Với cách hiểu này, đối tượng được coi là chủ nợ và nguyên nhân
trở thành chủ nợ sẽ đa dạng hơn, mối quan hệ giữa chủ nợ với con nợ cũng
phong phú hơn.
11


LPS 2004 không đưa ra khái niệm về “chủ nợ” mà thực hiện việc định
danh bằng cách phân loại các đối tượng chủ nợ. Việc không đưa ra khái niệm
cụ thể này dẫn đến tình trạng một số đối tượng có quyền và nghĩa vụ về tài
sản có liên quan tham gia vào thủ tục phá sản nhưng lại không thể định danh
thành một loại chủ thể nhất định, dẫn đến khó xác định vai trò và đảm bảo
quyền lợi của họ trong quá trình GQPS. LPS 2014 đã khắc phục hạn chế này
bằng cách đưa ra khái niệm về “chủ nợ” tại khoản 3 Điều 4: “Chủ nợ là cá
nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu DN, HTX phải thực hiện nghĩa vụ
thanh toán khoản nợ, bao gồm chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm
một phần và chủ nợ có bảo đảm”.

Như vậy, khái niệm chủ nợ đã được xác định bởi quyền yêu cầu doanh
nghiệp trả nợ, cách hiểu này đã bao hàm được cả những cá nhân, tổ chức có
khoản nợ đối với doanh nghiệp phát sinh trước, trong và cả sau khi có quyết
định mở thủ tục phá sản, tránh bỏ sót những chủ thể có quyền và nghĩa vụ liên
quan. Tuy nhiên, sau khi đưa ra khái niệm về “chủ nợ”, LPS 2014 lại lặp lại
khái niệm này khi phân loại chủ nợ, điều này là không cần thiết và khiến cho
khái niệm chủ nợ trở nên rắc rối, khó hiểu hơn.
Mục đích của LPS đó là bảo vệ quyền và lợi ích của con nợ và chủ
nợ thông qua việc giải quyết và tìm ra cách thức thanh toán nợ. Thực tế cho
thấy, không phải lúc nào quyền của các chủ nợ cũng được bảo đảm. Và dẫu
có thì cũng chỉ là một phần nhỏ trong số những thiệt hại lớn mà các chủ nợ
phải gánh chịu. Với vai trò là người trực tiếp tham gia vào hoạt động sản
xuất kinh doanh hay là người thành lập nên doanh nghiệp của các chủ nợ,
việc đảm bảo quyền lợi của họ sẽ vừa là động lực, vừa là nền tảng để họ có
thể mạnh dạn hơn khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, góp
phần nâng cao chất lượng đời sống, ổn định xã hội
Theo quy định tại LPS 2014 thì có 3 loại chủ nợ đó là: chủ nợ có bảo
đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ không có bảo đảm. Việc phân
12


chia này dựa trên mối tương quan giữa khoản nợ và giá trị tài sản bảo đảm mà
doanh nghiệp đã cầm cố, thế chấp cho chủ nợ. Tuy nhiên, không phải cả 3 loại
chủ nợ trên đều có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh
nghiệp, mà chỉ chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ không có bảo đảm mới
có quyền nộp đơn Điều 5 LPS 2014.
Về nguyên tắc, mọi chủ nợ đều bình đẳng và đều có quyền lợi nhất
định trong vụ việc phá sản doanh nghiệp. Tuy nhiên, quyền lợi của chủ nợ có
bảo đảm bị hạn chế bởi chính sự thỏa thuận về việc xử lý giá trị tài sản được
bảo đảm, họ luôn có trong tay tài sản cầm cố, thế chấp không phụ thuộc vào

việc doanh nghiệp có bị phá sản hay không; nghĩa là quyền lợi của họ được
bảo đảm rất lớn [21.tr 29]. Do vậy, pháp luật đã có giới hạn nhất định về
quyền của loại chủ nợ này so với các chủ nợ khác.
Bên cạnh những loại chủ nợ đã nêu trên, khi đề cập đến các chủ thể
tham gia vào thủ tục phá sản không thể không nhắc đến một loại chủ nợ
không có bảo đảm đặc biệt – đó chính là người lao động. Phần lớn pháp luật
phá sản các nước trên thế giới đều quy định cho phép người lao động có
quyền nộp đơn yêu cầu Tòa án mở thủ tục giải quyết phá sản đối với doanh
nghiệp nơi họ làm việc. Theo quy định của pháp luật phá sản Việt Nam thì
sau khi nộp đơn, người lao động, công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực
tiếp được coi là chủ nợ - loại chủ nợ không có bảo đảm đặc biệt. Sự đặc biệt
đó thể hiện ở chỗ: Hàng hóa duy nhất họ đem ra trao đổi là sức lao động và
tiền lương – nguồn sống chính của bản thân và gia đình người lao động. Khi
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì họ là một trong những đối tượng
chịu thiệt hại nặng nề nhất; mất việc làm dẫn đến mất thu nhập và cuộc sống
sẽ bấp bênh, ảnh hưởng rất nhiều. Pháp luật quy định cho người lao động có
quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu thủ tục phá sản để thể hiện tiếng nói của
mình trong việc giải quyết phá sản doanh nghiệp cũng chính là giúp họ tự bảo
vệ chính mình khi lợi ích của chính họ bị xâm hại
13


1.1.2. Phân loại chủ nợ
Một trong những mục tiêu quan trọng mà pháp luật phá sản hướng đến
là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Về nguyên tắc, trong thủ tục
phá sản, các chủ nợ đều bình đẳng với nhau về quyền lợi và nghĩa vụ. Tuy nhiên,
tùy thuộc vào tính chất của các khoản nợ mà quyền lợi của các chủ nợ cũng khác
nhau, từ đó sẽ dẫn đến vai trò của họ cũng khác nhau. Việc phân loại chủ nợ có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc xác định vai trò cũng như trách nhiệm của từng
loại chủ nợ ở mỗi giai đoạn tố tụng phá sản, từ đó góp phần thúc đẩy việc giải

quyết phá sản doanh nghiệp đạt được hiệu quả thiết thực.
Để phân loại các chủ nợ, cần dựa vào các tiêu chí nhất định, cụ thể:
* Căn cứ vào tương quan giữa giá trị tài sản bảo đảm và giá trị khoản nợ:
Đây là tiêu chí mà LPS 2014 đã dùng để phân loại chủ nợ, cơ sở phân loại
theo tiêu chí này chính là sự xuất hiện của tài sản bảo đảm của doanh nghiệp cho
khoản nợ của mình, theo đó, chủ nợ được phân làm ba loại cơ bản: chủ nợ có
bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ không có bảo đảm.
+ Chủ nợ có bảo đảm: Theo quy định tại Khoản 5, Điều 4 LPS 2014 thì “Chủ
nợ có bảo đảm là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu doanh nghiệp,
HTX phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ được đảm bảo bằng tài sản
của doanh nghiệp, HTX hoặc của người thứ ba”
Đây là loại chủ nợ được bảo đảm về quyền lợi nhiều nhất trong ba
loại chủ nợ được LPS 2014 quy định, bởi chủ nợ có bảo đảm luôn được
pháp luật bảo vệ quyền lợi bởi chính giá trị tài sản bảo đảm mà doanh
nghiệp đem cầm cố, thế chấp; và giá trị tài sản đảm bảo của khoản nợ có
đảm bảo là tương đương hoặc lớn hơn so với giá trị khoản nợ của doanh
nghiệp. Ví dụ: Ngân hàng A cho công ty cổ phần B vay 4 tỷ đồng và nhận
tài sản thế chấp là mảnh đất của công ty được định giá là 5,3 tỷ. Như vậy, ở
đây Ngân hàng A chính là chủ nợ có bảo đảm; bởi quyền lợi của Ngân
14


hàng được đảm bảo bằng chính giá trị mảnh đất tương đương với khoản
tiền mà ngân hàng A cho công ty B vay.
+ Chủ nợ có bảo đảm một phần : Theo quy định tại khoản 6, Điều 4 LPS
2014 thì: “Chủ nợ có bảo đảm một phần là cá nhân, cơ quan, tổ chức có
quyền yêu cầu doanh nghiệp, HTX phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản
nợ được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, HTX hoặc của người thứ
ba mà giá trị tài sản bảo đảm thấp hơn khoản nợ đó”.
Đây cũng có thể được xem là chủ nợ có bảo đảm bởi bản thân chủ nợ

này cũng được bảo đảm bằng chính tài sản của doanh nghiệp hoặc bên thứ ba.
Tuy nhiên, LPS 2014 đã mang đến cái nhìn cụ thể hóa khi dựa vào sự chênh
lệch giữa giá trị tài sản bảo đảm và giá trị khoản nợ của doanh nghiệp trong
việc phân nhỏ loại chủ nợ này. Theo đó, chủ nợ có bảo đảm một phần được
đảm bảo về quyền lợi ít hơn so với chủ nợ có bảo đảm; bởi chính giá trị tài
sản bảo đảm nhỏ hơn so với giá trị khoản nợ của doanh nghiệp. Nếu xét theo
ví dụ trên về Ngân hàng A và công ty cổ phần B, nếu mảnh đất mà công ty
đem thế chấp được định giá là 3,5 tỷ nhỏ hơn khoản vay 4 tỷ, thì Ngân hàng
A ở đây chính là chủ nợ có bảo đảm một phần.
Thông thường, khi thỏa thuận áp dụng biện pháp bảo đảm, các bên
thường thỏa thuận đảm bảo cho toàn bộ nghĩa vụ theo hợp đồng, nhưng các
khoản nợ có đảm bảo một phần vẫn xuất hiện là do:
+ Khi thỏa thuận, các bên thỏa thuận bằng một số tiền cụ thể hoặc một tài
sản nhỏ hơn giá trị khoản nợ.
+ Mặc dù khi ký kết hợp đồng, các bên thỏa thuận đảm bảo 100% nghĩa vụ
để phòng ngừa rủi ro, nhưng trong quá trình thực hiện nghĩa vụ, tài sản bị
giảm hoặc mất đi một phần giá trị, một trong những tài sản đảm bảo bị mất đi
do lý do khách quan(thiên tai, hỏa hoạn....) dẫn đến giá trị tài sản bảo đảm
không được bảo toàn như ban đầu.
15


+ Chủ nợ không có bảo đảm là chủ nợ có khoản nợ không được bảo đảm
bằng tài sản của doanh nghiệp hoặc của người thứ ba. Theo quy định tại
khoản 4, Điều 4 LPS 2014 thì: “Chủ nợ không có bảo đảm là cá nhân, cơ
quan, tổ chức có quyền yêu cầu doanh nghiệp, HTX phải thực hiện nghĩa vụ
thanh toán khoản nợ không được đảm bảo bằng tài sản của doanh nghiệp,
HTX hoặc của người thứ ba”.
Đây là loại chủ nợ bị ảnh hưởng và thiệt hại nặng nề nhất khi doanh
nghiệp mắc nợ họ phá sản; bởi bản thân họ không được bảo đảm bằng bất kỳ

một tài sản nào của doanh nghiệp hoặc của người thứ ba. Khả năng thu hồi nợ
của loại chủ nợ này dường như là khó khăn hơn rất nhiều so với hai loại chủ
nợ kia, thậm chí, họ có thể mất trắng số nợ trong trường hợp doanh nghiệp
không còn tài sản để thanh toán. Vì vậy, có thể dễ dàng nhận thấy, các nhà
làm luật luôn ưu tiên bảo vệ quyền lợi của các loại chủ nợ này. Đây là khoản
nợ thường phát sinh trong hoạt động kinh doanh thông qua các hợp đồng.
Như vậy, các nhà làm luật thông qua việc phân chia dựa theo chênh
lệch giữa khoản nợ và giá trị tài sản đảm bảo để xác định khả năng đòi nợ,
mức độ quyền lợi có thể bị xâm phạm và từ đó xác định vai trò của từng loại
chủ nợ khi doanh nghiệp chấm dứt hoạt động.
* Căn cứ vào chủ thể cho doanh nghiệp vay nợ:
Ngoài cách phân loại chủ nợ ở trên, LPS 2014 cũng có sự phân biệt các
khoản nợ của các loại chủ nợ khác thông qua các quy định về thứ tự phân chia
tài sản.
+ Chủ nợ là Nhà nước:
Quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp gắn liền với chức
năng và thẩm quyền của các cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế. Các nghĩa
vụ tài chính đối với nhà nước là một quy định mới trong thứ tự phân chia tài
sản được quy định tại Điều 54, LPS 2014, theo đó, các khoản nợ có chủ nợ là
16


Nhà nước được tách riêng, mặc dù vẫn có chung thứ tự thanh toán với các
khoản nợ không có bảo đảm như quy định tại LPS 2004. Các nghĩa vụ tài
chính này chủ yếu nhất là nợ thuế. Đây là nghĩa vụ tài sản bắt buộc của doanh
nghiệp đối với Nhà nước khi tham gia vào môi trường kinh doanh. Một doanh
nghiệp có thể phải nộp rất nhiều loại thuế khác nhau như : thuế môn bài, thuế
giá trị gia tăng cho hàng hóa và dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh, thuế
thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất – nhập khẩu nếu doanh nghiệp có hành vi
xuất khẩu hay nhập khẩu hàng hóa,... Gánh nặng về thuế cùng với việc hoạt

động kinh doanh kém hiệu quả của doanh nghiệp là nguyên nhân dẫn đến tình
trạng nợ thuế ở các doanh nghiệp là tương đối lớn. Không những thế, trong
quá trình kinh doanh, doanh nghiệp cũng có thể đối mặt với các khoản nợ
khác đối với Nhà nước như : nợ tiền điện, tiền nước phục vụ cho hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ; nợ tiền phạt vi phạm về bảo vệ môi
trường do quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ;...
Như vậy, có thể thấy Nhà nước là chủ nợ luôn gắn liền với sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp. Nếu theo cách phân loại chủ nợ của LPS 2014
thì Nhà nước cũng đơn thuần chỉ là một chủ nợ không có bảo đảm ; tuy nhiên,
xét về góc độ chủ thể thì Nhà nước lại là một chủ thể đặc biệt và không giống
với các loại chủ thể khác trong quan hệ vay – nợ với doanh nghiệp.
+ Chủ nợ là người lao động :
Khi doanh nghiệp đứng trước bờ vực bị buộc phải chấm dứt hoạt động
thì người lao động là đối tượng phải chịu ảnh hưởng nặng nề nhất, bởi lẽ khi
doanh nghiệp lâm vào phá sản ; những người lao động có thể phải đứng trước
nguy cơ thất nghiệp, không có thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình mình.
Đây là đối tượng ở vị trí yếu thế trong quan hệ với doanh nghiệp, họ ít có đủ
trình độ để tự nhận thức được tình trạng kinh tế của doanh nghiệp cũng như
có biện pháp để tự bảo vệ quyền lợi của mình. Có thể thấy quan hệ về tài sản
17


giữa doanh nghiệp – chủ sử dụng lao động và người lao động thường là quan
hệ về lương, bảo hiểm xã hội cũng như các quyền lợi vật chất khác được quy
định trong hợp đồng lao động. Những quan hệ này khó được giải quyết trong
giai đoạn doanh nghiệp làm ăn yếu kém và bị lâm vào tình trạng phá sản ; khi
đó, người lao động là chủ thể bị ảnh hưởng nặng nề vì doanh nghiệp không
thanh toán lương đúng hạn, không thực hiện nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội...
Theo tinh thần của LPS 2014 thì người lao động được xem là chủ nợ lương,
bảo hiểm xã hội và các khoản nợ khác gắn liền với thỏa ước lao động tập thể

và hợp đồng lao động, đồng thời, pháp luật phá sản luôn coi người lao động là
đối tượng chủ thể đặc biệt với thứ tự ưu tiên về đảm bảo quyền lợi cao hơn so
với các chủ nợ khác.
+ Chủ nợ là tổ chức, cá nhân khác :
Các tổ chức, cá nhân khác thông qua mối quan hệ với doanh nghiệp
cũng có thể trở thành chủ nợ của doanh nghiệp. Mối quan hệ đó có thể là cho
doanh nghiệp vay nợ hoặc những khoản nợ phát sinh trong quá trình thực hiện
hợp đồng, giao dịch thương mại với doanh nghiệp (ví dụ như khoản tiền phạt
vi phạm, bồi thường thiệt hại do doanh nghiệp có hành vi vi phạm hợp đồng
gây thiệt hại cho tổ chức hoặc cá nhân...).
* Căn cứ vào tiến trình giải quyết phá sản doanh nghiệp :
Nếu xét theo tiến trình giải quyết phá sản doanh nghiệp, cụ thể lấy dấu
mốc là thời điểm Tòa án ra quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản đối với
doanh nghiệp thì có thể chia chủ nợ ra làm 2 loại : chủ nợ cũ và chủ nợ mới :
+ Chủ nợ cũ là những chủ nợ tồn tại trước thời điểm Tòa án ra quyết định
mở thủ tục giải quyết phá sản đối với doanh nghiệp. Đây là những chủ nợ thực
hiện việc gửi giấy đòi nợ trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày cuối cùng đăng báo
về quyết định mở thủ tục phá sản của Tòa án và Tổ quản lý, thanh lý tài sản sẽ
lập danh sách chủ nợ trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày hết hạn gửi giấy đòi
18


nợ - Căn cứ theo Điều 42, Điều 43 LPS 2014. Hay nói cách khác, chủ nợ cũ
chính là những chủ nợ có tên trong danh sách chủ nợ do Quản lý doanh nghiệp
và thanh lý tài sản lập sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản doanh nghiệp.
+ Chủ nợ mới là những chủ nợ phát sinh sau khi Tòa án ra quyết định mở
thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp. Bởi căn cứ theo Điều 47 LPS 2014
thì mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau khi có quyết định mở thủ
tục phá sản vẫn được tiến hành bình thường nhưng phải chịu sự giám sát,
kiểm tra của thẩm phán và Quản tài viên,Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Như

vậy, theo tinh thần của Luật phá sản, doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản của Tòa án vẫn có thể tiếp tục hoạt
động và giao kết hợp đồng, tiến hành các giao dịch liên quan đến việc vay
vốn, huy động vốn. Hơn nữa, một trong những mục tiêu cơ bản của pháp luật
phá sản là giúp doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng phá sản bằng cách cho
phép doanh nghiệp phục hồi hoạt động kinh doanh nếu doanh nghiệp có khả
năng phục hồi; để thực hiện tốt mục tiêu này, Luật Phá sản đã tạo điều kiện để
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản được tiếp tục tiến hành các giao dịch
kinh doanh với đối tác, với các chủ thể để tăng cường tiềm lực giải thoát khỏi
bờ vực phá sản. Có nghĩa là, vẫn sẽ có những chủ nợ phát sinh trong quá trình
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp kể từ sau thời điểm Tòa án ra quyết
định mở thủ tục phá sản, những chủ nợ này có thể được xem là chủ nợ mới
của doanh nghiệp. Tuy nhiên, LPS 2014 còn thiếu sót khi không đề cập đến
loại chủ nợ này cũng như việc đảm bảo các quyền lợi và vai trò của họ trong
giải quyết phá sản doanh nghiệp.
Có thể nói, việc phân loại chủ nợ có ý nghĩa quan trọng trong việc xác
định vai trò và vị trí của các loại chủ nợ trong tiến trình giải quyết phá sản
doanh nghiệp. Điều đó đòi hỏi pháp luật phá sản phải có sự phân loại hợp lý

19


×