Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Giáo trình lý thuyết kế toán phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (641.83 KB, 98 trang )

Li núi u
Hạch toán kế toán là khoa học thu nhận, xử lý, cung cấp toàn bộ thông tin
về quá trình hình thành, tình hình biến động của tài sản và các hoạt động kinh tế
tài chính của đơn vị. Hạch toán kế toán ra đời và phát triển gắn với sự phát sinh,
phát triển của nền sản xuất xã hội. Khi nền sản xuất xã hội phát triển, hạch toán
kế toán càng trở nên cần thiết và trở thành công cụ quản lý - một bộ phận quan
trọng trong hệ thống công cụ quản lý kinh tế tài chính. Lý thuyết hạch toán kế
toán là môn học cơ sở lý luận và phương pháp luận của khoa học kế toán. Trong
những năm qua cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, yêu cầu của công
tác quản lý kinh tế, hạch toán kế toán đã không ngừng được phát triển với xu
hướng được hoà nhập mang tính toàn cầu, nhiều vấn đề mới về kế toán cần
được nhận thức đúng đắn. Từ lý do trên, Tổ môn Kế toán tổ chức biên soạn và
xuất bản giáo trình Lý thuyết kế toán.
Giáo trình do Cử nhân Kinh tế Nguyễn Sơn Ngọc Minh làm chủ biên, bao
gồm 7 chương:
Chương I: Vai trò, chức năng, đối tượng và phương pháp hạch toán
kế toán
Chương II: Phương pháp chứng từ kế toán
Chương III: Phương pháp tài khoản kế toán
Chương IV: Phương pháp tính giá và kế toán các quá trình kinh tế
chủ yếu
Chương V: Phương pháp tổng hợp- cân đối kế toán
Chương VI: Sổ kế toán và hình thức kế toán
Chương VII: Tổ chức công tác hạch toán kế toán
Giáo trình được sử dụng làm tài liệu phục vụ giảng dạy, học tập và nghiên
cứu của sinh viên hệ Cao đẳng Nghề Kế toán Doanh nghiệp, đồng thời đây cũng
là tài liệu tham khảo cho cán bộ quản lý kinh tế tài chính và cán bộ kế toán ở các
doanh nghiệp.
Giáo trình được biên soạn chủ yếu dựa trên Giáo trình lý thuyết hạch toán
kế toán-NXB Tài chính 2006 và một số tài liệu khác. Tuy nhiên, với sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học kế toán cũng như kinh nghiệm còn hạn chế, giáo trình


không thể tránh khỏi những khiếm khuyết mong nhận được những đóng góp của
độc giả.
Soạn giả

1


Chng 1
Vai trũ, chc nng, i tng v phng phỏp
ca hch toỏn k toỏn
I/ Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của hạch toán kế toán

1. Hạch toán kế toán và tính tất yếu khách quan của hạch toán kế
toán
1.1. Định nghĩa về hạch toán kế toán
Trong các tài liệu, sách kinh tế có nhiều các định nghĩa, nhận thức về kế
toán sau đây:
- Giáo sư, tiến sỹ RobetAnthony của trường đại học Harward của Mỹ cho
rằng: Kế toán là ngôn ngữ kinh doanh
- Theo Ronald.j. Thacker thì: kế toán là một phương pháp cung cấp thông
tin cần thiết cho quản lý có hiệu quả và để đánh giá mọi hoạt động của mọi tổ
chức .
- Theo ủy ban thực hành kiểm toán quốc tế thì một hệ thống kế toán là
hàng loạt các loại, các nhiệm vụ ở một doanh nghiệp mà nhờ hệ thống này các
nghiêp vụ được xử lý như một phương tiện duy trì các ghi chép tài chính.
- Theo liên đoàn Kế toán quốc tế (IFAC) kế toán là một nghệ thuật ghi
chép, phân loại, tổ hợp theo một cách riêng có bằng những khoản tiền, các
nghiệp vụ và các sự kiện mà chúng có ít nhất một phần tính chất tài chính và
trình bày kết quả của nó.
- Trong Điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước ban hành theo QĐ số 25

HĐBT (nay là Chính phủ ) cũng có khẳng định: Kế toán là công cụ quan trọng
để tính toán, xây dựng và kiểm tra việc bảo vệ, sử dụng tài sản, vật tư tiền vốn
nhằm đảm bảo việc chủ động trong sản xuất, kinh doanh và chủ động tài chính
cho tổ chức xí nghiệp.
- Trong luật kế toán có nêu: Kế toán là việc thu nhập xử lý, kiểm tra, phân
tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính dưới hình thức giá trị, hiện vật và
thời gian đảm bảo.
Tóm lại, dù định nghĩa, nhận thức về kế toán như thế nào thì kế toán vẫn
là công cụ không thể thiếu được trong hệ công cụ quản lý kinh tế, kế toán là
khoa học thu nhận, xử lý thông tin về tài sản và sự vận động của tài sản, các

2


hoạt động kinh tế tài chính trong các đơn vị, nhằm kiểm tra, giám sát toàn bộ
hoạt động kinh tế, tài chính của đơn vị.
Hạch toán kế toán được xác định là công việc tính toán và ghi chép bằng
con số mọi hoạt động kinh tế tài chính phát sinh tại một tổ chức nhất định để
cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, trung thực và hợp lý về tài sản trong mối
quan hệ với nguồn hình thành và quá trình vận động của tài sản, tình hình và kết
quả hoạt động kinh tế của một đơn vị cho người ra quyết định.
1.2. Tính tất yếu khách quan của hạch toán kế toán.
Sản xuất ra của cải vật chất là cơ sở để tồn tại và phát triển của xã hội loài
người; bởi vì trong mọi hình thái kinh tế xã hội, con người muốn tồn tại con
người phải có cơm ăn, áo mặc, nhà ở .. muốn vậy họ đều phải tiến hành hoạt
động sản xuất. Khi tiến hành hoạt động sản xuất, con người luôn có ý thức quan
tâm đến những hao phí cần thiết cho sản xuất, kết quả sản xuất và cách thức tổ
chức quản lý nhằm thực hiện hoạt động sản xuất ngày càng đem lại hiệu quả cao
hơn, sự quan tâm của con người đến sản xuất được biểu hiện thông qua việc thực
hiện các hoạt động quan sát, đo lường, tính toán, ghi chép các hoạt động kinh tế

xảy ra trong quá trình tái sản xuất.
Hoạt động quan sát, đo lường, tính toán, ghi chép các hoạt động kinh tế
xảy ra trong quá trình tái sản xuất của con người nhằm cung cấp các thông tin
cần thiết cho việc kiểm tra, chỉ đạo, các hoạt động kinh tế nhằm không ngừng
nâng cao hiệu quả của quá trình tái sản xuất được gọi là hạch toán.
Hạch toán ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của nền sản
xuất xã hội. Khi nền sản xuất xã hội ngày càng phát triển thì sự phân công
chuyên môn hoá càng cao, trình độ khoa học kỹ thuật càng tiến bộ, yêu cầu tổ
chức và quản lý hoạt động kinh tế đòi hỏi phải cao hơn và không ngừng hoàn
thiện, do vậy hạch toán càng ngày không ngừng hoàn thiện và phát triển cả về
nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức để đáp ứng yêu cầu quản lý đặt ra
của nền sản xuất xã hội. Sự phát triển đó đã dẫn đến sự hình thành 3 loại hạch
toán là: hạch toán nghiệp vụ, hạch toán thống kê, hạch toán kế toán.
Khi nền sản xuất xã hội mới hình thành, trình độ sản xuất còn lạc hậu,
khối lượng của cải vật chất tạo ra không nhiều, nghiệp vụ trao đổi đơn giản,
người sản xuất có thể dùng trí nhớ hoặc dùng những phương pháp ghi nhận giản
đơn để thu nhận thông tin và điều chỉnh hoạt động kinh tế của mình.
Khi nền sản xuất xã hội phát triển ở trình độ cao hơn, của cải vật chất tạo
ra ngày càng nhiều, nảy sinh ra các hoạt động trao đổi của cải vật chất giữa con
3


người với nhau, tiền tệ ra đời và nền sản xuất hàng hoá được hình thành. Các tài
liệu lịch sử cho thấy hạch toán kế toán được hình thành và ra đời trong giai đoạn
lịch sử này, khi mới ra đời việc ghi chép phản ánh của kế toán đơn giản, thường
thực hiện ghi đơn trên 1 ít sổ sách và thường do chính người tổ chức hoạt động
sản xuất, trao đổi hàng hoá ghi chép.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền sản xuất hàng hoá, hạch toán kế
toán đã có sự phát triển mới, những nguyên lý kế toán kép ra đời văn minh nhân
loại đã có những tiến bộ vượt bậc, các hoạt động kinh tế, tài chính, ngân hàng,

ngoại thương ngày càng phát triển đa dạng, với quy mô ngày càng lớn và tất
nhiên hạch toán kế toán phải luôn được hoàn thiện và phát triển, hạch toán kế
toán trở nên 1 môn khoa học với hệ thống các phương pháp khoa học của nó để
ghi chép, thu nhận, kiểm tra, xử lý và cung cấp những thông tin cần thiết cho
việc đưa ra các quyết định trong quản lý kinh doanh.
Một nền sản xuất với quy mô ngày càng lớn với trình độ xã hội hoá ngày
càng cao với yêu cầu quy luật kinh tế mới phát sinh
không thể không tăng
cường hạch toán về mọi mặt. Đồng thời phải biết ứng dụng những tiến bộ của
khoa học kỹ thuật làm cho công tác hạch toán ngày càng khoa học, hiện đại và
kịp thời hơn và Hạch toán sẽ trở thành một công cụ để lãnh đạo nền kinh tế phục
vụ cho mọi nhu cầu của các thành viên trong xã hội. Trong các loại hạch toán
(hạch toán nghiệp vụ; hạch toán thống kê; hạch toán kế toán) thì hạch toán kế
toán là một loại hạch toán quan trọng nhất; do đó, hạch toán kế toán cũng trở
thành nhu cầu khách quan của xã hội và là công cụ quan trọng phục vụ cho quản
lý kinh tế.
2. Vai trò của hạch toán kế toán trong nền kinh tế thị trường.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp đều tìm mọi biện
pháp để sản xuất ra sản phẩm với số lượng nhiều nhất. Để đạt được mục tiêu này
bất kỳ một người quản lý nào cũng phải nhận thức được vai trò quan trọng về
thông tin của kế toán.
- Thông tin kế toán phục vụ cho các nhà quản lý kinh tế. Bởi vì căn cứ vào
thông tin kế toán các nhà quản lý định ra các kế hoạch, dự án và kiểm tra việc
thực hiện kế hoạch và dự án đặt ra, phân tích các thông tin kế toán sẽ giúp họ
đưa ra những quyết định kinh doanh đúng đắn nhất.
- Nhờ có thông tin kế toán người ta có thể xác định được hiệu quả của một
thời kỳ kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp và do đó các nhà đầu

4



tư mới có quyết định đầu tư hay không và cũng biết được sử dụng vốn đầu tư như
thế nào?
- Kế toán cũng giúp cho Nhà nước trong việc hoạch định chính sách soạn
thảo luật lệ, qua kiểm tra tổng hợp các số liệu kế toán Nhà nước nắm được tình
hình chi phí, lợi nhuận của các đơn vị từ đó đề ra các chính sách về đầu tư, thuế
thích hợp.
Hoạt động kinh doanh

Hạch toán kế toán

Nhà quản lý
Chủ doanh nghiệp
Hội đồng quản trị
Ban giám đốc

Người có lợi ích
trực tiếp
Nhà đầu tư
Chủ nợ

Người có lợi ích gián tiếp
Thuế và
Các cơ quan chức năng

3. Chức năng và nhiệm vụ của hạch toán kế toán
3.1. Chức năng của hạch toán kế toán
- Chức năng thông tin của hạch toán kế toán thể hiện ở chỗ kế toán thu
nhận và cung cấp thông tin về toàn bộ tài sản và sự vận động của tài sản trong
quá trình hoạt động của đơn vị, những thông tin

- Chức năng kiểm tra: Chức năng kiểm tra của kế toán được thể hiện ở
chỗ thông qua việc ghi chép, tính toán, phản ánh kế toán sẽ nắm được một cách
có hệ thống toàn bộ tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh của đơn vị.
Với hai chức năng vốn có như trên của hạch toán và xuất phát từ thực tế
yêu cầu quản lý hoạt động kinh tế ở đơn vị cho nên hạch toán kế toán trở thành
công cụ quản lý hết sức quan trọng không những đối với bản thân đơn vị mà còn
rất cần thíêt và quan trọng đối với những người có lợi ích trực tiếp và gián tiếp
nằm ngoài doanh nghiệp như người mua, người bán, cổ đông, tổ chức tín dụng,
ngân hàng, cơ quan tài chính,cơ quan thuế, cơ quan pháp luật, các tổ choc đoàn
thể xã hội nói chung.

5


3.2. Nhiệm vụ của hạch toán kế toán
- Cung cấp đầy đủ, kịp thời, chính xác các tài liệu về tình hình cung ứng,
dự trữ, sử dụng tài sản từng loại trong quan hệ với nguồn hình thành từng loại tài
sản đó góp phần bảo vệ tài sản và sử dụng hợp lý tài sản của đơn vị hạch toán,
khai thác khả năng tiềm tàng của hạch toán.
- Giám sát tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp, công ty
tình
hình sử dụng nguồn kinh phí của các đơn vị sự nghiệp góp phần nâng cao hiệu
quả kinh doanh, hiệu quả nguồn vốn cấp phát trên cơ sở thực hiện luật pháp và
các chế độ hiện hành.
- Theo dõi tình hình huy động và sử dụng các nguồn tài sản do liên kết
kinh tế, giám sát tình hình thực hiện các hợp đồng kinh tế, các nghĩa vụ với Nhà
nước, với cấp trên, với đơn vị bạn.
4. Phân loại hạch toán kế toán
4.1 Theo mức độ phản ánh thông tin.
- Kế toán tổng hợp: Là loại kế toán mà thông tin về các hoạt động kinh tế

tài chính được kế toán thu nhận, xử lý ở dạng tổng quát và được biểu hiện dưới
hình thái tiền tệ.
- Kế toán chi tiết : Là loại kế toán mà thông tin về các hoạt động kinh tế
tài chính được kế toán thu nhận, xử lý ở dạng tổng quát và được biểu hiện không
những dưới hình thái tiền tệ mà cả dưới hình thái hiện vật, hình thái lao động.
4.2 Theo đặc điểm hoạt động và mục đích của kế toán.
- Kế toán công. Kế toán công là kế toán ở các đơn vị các tổ chức có sử
dụng kinh phí của nhà nước hoạt động không vì mục đích lợi nhuận
- Kế toán doanh nghiệp là kế toán được thực hiện ở doanh nghiệp có tổ
chức hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu chính là lợi nhuận có tổ
chức hạch toán kinh tế độc lập nhằm cung cấp các thông tin về tài sản, nguồn
hình thành tài sản, chi phí, thu nhập, kết quả trong quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh của một doanh nghiệp sản xuất ở một thời điểm và trong từng thời
kỳ.
4.3 Theo cách ghi chép và thu nhận thông tin của kế toán.
- Kế toán đơn: Là loại kế toán được phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát
sinh là ảnh hưởng đến các đối tượng kế toán một cách độc lập, riêng biệt. Sự
phản ánh này không cho they mối quan hệ giữa các đối tượng kế toán với nhau.
Kế toán được thực hiện ngay thời kỳ sơ khai của kế toán và hiện nay vẫn còn sử
6


dụng để phản ánh các đối tượng kế toán là tài sản nhưng không thuộc quyền sở
hữu của đơn vị hoặc ding để phản ánh các chỉ tiêu nhằm giải thích tỷ mỉ, chi tiết
cho các đối tượng kế toán đã được phản ánh ở các tài khoản.
- Kế toán kép: Là loại kế toán được dùng để phản ánh các loại nghiệp vụ
kinh tế phát sinh được tiến hành trong mối quan hệ mật thiết giữa các đối tượng
kế toán với nhau. Kế toán kép đựơc thực hiện khi nền khi nền sản xuất hàng hoá
phát triển mạnh, mối quan hệ về trao đổi hàng hoá ngày càng nhiều, việc ghi
chép sổ sách theo kế toán đơn không còn phù hợp. Hiện nay kế toán kép đựơc sử

dụng phổ biến để thu nhận, cung cấp thông tin về toàn bộ hoạt động kế toán tài
chính xảy ra ở đơn vị.
4.4 Theo đối tượng sử dụng thông tin
- Kế toán tài chính là việc thu thập xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp
thông tin kinh tế tài chính bằng báo cáo tài chính cho đối tượng có nhu cầu sử
dụng thông tin của đơn vị kế toán.
- Kế toán quản trị là việc thu thập xử lý, phân tích và cung cấp thông tin
kinh tế tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài chính trong nội
bộ đơn vị kế toán .
II/MộT Số KháI niệm và nguyên tắc kế toán

1. Khái niệm được thừa nhận
1.1. Thực thể kinh doanh. Là một đơn vị, một tổ chức có quyền sở hữu tài
sản riêng và tài sản đó vận động trong quá trình hoạt động của đơn vị tổ chức đó
hay nói cách khác thực thể kinh doanh là một đơn vị tổ chức mà tại đó diễn ra
hoạt động kinh tế tài chính. Do đó thực thể kinh doanh khi tiến hành hoạt động
kinh doanh cần phải ghi chép, phản ánh, tổng hợp và báo cáo về tình hình tài
sản, biến động tài sản, nguồn hình thành và kết quả quá trình kinh doanh của
chính doanh nghiệp mình.
1.2.Hoạt động liên tục
Kế toán ở các đơn vị là việc ghi chép, phản ánh tình hình hoạt động của
doanh nghiệp cho dù khả năng hoạt động của doanh nghiệp có thể là: Tiếp tục
hoạt động và Có thể ngừng hoạt động .
Tuy vậy, theo khái niệm hoạt động liên tục thì công việc kế toán được đặt
ra trong điều kiện giả thiết rằng đơn vị sẽ tiếp tục hoạt động vô thời hạn hoặc ít
nhất cũng hoạt động trong thời gian 1 năm nữa.
Khái niệm hoạt động liên tục có liên quan đến việc lập hệ thống báo cáo
tài chính. Vì giả thiết đơn vị tiếp tục hoạt động, nên khi lập báo cáo tài chính
7



người ta không quan tâm đến giá thị trường của các loại tài sản, vốn, công
nợ mặc dù trên thực tế giá thị trường có thể thay đổi, mà chỉ phản ánh tài sản
của đơn vị theo trị giá vốn hay cũng gọi là giá phí. Hơn nữa, vì quan niệm
doanh nghiệp còn tiếp tục hoạt động nên việc bán đi những tài sản dùng cho hoạt
động SXKD của doanh nghiệp theo giá thị trường không đặt ra. Chính vì thế mà
giá thị trường không thích hợp và thực sự không cần thiết phải phản ánh giá trị
tài sản trên Báo cáo tài chính.
Mặc dù vậy, trong trường hợp đặc biệt khi giá thị trường thấp hơn giá vốn,
kế toán có thể sử dụng giá thị trường như yêu cầu của nguyên tắc thận trọng.
Mặt khác, khi một doanh nghiệp đang chuẩn bị ngừng hoạt động: Phá sản, giải
thể, bán thì khái niệm hoạt động liên tục sẽ không có tác dụng nữa trong
việc lập báo cáo, mà giá trị thị trường mới là có tác dụng.
Như vậy, báo cáo tài chính phải được lập trên cơ sở giả định là doanh
nghiệp đang hoạt động và sẽ tiếp tục hoạt động kinh doanh bình thường trong
tương lai gần, nghĩa là doanh nghiệp không có ý định cũng như không buộc phải
ngừng hoạt động hoặc phải thu hẹp đáng kể quy mô hoạt động của mình. Trường
hợp thực tế khác với giả định hoạt động liên tục thì báo cáo tài chính phải lập
trên một cơ sở khác và giải thích cơ sở đó sử dụng để lập báo cáo tài chính.
1.3 Thước đo tiền tệ:
Là đơn vị đồng nhất trong việc tính toán ghi chép các nghiệp vụ kinh tế tài

chính phát sinh. Tiền được sử dụng như một đơn vị đo lường cơ bản trong các
báo cáo tài chính.
1.4 Kỳ kế toán:
Là khoảng thời gian nhất định mà trong đó các báo cáo tài chính được lập
(tháng, quý, năm)
2. Các nguyên tắc kế toán thừa nhận
2.1 Cơ sở dồn tích.
Mỗi nghiệp vụ kinh tế tài chính của doanh nghiệp liên quan đến tài sản, nợ

phải trả, vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí phải được ghi vào sổ kế toán vào thời
điểm thực tế thu chi tiền hoặc tương đương tiền. Báo cáo tài chính được lập trên
cơ sở dồn tích phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong quá khứ hiện
tại và tương lai.
2.2 Nguyên tắc giá gốc
Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của kế toán. Nguyên tắc
này đòi hỏi tất cả các loại tài sản, công nợ, vốn, doanh thu chi phí phải được ghi
8


chép phản ánh theo giá gốc của chúng, tức là số tiền mà đơn vị bỏ ra để có được
những tài sản đó. Giá gốc của tài sản được tính theo số tiền hoặc tương đương
tiền đã trả phải trả hoặc tính theo số tiền hợp lý của tài sản đó vào thời điểm tài
sản đó được ghi nhận. Giá gốc của tài sản không được thay đổi trừ khi có các
quy định khác trong chuẩn mực kế toán cụ thể.
Nguyên tắc giá gốc có quan hệ chặt chẽ với khái niệm thước đo tiền tệ và
nguyên tắc hạt động liên tục.
Chính vì giả thiết hoạt động liên tục, không bị giải thể trong một tương lai
gần, nên người ta không quan tâm đến giá thị trường của các loại tài sản khi ghi
chép và phản ánh chúng trên báo cáo tài chính, hơn nữa giá thị trường luôn biến
động, nên kế toán không thể dùng giá thị trường để ghi chép lập báo cáo tài
chính được. Một lý do khác là để tính toán, xác định được kết quả kinh doanh là
lãi hay lỗ người ta phải so sánh giữa giá bán và giá gốc.
Qua việc nghiên cứu những khái niệm thước đo tiền tệ, nguyên tắc hoạt
động liên tục và nguyên tắc giá gốc ta thấy trong nhiều trường hợp thì bảng cân
đối kế toán của đơn vị không phản ánh được lượng tiền mà các tài sản của đơn vị
có thể bán được hoặc thay thế được. Mặt khác bảng cân đối kế toán cũng không
phản ánh đúng giá của đơn vị, bởi vì một tài sản của đơn vị có thể được bán cao
hơn hoặc thấp hơn số tiền phản ánh tại thời điểm lập báo cáo. Đây chính là mặt
hạn chế của báo cáo tài chính do việc thực hiện nguyên tắc giá gốc.

2.3 Nguyên tắc trọng yếu
Thông tin được coi là trọng yếu trong trường hợp nếu thiếu thông tin hoặc
thiếu sự chính xác của thông tin đó có thể làm sai lệch đáng kể báo cáo tài chính,
làm ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người sử dụng báo cáo tài chính. Tính
trọng yếu phụ thuộc vào độ lớn và tính chất của thông tin hoặc các sai sót được
đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Tính trọng yếu của thông tin được xem xét trên
cả phương diện định tính và định lượng.
Nguyên tắc trọng yếu hay còn gọi là nguyên tắc thực chất, giúp cho việc
ghi chép của kế toán đơn giản và hiệu quả hơn nhưng vẫn đảm bảo được tính
chất trung thực khách quan.
Nguyên tắc này chú trọng đến các yếu tố, các khoản mục chi phí mang
tính trọng yếu quyết định bản chất nội dung của các sự kiện kinh tế, đồng thời lại
cho phép bỏ qua không ghi chép các nghiệp vụ, sự kiện không quan trọng, không
làm ảnh hưởng tới bản chất, nội dung nghiệp vụ kinh tế phát sinh.

9


2.4 Nguyên tắc phù hợp
Kết quả hoạt động SXKD của đơn vị sau một kỳ hoạt động là số chênh
lệch giữa doanh thu bán hàng và chi phí tính cho số hàng đã bán.
Việc ghi nhận doanh thu và chi phí phải phù hợp với nhau. Khi ghi nhận
một khoản doanh thu thì phải ghi nhận một khoản chi phí tương ứng có liên quan
đến việc tạo ra doanh thu đó. Chi phí tương ứng với doanh thu gồm chi phí của
kỳ tạo ra doanh thu, chi phí của các kỳ trước và chi phí của kỳ sau nhưng liên
quan đến doanh thu đó.
Nguyên tắc phù hợp đưa ra hướng dẫn về việc xác định chi phí để tính kết
quả. Chi phí để tính toán xác định kết quả hoạt động SXKD là tất cả các chi phí
đã cấu thành trong giá thành toàn bộ của số hàng đã bán.
Nói cách khác, nguyên tắc phù hợp đưa ra việc xác định phần chi phí

tương ứng với doanh thu đã thực hiện
2.5 Nguyên tắc thận trọng
Nguyên tắc này đề cập đến việc lựa chọn những giải pháp trong vô số các
giải pháp, sao cho ít ảnh hương nhất tới vốn chủ sở hữu, với sự lựa chọn như vậy,
kế toán chỉ ghi các khoản thu nhập khi có những chứng cớ chắc chắn, còn chi
phí thì được ghi ngay khi chưa có chứng cớ chắc chắn. Với những tài sản có xu
hướng giảm giá, mất giá hoặc không bán được, cần phải dự tính khoản thiệt hại
để thực hiện việc trích lập dự phòng tính vào chi phí, hoặc cố gắng tính hết các
khoản chi phí có thể được cho số sản phẩm hàng hóa đã bán để số sản phẩm
hàng hóa chưa bán được có thể chịu phần chi phí ít hơn
Như vậy nguyên tắc thận trọng đòi hỏi:
-Phải lập các khoản dự phòng nhưng không lập quá lớn.
- Không đánh giá cao hơn giá trị của các tài sản và các khoản thu nhập
-Doanh thu và thu nhập chỉ được ghi nhận khi có bằng chứng chắc chắn
về khả năng thu được lợi ích kinh tế còn chi phí phải được ghi nhận khi có bằng
chứng về khả năng phát sinh.
2.6 Nguyên tắc nhất quán
Nguyên tắc này đòi hỏi việc áp dụng, thực hiện các khái niệm, nguyên tắc,
chuẩn mực và phương pháp kế toán

phải thống nhất trong suốt các niên độ kế

toán. Trong những trường hợp đặc biệt, nếu có sự thay đổi chính sách kế toán

10


lựa chọn thì đơn vị phải giải trình được lý do và sự ảnh hưởng của sự thay đổi đó
trong thuyết minh báo cáo tài chính.
Thực hiện nguyên tắc nhất quán sẽ đảm bảo cho số liệu thông tin của kế

toán trung thực khách quan và đảm bảo tính thống nhất, so sánh được của các chỉ
tiêu giữa các thời kỳ với nhau.
III/ Đối tượng của hạch toán kế toán

1.Đối tượng chung của hạch toán kế toán
Đối tượng chung của các môn khoa học kinh tế là các quá trình tái sản
xuất mở rộng, mỗi môn khoa học nghiên cứu một góc độ riêng. Nghiên cứu đối
tượng của kế toán là xác định những nội dung mà kế toán phản ánh và giám đốc.
Khác với các môn khoa học kinh tế khác hạch toán kế toán nhằm nghiên cứu quá
trình sản xuất thông qua sự hình thành và vận động của tài sản trong một đơn vị
cụ thể nhằm quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản theo phạm vi sử dụng nhất
định.
Ngoài các đơn vị SXKD nghiên cứu cụ thể là tài sản, nguồn vốn và sự tuần
hoàn của nguồn vốn kinh doanh các đơn vị sự nghiệp tuy không phải là đơn vị
kinh doanh nhưng cũng tham gia từng khâu của quá trình tái sản xuất xã hội
(trực tiếp hoặc gián tiếp) cũng được giao một số vốn nhất định và cần sử dụng
đúng mục đích, có hiệu quả. Vì vậy các đơn vị này cũng thuộc đối tượng hạch
toán kế toán.
2. Đối tượng cụ thể của hạch toán kế toán trong các đơn vị.
2.1. Đối tượng cụ thể của hạch toán kế toán trong các đơn vị sản xuất
kinh doanh.
2.1.1. Đối tượng hạch toán kế toán trong các đơn vị sản xuất kinh doanh
tài sản và nguồn hình thành tài sản (nguồn vốn)
a. Tài sản và phân loại tài sản trong đơn vị:
Tài sản trong một đơn vị nếu xét theo hình thái biểu hiện kết hợp với tính
chất luân chuyển của nó; được chia làm 2 loại là TS ngắn hạn; TS dài hạn.
*/Tài sản ngắn hạn của đơn vị là những tài sản thuộc quyền quản lý và sử
dụng của đơn vị có thời gian sử dụng, luân chuyển thu hồi trong một năm hoặc
một chu kỳ sản xuất kinh doanh bình thường.
11



Tài sản ngắn hạn của một đơn vị bao gồm vốn bằng tiền, đầu tư ngắn hạn,
các khoản phải thu, các khoản ứng trước, hàng tồn kho, và các tài sản lưu động
khác
*/ Tài sản dài hạn của đơn vị là biểu hiện bằng tiền của các tài sản có
thời gian luân chuyển trên 1 năm và giá trị lớn .
Tài sản dài hạn trong đơn vị được phân loại thành tài sản cố định hữu hình
và tài sản cố định vô hình cả hai loại này có thể thuộc quyền sở hữu của đơn vị,
cũng có thể đi thuê và các khoản đầu tư cổ phiếu trái phiếu, góp vốn liên doanh
dài hạn.
b. Nguồn hình thành tài sản và phân loại nguồn hình thành tài sản trong
đơn vị.
Nguồn hình thành tài sản trong đơn vị hay gọi tắt là nguồn vốn. Nó là
nguồn gốc hình thành nên giá trị của các tài sản trong đơn vị; nếu xét theo nguồn
gốc hình thành thì tài sản của đơn vị được hình thành từ các khoản nợ phải trả và
từ số vốn của chính chủ sở hữu.
*/ Nợ phải trả là số tiền mà đơn vị đi vay, chiếm dụng của các đơn vị, tổ
chức, cá nhân, và do vậy doanh nghiệp có trách nhiệm phải trả bao gồm các
khoản nợ tiền vay, các khoản phải trả cho người bán, cho Nhà nước, cho công
nhân viên và các khoản phải trả phải nộp khác. Nợ phải trả của đơn vị thường
được chia làm 2 loại: Nợ ngắn hạn và nợ dài hạn.
*/ Vốn chủ sở hữu là số vốn của các chủ sở hữu, các nhà đầu tư đóng góp
mà đơn vị không phải cam kết thanh toán hoặc tự bổ sung từ kết quả kinh doanh
của đơn vị chính vì vậy vốn chủ sở hữu không phải là một khoản nợ.
Trong một đơn vị thì tổng giá trị tài sản thuần cũng luôn luôn bằng tổng
cộng nguồn hình thành tài sản. Bởi vì như đã nêu một số tài sản được hình thành
từ một nguồn hoặc từ nhiều nguồn khác nhau và ngược lại. Từ đó ta luôn luôn có
phương trình kế toán sau:
Nguồn vốn


=

Tài sản

Nguồn vốn

=

Nợ phải trả + Vốn chủ sở hữu

Tài sản

=

Nợ phải trả + Vốn chủ sở hữu

Vốn chủ sở hữu

=

Tài sản

-

Nợ phải trả

Phương trình kế toán này biểu hiện tính cân đối của kế toán

12



2.1.2 Đối tượng hạch toán kế toán trong các đơn vị sản xuất kinh doanh
là sự vận động của tài sản .
Trong quá trình tái sản xuất Tài sản của các đơn vị sản xuất kinh doanh
vận động không ngừng qua các giai đoạn khác nhau. Qua mỗi giai đoạn vận
động Tài sản thay đổi về hình thái vật chất và giá trị, có thể khái quát quá trình
vận động của Tài sản qua sơ đồ sau:
Tài sản
bằng tiền

Quá trình
cung cấp

Tài sản dự trữ
cho sản xuất

Quá trình
tiêu thụ

Quá trình
sản xuất

Tài sản
thành phẩm

Tài sản trong quá trình vận động luôn có ở tất cả các giai đoạn của quá
trình tái sản xuất và thường xuyên chuyển từ dạng này sang dạng khác. Các giai
đoạn này được lặp đi lặp lại theo chu kỳ mà mỗi giai đoạn của quá trình kinh
doanh tài sản được đầu tư vào nhiều hơn. Chính yếu tố này đã tạo ra sự phát triển

của các đơn vị theo quy luật tái sản xuất mở rộng.
Qua các giai đoạn có sự thay đổi cả về mặt lượng cũng như mặt giá trị.
Chính vì vậy vận động của Tài sản cũng là đối tượng nghiên cứu của hạch toán
kế toán .
Trong quá trình vận động của tài sản đã tạo ra các mối quan hệ sau:
Quan hệ giữa tài sản này với tài sản khác. Trong quan hệ này làm tăng giá
trị tài sản này, đồng thời làm giảm tương ứng giá trị tài sản khác
Ví dụ : Doanh nghiệp bỏ tiền mặt ra để mua nguyên vật liệu thì tiền mặt
giảm, vật liệu dự trữ cho sản xuất tăng.
Quan hệ giữa nguồn vốn này với nguồn vốn khác. Trong quan hệ này làm
tăng nguồn vốn này, đồng thời làm giảm nguồn vốn khác một lượng tương ứng.
Ví dụ : Doanh nghiệp vay ngắn hạn của ngân hàng trả nợ người bán thì
khoản vay ngắn hạn của ngân hàng doanh nghiệp phải trả tăng còn khoản nợ mà
doanh nghiệp phải trả người bán giảm.
Quan hệ giữa tài sản này với nguồn vốn khác. Trong quan hệ này làm tăng
giá trị tài sản, đồng thời làm tăng nguồn vốn khác một lượng tương ứng hoặc
13


làm cho giá trị tài sản này giảm xuống, đồng thời làm giảm nguồn vốn một
lượng tương ứng
Ví dụ : Doanh nghiệp bỏ tiền mặt ra trả nợ người bán thì tiền mặt giảm trả
nợ người bán doanh nghiệp phải trả giảm.
Ví dụ : Doanh nghiệp vay ngắn hạn của ngân hàng mua nguyên vật liệu
thì khoản vay ngắn hạn của ngân hàng doanh nghiệp phải trả tăng và vật liệu dự
trữ cho sản xuất tăng.
2.1.3. Đối tượng hạch toán kế toán trong các đơn vị sản xuất kinh doanh
là các quan hệ pháp lý .
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình các đơn vị phải giải quyết
hàng loạt các quan hệ kinh tế. Đó là những quan hệ kinh tế thuộc vốn của đơn vị

được coi là quan hệ kinh tế tài chính và những mối quan hệ pháp lý (các mối
quan hệ kinh tế pháp lý còn được quan niệm là những mối quan hệ không
chuyển quyền sở hữu ). Bao gồm:
- Các mối quan hệ phát sinh do hợp đồng kinh tế chuyển giao quyền sử
dụng.
- Các mối quan hệ kinh tế gắn liền với nghĩa vụ và trách nhiệm của các tổ
chức kinh tế .
- Các mối quan hệ thuần tuý và nghĩa vụ của đơn vị trước xã hội trong việc
sử dụng của cải xã hội.
- Các mối quan hệ trong hạch toán kinh doanh nội bộ đơn vị .
Kết luận chung về đối tượng của hạch toán kế toán
Đối tượng của hạch toán kế toán là tài sản của đơn vị được xem xét trong
quan hệ được giữa hai mặt giá trị tài sản và nguồn hình thành tài sản đó; quá
trình tuần hoàn của những tài sản đó qua các giai đoạn nhất định của quá trình
tái sản xuất cùng các mối quan hệ kinh tế pháp lý phát sinh trong quá trình hoạt
động của đơn vị .
2.2. Đối tượng cụ thể của hạch toán kế toán trong các đơn vị khác
- Đối với đơn vị HCSN thì đối tượng hạch toán kế toán gồm.
+ TSCĐ dùng cho hoạt động chuyên môn như nhà của và thiết bị.
+ Tài sản lưu động dùng cho hoạt động chuyên môn gồm vật liệu văn
phòng và công cụ dụng cụ đồ dùng.
+ Các khoản chi tiêu cho hoạt động sự nghiệp, hành chính, chi dự án và
nguồn kinh phí hoạt động, kinh phí dự án
14


- Đối với các tổ chức tín dụng thì đối tượng hạch toán kế toán gồm.
+ TSCĐ dùng cho hoạt động chuyên môn như nhà của và thiết bị.
+ Tài sản lưu động dùng cho hoạt động chuyên môn gồm vật liệu văn
phòng và công cụ, dụng cụ, đồ dùng.

+ Các khoản nợ phải thu do cho vay, các khoản phải trả do huy động vốn
+ Các khoản chi cho quản lý hoạt động cho vay, chi trả tiền lãi do huy
động vốn, các khoản thu nhập về tiền lãi
IV. Phương pháp hạch toán kế toán

1. Phương pháp chứng từ kế toán:
Phương pháp chứng từ kế toán là phương pháp kế toán phản ánh các
nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh và thật sự hoàn thành theo thời gian và địa
điểm phát sinh nghiệp vụ đó vào các bản chứng từ kế toán và sử dụng các bản
chứng từ đó phục vụ cho công tác kế toán và công tác quản lý kinh tế tài chính.
2. Phương pháp tài khoản kế toán
Phương pháp tài khoản là phương pháp kế toán phân loại các đối tượng kế
toán để phản ánh và kiểm tra một cách thường xuyên, liên tục, có hệ thống tình
hình và sự vận động của từng đối tượng kế toán riêng biệt.
3. Phương pháp tính giá
Phương pháp tính giá là phương pháp sử dụng thước đo tiền tệ để tính toán
xác định giá trị của từng loại và tổng số tài sản của đơn vị thông qua mua vào,
sản xuất ra theo những nguyên tắc nhất định.
4. Phương pháp tổng hợp - cân đối kế toán
Phương pháp tổng hợp - cân đối kế toán là phương pháp kế toán mà việc
thiết kế và sử dụng các bảng tổng hợp cân đối được dựa trên cơ sở các mối
quan hệ cân đối vốn có của kế toán để tổng hợp số liệu từ các sổ kế toán theo các
chỉ tiêu kinh tế tài chính cần thiết nhằm cung cấp thông tin cho việc điều hành,
quản lý các hoạt động kinh tế của đơn vị và những người có lợi ích nằm ngoài
đơn vị
5. Mối quan hệ giữa các phương pháp kế toán
Các phương pháp kế toán trên có mối liên hệ với nhau, phương pháp này
làm tiền đề cho phương pháp kia. Trong thực tiễn công tác kế toán, các phương
pháp kế toán nói trên phải được thực hiện đồng thời trong mối quan hệ hữu cơ
của chung. Lập chứng từ là nhằm thu nhận và thu cung cấp thông tin đầy đủ, kịp

15


thời về các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt động của các đơn vị.
Phương pháp tính giá nhằm biểu hiện các đối tượng kế toán có liên quan trong
nghiệp vụ bằng tiền để làm cơ sở ghi vào tài khoản theo cách ghi đơn hoặc ghi
kép bằng phương pháp tài khoản kế toán. Phương pháp tổng hợp cân đối kế toán
nhằm tổng hợp số liệu trên các tài khoản kế toán (sổ kế toán) theo các chỉ tiêu
kinh tế tài chính cần thiết và được biểu hiện trên các báo cáo kế toán.

Câu hỏi ôn tập chương I
1- Tại sao hạch toán kế toán lại có vai trò quan trọng trong việc cung cấp
thông tin cho những người điều hành, quản lý kinh tế trong và ngoài doanh
nghiệp.
2.Hãy nêu nội dung của những khái niệm, nguyên tắc kế toán được thừa
nhận
3- Đối tượng chung của hạch toán kế toán là gì? Biểu hiện cụ thể của đối
tượng hạch toán kế toán trong các đơn vị sản xuất- kinh doanh?
4- Phân tích tài sản của đơn vị kế toán. Phân loại tài sản của đơn vị theo
2 cách phân loại.
5- Hãy nêu sự giống và khác nhau về sự biểu hiện cụ thể của đối tượng
hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp thương mại
kinh doanh hàng hoá
6. Hệ thống phương pháp hạch toán kế toán và mối quan hệ giữa các
phương pháp hạch toán kế toán?
Bài tập chương I
Bài số 1:

Tại doanh nghiêp "X" ngày 1 tháng 1 năm N có tài liệu về tài sản và
nguồn hình thành tài sản như sau:

- Tiền mặt (tồn quỹ):

50.000

- Tiền gửi ngân hàng:

450.000

- Nguyên liệu, vật liệu:

1.000.000

- Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang:

100.000

- Thành phẩm trong kho:

150.000

- Phải thu của khách hàng:

80.000

- Tạm ứng (cho cán bộ công nhân viên):

10.000

16



- TSCĐ hữu hình:

2.860.000

- Nguồn vốn kinh doanh:

3.000.000

- Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản:

500.000

- Quỹ đầu tư phát triển:

350.000

- Lợi nhuận chưa phân phối:

150.000

- Vay ngắn hạn (của cơ quan "Y"):

100.000

- Vay ngắn hạn (ngân hàng):

200.000

- (Nợ) phải trả người bán:


250.000

- Thuế và các khoản phẩi nộp Nhà nước:

100.000

- Lương và các khoản phải trả CNV(người lao động):

50.000

Yêu cầu: Căn cứ vào tài liệu trên hãy:
Sắp xếp lại các đối tượng hạch toán kế toán thành từng loại tài sản và từng
loại nguồn vốn và xác định từng đối tượng kế toán cụ thể có giá trị là bao nhiêu?
tổng giá trị tài sản, tổng giá trị nguồn vốn là bao nhiêu? và có nhận xét gì về kết
quả đó?
----------------------------------Bài số 2:

Tại doanh nghiệp X có các nghiệp vụ kinh tế phát sinh sau.
NV1 Xuất quỹ tiền mặt gửi vào ngân hàng, số tiền: 100.000.000đ
NV2: Vay ngắn hạn trả nợ người bán số tiền: 5.000.000đ
NV3: Nhà nước cấp cho doanh nghiệp một TSCĐ hữu hình bổ xung nguồn
vốn kinh doanh, giá trị thực tế của tài sản được cấp: 200.000.000đ
NV4: Rút tiền gửi ngân hàng trả nợ vay ngắn hạn, số tiền: 20.000.000đ
NV5: Doanh thu tài chính thu bằng tiền mặt nhập quỹ tiền mặt 1.000.000đ
NV6: Xuất kho nguyên vật liệu dùng cho sản xuất sản phẩm, giá trị vốn
thực tế vật liệu xuất kho: 2500.000đ
NV7: Doanh nghiệp được cơ quan thuế giảm thuế GTGT phải nộp, số thuế
được giảm: 4.000.000đ.
NV8: Nhận được hoá đơn tiền điện phải trả công ty điện lực dùng cho sản

xuất sản phẩm tháng này là: 700.000đ.
Trong các nghiệp vụ trên hãy chỉ rõ nghiệp vụ đó liên quan đến đối tượng
kế toán cụ thể nào và đối tượng kế toán chung nào (tài sản, nguồn vốn, chi phí,

17


thu nhập) đối tượng kế toán nào tăng, đối tượng kế toán nào giảm hoặc đối tượng
kế toán nào cùng tăng hoặc đối tượng kế toán nào cùng giảm.
----------------------------------Bài số 3

Trích tài liệu tại DN X trong tháng 2 năm N như sau: (Đơn vị tính:
1000đ)
NV1: Rút TGNH về nhập quỹ tiền mặt, số tiền 20.000, theo phiếu thu số
100 ngày 2/2/N
NV2: Thu nợ của khách hàng A bằng tiền mặt, số tiền 14.000, theo phiếu
thu số 101 ngày 3/2/N
NV3: Vay ngắn hạn ngân hàng về nhập quỹ tiền mặt, số tiền 30.000 theo
phiếu thu số 102 ngày 4/2/N
NV4: Trả nợ cho công ty C về tiền mua sản phẩm hàng hoá, số tiền là
9.900. DN trả bằng TGNH theo giấy báo nợ ngân hàng số 21 ngày7/2/N
NV5: Xuất quỹ tiền mặt chi tạm ứng lương cho CNV, số tiền là 12.000 theo
phiếu chi số 78 ngày 15/2/N
NV6: Nộp thuế GTGT cho NSNN bằng TGNH, số tiền là 11.000 theo giấy
báo nợ ngân hàng số 23 ngày17/2/N
NV7: Chi tiền mặt 2000 theo phiếu chi số 79, rút TGNH 8.000 theo giấy
báo nợ ngân hàng số 24 ngày18/2/N để trả nợ cho người bán N.
NV8: Xuất quỹ tiền mặt tạm ứng cho ông Nguyễn Văn H để mua NVL, số
tiền là 20.000 theo phiếu chi số 81 ngày 20/2/N
NV9: Xuất quỹ tiền mặt trả lương cho công nhân viên: 7.000 (phiếu chi số

83 ngày 26/2/N)
NV10: Trả nợ tiền điện tháng trước số tiền : 1.000, trả bằng TGNH (Báo
Nợ ngân hàng số 26 ngày27/ 2/N)
Yêu cầu: Hãy cho biết trong từng nghiệp vụ kinh tế liên quan đến đối
tượng kế toán nào? Đối tượng kế toán nào tăng, giảm và tăng giảm là bao nhiêu?

18


Chng 2

Phng phỏp chng t k toỏn
I. Khái niệm, ý nghĩa của phương pháp chứng từ kế toán

1. Khái niệm về phương pháp chứng từ kế toán
Các nghiệp vụ kinh tế thường phát sinh trong một đơn vị đó là sự vận động
của vốn cụ thể gắn với hành vi kinh tế hoặc thay đổi một ý niệm trong quản lý
cần phải được phân định, tính toán và kiểm tra.
Việc lựa chọn phương thức sao chụp gắn liền với việc lựa chọn thông tin
về tình trạng và sự biến động về vốn cho từng bộ phận hoặc cá nhân chịu trách
nhiệm về nghiệp vụ đó ... cũng như việc thiết lập các thông tin cần thiết phục vụ
cho yêu cầu quản lý đòi hỏi phải đặt ra yêu cầu xây dựng một phương pháp thu
thập và xử lý thông tin ban đầu thuộc đối tượng hach toán kế toán một cách khoa
học. Những yêu cầu và khả năng nói trên đã tạo ra tính tất yếu khách quan cho
việc hình thành phương pháp quản lý thông tin, kiểm tra về vốn và các mối quan
hệ kinh tế pháp lý thuộc đối tượng hạch toán kế toán đó là phương pháp chứng
từ.
Vậy: Phương pháp chứng từ là phương pháp thông tin và kiểm tra về trạng
thái và sự biến động của đối tượng hạch toán kế toán cụ thể nhằm phục vụ kịp
thời cho lãnh đạo nghiệp vụ và làm căn cứ phân loại, tổng hợp kế toán.

Phương pháp chứng từ được cấu thành bởi 2 yếu tố cơ bản đó là:
- Hệ thống các bản chứng từ để chứng minh tính hợp pháp cho việc hình
thành các nghiệp vụ kinh tế phát sinh và làm căn cứ để ghi sổ.
- Kế hoạch luân chuyển chứng từ nhằm thông tin kịp thời trạng thái và sự
biến động của hạch toán kế toán.
2. ý nghĩa của phương pháp chứng từ kế toán
- Chứng từ là phương pháp thích hợp nhất với sự đa dạng và biến động
không ngừng của đối tượng hạch toán kế toán nhằm sao chụp nguyên hình tình
trạng và sự vận động của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Vì vậy, mỗi nghiệp vụ
kinh tế phát sinh đều phải có chứng từ.
- Hệ thống bản chứng từ hoàn chỉnh là căn cứ pháp lý cho việc bảo vệ tài
sản của đơn vị và xác minh tính hợp pháp trong việc giải quyết các mối quan hệ
kinh tế pháp lý thuộc đối tượng hạch toán kế toán, kiểm tra và thanh tra hoạt
động sản xuất kinh doanh.
- Phương pháp chứng từ là phương pháp thông tin hoả tốc cho công tác
lãnh đạo nghiệp vụ các đơn vị hạch toán kinh tế.
II . Các loại chứng từ kế toán
19


1. Khái niệm và ý nghĩa của chứng từ kế toán
Bản chứng từ vừa là phương tiện chứng minh tính hợp pháp của các nghiệp
vụ kinh tế vừa là phương tiện thông tin về kết quả nghiệp vụ kinh tế đó.
Chứng từ gắn liền với quy mô, thời điểm phát sinh các nghiệp vụ kinh tế
với trách nhiệm vật chất của cá nhân, đơn vị, bộ phận đối với nghiệp vụ đó.
Chứng từ là cơ sở để phân loại, tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế vào các sổ
kế toán theo dõi từng đối tượng hạch toán cụ thể.
2. Các loại chứng từ kế toán
2.1. Phân loại theo công dụng của chứng từ:
*Các loại chứng từ kế toán phân loại theo công dụng

- Chứng từ mệnh lệnh: là loại chứng từ mang quyết định của chủ thể quản
lý như lệnh chi tiền, lệnh xuất kho. Chứng từ mệnh lệnh chỉ thể hiện lệnh, chưa
phản ánh nghiệp vụ kinh tế phát sinh nên chưa phải là căn cứ ghi sổ kế toán.
- Chứng từ thực hiện: là loại chứng từ phản ánh nghiệp vụ kinh tế đã phát
sinh và thực sự hoàn thành, là căn cứ để ghi sổ kế toán.
Ví dụ: Phiếu thu, phiếu chi, phiếu nhập, phiếu xuất
- Chứng từ liên hợp: là loại chứng từ kết hợp nội dung của hai loại chứng
từ trên.
Ví dụ: Lệnh kiêm phiếu chi
*Tác dụng:
Giúp cho kế toán biết được chứng từ nào là căn cứ để ghi sổ và loại chứng
từ nào là cơ sở để thực hiện.
Giúp cho người quản lý biết cách làm thế nào để tăng loại chứng từ liên
hợp để giảm bớt số lượng chứng từ.
2.2. Phân loại theo địa điểm lập chứng từ
*Các loại chứng từ kế toán phân loại theo địa điểm lập chứng từ
- Chứng từ bên trong (Chứng từ nội bộ): là các chứng từ do các bộ phận
nội bộ của doanh nghiệp lập như phiếu nhập, phiếu xuất, phiếu thu, phiếu chi
- Chứng từ bên ngoài: là loại chứng từ phản ánh các nghiệp vụ kinh tế tài
chính có liên quan đến đơn vị và được lập từ các đơn vị bên ngoài như hoá đơn
mua hàng, hoá đơn kiêm phiếu xuất kho do bên ngoài lập, giấy báo có, giấy báo
nợ của ngân hàng.
*Tác dụng: Là cơ sở cho kế toán xác định được trọng tâm của việc kiểm
tra chứng từ, từ đó đưa ra biện pháp thích hợp cho công tác kiểm tra chứng từ.
Thông thường chứng từ bên ngoài cần quan tâm kiểm tra nhiều hơn.
2.3. Phân loại chứng từ theo trình độ khái quát
20


*Các loại chứng từ kế toán phân loại theo trình độ khái quát.

- Chứng từ ban đầu: là loại chứng từ phản ánh trực tiếp tại chỗ các nghiệp
vụ kinh tế tài chính phát sinh như phiếu thu, phiếu chi, phiếu nhập, phiếu xuất.
- Chứng từ tổng hợp (Chứng từ khái quát): là loại chứng từ được dùng để
tổng hợp số liệu từ các chứng từ gốc (chứng từ ban đầu) theo từng nghiệp vụ
kinh tế (nội dung kinh tế) nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc ghi sổ kế toán.
Ví dụ: Chứng từ ghi sổ, các bảng tổng hợp chứng từ như bảng tổng hợp
nhập, xuất vật liệu.
*Tác dụng:
Giúp cho người làm công tác nghiên cứu và công tác kế toán cụ thể cần
nghiên cứu xây dựng và tăng cường sử dụng chứng từ tổng hợp để giảm bớt số
lần ghi sổ kế toán; Xác định được tầm quan trọng của từng loại chứng từ mà có
cách bảo quản và sử dụng thích hợp.
2.4. Phân loại chứng từ theo nội dung của các nghiệp vụ kinh tế
*Các loại chứng từ kế toán phân loại theo nội dung của các nghiệp vụ
kinh tế
Theo cách này hệ thống chứng từ sẽ bao gồm nhiều loại:
Chứng từ về tiền mặt, TGNH, vật tư, tài sản, về tiêu thụ hàng hoá sản
phẩm, về các khoản thanh toán với người bán, người mua, với ngân sách, với
công nhân viên
*Tác dụng: Là cơ sở để tổng hợp số liệu, định khoản và ghi sổ kế toán.
2.5. Cách phân loại khác
* Phân loại chứng từ theo số lần ghi các nghiệp vụ kinh tế
- Chứng từ một lần
- Chứng từ nhiều lần
*. Phân loại chứng từ theo tính cấp bách
- Chứng từ bình thường
- Chứng từ báo động
3/ Các nội dung cơ bản của chứng từ kế toán
Một bản chứng từ bao gồm các nội dung cơ bản đó là các nội dung bắt
buộc phải có trong mỗi bản chứng từ. Qua các nội dung cơ bản có thể thấy được

đặc trưng của nghiệp vụ kinh tế về nội dung, quy mô, thời gian, địa điểm xảy ra
nghiệp vụ sự thiếu sót của bất cứ một nội dung nào trong bản chứng từ cũng
đều làm cho bản chứng từ trở nên không đầy đủ và do đó không đáng tin cậy.
Các nội dung cơ bản của chứng từ thường gồm:
21


- Tên gọi chứng từ
- Tên và địa chỉ của đơn vị, cá nhân có liên quan đến nghiệp vụ
- Ngày, tháng và số thứ tự của chứng từ
- Nội dung của nghiệp vụ kinh tế
- Quy mô của nghiệp vụ về số lượng, giá trị
- Chữ ký của nhứng người có trách nhiệm.
Vừa qua Bộ Tài Chính đã quyết định ban hành chính thức hệ thống chế độ
kế toán doanh nghiệp theo QĐ số 15/2006/QĐ/BTC ngày 20/3/2006 của Bộ
trưởng Bộ tài chính, quyết định số 48/ 2006 ngày 14/9/2006 của Bộ tài chính áp
dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chế độ kế toán HCSN theo QĐ quyết
định số 19/2006/QĐ/ CĐKT ngày 30/3/2006 của Bộ Tài chính áp dụng thống
nhất trong cả nước, trong đó có hệ thống chứng từ kế toán đi kèm với các quyết
định đó. Hệ thống chứng từ kế toán được chia thành:
- Hệ thống chứng từ kế toán thống nhất bắt buộc.
- Hệ thống chứng từ kế toán hướng dẫn.
III. Trình tự Luân chuyển chứng từ và nội quy về chứng từ
kế toán

1. Lập, luân chuyển chứng từ
Chứng từ kế toán thường xuyên vận động, sự vận động liên tục thường
xuyên kế tiếp nhau từ giai đoan này sang giai đoạn khác của chứng từ được gọi
là luân chuyển chứng từ.
Lập, luân chuyển của chứng từ thường được xác định từ khâu lập (hoặc

tiếp nhận chứng từ bên ngoài) đến khâu bảo quản, lưu trữ chứng từ.
Lập, luân chuyển chứng từ bao gồm các giai đoạn (khâu) sau:
- Lập chứng từ : Đây là khâu đầu tiên của quá trình lập luân chuyển
chứng từ. Trong khâu này phải xác định mẫu chứng từ cần dùng để ghi vào
chứng từ các nội dung cơ bản
- Kiểm tra chứng từ và hoàn thiện chứng từ: Đây là khâu xem xét tính hợp
lý hợp pháp của chứng từ. Nếu kiểm tra có sai sót phải có biện pháp sử lý cho
phù hợp. Nếu kiểm tra they thiếu sót phải hoàn chỉnh chứng từ .
- Sử dụng chứng từ : Sau khi kiểm tra và hoàn thiện chứng từ thì chứng từ
được dùng để ghi sổ kế toán.
- Bảo quản và sử dụng lại chứng từ trong kỳ hạch toán. Sau khi chứng từ
đã được ghi sổ kế toán nó chưa được đưa vào lưu trữ nhưng được bảo quản cẩn
thận để có thể dùng lại vào các thời điểm cộng sổ và lập báo cáo quyết toán.
22


- Chuyển chứng từ vào lưu trữ và huỷ. Thời hạn lưu trữ chứng từ phụ thuộc
vào tính chất của từng loại chứng từ. Có chứng từ thời gian lưu trữ ngắn, có
chứng từ thời gian lưu trữ dài, có chứng từ phải lưu trữ vĩnh viễn
2. Kế hoạch luân chuyển chứng từ
Kế hoạch luân chuyển chứng từ là con đường được thiết lập trước cho quá
trình vận động của chứng từ nhằm phát huy đầy đủ các chức năng thông tin và
kiểm tra của chứng từ.
Để xây dựng kế hoạch (chương trình) luân chuyển chứng từ hợp lý cần
xuất phát từ những cơ sở:
- Đặc điểm của đơn vị hạch toán (quy mô, tổ chức sản xuất, quản lý)
- Tình hình tổ chức hệ thống thông tin
- Vị trí và đặc điểm luân chuyển của từng loại chứng từ
Nội dung bắt buộc trong một kế hoạch (chương trình) luân chuyển chứng
từ phải phản ánh được từng khâu vận động của chứng từ như lập, kiểm tra, sử

dụng, lưu trữ. Trong nhiều trường hợp phải xác định rõ địa chỉ (đối tượng hay
người chịu trách nhiệm) trong từng khâu. Trong điều kiện cho phép cần xác định
nội dung công việc của từng khâu và cả thời gian cần thiết cho quá trình vận
động của chứng từ ở mỗi khâu.
3. Nội quy về chứng từ
Để quản lý và sử dụng hợp lý tài sản tăng cường hạch toán kinh doanh cần
đưa công tác chứng từ kế toán vào nền nếp duy trì kỷ cương trong việc thực hiện
các khâu của chứng từ. Cơ sở để tổ chức khoa học công tác chứng từ kế toán yêu
cầu trên là phải xây dựng được các văn bản pháp lý về chứng từ gồm:
- Chế độ chứng từ kế toán: Chế độ chứng từ kế toán thường do Bộ tài
chính - Tổng cục Thống kê phối hợp với các Bộ, ngành chủ quản quy định.
Nội dung của chế độ quy định những điều khoản khoản chung về chứng từ
thống nhất trong một ngành, một thành phần kinh tế hoặc cho cả nước như:
+ Biểu mẫu các loại chứng từ
+ Trình tự chung cho luân chuyển chứng từ
+ Cách tính các chỉ tiêu trên chứng từ
+ Thời gian lập và lưu trữ
+ Người lập, người kiểm tra, người sử dụng, lưu trữ
+ Trách nhiệm vật chất, hành chính và quyền lợi tương ứng trong việc thực
hiện các điều khoản.

23


- Nội quy về chứng từ: Nội quy về chứng từ thuờng do các đơn vị hạch
toán xây dựng với sự hướng dẫn của các cấp, ngành có liên quan với nội dung
phù hợp với chế độ chứng từ và đặc thù riêng của từng ngành, từng cấp.
IV. Kiểm kê

1. Khái niệm về kiểm kê

Kiểm kê tài sản là phương pháp hạch toán nghiệp vụ trực tiếp, kiểm tra tại
chỗ các loại vật tư, tài sản, tiền vốn hiện có đối chiếu với số liệu đã ghi trong sổ
kế toán nhằm xác nhận chính xác số hiện có về tài sản, vật tư tiền vốn và phát
hiện khoản chênh lệch giữa thực tế với sổ kế toán phục vụ công tác quản lý
doanh nghiệp.
2. Các loại kiểm kê
2.1 Theo phạm vi tiến hành kiểm kê: Kiểm kê được chia hai loại:
+ Kiểm kê đầy đủ: áp dụng kiểm tra mặt số lượng hiện vật, hiện có thực tế
của tài sản.
+ Kiểm kê điển hình (chọn mẫu): áp dụng để kiểm tra mặt chất lượng của
vật tư, hàng hoá,
2.2 Theo đối tượng được tiến hành kiểm kê, kiểm kê được chia hai loại:
+ Kiểm kê toàn bộ: là kiểm kê toàn bộ các tài sản của đơn vị, tài sản cố
định, vật tư, thành phẩm, tiền vốn, Loại kiểm kê này tiến hành mỗi năm tiến
hành ít nhất một lần trước khi lập Bảng cân đối kế toán cuối năm.
+ Kiểm kê từng phần: là kiểm kê từng loại tài sản nhất định hoặc kiểm kê
ở từng kho, từng bộ phận trong doanh nghiệp nhằm phục vụ yêu cầu quản lý,
- Theo thời gian tiến hành kiểm kê : chia thành hai loại:
+ Kiểm kê định kỳ: là kiểm kê theo thời gian quy định, tuỳ theo từng loại
tài sản định kỳ kiểm kê khác nhau như: tiền mặt kiểm kê hàng ngày, vật tư, hàng
hoá, thành phẩm kiểm kê hàng tháng, quý, tài sản cố định thường kiểm kê hàng
năm.
+ Kiểm kê bất thường: là kiểm kê đột xuất ngoài kỳ hạn quy định. Kiểm
kê bất thường tiến hành trong trường hợp thay đổi người quản lý tài sản khi có sự
cố phát sinh hưu hao, tổn thất tài sản bất thường hoặc kho cơ quan tài chính, chủ
quản thanh tra, kiểm tra,
3. Phương pháp kiểm kê
3.1. Kiểm kê hiện vật

24



Đối với tài sản cố định, công cụ dụng cụ, vật tư, hàng hoá, được đo
lường bằng thước đo hiện vật thì phương pháp kiểm kê là cân, đo, đong, đếm cụ
thể tại chỗ các loại hiện vật kiểm kê.
Trước khi kiểm kê cần sắp xếp hiện vật theo thứ tự, ngăn nắp, chuẩn bị đủ
phương tiện cân đo cần thiết.
Khi kiểm kê hiện vật phải có mặt người phụ trách vật chất trực tiếp bảo
quản, quản lý tài sản cần kiểm kê tham gia. Phải tiến hành kiểm kê theo một
trình tự hợp lý, tránh trùng lặp hoặc thiết sót. Ngoài việc cân đo, đong đếm số
lượng còn cần quan tâm đánh giá chất lượng hiện vật, phát hiện những trường
hợp tài sản, vật tư hàng hoá, kém phẩm chất.
Kết quả kiểm kê phải được ghi vào các mẫu biểu kiểm kê và phải đối
chiếu kết quả kiểm kê với số liệu trên sổ kế toán, nếu có sai lệch giữa số liệu
kiểm kê thực tế với số dư trên sổ kế toán thì phải lập biên bản. Số chênh lệch
xác định là căn cứ để ghi số điều chỉnh, cũng là tài liệu để phân tích nguyên
nhân chênh lệch và xác định trách nhiệm của người bảo quản.
Đối với vật tư tài sản thuộc quyền sở hữu của đơn vị nhưng nằm ngoài
đơn vị như: vật liệu đưa ngoài gia công, hàng gửi đi bán, tài sản cho thuê, thì
kiểm kê tài sản cũng cần đối chiếu với các đơn vị có liên quan để xác minh số
thực tế có phù hợp với sổ kế toán không.
3.2. Kiểm kê tiền mặt và các chứng khoán có giá trị như tiền:
Tiền mặt ở quỹ kiểm phải phân loại tiền theo từng loại và đếm số tờ của
từng loại để ghi vào mẫu biểu kiểm kê để tính tổng số tiền mặt hiện còn tại quỹ.
Vàng, bạc, đá quý phải kiểm kê cụ thể từng loại về mặt khối lượng, chất
lượng và giá trị bằng tiền.
Các chứng khoán có giá trị cũng phải kê riêng từng loại về chỉ tiêu số
lượng và giá trị để đối chiếu với số liệu tương ứng trong sổ kế toán.
3.3. Kiểm kê tiền gửi ngân hàng và các khoản thanh toán
Phương pháp kiểm kê là đối chiếu số dư của TKtiền gửi ngân hàng với

số dư của tài khoản tiền gửi của đơn vị tại ngân hàng do ngân hàng sao kê báo
cho đơn vị hoặc đơn vị trực tiếp đối chiếu với ngân hàng. Các tài khoản thanh
toán phải kê chi tiết theo từng khách nợ và tiến hành đối chiếu công nợ trực tiếp
với khách nợ khi cần thiết.
Sau khi kiểm kê, các biên bản kiểm kê được gửi cho phòng kế toán để đối
chiếu kết quả kiểm kê với số liệu trên sổ kế toán. Toàn bộ kết quả kiểm kê, kết
25


×