Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Nghiên cứu đặc điểm ngữ nghĩa của câu hỏi yes no trong tiếng anh so với nghĩa tương đương trong tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.97 KB, 20 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong học tiếng, dạy tiếng cũng như trong giao tiếp, câu hỏi là một trong
các loại câu được dùng với tần suất cao. Việc nghe tiếp nhận câu hỏi cũng như
việc cấu tạo câu hỏi, thực hiện hành vi hỏi là những vấn đề mà người học, người
sử dụng ngoại ngữ thường gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt phức tạp trong lĩnh vực
liên ngữ, xuyên ngữ là việc dịch thuật câu hỏi từ tiếng này ra tiếng khác và
ngược lại mà phạm vi trực tiếp ta đang nói đến ở đây là dịch Việt - Anh và Anh
- Việt. Việc nghiên cứu đối chiếu đặc điểm ngữ nghĩa của câu hỏi vì vậy rất cần
thiết hữu ích.
Trong giao tiếp cũng như tư duy, câu hỏi có mục đích chính là tìm kiếm
thông tin chưa biết, chưa hiểu. Câu hỏi cũng còn gọi là câu nghi vấn là như vậy.
Bởi vì có điều chưa biết, chưa hiểu nên để hiểu biết thì phải hỏi. Nhưng trong
thực tế sử dụng ngôn ngữ cũng có khi hỏi mà không nhằm mục đích tìm kiếm
thông tin chưa biết mà có thể là để chào hỏi chẳng hạn. Ví dụ người Việt có khi
dung câu hỏi để hỏi, để chào nhau; gặp nhau giữa đường thay cho lời chào,
những người quen nhau cũng dùng câu hỏi để chào. Hoặc có khi người đặt câu
hỏi là để tự trách mình thể hiện sự xúc cảm trước một vấn đề gì đó, hỏi cũng để
chia sẻ cảm thông mông muốn yêu cầu.
Chính vì vậy tác giả chọn đề tài nghiên cứu này nhằm tìm hiểu về những đặc
điểm ngữ nghĩa của câu hỏi “Yes-No” (Y-N) trong tiếng Anh, trên cơ sở đó xác lập
những mô hình cấu trúc để chuyển nghĩa sang tiếng Việt. Đề tài nêu lên một số khó
khăn mà sinh viên thường gặp trong quá trình dịch câu hỏi “Yes-No” từ tiếng Anh
sang tiếng Việt. Đề tài cũng đưa ra một số khuyến nghị về việc ứng dụng kết quả
nghiên cứu cho dạy và học tiếng Anh nói chung, học môn dịch nói riêng.

1


MỤC LỤC

2




PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tiếng Anh đang là một trong những ngôn ngữ được dùng nhiều trong giao
tiếp quốc tế hiện nay. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, đặc biệt với việc
gia nhập WTO , tiếng Anh đã trở thành một ngôn ngữ giao tiếp rất quan trọng.
Biết sử dụng tiếng Anh là yêu cầu tiên quyết khi đi xin việc tại các công ty liên
doanh hoặc nước ngoài. Tiếng Anh còn là môn học bắt buộc tại các trường học.
Mặt khác, tiếng Việt và Việt Nam ngày nay có nhiều người biết đến. Số người
Việt Nam trong và ngoài nước học để sử dụng thành thạo tiếng Anh và số người
nước ngoài học tiếng Việt ở các nước như Anh, Mỹ, Úc ngày càng gia tăng.
Việc giúp đỡ cho số những người này giao tiếp bằng tiếng Anh và tiếng Việt
một cách có hiệu quả đòi hỏi chúng ta phải có kiến thức về phân tích đối chiếu
ngôn ngữ.
Để một cuộc hội thoại thành công chúng ta cần hiểu thật chính xác nghĩa
hàm ẩn đằng sau mỗi phát ngôn. Thông thường thì mỗi loại câu ta sử dụng để
nói thường biểu hiện một nét nghĩa nhất định. Chẳng hạn như câu trần thuật
thường dùng để miêu tả, khẳng định một sự việc nào đó. Câu cầu khiến được
dùng để thể hiện một mệnh lệnh, lời yêu cầu. Câu nghi vấn dùng để hỏi. Tuy
nhiên, nghĩa thật sự của một phát ngôn không phải được cấu tạo bởi bề mặt câu
chữ mà phải được đặt vào trong từng ngữ cảnh cụ thể nhất định.
Việc nghiên cứu ngữ pháp, đặc biệt là ngữ nghĩa của đơn vị câu là nội
dung rất quan trọng của bất kỳ ngôn ngữ nào cho dù việc nghiên cứu dựa trên
ngữ pháp truyền thống hay ngữ pháp hiện đại. Trong số các kiểu câu phân loại
theo mục đích giao tiếp thì câu hỏi là một hiện tượng phổ quát của tất cả các
ngôn ngữ trên thế giới. Nó là loại hành vi ngôn ngữ rất phổ biến trong giao tiếp,
nhận thức. Không ai trong hoạt động giao tiếp và tư duy hàng ngày mà không sử
dụng câu hỏi. Chúng ta hỏi để tìm kiếm thông tin chưa biết chưa hiểu, hỏi để
trao đổi thông tin. Đôi khi hỏi để chia sẻ cảm thông, hỏi để khẳng định, hỏi phủ

định, hỏi để mỉa mai, hỏi để chào…Có thể nói rằng câu hỏi là yếu tố thường
3


xuyên tham gia vào quá trình hội thoại và không thể thiếu trong giao tiếp. Đối
với người học ngoại ngữ việc thực hiện hành vi hỏi, việc nghe tiếp nhận câu hỏi
và cấu tạo câu hỏi thường gặp nhiều khó khăn.
Thực tế cho thấy sinh viên Việt Nam rất bối rối trong việc dịch thuật khi
chuyển từ câu hỏi tiếng Anh sang tiếng Việt và ngược lại. Ngay cả giáo viên
cũng nhiều khi lúng túng trước việc giải thích và hướng dẫn sinh viên sử dụng.
Bằng việc Nghiên cứu đặc điểm ngữ nghĩa của câu hỏi Yes-No trong
tiếng Anh so với nghĩa tương đương trong tiếng Việt, bài tiểu luận sẽ cung cấp
các đặc trưng cấu trúc – ngữ nghĩa cơ bản của kiểu loại câu hỏi này trong hai thứ
tiếng. Việc nắm vững các đặc điểm ngữ nghĩa của từng loại câu hỏi sẽ giúp cho
các bên tham gia hội thoại chủ động, tự tin hơn và kết quả của cuộc thoại thành
công hơn.
2. Mục đích nghiên cứu
Về nguyên tắc, chức năng cơ bản của một câu hỏi nói chung và câu hỏi
Yes-No nói riêng là để hỏi một thông tin chưa biết. Tuy nhiên, bên cạnh mục
đích để hỏi, câu hỏi “Yes-No” còn thể hiện nhiều chức năng khác, tùy vào ngữ
cảnh, như lời mời, lời đề nghị, yêu cầu…Thực tế cho thấy những nét nghĩa của
câu hỏi Yes-No khá đa dạng và người học trong việc dịch những câu hỏi YesNo gặp nhiều khó khăn.
Xuất phát từ những vấn đề được nêu ở trên, tác giả chọn đề tài Nghiên
cứu đặc điểm ngữ nghĩa của câu hỏi Yes-No trong tiếng Anh so với nghĩa
tương đương trong tiếng Việt với mục đích xác định những nét nghĩa của câu
hỏi Yes-No, đồng thời cũng đưa ra một số đề nghị để chuyển tải những nét
nghĩa đó sang tiếng Việt.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận là đặc điểm ngữ nghĩa của câu hỏi

Yes-No trong tiếng Anh so với nghĩa tương đương trong tiếng Việt.

4


3.2. Khách thể nghiên cứu
Khánh thể của đề tài nghiên cứu là các sinh viên năm thứ ba chuyên
ngành tiếng Anh khoa Ngoại ngữ trường Đại học Hải Phòng.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Cơ sở lí luận về câu hỏi Yes-No
4.2. Các nét nghĩa của câu hỏi Yes-No
4.3. Một số khó khăn của sinh viên trong quá trình dịch những câu
hỏi Yes-No sang tiếng Việt và biện pháp khắc phục
5. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi tiểu luận này, tôi tập trung vào việc nghiên cứu chức năng
ngữ nghĩa của câu hỏi Yes-No và những ý nghĩa tương đương của nó trong
tiếngViệt.
Đề tài nghiên cứu được tiến hành trong phạm vi trường Đại học Hải
Phòng bao gồm bốn lớp ĐH NN Anh K14A, ĐH NN Anh K14B, ĐH NN Anh
K14C và ĐH NN Anh K14D.
Tổng số sinh viên được khảo sát là 150 người.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các vấn đề lí luận cho đề tài thông qua
việc nghiên cứu các tài liệu, sách, báo, tiểu thuyết và các truyện ngắn tiếng Anh
bản song ngữ.
6.2. Phương pháp mô tả
Phương pháp mô tả: thống kê, phân tích miêu tả các mô hình câu hỏi Yes-No
trong tiếng Anh. Tôi đã phân tích cấu tạo của câu hỏi có từ hỏi biểu đạt nội dung xác
định. Việc phân tích này có sự gắn bó chặt chẽ giữa cấu trúc và ngữ nghĩa.

6.3. Phương pháp quan sát
Sử dụng phương pháp quan sát nhằm thu thập những thông tin về những
khó khăn của sinh viên năm thứ ba trong quá trình dịch những câu hỏi Yes-No
sang tiếng Việt để bổ sung chính xác hơn cho kết quả nghiên cứu từ phương
pháp điều tra.
5


6.4. Phương pháp điều tra
Phương pháp điều tra nhằm khảo sát thực trạng khó khăn trong việc dịch
nghĩa các câu hỏi Yes-No của sinh viên năm ba chuyên ngành tiếng Anh,
nguyên nhân gây ra khó khăn đó và ảnh hương của nó trong hoạt đông giao tiếp
cũng như kết quả môn học.
Để tiến hành phương pháp này tôi xây dựng bộ câu hỏi về những khó
khăn trong việc dịch nghĩa câu hỏi Yes-No và nguyên nhân gây ra vấn đề để
điều tra các khách thể nghiên cứu.
6.5. Phương pháp phân tích đối chiếu
Đây là phương pháp qua trong nhất của đề tài. Trong phương pháp phân
tích đối chiếu, tiếng Anh được chọn làm ngôn ngữ gốc và tiếng Việt là ngôn ngữ
đích để phân tích những nét nghĩa của câu hỏi Yes-No. Từ đó xác định sự tương
đồng và khác biệt giữa hai ngôn ngữ nhằm mục đích chuyển dịch theo hướng
Anh - Việt.

6


CHƯƠNG I :CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Một số quan điểm của các nhà ngôn ngữ về câu hỏi
1.1.1. Một số quan điểm của các nhà ngôn ngữ nước ngoài về câu hỏi
trong tiếng Anh

Hỏi đã được xác định là một hiện tượng ngôn ngữ phổ biến, là thành tố
thường xuyên tham gia trong giao tiếp và trong nhận thức của con người. Câu
hỏi được tiếp cận từ nhiều quan điểm khác nhau và bổ sung nhau của các nhà
ngôn ngữ học Anh, Mỹ và nước ngoài. Wallace L. Chafe trong cuốn Ý nghĩa và
cấu trúc của ngôn ngữ (1998) đã tiếp thu quan điểm cấu trúc cú pháp của N.
Chomski cho rằng trong các ngôn ngữ có hàng loạt những hiện tượng khác loại
được thống nhất bằng một tên chung là “câu hỏi” (questions). Tuy nhiên câu hỏi
không phải là một thuật ngữ chính thức bao gồm những câu thuộc một số kiểu
loại khác biệt nhau một cách rõ ràng. Cái gì kết hợp những câu như thế để cho
có sự kiện là “về mặt ngữ nghĩa chúng và trong một chừng mực nào đó, chúng
tương đồng với những câu cầu khiến, vì câu hỏi là một loại yêu cầu đặc biệt.
Song câu hỏi khác câu cầu khiến là những câu đòi hỏi hình thức của hành động
phi ngôn ngữ học nào đó. Các câu hỏi chủ yếu gắn liền với phản ứng ngôn ngữ.”
[5, tr. 234].
Dĩ nhiên có một số câu cầu khiến đòi hỏi phản ứng ngôn ngữ như “Say
your name”( “Hãy nói tên anh”) nhưng bình diện ngôn ngữ của những câu cầu
khiến như thế rõ ràng gắn với yếu tố phi cầu khiến trong những câu ấy và không
phải là vấn đề đặc biệt. Tương tự như vậy, một số câu trả lời bằng cử chỉ như
nhún vai, chỉ trỏ…đều là hành vi phi ngôn ngữ. Những hành vi kể trên có thể đi
kèm với những câu trả lời bằng lời. Như vậy những kiểu câu hỏi khác nhau
được thống nhất lại bởi việc người nói nêu chúng ra nhằm gây phản ứng ngôn
ngữ ở người nghe và anh ta làm việc đó mà không vận dụng đến hình thức câu
cầu khiến của động từ như say, tell…
Wallace L. Chafe đã phân câu hỏi tiếng Anh thành:
- Câu hỏi lựa chọn
7


- Câu hỏi có khuyết thiếu từ vựng
- Câu hỏi lặp lại

Tác giả cho rằng sự có mặt của nghĩa nghi vấn trong cấu trúc ngữ nghĩa
của câu hỏi biểu thị rằng người nói yêu cầu người nghe thông báo cho anh ta cái
thông tin mới đề cập tới yếu tố mà nghĩa nghi vấn liên quan đến. Nghĩa nghi vấn
có thể thấy ở các vị trí khác nhau trong cấu trúc ngữ nghĩa, đặc biệt trong thành
phần của động từ, hoặc của danh từ khi thay thế cho đơn vị từ vựng đó. Ở vị trí
đó, nó chỉ ra rằng người nói muốn người nghe bổ khuyết cái đơn vị từ vựng còn
thiếu hay làm đầy sự khuyết thiếu về từ vựng đó.
Simon C.Dik phân biệt câu hỏi với câu tường thuật. Câu hỏi không phải là
những lời xác nhận. Chúng không thể là chân thực hay không chân thực mà cần
có phản ứng đáp lại nào đó. “ Câu hỏi là biểu thức ngôn ngữ mà qua đó người
nói có thể đưa ra tín hiệu và muốn nhận một phản hồi bằng lời thích hợp của
người nghe.” [22, tr. 284]. Các kiểu câu hỏi có thể phân biệt theo loại thông tin
được hỏi và kiểu trả lời có thể áp dụng cho câu hỏi. Những câu hỏi có từ hỏi có
mối quan hệ với các động từ hạn định theo kiểu chúng có thể được hiểu theo
nghĩa của một hoạt động cấu trúc của câu hỏi này, có thể là cấu trúc trung tâm,
trong đó thành tố nghi vấn trong câu hỏi có từ hỏi mang chức năng chính, xét về
bản chất. “Câu hỏi có từ hỏi bộc lộ được những đặc tính nổi bật nhất, cụ thể là
trong mối tương quan, một mặt với động từ hạn định, còn mặt khác với các cấu
trúc khuyết, có thể tách ra được….” [25-tr.258]. Roderick A. Jacobs trong cuốn
“English syntax- A grammar for English language professionals”(1995) đề cập
đến một số chức năng của câu hỏi. Theo tác giả, câu hỏi trước hết có một chức
năng phổ quát là yêu cầu cung cấp thông tin mà nó đòi hỏi. Bên cạnh đó, câu
hỏi còn có thể thể hiện một lời yêu cầu, một lời mời hoặc một sự đe dọa. Tác giả
chia câu hỏi làm ba loại:
- Câu hỏi lựa chọn
- Câu hỏi đuôi
- Câu hỏi có từ hỏi

8



Quirk, R. và Greenbaum, trong cuốn “A university grammar of English”
(1985) dựa trên cơ sở nhận định về mối tương quan một đối một của truyền
thống giữa nội dung và hình thức, đã có cách nhìn khá đơn giản về câu hỏi. Câu
hỏi là những câu được đánh dấu bằng một trong ba tiêu chí sau :
- Vị trí trước chủ ngữ của tác tử:
Did you go to shool yesterday?
Have you got any brothers or sisters?
- Vị trí đầu câu của từ nghi vấn hay từ hỏi:
Ví dụ:
Where was she born?
Who did you stay with?
- Câu hỏi với ngữ điệu lên giọng ở cuối câu
Ví dụ:
You are a teacher ↑?
They had left when you came ↑?
Các tác giả cho rằng câu hỏi dùng để nêu lên điều chưa biết hoặc còn hoài
nghi và chờ đợi sự trả lời, giải thích của người tiếp nhận câu hỏi đó; dùng để hỏi
về sự tồn tại của cả một sự việc hoặc đưa ra một giả thiết đã ít nhiều có tính chất
khẳng định (hỏi tổng quát):
Ví dụ:
You like your job, don’t you?
Hoặc nhằm hỏi về một chi tiết trong sự việc (hỏi bộ phận)
What did you do yesterday?
Hoặc đưa ra những khả năng khác nhau cho người hỏi lựa chọn mà trả lời
(hỏi lựa chọn).
Would you like tea or coffee?
Câu hỏi hoặc câu hỏi phủ định còn được dùng để khẳng định, để cầu xin,
mời mọc, v.v…


9


1.1.2. Quan điểm của các nhà ngôn ngữ Việt Nam về câu hỏi
Câu hỏi cũng được các nhà ngữ pháp và ngôn ngữ Việt Nam xem xét,
miêu tả và lý giải từ nhiều góc độ khác nhau nhưng tựu trung là quan điểm ngữ
pháp truyền thống hoặc cấu trúc có kết hợp với cách lý giải lô gích học như của
Trần Trọng Kim, quan điểm cú pháp-ngữ nghĩa của Nguyễn Kim Thản, Diệp
Quang Ban, Hoàng Trọng Phiến và gần đây là quan điểm chức năng của Cao
Xuân Hạo.
Trước đây, trong các sách ngữ pháp, khi nghiên cứu về câu hỏi , các tác
giả thường ít chú ý đến xây dựng một định nghĩa chính xác và đầy đủ về câu hỏi
trong tiếng Việt mà chỉ xét câu hỏi như một hiện tượng thực tế của tiếng Việt.
Trần Trọng Kim trong cuốn “Việt Nam văn phạm” (1943) phân biệt câu hoài
nghi và câu nghi vấn, nhưng chỉ xét đến câu nghi vấn đại danh từ. Tác giả không
đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về câu hỏi mà chỉ viết: “ Câu hoài nghi biểu
diễn cái ý ngờ, không chắc hẳn.”. “ Câu nghi vấn đại danh từ dùng để hỏi cho
biết là người nào hay vật gì đứng là chủ từ hay túc từ.” [21, tr.34] Nguyễn Kim
Thản trong cuốn “ Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt” (1964) dùng thuật ngữ
“câu nghi vấn” và cho rằng “ Câu nghi vấn nhằm mục đích nêu lên sự hoài nghi
của người nói và nói chung đòi người nghe tường thuật về đối tượng hay đặc
trưng của đối tượng. Nó không chứa đựng phán đoán vì nó chưa khẳng định hay
phủ định gì cả, nó không thật mà cũng không giả”. Tác giả đã phân câu nghi vấn
tiếng Việt thành bốn loại:
- Câu nghi vấn chân chính
- Câu tự vấn
- Câu hỏi dồn
- Câu hỏi xác nhận
Hoàng Trọng Phiến khẳng định rằng “cho dù ở dưới dạng nào, trong nội
dung câu hỏi cũng làm nổi rõ một ‘cái không rõ’ mà câu hỏi cần hướng tới.”

[17, tr. 343]. Tác giả còn đưa ra một loại câu hỏi không cần có câu trả lời mà
nhằm đạt đến sự đồng tình của người nghe. Loại câu hỏi đó là câu hỏi tu từ.

10


Diệp Quang Ban định nghĩa về câu nghi vấn như sau: “ Câu nghi vấn
thường được dùng để nêu lên điều chưa biết hoặc còn hoài nghi và chờ đợi sự
trả lời giải thích của người tiếp nhận câu đó, và về mặt hình thức câu nghi vấn
cũng có dấu hiệu đặc trưng nhất định” [1, tr.226]. Dựa vào phương thức cấu tạo
nên câu nghi vấn (trong sự đối chiếu với câu tường thuật), ông cho rằng tiếng
Việt có các loại câu hỏi sau:
- Câu hỏi sử dụng các đại từ nghi vấn
- Câu hỏi sử dụng kết từ hay với ý nghĩa lựa chọn
- Câu hỏi sử dụng các phụ từ nghi vấn
- Câu hỏi sử dụng các tiểu từ chuyên dụng
- Câu hỏi sử dụng ngữ điệu thuần túy (chỉ kể trường hợp không có các
phương tiện nêu trên)
Cao Xuân Hạo cho rằng các câu hỏi của tiếng Việt cũng như của rất nhiều
thứ tiếng khác, “ngoài giá trị hỏi (yêu cầu thông báo) là giá trị ngôn trung trực
tiếp của nó, còn có thể có một (những) giá trị ngôn ngữ phái sinh (phủ định,
khẳng định, tỏ ý ngờ vực, thách thức…) và trong nhiều trường hợp, cái giá trị
ngôn trung phái sinh này lại là công dụng và mục đích duy nhất của câu nói,
trong khi tính chất nghi vấn của câu nói chỉ còn là một hình thức thuần túy, may
ra chỉ góp một sắc thái tu từ (hùng biện) nào đó cho câu.” [14, tr. 115]. Câu hỏi
tiếng Việt được chia thành hai mảng lớn:
- Câu hỏi chính danh
- Câu hỏi có giá trị ngôn trung khác
Nói chung, việc nghiên cứu câu hỏi trong tiếng Anh và tiếng Việt tập
trung nhiều ở cách tiếp cận ngữ pháp hoặc cú pháp- ngữ nghĩa qua các giáo trình

ngữ pháp tiếng Anh và tiếng Việt của các nhà ngữ pháp học Anh, Mỹ và Việt
Nam. Những phân tích câu hỏi từ nhiều quan điểm khác nhau ở trong nước và
ngoài nước cho thấy rằng câu hỏi là một hiện tượng phổ quát và là một trong
những vấn đề quan trọng của ngôn ngữ học đại cương.

11


1.2. Khái quát chung về câu hỏi Yes-No
1.2.1. Định nghĩa về câu hỏi Yes-No
Theo Wardhaugh (1995) thì câu hỏi Y-N là loại câu hỏi nhằm tìm kiếm
câu trả lời “Có” hoặc “Không”. Câu hỏi Y-N được chia thành hai loại nhỏ, đó là
câu hỏiY-N khẳng định (Is he a student?) và câu hỏi Y-N dạng phủ định (Isn’t
he a student?).
Loại câu hỏi này đòi hỏi câu trả lời có hoặc không. Khi nói, ngữ điệu lên
cao cuối câu hỏi. Loại câu hỏi này được cấu tạo bằng cách chuyển một phần vị
ngữ, như tác tử lên trước chủ thể gây ra hành động của câu.
Ví dụ:
Do you like art?
Can you speak English?
1.2.2. Hành động lời nói
Hành động lời nói là một câu viết hoặc lời nói bao gồm hai loại nghĩa:
nghĩa nội dung mệnh đề hay nghĩa ngôn liệu và nghĩa ngôn trung. Nghĩa mệnh
đề là nghĩa cơ bản của lời nói căn cứ vào từ và cấu trúc của lời nói đó. Nghĩa
ngôn trung là ảnh hưởng của lời nói hoặc câu viết đối với người nghe hoặc
người nói. (Hurford & Heasley, 1995)
1.2.3. Hành động lời nói và phép lịch sự
Nói tới nguyên lý lịch sự là nói tới khái niệm “thể diện”, “giữ thể diện”
trong quá trình hội thoại. Brown và Levison (1987) đã phân biệt 2 phương diện
của thể diện, đó là thể diện dương và thể diện âm. Thể diện dương là những điều

mà mỗi người muốn mình được khẳng định, được những người khác tôn trọng.
Thể diện âm là những gì thuộc về nỗi niềm riêng, là điều mà mỗi người không
muốn người khác xâm phạm. Để hội thoại thành công thì chúng ta cần tránh
những hành vi làm phương hại thể diện.

12


CHƯƠNG II. CÁC NÉT NGHĨA CỦA CÂU HỎI YES-NO
Với việc phân tích hơn 700 ví dụ, bài tiểu luận này đã tìm ra được 13 nét
nghĩa chức năng phổ biến nhất thường gặp của câu hỏi Yes-No.
2.1. Câu hỏi Y-N với chức năng để hỏi thông tin
Hỏi thông tin là chức năng cơ bản nhất của bất cứ loại câu hỏi nào và với
câu hỏi Y-N, người nói hy vọng người nghe trả lời chính xác và đầy đủ những
điều được hỏi.
(1) - Did you ever stop to think, Scarlett, that Rhett and I are
fundamentally alike?
(Mitchell, M, ch.53)
(1’) - Em có bao giờ nghĩ rằng anh và Rhett rất giống nhau không?
(Mitchell, M, 2001, t.1, tr.535)
Trong phạm vi nét nghĩa này, người dịch có thể dùng những mô hình sau:
(Mệnh đề) không /chưa/ chứ? hoặc Có (Mệnh đề) …..không?
2.2. Câu hỏi Y-N với chức năng là một lời mời
Đối với văn hóa Việt Nam, khi muốn mời ai đó làm gì chúng ta thường
dùng lối nói vòng vo, phức hợp. Việc sử dụng câu hỏi Y-N được xem như là bất
lịch sự. Tuy nhiên, đối với người Anh, sử dụng câu hỏi Y-N là điều bình thường,
(2) - Would you like something to eat, Father? (McCullough, ch.7)
(2’) - Trình cha, cha có muốn ăn qua loa chút gì không ạ?
(McCullough, 1987, t.1, tr.259)
Với ý nghĩa trên, người dịch có thể chọn 1 trong những phương án sau:

- Người được mời + động từ chỉ hành động mời + không/ không ạ?
- (Người được mời)+ động từ chỉ hành động mời + chứ? / nhé!
2.3. Câu hỏi Y-N với chức năng yêu cầu, đề nghị ai làm giúp cái gì
Trong cuộc sống, việc nhờ hay yêu cầu ai làm việc gì hộ mình là chuyện
hay xảy ra. Chúng ta có thể sử dụng câu hỏi Y-N trong trường hợp này để diễn
đạt hành động này.
(3) - Will you tell her how sorry I am? (Hemingway, 1993, tr.39)
13


(3’) - Xin cô vui lòng nói lại là tôi rất lấy làm buồn. (Hemingway, 2004, tr.66)
Một số phương án dịch trong trường hợp này
- Xin (ai đó) vui lòng làm giúp cái gì
- (ai đó) có thể giúp làm cái gì không?/ được không?
2.4. Câu hỏi Y-N với chức năng thể hiện lòng nhiệt thành muốn giúp đỡ
Ngoài yêu cầu người khác giúp đỡ chúng ta còn có thể dùng câu hỏi Y-N
để bày tỏ tấm lòng thành ý của mình muốn giúp đỡ người khác
(4) - Shall I run fetch him? (Mitchell, ch.39)
(4’) - Có cần tôi chạy kêu ảnh lại không? (Mitchell, 2001, t.2, tr.224)
Với nét nghĩa này, câu hỏi Y-N có thể được dịch như sau:
- Người nói + có thể + hành động đề nghị giúp đỡ+ không?
- Người nghe + có muốn/cần + người nói+ hành động đề nghị giúp đỡ+ không?
2.5. Câu hỏi Y-N với chức năng là một lời xin phép
Đôi khi có những tình huống chúng ta không thể quyết định được và cần
phải xin phép ý kiến của người khác. Để thể hiện sự xin phép, có thể câu hỏi YN có thể đảm nhiệm chức năng này.
(5) - Can I have wine with the meals? (Hemingway, 1993, tr.82)
(5’) - Tôi có được uống rượu trong bữa ăn không?. (Hemingway, 2004, tr.134)
Trong trường hợp này, người dịch có thể áp dụng những mô hình sau:
- (Người nói có thể) +động từ chỉ hành động xin phép + không /được
không ( ạ)?

- (Người nói có thể) + động từ chỉ hành động xin phép + chứ (ạ) /được
chứ (ạ)?
- Người nói có được + động từ chỉ hành động xin phép + không?
- Người nói + động từ chỉ hành động xin phép + được không?/ có được không?
2.6. Câu hỏi Y-N với chức năng diễn tả sự ngạc nhiên
Để diễn tả cảm xúc ngạc nhiên, về mặt phi ngôn ngữ, chúng ta có thể sử
dụng câu hỏi Y-N trong trường hợp này.
(6) - Do you really think that’s true? (Doyle, 1994, tr.26)
(6’)- Ông nghĩ vậy thực sao? (Doyle, 1994, tr. 27)
14


(7) - Don’t you know anything, Meg? (McCullough, ch.12)
(7’)- Thế là thế nào, em không biết tý gì ư, Mec? (McCullough, 1987, t.2, tr.116)
Trong tiếng Việt, với mục đích thể hiện ý nghĩa này, ta có thể sử dụng các
cấu trúc: (Mệnh đề) à/ư/sao? hoặc Vậy ư? / Vậy à? / Vậy sao?
2.7. Câu hỏi Y-N với chức năng thể hiện sự giận dữ
Khi chúng ta cảm thấy bực mình, khó chịu về một việc gì, chúng ta có thể
sử dụng câu hỏi Y-N để bày tỏ cảm xúc bực bội của mình.
(8) - Have you lost your mind, honey, waving at men out of your bedroom
window? I declare, Scarlett, I’m shocked! What would your mother say?
(Mitchell, ch.9)
(8’)- Cháu điên rồi hả? Sao lại vẫy tay với đàn ông tại cửa sổ phòng ngủ
của mình. Scarlett, cô kinh ngạc quá! Rồi mẹ cháu sẽ trách cô thế nào đây?
(Mitchell, 2001, t.1, tr.251)
Nội dung mệnh đề của câu hỏi này là điều trái với đạo lý bình thường đối
với một quả phụ như Scarlett. Do đó, nó gây nên cảm giác giận dữ ở người nói.
(9) - Do you mean to call me a coward? She was ruffling like a hen.
(Mitchell, ch.9)
(9’)- Có phải ông muốn bảo tôi hèn nhát? Scralett sừng sộ.

(Mitchell, 2001, t.1, tr.292)
Ở đây phép lịch sự đã bị phá vỡ, và thể diện âm tính của Scarlett bị đe dọa.
Trong tiếng Việt ta có thể sử dụng các cấu trúc sau kết hợp với ngữ điệu
giận dữ để dịch nét nghĩa này của câu hỏi Y-N.
- (Mệnh đề) hả / hử / sao / chăng?
- Có phải (Mệnh đề) không? hoặc (Mệnh đề) phải không?
2.8. Câu hỏi Y-N với chức năng biểu hiện sự quan tâm lo lắng
Trong cuộc sống hang ngày có rât nhiều điều để chúng ta quan tâm lo
lắng như vấn đề sức khỏe, tình hình công việc…Một trong những cách giúp
chúng ta bày tỏ cảm xúc này là sử dụng câu hỏi Y-N.
(10) - All the folks at Tara well?
(Mitchell, ch.35)
15


(10’)- Mọi người ở Tara vẫn mạnh khỏe chứ?
(Mitchell, 2001, t.2, tr.105)
Trong phạm vi sắc thái nghĩa này, cấu trúc tiếng Việt sau đây là cách dịch gợi ý:
(Mệnh đề) không, sao, à, ư, chứ, nhỉ?+ ngữ điệu
2.9. Câu hỏi Y-N với chức năng thể hiện sự băn khoăn của người nói
Chúng ta đôi khi thường gặp những tình huống khiến mình phải lưỡng lự,
băn khoăn vì không biết nó đúng hay sai.
(11) - Do you think it would be any good to try and see her tomorrow?
(Hemingway, 1993, tr.39)
(11’)- Theo cô, tôi có nên tìm gặp nàng ngày mai không? (Hemingway,
2004, tr.66)
Nội dung mệnh đề của những câu hỏi ở đây vừa có thể đúng, vừa có thể
sai. Do đó nó khiến người nói băn khoăn và nhường quyền khẳng định lại thông
tin cho người nghe.
Với ý nghĩa trên, một số cấu trúc tiếng Việt sau đây được sử dụng để dịch:

- Có (Mệnh đề) không? hoặc (Mệnh đề) chứ?
2.10. Câu hỏi Y-N với chức năng xác nhận lại thông tin
Muốn xác nhận lại một số thông tin mà chúng ta chưa biết chính xác,
chưa chắc chắn, hay còn mơ hồ, chúng ta có thể sử dụng câu hỏi Y-N.
(12) - Did you shoot it, Francis? (Hemingway, 1986, tr.34)
(12’)- Chính anh bắn nó đấy phải không Franxit? (Hemingway, 1986, tr.35)
Một số cách để dịch câu hỏi Y-N trong trường hợp này như sau:
- (Mệnh đề) đúng không? (Thường người nói mong chờ câu trả lời Yes)
- (Mệnh đề) phải không? hoặc Có phải (Mệnh đề) không?
2.11. Câu hỏi Y-N với chức năng thể hiện sự châm biếm
Khi chúng ta đặt câu hỏi về một sự việc mà chúng ta đã biết rõ, thì câu hỏi
đó thường mang sắc thái châm biếm.
(13) - Good Lord! - he cried impatiently- don’t you ever think of anything
but money? (Mitchell, M, ch.36)

16


(13’) Rhett bực dọc: - Chúa ơi! Cô không thể nghĩ gì khác ngoài chuyện
tiền hay sao?
Trong tiếng Việt với mục đích thể hiện ý nghĩa này, ta có thể sử dụng các
cấu trúc sau: - (Mệnh đề)….không…sao?hoặc (Mệnh đề) phải không?
2.12. Câu hỏi Y-N với chức năng bộc lộ sự cảm thán
Khi chúng ta có những cảm xúc, ấn tượng mạnh mẽ về sự vật, hiện tượng,
ta có thể dùng câu hỏi Y-N để bày tỏ tâm trạng của mình.
(14) - You sweet. I said. Weren’t you wonderful to come here?
(Hemingway, 1993, tr.87)
(14’)- Em yêu quý - tôi nói- Em đến đây thật tuyệt quá! (Hemingway,
2004, tr.42)
Để chuyển tải nét nghĩa này sang tiếng Việt, một số cấu trúc đề xuất sau đây

là rất khả thi: (Mệnh đề) biết mấy / biết bao/ bao nhiêu/ chừng nào/ nhường nào!
2.13. Câu hỏi Y-N với chức năng dò xét thông tin
Câu hỏi Y-N có thể được sử dụng khi chúng ta muốn điều tra một bí mật,
muốn khai thác thông tin từ ai đó.
(15) - Don’t you mean Norwood?, asked Lestrade (Doyle, 1994, tr.74)
(15’)- Ông không muốn nói sẽ đến Norwood chứ?, Lestrade hỏi (Doyle,
1994, tr.75)
Với nét nghĩa này, một số cấu trúc tiếng Việt sau đây được dùng để
chuyển tải nét nghĩa trên: - Có (Mệnh đề) không?
- (Mệnh đề)….không……chứ? (thường mang sắc thái khẳng định)

17


CHƯƠNG III. MỘT SỐ KHÓ KHĂN CỦA SINH VIÊN TRONG
QUÁ TRÌNH DỊCH NHỮNG CÂU HỎI YES-NO SANG TIẾNG
VIỆT VÀ ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
3.1. Khó khăn của sinh viên trong quá trình dịch những câu hỏi YesNo sang tiếng Việt
Các nét nghĩa của câu hỏi Yes-No trong một số tình huống đôi khi rất khó
phân biệt vì nó gần như giống nhau. Chẳng hạn như câu hỏi Yes-No với chức
năng để hỏi thông tin, câu hỏi Yes-No với chức năng diễn tả sự băn khoăn, lo
lắng, câu hỏi Yes-No với chức năng biểu đạt thái độ băn khoăn của người nói và
câu hỏi Yes-No với chức năng dò xét thông tin đều có một điểm chung: đó là
người nói đều muốn tìm hiểu, xác nhận một thông tin chưa rõ ràng, chưa chắc
chắn. Do đó để dịch chính xác từng chức năng của câu hỏi Yes-No, người dịch
cần phải căn cứ vào ngữ cảnh trong từng trường hợp cụ thể.
3.2. Đề xuất biện pháp khắc phục vấn đề
Khi dịch, cần hiểu rõ bản chất của vấn đề, vì thế người học phải xác định
các đặc điểm, cách thức vận dụng những khái niệm, quy luật, lý thuyết... trong
việc giải quyết những vấn đề cụ thể.

Căn cứ vào ngữ cảnh cụ thể để xác định loại câu hỏi cho chính xác.

18


TỔNG KẾT VÀ KIẾN NGHỊ
Bài nghiên cứu này đã cung cấp cho người học một số nét nghĩa cơ bản
của câu hỏi Y-N. Kết quả khảo sát và phân tích cho thấy câu hỏi Y-N có 13 nét
nghĩa chức năng đã trình bày ở trên. Việc thuyết giải các nét nghĩa này để có các
chuyển dịch tương thích sang tiếng Việt đòi hỏi phải xuất phát từ ngữ cảnh và
việc xác định hàm ngôn của PN.
Người thầy cần dạy học sinh phương pháp phân tích ngữ nghĩa của câu
dựa vào tình huống, các tiền giả định, hàm ngôn…để người học có thể hiểu các
nét nghĩa của câu hói Y-N một cách chính xác hơn. Đối với môn dịch, người
dịch thường có xu hướng dịch câu hỏi Y-N sang cấu trúc “Có…không” trong
tiếng Việt mà không cần quan tâm đến ngữ cảnh. Vì vậy, để có một bản dịch tốt,
người học cần dựa vào ngữ cảnh, phân tích các yếu tố khác đi kèm theo câu hỏi
Y-N như mục đích của tác giả, tiền giả định, trên cơ sở đó lựa chọn những từ
ngữ, cấu trúc câu cho phù hợp để có thể chuyển tải hết ý nghĩa của câu hỏi Y-N.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Doyle, A.C, (1994). The return of Sherlock Holmes. Translated by
Phương Anh. NXB Trẻ.
[2] Hemingway, E. (1993). A Farewell to arms. The Millennium Library.
London: David Campbell Publishers Ltd.
[3] Hemingway, E. (2004). Giã từ vũ khí. Hà Giang Vị dịch. Hà Nội:
NXB VHTT.

[4] Hurford, J.R & Heasley, B. (1995). Semantics a coursebook. NXB Trẻ.
[5] McCullough, C. (1987). Tiếng chim hót trong bụi mận gai. Tập 1, 2, 3.
Phạm Mạnh Hùng dịch. Hà Nội: NXB Phụ Nữ.
[6] McCullough, C. The Thorn Birds. Retrieved January 10, 2008 from
/>[7] Mitchell, M. (2001). Cuốn theo chiều gió. Tập 1, Kim Thư dịch. NXB
Văn học
[8] Mitchell, M. Gone with the wind. Retrieved January 10, 2008 from
/>[9] Wardhaugh, R. (1995). Understanding English Grammar – A
linguistic approach. Blackwell Publishers Ltd.

20



×