Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Áp dụng phương pháp TCM để đánh giá giá trị du lịch tại vườn quốc gia cát bà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (684.17 KB, 20 trang )

GIẢI THÍCH CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI
- BV: Bequest Value – giá trị tuỳ thuộc hay giá trị để lại
- DUV: Direct Use Value – giá trị sử dụng trực tiếp
- EXV: Existence Value – giá trị tồn tại
- ITCM: Individual Travel Cost Method – cách tiếp cận phương pháp chi phí
du lịch theo cá nhân.
- IUV: Indirect Use Value – giá trị sử dụng gián tiếp
- NUV: Non Use Value – giá trị không sử dụng
- OV: Option Value – giá trị tuỳ chọn
- TEV: Total Economic Value - tổng giá trị kinh tế.
- TCM: Travel Cost Method – phương pháp chi phí du lịch.
- UV: Use Value – giá trị sử dụng.
- WTP: Willingness to pay - mức sẵn lòng chi trả.
- ZTCM: Zonal Travel Cost Method – cách tiếp cận phương pháp chi phí du
lịch theo vùng.


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
TÊN BẢNG

TRANG

Bảng 2.1: Lượng khách du lịch đến VQG Cát Bà qua các năm

32

Bảng 3.1: Đặc điểm kinh tế - xã hội của du khách

47

Bảng 3.2: Số lượng khách theo nhóm



47

Bảng 3.3: Mục đích của du khách khi đi du lịch

49

Bảng 3.4: Các vấn đề không hài lòng

50

Bảng 3.5: WTP của khách du lịch

51

Bảng 3.6: Đặc điểm các vùng

51

Bảng 3.7: Lượng khách trung bình qua các năm

52

Bảng 3.8: Tỉ lệ tham quan của mỗi vùng qua 1 năm

53

Bảng 3.9: Chi phí giao thông

54


Bảng 3.10: Số lượt thăm quan của mỗi vùng trong 1 năm

55

Bảng 3.11: Chi phí ăn nghỉ

56

Bảng 3.12: Chi phí khác

57

Bảng 3.13: Tổng chi phí mỗi vùng

58

Bảng 3.14: Bảng giá trị VR và TC

59

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
TÊN HÌNH

TRANG


Hình 1.1: Sơ đồ TEV

14


Hình 1.2: Các phương pháp định giá môi trường

16

Hình 1.3: Đồ thị hàm cầu giá trị môi trường

17

Hình 3.1: Đồ thị hàm cầu giải trí của Vườn Quốc Gia

60

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong mọi thời kỳ, môi trường luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu, có tác
động thiết thực, nếu không muốn nói là sống còn tới đời sống con người. Môi


trường được hiểu theo nghĩa rộng là bao gồm các yếu tố như không khí, nước,
đất, ánh sáng, âm thanh, cảnh quan, tài nguyên thiên nhiên cần thiết cho cuộc
sống con người mà chính chúng ta hàng ngày, hàng giờ có những tác động cả
tích cực và tiêu cực lên sự vận động của chúng. Môi trường và tài nguyên
thiên nhiên có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống con người, tạo nên cơ
sở vật chất để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, tạo cho con người phương
tiện sinh sống và phát triển bền vững
Môi trường cũng được hiểu như toàn bộ các điều kiện tự nhiên, nhân tạo
bao quanh con người có tác động tới đời sống, sự tồn tại và phát triển của con
người và thiên nhiên. Những điều kiện đó hoặc đã có sẵn trong tự nhiên (rừng
cây, đồi, núi, sông, hồ…) hoặc do con người tạo ra (nhà máy, đường sá, công

trình thủy lợi, khói bụi, rác, chất thải…). Rừng bao gồm nhiều tài nguyên
thiên nhiên con người có thể khai thác, chế biến, sử dụng, phục vụ cuộc sống
của con người (rừng cây, động thực vật, khoáng sản, các mỏ dầu, khí, các
ngưồn nước…). Tài nguyên thiên nhiên là một bộ phận thiết yếu của môi
trường, có quan hệ chặt chẽ với môi trường. Mỗi hoạt động khai thác tài
nguyên thiên nhiên dù tốt, xấu đều có tác động đến môi trường.
Môi trường và tài nguyên thiên nhiên có tầm quan trọng đặc biệt đối với
đời sống con người, tạo nên cơ sở vật chất để phát triển kinh tế, văn hoá, xã
hội, tạo cho con người phương tiện sinh sống và phát triển bền vững.
Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên là giữ cho môi trường trong
lành, sạch đẹp, bảo đảm cân bằng sinh thái, cải thiện môi trường; ngăn chặn,
khắc phục các hậu quả xấu do con người và thiên nhiên gây ra, khai thác, sử
dụng hợp lý, tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên. Bảo vệ môi trường và tài
nguyên thiên nhiên là nhiệm vụ trọng yếu, cấp bách của Quốc gia ,là sự
nghiệp của toàn dân. Các tổ chức, cá nhân phải có trách nhiệm bảo vệ môi
trường. Bảo vệ tốt môi trường thì con người mới có thể tạo ra một cuộc sống
tốt đẹp, bền vững, lâu dài. Vì vậy, việc nâng tầm nhận thức của con người về
các vấn đề môi trường, sự tác động qua lại giữa môi trường và các vấn đề


kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội là việc làm hết sức cấp bách và cần đến sự
phối hợp đồng bộ của nhiều cá nhân, tổ chức có liên quan.
Là những cá thể trực tiếp tham gia vào các mối quan hệ và nhiều hoạt
động kinh tế hiện tại, chúng ta hiểu rõ mọi hoạt động kinh tế, xã hội gây nên
những ảnh hưởng tới môi trường theo nhiều chiều hướng khác nhau. Và
đương nhiên, hệ thống môi trường cũng “phản hồi” những tác động đó theo
chiều hướng, tính chất bị tác đông.
Môi trường có các chức năng cơ bản sau:
Môi trường là không gian sống của con người và các loài sinh vật. Môi
trường là nơi cung cấp tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt động sản

xuất của con người.
Môi trường là nơi chứa đựng các chất phế thải do con người tạo ra trong
cuộc sống và hoạt động sản xuất của mình.
Môi trường là nơi giảm nhẹ các tác động có hại của thiên nhiên tới con
người và sinh vật trên trái đất.
Môi trường là nơi lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người.
Con người luôn cần một khoảng không gian dành cho nhà ở, sản xuất lương
thực và tái tạo môi trường. Con người có thể gia tăng không gian sống cần
thiết cho mình bằng việc khai thác và chuyển đổi chức năng sử dụng của các
loại không gian khác như khai hoang, phá rừng, cải tạo các vùng đất và nước
mới. Việc khai thác quá mức không gian và các dạng tài nguyên thiên nhiên
có thể làm cho chất lượng không gian sống mất đi khả năng tự phục hồi.
Từ các chức năng trên, có thể nhận thấy rằng, môi trường tự nhiên là yếu
tố quan trọng tới các hoạt động kinh tế của con người, môi trường tự nhiên là
tài sản quốc gia quý giá
Rõ ràng, môi trường tự nhiên là một thành tố quan trọng của hệ thống
kinh tế và nếu không có môi trường tự nhiên thì hệ thống kinh tế sẽ không thể


hoạt động và thực hiện được các chức năng của nó. Do vậy, ta cần quan tâm
đến môi trường tự nhiên như là một tài sản, một tài nguyên không thể thiếu.
Từ trước đến nay, con người vẫn luôn coi môi trường là dạng “trời cho”
hay “thiên nhiên ban tặng” nên người ta khai thác và sử dụng không tính toán
đến những thiệt hại mà hoạt động khai thác gây ra cho môi trường. Một trong
những nguyên nhân của điều này là do hàng hoá môi trường không được định
giá trên thị trường.
Đó chính là lý do tôi lựa chọn đề tài:
“Áp dụng phương pháp TCM để đánh giá giá trị du lịch tại Vườn Quốc
Gia Cát Bà tp. Hải Phòng”.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài

2.1. Mục tiêu
Qua phương pháp chi phí du lịch, nhằm xác định lợi ích từ hoạt động du
lịch Vườn Quốc Gia Cát Bà đem lại cho cộng đồng, đồng thời xác định giá
trị môi trường của nó để làm căn cứ cho trong việc quy hoạch phát triển,
hướng tới phát triển bền vững.
2.2. Nhiệm vụ
 Khái quát thực trạng môi trường hiện tại và hoạt động du lịch của
Vườn Quốc Gia Cát Bà.
 Ứng dụng phương pháp chi phí du lịch nhằm tính toán ra giá trị cảnh
quan cho Vườn Quốc Gia Cát Bà.
3. Các phương pháp nghiên cứu
 Phương pháp thu thập thông tin: tổng hợp tài liệu thứ cấp cùng với
phỏng vấn trực tiếp.
 Phương pháp điều tra xã hội học
 Phương pháp chuyên gia


 Phương pháp thực địa
 Phương pháp xử lí số liệu bằng các phần mềm Excel,
 Phương pháp lượng giá giá trị cảnh quan: sử dụng phương pháp chi
phí du lịch theo vùng (Zonal travel cost method – ZTCM).

4. Cấu trúc của chuyên đề
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, chuyên đề
được trình bày trong ba chương:
Chương I: Sử dụng phương pháp chi phí du lịch cho đánh giá chất
lượng môi trường.
Chương II: Tổng quan về Vườn Quốc Gia Cát Bà.
Chương III: Ứng dụng phương pháp chi phí du lịch để xác định giá trị
cảnh quan tại Vườn Quốc Gia Cát Bà.



LỜI CẢM ƠN

Tôi xin được gửi lời cám ơn của mình tới TS. Lê Hà Thanh, khoa Kinh
Tế - Quản lý Tài nguyên, Môi trường và Đô thị, trường Đại học Kinh tế Quốc
dân Hà Nội, người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn, gợi ý đề tài cho tôi trong
suốt quá trình thực hiện.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo trong Khoa Kinh tế Quản lý Tài nguyên, Môi trường và Đô thị, trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Hà Nội đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Bên cạnh đó, trong quá trình, thời gian nghiên cứu lý luận và tìm hiểu
thực tiễn để hoàn thành đề tài này, tôi nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của
Tổng cục Thống kê, Phòng môi trường, Trung tâm du lịch sinh thái và giáo
dục môi trường Vườn Quốc Gia Cát Bà, thành phố Hải Phòng.


Tôi xin trân trọng cảm ơn.
Tôi cũng xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các kết quả,
số liệu đã có không sao chép từ báo cáo hoặc luận văn của người khác. Nếu
sai tôi xin chịu kỷ luật với nhà trường.

Sinh viên KTMT - K47

Hồng Quang Minh

Phần 1. Tổng quan về phương pháp chi phí du lịch
1.1. Chất lượng môi trường
1.1.1. Khái niệm chất lượng môi trường
Có thể hiểu chất lượng môi trường là sự kết hợp của các yếu tố hữu hình,
được tạo ra dưới tác động của tất cả những thành phần môi trường tự nhiên và

những hoạt động của con người, đem lại những hiệu quả nhất định về mặt
thẩm mỹ. Giá trị thẩm mỹ của cảnh quan là đối tượng để thưởng thức, thư
giãn và để khám phá - một nội dung rất quan trọng của hoạt động du lịch, vốn
được hiểu là hoạt động có mục đích cơ bản là "đáp ứng nhu cầu tham quan,
giải trí, nghỉ dưỡng” của con người.
Trong mối quan hệ với các thành phần môi trường khác, chất lượng môi
trường mang tính chất phái sinh bởi nó được tạo thành từ các thành phần môi
trường liên quan. Tuy nhiên, chất lượng môi trường có tính độc lập tương đối.
Sự độc lập tương đối này thể hiện ở chỗ chất lượng của cảnh quan môi trường
không được đánh giá theo chất lượng của các thành phần môi trường cơ bản
mà được đánh giá trên cơ sở cảm quan và chỉ căn cứ vào những yếu tố hữu


hình tác động lên giác quan của con người, được đánh giá ở sự hài hòa khả
năng tạo ấn tượng và tạo cảm xúc. Tác động từ những biến đổi của chất lượng
môi trường lên hoạt động du lịch thường mang tính trực tiếp, mạnh mẽ và
nhanh chóng. Do vậy, việc bảo vệ chất lượng môi trường cần được coi là một
trong những nội dung quan trọng của công tác bảo vệ môi trường du lịch.
Để bảo vệ hiệu quả chất lượng môi trường, cần nhận thức được đầy đủ
các yếu tố hình thành và tác động lên chất lượng môi trường. Chất lượng môi
trường trước hết được tạo thành bởi các yếu tố tự nhiên không cần có sự xếp
đặt của bàn tay con người như: các dạng địa hình, đất nước, cây cỏ, chim
muông, các hiện tượng thời tiết. Những yếu tố tác động luôn bao gồm yếu tố
thiên nhiên và yếu tố con người..
Với tư cách là sự kết hợp của toàn bộ những yếu tố hữu hình, bất kỳ một
hoạt động nào tại khu, tuyến điểm du lịch cũng có thể làm ảnh hưởng đến chất
lượng môi trường, bao gồm cả hoạt động du lịch và các hoạt động kinh tế, dân
sinh khác, đặc biệt là hoạt động xây dựng. Thậm chí trong một số trường hợp,
chính những hoạt động nhằm tạo cảnh quan nhân tạo lại làm mất đi vẻ đẹp
của cảnh quan tự nhiên và làm suy giảm tính hấp dẫn của khu, tuyến hoặc

điểm du lich.
1.1.2. Giá trị kinh tế của chất lượng môi trường: Tổng giá trị kinh tế
Khái niệm tổng giá trị kinh tế (Total Economic Value – TEV) xuất hiện
vào những năm 1980, được xây dựng trên cơ sở nhìn nhận một cách toàn diện
và hiệu quả về giá trị hàng hoá môi trường mà quá trình nhìn nhận đó không
chỉ bao gồm những giá trị trực tiếp lượng hoá được mà còn bao gồm những
giá trị gián tiếp - những giá trị ẩn khó nhìn thấy nhưng mặt khác lại rất có ý
nghĩa về mặt kinh tế - xã hội.
Một khu rừng có thể cung cấp gỗ cho người tiều phu và các dịch vụ sinh
thái cho cộng đồng địa phương, rồi lọc nước cho các nhà máy thuỷ điện, các
nguồn gen cho các công ty dược phẩm đa quốc gia đồng thời là nơi hấp thụ


carbon cho phát thải CO2 toàn cầu. Như vậy, tổng của tất cả các loại giá trị
liên quan đến một tài nguyên thì được gọi là tổng giá trị kinh tế (TEV).
Giá trị, xét về góc độ kinh tế, là một khái niệm nhân tâm, nghĩa là giá trị
được xác định bởi con người trong xã hội chứ không phải do chính quyền hay
quy luật của tự nhiên quy định. Các nhà kinh tế đã phát triển một nguyên tắc
phân loại các giá trị kinh tế khi liên hệ với môi trường tự nhiên. Có 3 phương
pháp khác nhau để đánh giá giá trị: giá trị sử dụng, giá trị lựa chọn và giá trị
tồn tại.
Giá trị sử dụng: Các nhà kinh tế phải tính giá trị sử dụng, là loại giá trị
được rút ra từ hiệu quả sử dụng thực của môi trường. Người câu cá, thợ săn,
người đi dạo… tất cả đều sử dụng môi trường và thu được lợi ích mà không
phải trả tiền thực tiếp.
- Giá trị sử dụng trực tiếp: là giá trị trực tiếp mà người ta thu được khi sử
dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên nào đó. Lấy ví dụ khi chúng ta trực tiếp
khi thác và sử dụng nguồn tài nguyên như gỗ hay săn bắn chim thú, đó chính
là giá trị sử dụng trực tiếp mà con người thu được.
- Giá trị sử dụng gián tiếp : xét trên khía cạnh nào đó thì đây chính là giá

trị mà chức năng của các hệ sinh thái tạo ra. Những chức năng đó để phục vụ
cho con người, vì thế nó cần phải được lượng giá. Ví dụ: một khu rừng, ngoài
chức năng cung cấp gỗ, thì còn có chức năng bảo vệ chống sói mòn, giữ
nước, hút CO2 …Tất cả những chức năng này nó trực tiếp hoặc gián tiếp phục
vụ cho lợi ích kinh tế và lợi ích của con người.
Giá trị lựa chọn: Mỗi cá nhân có thể tự đánh giá cách lựa chọn để sử
dụng môi trường hay tài nguyên môi trường trong tương lai. Giá trị lựa chọn
là giá trị của môi trường như là lợi ích tiềm tàng trong tương lai khi nó trở
thành giá trị thực sử dụng trong hiện tại. Mỗi cá nhân có thể biểu lộ sự sẵn
sàng chi trả cho việc bảo vệ môi trường để chống lại những khả năng sử dụng
của một người nào đó trong tương lai.


Giá trị lựa chọn còn có thể bao gồm cả giá trị sử dụng của những người
khác (nghĩa là lợi ích gián tiếp mà bạn thu được từ giá trị sử dụng của những
người khác. Bạn cảm thấy hài lòng khi thấy những người khác cũng thu được
những lợi ích nên bạn sẵn sàng chi trả cho việc bảo vệ môi trường để đem lại
lợi ích cho người khác) và giá trị sử dụng bởi các thế hệ tương lai (giá trị
truyền lại là sự sẵn lòng chi trả để bảo vệ môi trường để đem lại lợi ích cho
con cháu của chúng ta).
Giá trị lựa chọn = giá trị sử dụng cá nhân + giá trị sử dụng bởi những
người khác + giá trị sử dụng bởi các thế hệ tương lai
Tổng giá trị người sử dụng thu được = giá trị thực sử dụng + giá trị lựa
chọn
Giá trị tồn tại: Các tài nguyên môi trường đều có giá trị thực nội tại của
chính bản thân chúng. Giá trị này không liên quan đến việc sử dụng nên được
gọi là giá trị phi sử dụng. Giá trị sử dụng là những vấn đề đạo đức như sự
xuống cấp của môi trường, sự cảm thông đối với các loài sinh vật. Ví dụ như
mỗi cá nhân đều cảm thấy hài lòng với việc bảo vệ các cá thể còn lại của một
số loài như loài cú đốm hay loài cá voi xanh lưng gù. Hầu như tất cả mọi

người đều coi trọng sự tồn tại của các loài này hơn là chỉ đơn giản thích thú
ngắm nhìn chúng. Họ đánh giá cao sự tồn tại của chính các loài vật này.
Tổng giá trị của các tài nguyên môi trường được tính bằng tổng của cả 3
thành phần nói trên:
Tổng giá trị kinh tế = giá trị thực sử dụng + giá trị lựa chọn + giá trị tồn
tại
= giá trị sử dụng + giá trị không sử dụng
Như vậy, các nhà kinh tế học môi trường đã thực hiện được rất nhiều khi
phân loại các giá trị kinh tế trong mối quan hệ của chúng với môi trường tự
nhiên. Tuy vấn đề thuật ngữ vẫn chưa được thống nhất hoàn toàn, nhưng nhìn
trên cơ sở chung họ đều dựa trên sự tương tác giữa con người (người định ra


giá trị) với môi trường (vật được đánh giá). Theo nguyên tắc, để đo lường
TEV các nhà kinh tế học tiến hành bằng việc phân biệt giữa giá trị sử dụng và
giá trị không sử dụng, và TEV đã được khái quát hoá bằng công thức sau:
TEV = UV + NUV = (DUV + IUV + OV) + (BV + EXV)
TEV

UV

DUV

IUV

OV

BV

NUV

NUV
UV
UV

EXV

Hình 1.1: Sơ đồ TEV
Trong đó: - TEV (Total economic values) là tổng giá trị kinh tế.
- UV (Use values) là giá trị sử dụng.
- DUV (Direct use values) là giá trị sử dụng trực tiếp.
- IUV (Indirect use values) là giá trị sử dụng gián tiếp.
- OV (Option values) là giá trị tuỳ chọn.
- NUV (Nonuse values) là giá trị không sử dụng.
- BV (Bequest values) là giá trị tuỳ thuộc hay giá trị để lại.
- EXV (Existence values) là giá trị tồn tại.
Sự phân biệt đầu tiên và quan trọng nhất đó là giữa giá trị sử dụng và giá
trị không sử dụng.

1.2. Vấn đề định giá môi trường
1.2.1. Sự cần thiết phải định giá môi trường
Định giá môi trường là sử dụng các loại công cụ kỹ thuật nhằm lượng
hoá giá trị bằng tiền của hàng hoá chất lượng môi trường làm cơ sở cho việc


hoạch định các chính sách về khai thác, sử dụng và quản lý các hàng hoá môi
trường.
Chúng ta nên định giá môi trường vì:
Thứ nhất, chất lượng môi trường cung cấp điều kiện và không gian sống
cho con người, đồng thời cũng cung cấp tài nguyên cho quá trình sản xuất vật
chất và hấp thụ chất thải trong quá trình sản xuất và tiêu dùng của con người.

Quá trình lao động sản xuất của con người cũng phục hồi môi trường, vì thế
có thể khẳng định chất lượng môi trường thỏa mãn 2 thuộc tính là giá trị và
giá trị sử dụng. Chất lượng môi trường cũng là loại hàng hóa cần phải định
giá để tránh những thất bại thị trường xảy ra.
Thứ hai, con người có xu hướng khai thác môi trường một cách tràn lan
mà không để ý đến những tác động tiêu cực tới môi trường. Thực hiện định
giá môi trường là cách nhắc nhở con người quan tâm và bảo vệ môi trường.
Đồng thời, cảnh báo con người về mức độ khai thác tài nguyên đang ngày
càng tăng cao tỉ lệ thuận với độ cạn kệt về môi trường.
Thứ ba, định giá môi trường góp phần đưa đến sự công bằng trong quá
trình ra quyết định. Định giá góp phần thực hiện nguyên tắc “người gây ô
nhiễm trả tiền” tức là qua định giá môi trường chúng ta sẽ xác định được đối
tượng gây ô nhiễm và họ sẽ “phải trả bao nhiêu”.
Thứ tư, khi cả giá trị sử dụng và giá trị không sử dụng được lượng hoá,
thì sẽ có tính thuyết phục cao trong việc giáo dục nâng cao nhận thức của
người dân nói chung cũng như có thể chỉ dẫn quá trình thực hiện về mặt kinh
tế đúng đắn hơn.
Thứ năm, nếu tiến hành lượng hoá một cách cẩn thận thì sẽ tạo ra được
một nền tảng cơ sở chính sách an toàn và hợp lý, qua đó có phương cách sử
dụng môi trường cẩn thận hơn.


Như vậy, có thể kết luận việc định giá môi trường là hoàn toàn cần thiết
và đúng đắn. Vậy người ta sẽ định giá môi trường như thế nào? Sau đây là
một số phương pháp được áp dụng khá phổ biến.
1.2.2. Phương pháp định giá môi trường

Phương pháp

Dùng đường cầu


Phát biểu sự ưa thích
(Stated Preference)
Đánh giá ngẫu nhiên
(Contingent Valuation)

Không dùng đường cầu

Bộc lộ sự ưa thích
(Revealed Preference)
Chi phí
du lịch
(Travel
Cost
Method)

Đánh giá
Hưởng thụ
(Hedonic
Price
Method)

 Chi phí thay thế
 Chi tiêu bảo vệ
 Chi phí cơ hội
 Liều lượng
đáp ứng

Hình 1.2. Các phương pháp định giá môi trường
Để đánh giá hàng hoá môi trường (hay là TEV) thì cách tiếp cận chung

của thế giới cơ bản có hai nhóm phương pháp đánh giá. Đó là: các phương
pháp sử dụng đường cầu và các phương pháp không sử dụng đường cầu.
1.2.2.1. Các phương pháp không sử dụng đường cầu
Là các phương pháp trực tiếp hay gián tiếp mà mỗi khi đánh giá chất
lượng môi trường người ta sẽ xác định giá trị trên cơ sở các kỹ thuật đánh giá
mà không lập hàm cầu (hàm lợi ích). Đây là nhóm phương pháp không thể lập
được hàm cầu, do đó không thể đo lường được phúc lợi thực tế nhưng mặt
khác thông tin lại rất hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách.
Các phương pháp không sử dụng đường cầu bao gồm:
Phương pháp đáp ứng liều lượng
Phương pháp chi phí thay thế


Phương pháp chi phí cơ hội.
Phương pháp chi tiêu bảo vệ
1.2.2.2. Các phương pháp sử dụng đường cầu
Là các phương pháp được sử dụng dựa trên cơ sở xây dựng đường cầu để
đánh giá giá trị hàng hoá môi trường. Mỗi khi đánh giá chất lượng hàng hoá
môi trường tại khu vực nào đó, người ta xác lập cho được hàm cầu, dựa trên
nguyên lý kinh tế về mối quan hệ giữa chất lượng môi trường và giá cả. Đây
là những phương pháp dùng để đo lường phúc lợi.
P

MB = WTP

P

: giá cả

q


: chất lượng môi trường

WTP : sẵn lòng chi trả
TEV

q

Hình 1.3: Đồ thị hàm cầu giá trị môi trường
Các phương pháp sử dụng đường cầu bao gồm:
Phương pháp chi phí du lịch (TCM: travel cost method)
Phương pháp đánh giá theo hưởng thụ (HPM: Hedomic pricing method)
Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (CVM: Contigent valuation method).
1.2.3. Các cách tiếp cận của phương pháp chi phí du lịch
Trong số các mô hình chi phí du lịch thì chi phí du lịch theo vùng
(ZTCM) và chi phí du lịch theo cá nhân (ITCM) là 2 cách tiếp cận phổ biến
và đơn giản nhất của phương pháp chi phí du lịch.


1.2.3.1. Cách tiếp cận phương pháp chi phí du lịch theo cá nhân
(Individual Travel Cost Method – ITCM)
Cách tiếp cận này xác định mối quan hệ giữa số lần đến điểm du lịch
hàng năm của một cá nhân với chi phí du lịch mà cá nhân đó phải bỏ ra.
Vi = f(TCi, Si)
Trong đó : Vi là số lần cá nhân đến điểm du lịch trong 1 năm
TCi là chi phí du lịch của cá nhân i
Si là các nhân tố có ảnh hưởng đến cầu du lịch của cá nhân đó, ví dụ như:
chi phí thay thế, thu nhập, tuổi, giới tính, trình độ học vấn.
Trong trường hợp này, giá trị giải trí của cá nhân là phần diện tích phía
dưới đường cầu của họ. Vì vậy, tổng giá trị giải trí của cả khu du lịch sẽ tính

bằng cách tổng hợp các đường cầu cá nhân lại. Cách tiếp cận ITCM sẽ gặp
phải hạn chế khi sự dao động là quá nhỏ hoặc trường hợp khi các cá nhân
không đến điểm du lịch một vài lần trong năm. Do đó, trong trường hợp mọi
khách du lịch chỉ đến điểm du lịch 1 lần trong năm thì khó có thể chạy hàm
hồi quy.
Rút ra rằng, phương pháp chi phí du lịch theo cá nhân chỉ phù hợp với
các khu du lịch mà du khách đến nhiều lần trong năm như công viên hay
vườn bách thảo.
1.2.3.2. Cách tiếp cận phương pháp chi phí du lịch theo vùng (Zonal
Travel Cost Method – ITCM)
Cách tiếp cận này xác định mối quan hệ giữa tỉ lệ tham quan của vùng
xuất phát tới vị trí nghiên cứu với tổng chi phí du lịch của vùng xuất phát.
Vi = V(TCi, POPi, Si)
Trong đó : Vi là số lần từ vùng i tới điểm du lịch
POPi là số dân của vùng i
Si là các biến kinh tế xã hội


Thông thường biến phụ thuộc được biểu hiện dưới dạng (V i/POPi) hay tỉ
lệ số lần tham quan trên 1000 dân – VR.
Đơn vị quan sát của ZTCM là các vùng vì khi áp dụng ZTCM thì diện
tích xung quanh điểm du lịch được chia thành các vùng với khoảng cách khác
nhau tới điểm du lịch. Những hạn chế của ITCM đã được khắc phục khi sử
dụng ZTCM. ZTCM sử dụng tỷ lệ số lần viếng thăm của mỗi vùng tới điểm
du lịch (VR) là hàm của chi phí du lịch, bởi vậy số lần một cá nhân tới điểm
du lịch hoàn toàn không ảnh hưởng đến hàm.
ZTCM không phải không có những hạn chế riêng của nó vì mô hình chi
phí du lịch theo vùng cũng thống kê không hiệu quả vì nó tổng hợp dữ liệu từ
số lượng lớn các cá nhân thành 1 vài vùng quan sát. Mặt khác, mô hình chi
phí du lịch theo vùng xem tất cả các cá nhân đến từ một vùng có các chi phí

du lịch như nhau trong khi điều này không phải lúc nào cũng đúng.
1.2.4. Các bước thực hiện phương pháp chi phí du lịch
Trong phần này sẽ nêu các bước thực hiện phương pháp chi phí du lịch
theo vùng.
Bước 1:
Cần xác định vị trí mà chúng ta muốn đánh giá, sau đó chọn một số
lượng người thường xuyên lui tới đó.
Bước 2:
Sau khi giới thiệu mục đích khảo sát, bảng câu hỏi nên phân tích cẩn
thận những đặc điểm chính của chuyến đi cùng với các đặc điểm kinh tế xã
hội của du khách. Một số biến số sẽ phụ thuộc vào loại mô hình chi phí du
lịch nào được sử dụng ( ZTCM, hay ITCM). Hạn chế thiết kế bảng câu hỏi
quá dài dòng, vì khả năng gây phiền cho người bị phỏng vấn. Cuối cùng, soạn
các câu hỏi chính xác đủ ý mà thôi. Chúng ta sẽ hỏi khách du lịch về:
Họ từ đâu tới (thành phố nào, nước nào)
Số khách trên một phương tiện chuyên chở tới


Phương tiện đểchuyên chở (ô tô, máy bay, xe máy…)
Thời gian đi đến và ở lại tại địa điểm
Tần suất du lịch, thời gian của chuyến đi
Thu nhập của khách
Chi phí du lịch trực tiếp (chi phí di chuyển, thức ăn, chỗ ở…)
Mục đích đi du lịch, sở thích du lịch.
Trong đó có hai nội dung cơ bản mà ta không thể bỏ, đó là quãng đường
mà họ lui tới địa điểm nghiên cứu khoảng cách bao xa và số lần lui tới trong 1
năm.
Bước 3:
Tiến hành phân nhóm đối với các đối tượng được phỏng vấn dựa trên cơ
sở khoảng cách quãng đường mà họ đi tới địa điểm du lịch. Điều này có

nghĩa, những người nào đến từ các vùng có khoảng cách tương tự nhau thì
chúng ta gộp chung vào một nhóm, mỗi nhóm này sẽ cách điểm nghiên cứu
một khoảng nhất định.
Bước 4:
Ước tính chi phí và số lần đi tới vị trí đánh giá của từng nhóm. Đây là
bước quan trọng nhất, là cơ sở để xây dựng hàm cầu cho các cảnh quan môi
trường.
Thứ nhất là về chi phí của chuyến đi:
P = e + f + ac + OC + ct
Trong đó: e (entrance fee) là vé để vào cổng
f (food and drink) là chi phí cho ăn uống
ac (accomodation) là chi phí cho nghỉ ngơi
OC là chi phí thời gian
ct (cost of transport) là chi phí vào phương tiện giao thông


Như vậy, chi phí của toàn bộ chuyến đi sẽ bao gồm: vé vào cổng, chi phí
nghỉ ngơi, chi phí ăn uống, chi phí cơ hội trên đường đi và trong thời gian lưu
lại khu giải trí, chi phí phương tiện giao thông.
Thứ hai là tính tỷ lệ thăm trên 1000 dân ở mỗi vùng. Nó đơn giản chỉ là
tổng lượt thăm mỗi năm từ mỗi vùng rồi chia cho dân số của vùng với đơn vị
nghìn.
Bước 5:
Xem xét mối quan hệ giữa chi phí của chuyến đi với số lần đi tới vị trí
đánh giá của các nhóm thông qua những số liệu điều tra, tính toán ở trên.
Vi = V(TCi, POPi, Si)
Hay: VRi = V(TCi, Si)
Toàn bộ vùng có nhu cầu là:
niVRi = niV(TCi, Si)
Trong đó: ni là số người ở vùng i tới thăm quan.

Mối quan hệ giữa chi phí đi lại và số lần đi lại được coi là thể hiện nhu
cầu giải trí. Điều đó có nghĩa là chúng ta giả định rằng chi phí đi lại thể hiện
giá trị giải trí, số lần đi lại thể hiện lượng giải trí.
Tuy nhiên, để phương pháp chi phí du lịch có thể áp dụng được, một số
giả thiết sau phải được thoả mãn:
Chi phí đi lại cùng với giá vé vào cổng có cùng ảnh hưởng như nhau tới
hành vi, nghĩa là mỗi cá nhân nhận thức và phản ứng về sự thay đổi đối với
chi phí đi lại theo cùng một kiểu đối với những thay đổi trong giá vé vào
cổng. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để xác định tổng chi phí một
cách chính xác.
Toàn bộ các lần viếng thăm đều có thời gian lưu lại như nhau, có như
vậy thì ta mới có thể đánh giá được lợi ích của điểm giải trí thông qua số lần
viếng thăm.



×