Tải bản đầy đủ (.pdf) (134 trang)

Nghiên Cứu Tạo Vật Liệu Khởi Đầu Phục Vụ Chọn Tạo Giống Bằng Kỹ Thuật Nuôi Cấy Bao Phấn Ở Cây Lúa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 134 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
-------------------------------------------------

ĐÀO XUÂN THANH

NGHIÊN CỨU TẠO VẬT LIỆU KHỞI ĐẦU
PHỤC VỤ CHỌN TẠO GIỐNG BẰNG KỸ THUẬT
NUÔI CẤY BAO PHẤN Ở CÂY LÚA

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

THÁI NGUYÊN, NĂM 2009


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
-----------------------------------------------------

ĐÀO XUÂN THANH

NGHIÊN CỨU TẠO VẬT LIỆU KHỞI ĐẦU
PHỤC VỤ CHỌN TẠO GIỐNG BẰNG KỸ THUẬT
NUÔI CẤY BAO PHẤN Ở CÂY LÚA
CHUYÊN NGÀNH: TRỒNG TRỌT
MÃ SỐ: 60.62.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS.TRẦN NGỌC NGOẠN


PGS.TS.NGÔ XUÂN BÌNH

THÁI NGUYÊN, NĂM 2009


Lêi c¶m ¬n
Để hoàn thành khóa học và thực hiện đề tài, ngoài sự nỗ lực của bản
thân, tôi còn nhận được sự giúp đỡ, chỉ dẫn của các thầy cô giáo Khoa Nông
học, tập thể cán bộ công nhân Trung tâm Thực hành Thực nghiệm - Trường
Đại học Nông lâm Thái Nguyên, bạn bè cùng gia đình.
Nhân dịp này tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn tới tập thể thầy, cô giáo
và cán bộ nhân viên:
Bộ môn công nghệ sinh học - Khoa Nông học - Trường Đại học Nông
lâm Thái Nguyên
Bộ môn Giống cây trồng - Khoa Nông học - Trường Đại học Nông lâm
Thái Nguyên
Đặc biệt cho phép tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới:
PGS.TS.Trần Ngọc Ngoạn – Phó Hiệu Trưởng - Trường Đại học Nông
lâm Thái Nguyên
PGS.TS. Ngô Xuân Bình - Phó trưởng khoa Nông học - Trường Đại học
Nông lâm Thái Nguyên
ThS. Phạm Văn Ngọc - Bộ môn cây trồng - Khoa Nông học - Trường
Đại học Nông lâm Thái Nguyên.
Đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong thời gian vừa qua
Xin kính chúc thầy cô, các anh chị cán bộ cùng bạn bè và gia đình luôn
mạnh khỏe, hạnh phúc và công tác tốt.
Thái Nguyên, ngày 16 tháng 10 năm 2009
Học viên

Đào Xuân Thanh


3


MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Cây lúa (Oryza sativa L) là cây lương thực giữ vai trò quan trọng hàng
đầu. Mỗi năm, khoảng 1/2 dân số thế giới sử dụng lúa gạo làm lương thực
chính. Lúa được trồng phổ biến ở các nước Châu á, Châu Phi, Châu Mĩ La
Tinh. Đối với các nước Châu như: Ấn Độ, Trung Quốc, Inđônêxia, Băngladesh,
Miến Điện, Thái Lan và Việt Nam thì lúa gạo là cây lương thực đặc biệt quan
trọng trong đời sống con người.
Trong những năm gần đây, cùng với đà tăng dân số, sự phát triển mạnh
mẽ của nền công nghiệp và đô thị hoá nông thôn làm cho diện tích đất trồng
trọt ngày càng thu hẹp lại. Nếu mở rộng diện tích sẽ gặp rất nhiều khó khăn
và tốn kém. Để đáp ứng đủ nhu cầu lúa gạo của người tiêu dùng và an ninh
lương thực quốc gia, các nhà tạo giống phải tìm cách làm tăng năng suất, sản
lượng lúa trên diện tích đất trồng không thể mở rộng. Phương án sử dụng các
biện pháp kỹ thuật thâm canh trên những giống lúa cao sản, chịu thâm canh là
thích hợp nhất.
Bằng các phương pháp lai hữu tính, phương pháp chuyển gen bất dục
đực mẫn cảm nhiệt độ vào các giống lúa thuần, phương pháp xử lý đột biến
v.v…các nhà tạo giống đã có nhiều thành công với những giống mới có năng
suất và sản lượng cao. Song việc sử dụng các phương pháp tạo giống như đã
nói ở trên tuy có tạo ra những tổ hợp lai năng suất cao nhưng độ thuần chưa
ổn định. Mặt khác, nếu áp dụng phương pháp chuyển gen bất dục đực mẫn
cảm nhiệt độ vào các giống lúa thuần rồi chọn thuần như các giống lúa thuần
thì phải mất khoảng 10 vụ bởi vì giống bất dục đực mẫn cảm với nhiệt độ chỉ
kết hạt trong điều kiện nhiệt độ < 240C. Như vậy, thời gian từ tạo được giống
đến khi phổ biến sản xuất thực tiễn đại trà phải mất 10 năm. Trong những

năm gần đây, việc ứng dụng biện pháp nuôi cấy bao phấn tạo các dòng nhị

1


bội, nhanh chóng tạo các giống lúa thuần có năng suất cao, chống chịu tốt,
đã thu được nhiều kết quả. Đó là phương pháp tạo dòng thuần nhanh và hiệu
quả nhất.
Tuy nhiên, mỗi dòng lúa với những tính trạng di truyền khác nhau, sẽ
có hàm lượng Auxin trong cây khác nhau do đó sẽ có những phản ứng khác
nhau với điều kiện nuôi cấy. Để thành công trong việc tạo các dòng thuần
bằng kỹ thuật nuôi cấy đó thì phải xác định được những yêu cầu về vật liệu
cấy, môi trường dinh dưỡng, các tác nhân vật lý, hoá học…của các dòng lúa
và đánh giá được khả năng thích ứng của chúng trên đồng ruộng.
Xuất phát từ những vấn đề trên, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên
cứu tạo vật liệu khởi đầu phục vụ chọn tạo giống bằng kỹ thuật nuôi cấy
bao phấn ở cây lúa”
2. Mục đích của đề tài
- Xác định được mức ảnh hưởng của các nhân tố: vật lý, môi trường
nuôi cấy, nồng độ hormon kích thích sinh trưởng đến khả năng tạo mô sẹo, tái
sinh chồi và ra rễ trong quá trình tạo cây lúa hoàn chỉnh bằng phương pháp
nuôi cấy bao phấn.
- Tạo được dòng thuần trong quá trình nuôi cấy
- Bước đầu đánh giá được dòng có triển vọng cho năng suất cao, thích
nghi với điều kiện sinh thái đồng ruộng ở Thái Nguyên, có khả năng làm vật
liệu khởi đầu trong công tác tạo giống lúa ưu thế lai.
3. Yêu cầu của đề tài
- Xác định được thời gian xử lý lạnh thích hợp nhất đối với nuôi cấy
bao phấn lúa
- Xác định được nồng độ chất khử trùng hypocloratnatri thích hợp nhất

cho xử lý mẫu cấy.
- Xác định được ảnh hưởng của môi trường MS và môi trường N6 đến
khả năng tạo mô sẹo

2


- Xác định được nồng độ các chất 2,4 D; NAA thích hợp nhất cho quá
trình tạo mô sẹo của mẫu cấy.
- Xác định được nồng độ các chất Kinetin và BAP thích hợp nhất cho
tái sinh chồi từ mô sẹo.
- Xác định được nồng độ chất NAA thích hợp nhất cho quá trình ra rễ từ
chồi xanh.
- Xác định ảnh hưởng của các loại môi trường thuần dưỡng đến quá
trình sinh trưởng của cây lúa.
- Đánh giá sơ bộ năng suất, các yếu tố cấu thành năng suất và một số
đặc điểm sinh trưởng phát triển, khả năng kháng bệnh của 20 dòng lúa được
tạo ra bằng phương pháp nuôi cấy bao phấn.
4. Ý nghĩa của đề tài
* Ý nghĩa trong nghiên cứu khoa học:
- Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần bổ sung quy trình kỹ thuật tạo cây lúa
thuần đồng hợp tử bằng phương pháp nuôi cấy bao phấn. Từ đó làm cơ sở cho
việc chọn các dòng tế bào như:
+ Chọn dòng kháng sâu bệnh.
+ Chọn dòng chịu thâm canh…
- Lựa chọn sơ bộ được một số dòng thuần, làm vật liệu khởi đầu cho
công tác tạo giống ưu thế lai.
- Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần định hướng, làm tăng tính khả thi cho
những đề tài nghiên cứu về bao phấn lúa tiếp theo.
* Ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất:

Rút ngắn thời gian tạo giống, do đó giảm giá thành sản xuất giống lúa
mới đồng thời nhanh chóng đưa được nhiều giống lúa mới vào sản xuất.

3


CHƯƠNG I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu mô tế bào thực vật
1.1.1. Lịch sử phát triển
Nuôi cấy mô và tế bào thực vật đã được các nhà khoa học tiến hành vào
cuối thế kỷ XIX.
Quá trình phát triển đó có thể tạm chia thành 4 giai đoạn. [12]
1.1.1.1. Giai đoạn khởi xướng (1898-1930)
Phương pháp nuôi cấy mô và tế bào thực vật đã được nhà Bác học
người Đức Grottied Haberlandt đề xướng năm 1898. Ông đã tìm cách nuôi
cấy các tế bào thực vật phân lập nhưng không thành công. Các công trình về
nuôi cấy mô tế bào của các nhà khoa học khác như Winker (1902), Thielman
(1924), Kuster (1929), cũng không đạt được mục tiêu nghiên cứu.
Năm 1929 Schmacker đã bước đầu thành công trong lĩnh vực này. Sau
đó có Schitterer (1931), Pfeiffer (1931), Lanrue (1933) cũng đã có những
thành công bước đầu trong nuôi cấy đầu rễ phân lập trong môi trường nhân
tạo. Điều đó giúp cho các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu trên nhiều đối
tượng khác nhau.
1.1.1.2. Giai đoạn nghiên cứu sinh lý (1930 -1950)
Giai đoạn này được bắt đầu bằng công trình nuôi cấy đầu rễ cây cà
chua trong môi trường nhân tạo, được thực hiện bởi nhà bác học White
(1934). Bằng thí nghiệm này ông là người đầu tiên đã chứng minh được rằng
mô phân sinh có thể duy trì thời gian sinh trưởng hơn nữa nếu chúng tiếp tục
được nuôi cấy bằng môi trường dinh dưỡng mới. Cũng trong thời gian này,

Gautherets đã thành công trong nuôi cấy mô tượng tầng và tìm được môi
trường dinh dưỡng thích hợp cho nhiều loại cây.

4


Năm 1935 Went và Thisnamn đã khám phá ra auxin IAA có khả năng
kích thích sự hình thành mô sẹo.
Năm 1941, hai nhà khoa học người Mỹ Overbeek và Steward với thí
nghiệm nuôi cấy họ cà Datura, đã chỉ ra rằng auxin kích thích sinh trưởng có
trong nước dừa. Cũng trong thời gian này hai ông đã phát hiện ra tác dụng
chất kích thích sinh trưởng nhân tạo thuộc nhóm auxin, đã được nghiên cứu
và tổng hợp thành công như NAA, 2,4 D có ảnh hưởng tích cực trong việc tạo
mô sẹo và gây phân chia tế bào. Nhiều nhà khoa học đã bổ sung các Auxin và
các Vitamin vào môi trường nuôi cấy và đã khẳng định vai trò của chúng
trong môi trường nuôi cấy mô.
Năm 1955 Miller và Skoog trong khi nuôi cấy mô lõi cây thuốc lá đã
xác định được vai trò của Kinetin tới việc kích thích sự phát triển của mô.
Những phát hiện mới mẻ về vai trò của các chất kích thích sinh trưởng 2,4D,
IAA, NAA, kinetin, các vitamin trong giai đoạn này là bước tiến quan trọng
trong lịch sử của phương pháp nuôi cấy mô tế bào thực vật.
1.1.1.3. Giai đoạn phát sinh hình thái (1950 - 1960)
Năm 1956 Miller và Skoog đã thành công trong thí nghiệm tạo chồi từ
mô thuốc lá nuôi cấy. Chính Skoog đã phát hiện ra vai trò của kinetin trong sự
phân hoá các cơ quan của cây thuốc lá.
Những năm 1958-1959 Reinert (Đức) và Steward (Mỹ) đã nuôi cấy tế
bào cây cà rôt và thu được phôi soma từ mô của chúng.
Năm 1956 Nickell đã nuôi cấy thành công tế bào đơn Phaseolus vulgais
trong dung dịch lỏng.
Năm 1960, bằng kỹ thuật gieo tế bào, Bergman đã tái sinh thành công

tế bào đơn của cây thuốc lá.

5


1.1.1.4. Giai đoạn nghiên cứu di truyền (1960 đến nay)
Các thành tựu của giai đoạn này đã chính thức ứng dụng kỹ thuật nuôi
cấy mô và tế bào thực vật invitro vào công tác giống và nghiên cứu di truyền.
Năm 1960 Cooking (Anh) đã dùng men Cellulose để phân hủy vỏ
cellulose của tế bào thực vật và thu được các tế bào không có vỏ, còn gọi là
các tế bào trần (protoplast).
Nitsch (1967), Nakata và Tanaka (1968) là những người thành công
đầu tiên trong việc tạo cây thuốc lá đơn bội bằng kỹ thuật nuôi cấy bao phấn.
Takabe (1971) tái sinh được cây thuốc lá hoàn chỉnh từ protoplast.
Melchers(1977) dung hợp protoplast thành công giữa khoai tây và cà
chua tạo cây “Pomate”
Năm 1985, cây thuốc lá mang gen biến nạp đầu tiên được công bố.
Khái niệm chuyển gen trở thành phổ cập trong thuật ngữ công nghệ sinh học
thực vật. Ledoux cho rằng có thể gây ra biến dị di truyền ở biến dị tế bào,
thậm chí ở hạt giống bằng cách cho chúng hấp thụ ADN ngoại lai.[20]
Từ năm 1980 đến nay, hàng loạt thành công mới trong lĩnh vực công
nghệ được công bố. Nuôi cấy mô tế bào đã trở thành một công cụ không thể
thiếu trong công nghệ tạo giống và nhân giống hiện đại.
Kỹ thuật nuôi cấy mô tế bào đã mang lại những cơ sở lý luận mới mẻ cho
sinh học hiện đại.
1.1.2. Tình hình nuôi cấy bao phấn lúa trên thế giới
Năm 1968 Nishi và cộng sự là những tác giả đầu tiên thành công trong
lĩnh vực nuôi cấy bao phấn trên những cây một lá mầm sau khi công bố kết
quả tái sinh cây lúa hoàn chỉnh từ mô sẹo. Sau đó, hàng loạt các tác giả cũng
công bố những kết quả khả quan như: Chu et. al (1975), Chen (1977), Chalyf

anh Stalanrl (1981), Wang et.al (1982), Mich et.al (1985). Kết quả tạo cây
đơn bội và lưỡng bội thuần thu được chủ yếu ở loài phụ Japonica, đối với loài
phụ Indica thì kết quả chưa cao.

6


Các giống lúa có nguồn gốc họ phụ Indica là những giống lúa khó tính
trong việc nuôi cấy bao phấn. Để tiến tới thành công, các nhà khoa học đã và
đang tìm cách xác định sự ảnh hưởng của các yếu tố có tác động trực tiếp
hoặc gián tiếp đến quá trình nuôi cấy. Các yếu tố đó là: Kiểu gen của cây cho
phấn, giai đoạn phát triển của cây trong thời điểm lấy mẫu, thành phần môi
trường nuôi cấy, các yếu tố vật lý như nhiệt độ, ánh sáng...
* Ảnh hưởng của kiểu gen cây cho bao phấn:
Sự thay đổi của tần số tạo mô sẹo và khả năng tái sinh của mô sẹo ở
phấn hoa phụ thuộc phần lớn vào kiểu gen của cây. Kết quả quan sát của
Oono (1968), Chu (1982), Hu (1985), Zapata (1990) cho thấy sự khác biệt của
các kiểu gen kéo theo sự khác biệt trong khả năng nuôi cấy lúa. Kiểu gen loài
phụ Indica phát triển và tạo mô sẹo kém so với loài phụ Japonica.
Theo Mathias và Fukki (1986) khả năng tái sinh của cây lúa trong nuôi
cấy tế bào bị chi phối bởi sự tương tác tế bào chất, nhân của chính nó.
* Ảnh hưởng của giai đoạn phát triển của cây trong thời điểm lấy mẫu
Các tác giả Oono (1975), Lin (1976), Chen (1977) cho thấy: mẫu bao
phấn được lấy vào thời điểm các tiểu bào tử trong bao phấn đang ở giai đoạn
đơn bào muộn là tốt nhất. Bao phấn ở giai đoạn tứ thể không có khả năng
phát triển trong môi trường nuôi cấy invitro, Bao phấn ở giai đoạn đơn bào
sớm phát triển kém.
Hạt phấn chỉ có thể phát triển tốt khi đã tách ra khỏi tứ tử (giai đoạn
đơn bào giữa đến đơn bào muộn).
*Ảnh hưởng của nhiệt độ và thời gian xử lý đòng

Kêt quả nghiên cứu của Zhou và Cs (1983) đã cho thấy rằng: Xử lý
đòng ở nhiệt độ thấp rất có hiệu quả trong nuôi cấy bao phấn lúa. Điều kiện
lạnh làm tăng khả năng tạo cây xanh.
+ Chaleff và Cs (1975) xử lý đòng ở 60C trong 5 ngày

7


+ Hu và Cs (1978) đã xử lý đòng lúa ở nhiệt độ 100C trong thời gian 4 8 ngày.
+ Matitin và Drimo Millo (1981) đã tiến hành xử lý đòng lúa ở nhiệt độ
2 - 40C trong thời gian 48h.
+ Gupta và Borthakeu (1987) đã xử lý đòng lúa ở nhiệt độ 100C trong
thời gian 11 ngày.
+ Guapta, Quimio và Zapata (1990) xử lý đòng ở 6-80C trong thời gian
8 ngày.
+ Rush và cộng sự (1982) đã tiến hành xử lý đòng lúa ở nhiệt độ 400C
trong thời gian 15 phút.
+ Năm 1886, Torrizo xử lý đòng ở 350C trong 15 phút cũng cho kết quả
khả quan.
Nói chung, đã có nhiều thí nghiệm nghiên cứu về sự ảnh hưởng của
nhiệt độ và thởi gian xử lý đòng đến kết quả nuôi cấy bao phấn lúa. Kết quả
nghiên cứu của các tác giả cho thấy rằng xử lý đòng ở nhiệt độ khác nhau sẽ
cho những kết quả nuôi cấy khác nhau
* Ảnh hưởng của nồng độ Cacbon đến quá trình tạo mô sẹo và tái
sinh cây.
Nồng độ cacbon có thể làm thay đổi tỷ lệ hình thành mô sẹo và khả
năng tái sinh cây trong nuôi cấy bao phấn lúa.
Chen (1978) cho biết đường có tác dụng làm thay đổi áp suất thẩm thấu
của môi trường nuôi cấy. Nồng độ đường trong môi trường nuôi cấy từ 6 - 8%
sẽ làm tăng cả hai quá trình hình thành mô sẹo và tái sinh tiếp theo.

Năm 1988 Kim và Paghavan thông báo rằng: Tỷ lệ hình thành mô sẹo từ
bao phấn sẽ giảm đi khi nồng độ đường trong môi trường nuôi cấy cao (8 -12%)
* Ảnh hưởng của chất điều hoà sinh trưởng đến quá trình tạo mô sẹo
và tái sinh cây.

8


Trong kỹ thuật nuôi cấy bao phấn lúa, các chất điều hoà sinh trưỏng có
thể sử dụng ở dạng đơn hay kết hợp theo những tỷ lệ khác nhau
Năm 1980, Khi nuôi cấy bao phấn lúa Japonica, Yang và cộng sự đã
sử dụng kết hợp NAA 4mg/l + 2,4D 1mg/l + IAA 2mg/l + Kinetin 3mg/l .
Kết quả cho thấy rằng nếu môi trường tạo mô sẹo có chứa 2,4D nồng độ
1mg/l thì mô sẹo dễ dàng tái sinh thành cây.
Theo Wasakd (1982): IAA xúc tiến quá trình hình thành rễ, Sự kết hợp
các auxin: IAA, NAA, Kinetin một cách hợp lý sẽ xúc tiến mạnh mẽ quá
trình phân hoá tế bào và tái sinh cây xanh.
Nhìn chung, các chất tham gia vào môi trường nuôi cấy bao phấn lúa
như chất điều hoà sinh trưởng, muối, đường, sắt, Vitamin..... đều có sự ảnh
hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng chung đến kết quả của quá trình nuôi cấy.
* Ảnh hưởng của các yếu tố vật lý trong môi trường
Các yếu tố vật lý của môi trường bao gồm:
+ Trạng thái vật lý của môi trường ở dạng rắn hay lỏng
+ Độ pH môi trường
+ Độ ẩm không khí
+ Ánh sáng và nhiệt độ của phòng nuôi cấy
Các yếu tố trên tác dụng trực tiếp đến sự hình thành mô sẹo và khả
năng tái sinh chồi.
Kết quả nghiên cứu lúa mỳ của Bjarmsta (1989) cho thấy rằng xử lý
ánh sáng cường độ cao sẽ kìm hãm quá trình tạo mô sẹo nhưng lại kích thích

quá trình tạo cây xanh, ánh sáng yếu hoặc ánh sáng khuyếch tán không ảnh
hưởng gì đến khả năng tạo mô sẹo của mẫu cấy.
* Ảnh hưởng của các môi trường khác nhau đến quá trình nuôi cấy bao phấn.
Các môi trường khác nhau sẽ cho những kết quả nuôi cấy bao phấn là
khác nhau. Năm 1962 Dono thông báo môi trường Murashige and skoog là
môi trường thích hợp nhất cho nuôi cấy bao phấn. Đến năm 1975 thì Chu và

9


Cs lại thông báo rằng môi trường N6 là môi trường tốt nhất cho nuôi cấy bao
phấn lúa.
Năm 1974, hai nhóm nghiên cứu của Chen và Wang đã thành công lớn
khi sử dụng môi trường Miller trong nuôi cấy bao phấn lúa.
Rất nhiều tác giả có chung một kết luận rằng: môi trường có nồng độ
muối vô cơ cao sẽ rất thích hợp cho phân hoá mô sẹo.
1.1.3. Tình hình nuôi cấy bao phấn ở Việt Nam
Ở nước ta, nghiên cứu nuôi cấy mô thực vật mới bắt đầu từ năm 1975.
[16]. Kỹ thuật nhân giống invitro đã được tiến hành trên nhiều đối tượng thực
vật khác nhau như: chuối, khoai tây, cà chua, ngô, lúa, phong lan…và cũng đã
đạt được những kết quả nhất định, làm tăng hệ số nhân giống và tạo được
giống mới sạch bệnh ở các loại cây này.
Kỹ thuật nuôi cấy bao phấn lúa được ứng dụng rất sớm vào công tác
chọn tạo giống và đã được tiến hành ở những cơ quan nghiên cứu khoa học,
các trường đại học. Phương pháp này được thực hiện có sự trợ giúp của công
nghệ sinh học nhằm chuyển lạp gen, gây áp lực bằng điều kiện ngoại cảnh bất
lợi ở mức độ tế bào (rét, nóng, bệnh hai…), nuôi cấy bao phấn, dung hợp tế
bào trần, nuôi cấy phôi lúa. Bằng công nghệ sinh học người ta có thể chủ
động chuyển thêm một số gen mới có lợi đã được nghiên cứu kỹ vào cây lúa
như gen kháng bạc lá, gen chịu phèn, gen chịu rét, gen chịu mặn…Tuy nhiên

số lượng những giống lúa đạt năng suất, chất lượng được tạo ra chưa nhiều.
Đỗ Năng Vịnh và Lê Thị Diệu Muội [15] đã nghiên cứu một số yếu tố
ảnh hưởng đến khả năng tạo thành mô sẹo và tạo thành cây lúa từ hạt phấn
bằng phương pháp nuôi cấy invitro.
Sau nhiều năm tiến hành nghiên cứu về nuôi cấy bao phấn, năm 1993
Nguyễn Hữu Hổ và Nguyễn Văn Uyển đã có những kết luận sau:
- Trong mô túi phấn có chất ức chế ảnh hưởng tới sự phát triển hạt phấn

10


- Giữa phôi dinh dưỡng và hạt phấn hoặc là giữa các phôi với nhau
luôn luôn có sự cạnh tranh làm ức chế quá trình tái sinh cây.
- Trong môi trường nuôi cấy, phôi dinh dưỡng nhị bội phát triển mạnh
hơn hạt phấn tách rời dẫn đến kết quả là mô sẹo nhị bội chiếm ưu thế so với
mô sẹo đơn bội.
Để loại bỏ các nhân tố cạnh tranh đối với sự phát triển của hạt phấn,
các nhà nghiên cứu đã tiến hành nuôi phấn hạt phấn sau khi đã tách rời khỏi
mô túi phấn. Song kết quả đạt được vẫn còn rát khiêm tốn. Thực tế cho thấy
tỷ lệ mô sẹo hình thành thấp, sức tái sinh cây từ mô sẹo cũng không cao.
Cũng trong thời gian này, các tác giả đã thử nghiệm nuôi cấy bao phấn
lúa trong môi trường lỏng và rút ra kết luân:
+ Môi trường lỏng thuận lợi cho sự hấp thu dinh dưỡng hơn môi trường rắn.
+ Các chất độc do hạt phấn chết tạo ra không có tác động xấu tới các
hạt phấn khác bởi vì nó đã bị khuyếch tán vào môi trường lỏng.
Năm 1994, Viện di truyền nông nghiệp công bố quá trình nuôi cấy bao
phấn, nâng cao tỉ lệ tạo mô sẹo và khả năng tái sinh của cây đơn bội (Nguyễn
Văn Đồng, Vũ Đức Quang, Phạm Ngọc Lương, Trần Duy Quý 1994).
Từ năm 1994 – 2001, đã có công trình nghiên cứu nuôi cấy bao phấn
lúa mới để chọn tạo nguồn vật liệu khởi đầu phục vụ phát triển lúa lai đựơc

công bố (Viện di truyền nồng nghiệp 1997 - 2000).
Các nhà khoa học Việt Nam đã đạt được một số thành tựu có ý nghĩa to
lớn trong sản suất. Tại viện Di Truyền Nông nghiệp, phương pháp nuôi cấy
bao phấn kết hợp với chọn dòng biến dị đã tạo ra 50 dòng bất dục phản ứng
với nhiệt độ (TGMS) mới , trong đó 5 dòng được xác định là có tính bất dục
ổn định, có ưu thế lai cao khi lai tạo và đang được sử dụng trong chọn giống
lúa lai 2 dòng.
Bằng phương pháp nuôi cấy bao phấn đã tạo ra 12 dòng, giống thuần
có ưu thế lai gần tương đương với con lai F1 các dòng giống có triển vọng

11


gồm DT26, DT29, DT32, AC22, AC23, AC24, AC25,....đang được khảo
nghiệm. Nhờ nuôi cấy bao phấn lúa có thể rút ngắn thời gian chọn giống mới
xuống từ 4-6 thế hệ. Kỹ thuật đơn bội invitro cũng đang được triển khai mạnh
trong chọn giống ở Viện lúa Đồng bằng sông Cửu Long, Viện công nghệ sinh
học...[9].
Những năm gần đây, Vũ Đức Quang và cộng sự đã tiến hành nghiên
cứu và cải tiến môi trường N6 thành môi trường HD. Ông cho rằng môi
trường HD có ưu điểm vượt trội so với môi trường N6 và là môi trường tốt
nhất cho sự phát triển của bao phấn lúa.
Viện Di truyền nông nghiệp Hà Nội đã tạo ra 3 giống lúa quốc gia
DT10, A20, DT11 bằng phương pháp gây đột biến.
1.2. Khái niệm nhân giống Invitro
Nhân giông vô tính invitro là phương pháp sản xuất hàng loạt cây con
từ các bộ phận của cây (các cơ quan, mô, tế bào) bằng cách nuôi cấy chúng
trong ống nghiệm ở điều kiện vô trùng tuyệt đối có môi trường nuôi cấy thích
hợp và được kiểm soát [1]
Mọi cơ thể sinh vật phức tạp đều gồm nhiều đơn vị nhỏ là các tế bào

hợp thành. Các tế bào đã phân hóa đều mang các thông tin có trong các tế bào
đầu tiên và là những tế bào độc lập, từ đó để xây dựng lại toàn bộ cơ thể.
1.3. Cơ sở khoa học của nuôi cấy Invitro
1.3.1. Tính toàn năng của tế bào
Haberlandt (1902) là người đầu tiên đề xuất phương pháp nuôi cấy mô
và tế bào thực vật để chứng minh tính toàn năng của tế bào.
Haberlandt cho rằng mỗi tế bào của bất kỳ sinh vật nào cũng đều có khả
năng tiềm tàng để phát triển thành một cơ thể hoàn chỉnh. Ông nhận thấy rằng,
mỗi tế bào của cơ thể đa bào đều phát sinh từ hợp bào thông qua quá trình
phân bào nguyên nhiễm. Điều đó có nghĩa là mỗi tế bào của một sinh vật sẽ
chứa toàn bộ thông tin di truyền cần thiết của một cơ thể hoàn chỉnh. Khi gặp

12


điều kiện thuận lợi nhất định, những tế bào đó có thể sẽ phát triển thành một
cơ thể hoàn chỉnh. [11]
Miller và Skoog (1956) đã tạo chồi thành công từ mô thuốc lá nuôi cấy,
chứng minh được tính toàn năng của tế bào. Thành công trên đã tạo ra công
nghệ mới: Công nghệ sinh học ứng dụng trong nhân giống vô tính, tạo giống
cây trồng và dòng chống chịu.
Tính toàn năng của tế bào mà Haberlandt nêu ra chính là cơ sở lý luận
của phương pháp nuôi cấy mô và tế bào thực vật. Cho đến nay, con người đã
hoàn toàn chứng minh được khả năng tái sinh một cơ thể thực vật hoàn chỉnh
từ một tế bào riêng rẽ.
1.3.2. Sự phân hoá và phản phân hoá tế bào
Cơ thể thực vật trưởng thành là một chỉnh thể thống nhất bao gồm
nhiều cơ quan chức năng khác nhau, trong đó có nhiều loại tế bào khác nhau.
Mỗi tế bào khác nhau sẽ thực hiện một chức năng cụ thể khác nhau
Song, mọi tế bào đều được tạo thành từ tế bào phôi sinh.[12]

Sự phân hoá tế bào là sự chuyển các tế bào phôi sinh thành các tế bào
của mô chuyển hoá, đảm nhận các chức năng khác nhau trong cơ thể. Quá
trình phân hoá của tế bào có thể biểu thị như sau:
Tế bào phôi sinh

Tế bào giãn

Tế bào chuyên hoá
chức năng riêng

Mặc dù các tế bào đã chuyển hoá thành các mô chức năng nhưng chúng
vẫn giữ nguyên khả năng phân chia. Trong điều kiện thích hợp, các tế bào lại
có thể trở về dạng tế bào phôi sinh và phân chia mạnh mẽ. Quá trình đó được
gọi là phản phân hoá tế bào, (ngược lại với quá trình phân hoá tế bào). Tuy
nhiên, khi tế bào đã phân hoá thành các tế bào có chức năng chuyên biệt,
chúng không hoàn toàn mất khả năng biến đổi của mình. Trong điều kiện cần
thiết ở điều kiện thích hợp, chúng lại có thể trở về dạng tế bào phôi sinh và

13


phân chia mạnh mẽ. Quá trình đó gọi là phản phân hoá tế bào, ngược lại với
quá trình phân hoá tế bào.
Quá trình phát sinh hình thái trong quá trình nuôi cấy mô, tế bào thực
vật thực chất là kết quả của quá trình phân hóa và phản phân hóa tế bào. Kỹ
thuật nuôi cấy mô, tế bào xét cho cùng là kỹ thuật điều khiển sự phát sinh
hình thái của tế bào thực vật một cách định hướng dựa vào sự phân hóa và
phản phân hóa của tế bào trên cơ sở tính toàn năng của tế bào thực vật. Để
điều khiển sự phát sinh hình thái của mô nuôi cấy, người ta thường bổ sung
vào môi trường nuôi cấy 2 nhóm chất điều tiết sinh trưởng thực vật là auxin

và cytokinin. Nếu tỷ lệ auxin/cytokinin thấp thì sự phát sinh hình thái theo
hướng tạo chồi; nếu tỷ lệ này cao thì tạo thành rễ, còn khi tỷ lệ này cân bằng
thì sẽ phát sinh theo hướng tạo mô sẹo. [3].
1.3.3. Cơ chế di truyền thông qua các hệ tế bào
Cơ chế di truyền thông qua các thế hệ tế bào bao gồm các công đoạn:
Trong quá trình nguyên phân, từ một tế bào mẹ sẽ nhân đôi, tạo ra 2 tế bào
con giống nhau và giống tế bào mẹ ban đầu. Như vậy qua nguyên phân bộ
NST trong nội bộ từng cơ thể được diễn ra theo cơ chế nguyên phân, đây là
cơ chế phân bào mà từ một tế bào ban đầu sẽ phân chia thành hai tế bào con
có bộ NST giống bộ NST của tế bào mẹ đã truyền nguyên vẹn sang tế bào
con. Sở dĩ có hiện tượng này là do trước mỗi lần giảm phân, mỗi phân tử
ADN đã thực hiện quá trình tái sinh để từ mỗi phân tử ADN hình thành 2
phân tử ADN giống nhau và giống ADN ban đầu. Quá trình này được thực
hiện ở kỳ trung gian và thông qua cơ chế phân ly đều của NST ở kỳ sau, là cơ
sở cho sự truyền nguyên vẹn thông tin di truyền trong nội bộ cơ thể.
Giữa 2 thế hệ cơ thể được hình thành thông qua cơ chế giảm phân đã
làm cho ở thế hệ đời sau có hiện tượng phân ly tính trạng, do bộ NST của thế
hệ sau không giống nhau và không giống bố mẹ. Vì vậy việc duy trì các tính
trạng mong muốn ở bố mẹ sang thế hệ sau bằng sinh sản hữu tính sẽ không

14


thể đảm bảo hoàn toàn chắc chắn. Đây là một trở ngại lớn trong sinh sản hữu
tính. Ngày nay bằng phương pháp sinh sản vô tính, người ta đã khắc phục
được nhược điểm này. Đặc biệt là nhân giống vô tính in vitro.
Dựa trên cơ chế nguyên phân, trong nhân giống invitro khi lấy các bộ
phận sinh dưỡng trong một cây đem nhân giống thì các bộ phận đó có thông
tin di truyền giống nhau và tạo nên các cơ thể mới có thông tin di truyền
giống nhau và giống cơ thể mẹ. Như vậy nếu cơ thể mẹ có các tính trạng di

truyền tốt thì các tính trạng đó sẽ được thể hiện ở mọi cơ thể con cái. [9]
1.3.4. Môi trường nuôi cấy (môi trường dinh dưỡng)
1.3.4.1. Khái niệm
Môi trường nuôi cấy là điều kiện vô cùng quan trọng, có tính chất
quyết định sự phân hoá tế bào và cơ quan trong nuôi cấy.
Theo Street [23] thì môi trường nuôi cấy và môi trường xung quanh là
những nhân tố quyết định sự thành công hoặc thất bại của quá trình nuôi cấy
invitro. Môi trường nuôi cấy là nguồn cung cấp các chất cần thiết cho sự phân
chia và phân hoá của mô tế bào trong suốt quá trình nuôi cấy. Vì vậy, môi
trường dinh dưỡng phải đầy đủ chất dinh dưỡng, các chất cần thiết.
Đối với hầu hết các loài thực vật, Môi trường nuôi cấy bao gồm các
nguyên tố đa lượng, vi lượng, nguồn các bon, các axitamin, các chất điều hoà
sinh trưởng và một số chất phụ gia. Thành phần dinh dưỡng, hàm lượng các
chất cần thiết cho tế bào sinh trưởng tốt nhất thay đổi tuỳ theo từng loài,
giống, nguồn gốc mẫu cấy hay từng cơ quan khác nhau trên cùng một cơ thể.
1.3.4.2. Một số môi trường cơ bản
Đã có rất nhiều môi trường dinh dưỡng lần lượt được tìm ra trên cơ sở
cải tiến môi trường của Kotte và Robbin (1902) như: Môi trường White
(1934), Knudson (1946), Vacin và Went (1949), Heller(1953), Murasnige Skoog (1962), Gammborg (B5) (1968), Knop (1974), WMR (1982), Aderson
(1984),… Tuy nhiên, mỗi môi trường chỉ thích hợp với một loài cây nhất định

15


như: Môi trường Knudson (1946), Vacin và Went (1949), chỉ thích hợp cho
các loài Lan, môi trường Murasnige - Skoog (1962) thích hợp cho cácloài cây
thân thảo và một số loài cây thân gỗ sinh trưởng nhanh như Keo, Bạch
đàn…Môi trường WMP chỉ thích hợp cho các loài cây thân gỗ.[9]
Tuỳ thuộc vào từng đối tượng cụ thể, trong mỗi giai đoạn nuôi cấy, mà
lựa chọn loại môi trường thích hợp thì mới có kết quả khả quan. Thông

thường, người ta hay sử dụng môi trường MS và môi trường N6 cho nhân
giống Invitro.
* Môi trường MS:
Các thành phần cơ bản của môi trường MS (Murashige- skoog) [1]:
bao gồm:
- Các nguyên tố đa lượng:
Bao gồm: N, P, K, S, Mg, Ca,… thường được sử dụng ở nồng độ
30ppm. Thành phần, tỷ lệ của từng chất ở mỗi nuôi trường nuôi cấy cụ thể là
khác nhau, môi trường giàu nitro thích hợp cho việc hình thành chồi, môi
trường giàu kali có tác dụng xúc tiến mạnh quá trình trao đổi chất
- Các nguyên tố vi lượng:
Fe, Cu, Zn, Mn, Mo, Bo, Co, I …là các nguyên tố vi lượng thường
được dùng trong môi trường nuôi cấy invitro. Các nguyên tố này đóng vai trò
rất quan trọng trong các hoạt động của Enzim.
Các nguyên tố vi lượng thường được dùng ở nồng độ thấp hơn so với
các nguyên tốa đa lượng
- Nguồn cacbon
Mặc dù dưới ánh sáng nhân tạo, cây Invitro có khả năng hình thành
diệp lục và quang hợp. Song, khả năng tổng hợp cacbon của chúng rất kém do
đó các mô thực vật sống theo phương thức dị dưỡng là chính. Các mô tế bào
sống nhờ nguồn cacbon lấy từ đường trong môi trường dinh dưỡng. Có hai loại

16


đường được sử dụng chủ yếu là sacarose và glucose với nồng độ thay đổi từ 20
– 40g/l tuỳ theo từng loài thực vật và mục đích nuôi cấy.
- Các vitamin
Trong quá trình nuôi cấy, cây invitro có thể tự tổng hợp được một số
vitamin cần thiết nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu sinh trưởng. Do đó người

ta thường bổ sung một số vitamin nhóm B như: B1, B2, B3, B5, B6...ở nồng
độ 1mg/l; Dung dịch vitamin dễ bị hỏng do nấm, khuẩn nhiễm tạp và bị phân
huỷ ở nhiệt độ cao. Vì vậy cần bảo quản trong điều kiện lạnh dưới 00C hoặc
chỉ pha chế trước khi sử dụng. Ngoài ra, bổ sung một lượng tương đối lớn
myo-inositol : 50 - 500mg/l, để thúc đẩy sự phân chia mô tế bào.
- Các chất phụ gia hữu cơ khác
Nước dừa, thanh hoạt tính, dịch chiết nấm men...có tác dụng kích thích
sự sinh trưởng của mô sẹo nên thường được dùng lam chất phụ gia.
Trong nước dừa có chứa đường, các axitamin, axit hữu cơ, đặc biệt
trong nước dừa có chứa các hợp chất quan trọng cho nuôi cấy mô. đó là myoinositol, các hợp chất có hoạt tính auxin, các gluxit của xytokinin. Nước dừa
tỏ ra có tác dụng vượt trội trong các môi trường nhân nhanh chồi.
- Các chất điều tiết sinh trưởng
Các chất điều tiết sinh trưởng đóng vai trò quan trọng nhất trong quá
trình nuôi cấy invitro, là yếu tố quyết định sự thành bại của quá trình nuôi
cấy. Các hoormon tự nhiên có tác dụng đến sự biến đổi sinh lý, sinh hoá trong
cây, đặc biệt ở các cơ quan chồi và rễ.
Hoormon thực vật là những hợp chất hữu cơ do thực vật sinh sản ở
nồng độ thấp làm nhiệm vụ điều tiết các quá trình sinh trưởng của cây. Có 5
nhóm chất điều tiết sinh trưởng của thực vật đã được phát hiện, đó là: auxin,
xytokinin, gibberellin, absixic axit và ethylen. Trong đó, auxin và xytokinin là
hai nhóm chất được sử dụng nhiều hơn cả.
- Auxin:

17


Auxin là hoormon sinh trưởng. Tác dụng chủ yếu của Auxin là kích
thích sự giãn tế bào, làm tăng phân bào, sự hình thành mô sẹo và sự xuất hiện
rễ bất định.
Các Auxin thường được sử dụng trong nuôi cấy mô là:

+ 2,4 Dicloro phenoxy axetic axit (2,4 D);
+ α – Naphtylaxetic axit(α –NAA);
+ Indolaxit axetic ( IAA).
+ Indol butyric acid (IBA).
Riêng IAA là auxin tự nhiên còn NAA, IBA và 2.4D là các auxin nhân
tạo, auxin nhân tạo có hoạt tính mạnh hơn auxin tự nhiên, do cấu trúc phân tử
khá bền vững nên auxin nhân tạo khó bị oxy hóa bởi các enzyme. Kinh
nghiệm sử dụng auxin trong nuôi cấy cho kết quả cao là sử dụng auxin với
nồng độ cao tại thời điểm ban đầu sau đó giảm dần để tránh tình trạng mô bị
“say” và nhiễm độc. Nồng độ auxin thường dùng từ 0,001 – 10mg/l môi
trường nuôi cấy.
- Cytokinin (hoormon phân bào):
Các hợp chất cytokinin kích thích sự phân bào và sự phân hoá chồi bất
định. Việc điều chỉnh tỷ lệ auxin/cytokinin trong môi trường nuôi cấy quyết
định sự phân hóa tế bào theo hướng tạo mô sẹo, tạo chồi, tạo rễ hay tạo phôi
soma. Có 3 loại cytokinin chính được sử dụng trong nuôi cấy mô là:
+ Kinetin: Kinetin được hình thành từ chế phẩm AND ở điều kiện nhiệt
độ cao. Trong cơ thể sống có thể không có kinetin tồn tại, sản phẩm này kích
thích sự tạo thành chồi mô nuôi cấy.
+ Zeatin: Tác dụng tương tự kinetin nhưng giá thành của zeatin khá
cao nên chỉ dùng trong những trường hợp thật đặc biệt.
+ 6-Benzylaminopurine (BAP): Tác dụng của BAP giống kinetin
nhưng hoạt tính của BAP cao hơn nhiều so với kinetin và bền vững hơn zeatin
ở nhiệt độ cao.

18


+ Nhóm xytokinin : Các chất thuộc nhóm xytokinin đang được sử dụng
chủ yếu là :

Kinetin (K), benzyl adenin purin (BAP), zeatin trong đó BAP và K
được sử dụng rộng rãi nhất vì giá không đắt lại có hoạt tính cao.
- Chất làm đông cứng môi trường – agar
Mỗi loài thực vật thích hợp với môi trường giá thể khác nhau người ta
thường sử dụng thạch Aga – một loại polysacarrit làm từ rong biển, có khả
năng ngậm nước cao, để làm đông cứng môi trường nuôi cấy. Aga tan ở
1000C, đông đặc ở 450 Trong môi trường axit, aga không có khả năng đông
đặc. Nồng độ thường dùng từ 0,4% - 0,8% (tức 4 - 8 g/l) tuỳ thuộc vào độ tinh
khiết và từng loại môi trường.
Ví dụ : Đối với cây lúa, hàm luợng aga thích hợp từ 5,5 – 6,5 g/l.
- pH môi trường : pH môi trường là yếu tố rất quan trọng, có tác động
rất lớn đến quá trình trao đổi chất của tế bào. Độ pH môi trường ảnh hưởng
trực tiếp tới quá trình thu nhận các chất dinh dưỡng từ môi trường vào trong
tế bào. Các hợp chất đặc biệt mẫn cảm với pH môi trường là NAA, GA3, và
cỏc vitamin. Ngoài ra, hàng loạt các hợp chất sắt cũng phụ thuộc vào độ pH.
Khoảng pH thích hợp nhất cho nuôi cấy invitro là 5,5 – 5,8. Độ pH nhỏ hơn
4.5 hoặc lớn hơn 7 đều gây ức chế quá trình sinh trưởng của cây
Có thể dùng dung dịch KOH 1N, NaOH 1N hay HCl 1N với nồng độ
10% để điều chỉnh độ pH môi trường.
* Môi trường Chu (N6)
Đây là môi trường rất hiệu quả trong nuôi cấy bao phấn lúa và các loài
cây hoà thảo khác.
1.3.5. Điều kiện vô trùng
Nuôi cấy Invitro là nuôi cấy trong điều kiện vô trùng. Nếu không đảm
bảo tốt điều kiện vô trùng mẫu nuôi cấy hoặc môi trường sẽ bị nhiễm, mô

19


nuôi cấy sẽ bị chết. Điều kiện vô trùng có ý nghĩa quyết đến sự thành bại của

của nuôi cấy mô invitro [12].
Phương pháp vô trùng vật liệu thông dụng nhất hiện nay là dùng các
chất hóa học, tia cực tím có khả năng diệt nấm và vi khuẩn.
Vô trùng ban đầu là một thao tác khó và là khâu đầu tiên có ý nghĩa
quyết định. Tuy vậy, nếu tìm được nồng độ và thời gian xử lý thích hợp sẽ
cho tỷ lệ sống cao, thông thường hay sử dụng một số hóa chất như HgCl2
0.1%, NaHCl 10%, nước javen, cồn 760, clorox,…để khử trùng.
Phương tiện khử trùng: Nồi hấp vô trùng, tủ sấy, buồng và bàn cấy vô
trùng, phòng nuôi cây.
1.3.6. Điều kiện ánh sáng và nhiệt độ
Ánh sáng và nhịêt độ là hai yếu tố chính có ảnh hưởng cơ bản đến quá
trình sinh trưởng của mô nuôi cấy [5]
1.3.6.1. Ánh sáng:
Sự phát sinh hình thái của mô nuôi cấy chịu ảnh hưởng từ các yếu tố
như: thời gian chiếu sáng, cường độ ánh sáng và chất lượng ánh sáng.Thời
gian chiếu sáng tác động đến quá trình phát triển của mô nuôi cấy. Thời gian
chiếu sáng thích hợp với đa số các loài cây là 12 – 18 h/ngày.
Cường độ ánh sáng tác động đến sự phát sinh hình thái của mô nuôi
cấy. Theo Ammirato (1986): cường độ ánh sáng cao kích thích sự sinh trưởng
của mô sẹo. ngược lại, cường độ ánh sáng thấp kích thích sự tạo chồi. Nhìn
chung cường độ ánh sáng thích hợp cho mô nuôi cấy là 1000 - 7000 lux
(Morein, 1974), ngoài ra chất lượng ánh sáng cũng ảnh hưởng tới sự phát sinh
hình thái của mô thực vật invitro: ánh sáng đỏ làm tăng chiều cao của thân
chồi hơn so với ánh sáng trắng. Nếu mô nuôi cấy trong ánh sáng xanh thì sẽ
ức chế vươn cao nhưng lại có ảnh hưởng tốt tới sự sinh trưởng của mô sẹo.

20


Hiện nay trong các phòng thí nghiệm nuôi cấy mô để cung cấp nguồn

ánh sáng có cường độ 2000 - 2500 lux người ta sử dụng các dàn đèn huỳnh
quang đặt cách bình nuôi cấy từ 35- 40cm.
1.3.6.2. Nhiệt độ
Trong nuôi cấy mô tế bào thực vật, nhiệt độ là nhân tố quan trọng ảnh
hưởng tới sự phân chia tế bào và các quá trình sinh hóa trong cây. Tùy thuộc
vào xuất xứ của mẫu nuôi cấy mà điều chỉnh nhiệt độ cho phù hợp. Nhìn
chung nhiệt độ thích hợp nhất cho sự sinh trưởng tốt ở nhiều loài cây là 250C
(white, 1973).
1.3.7. Vật liệu nuôi cấy
Để bắt đầu quá trình nhân giống vô tính cho 1 loài hoặc 1 dòng người
ta phải chú trọng trước nhất là vật liệu nuôi cấy. Đây là bước đầu tiên và là
khâu quan trọng quyết định đến sự thành bại và tốc độ sinh trưởng của quá
trình nhân giống. Theo nguyên tắc, bất kỳ một tế bào trong cơ thể đều có khả
năng tái sinh thành một cây hoàn chỉnh trong điều kiện thích hợp. Tuy vậy để
có tốc độ tái sinh, sức sống, sức chống chịu của cây con cao thì khả năng đó
còn tùy thuộc vào tuổi sinh lý của vật liệu nuôi cấy [11].
Trong nuôi cấy mô người ta thường sử dụng vật liệu nuôi cấy như đỉnh
sinh trưởng, chồi, bao phấn, gieo qua hạt, thân mầm….
1.3.8. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình nuôi cấy mô, tế bào
1.3.8.1. Kiểu gen của cây cho bao phấn
Kiểu gen của cây cho bao phấn nuôi cấy có ảnh hưởng rất lớn đến kết
quả nuôi cấy. Nuôi cấy bao phấn của các giống lúa thuộc loài phụ Japonica
(kể cả trường hợp không xử lý lạnh trước) đều đạt tỷ lệ thành cây thường cao
hơn nuôi cấy bao phấn của các giống lúa thuộc loài phụ Indica. Chen và Lin
(1981) còn thấy rằng tỷ lệ bao phấn tạo callus, khả năng callus tái sinh thành
cây, tỷ lệ cây xanh/cây bạch tạng và số lượng nhiễm sắc thể của cây tái sinh
đều liên quan đến kiểu gen của cây cho bao phấn. Điều này chứng tỏ khả

21



năng nuôi cấy bao phấn lúa cũng do gen điều khiển, đối với những giống
phản ứng tốt có thể chứa nhiều gen tác động lên quá trình này.
Để tăng hiệu quả nuôi cấy có thể bằng cách lai tạo nhằm cải tiến giống.
Ví dụ : ở khoai tây kiểu gen phản ứng tốt có thể thu được bằng cách lai giữa
kiểu gen phản ứng kém với kiểu gen phản ứng tốt.
Phải thay đổi điều kiện và môi trường nuôi cấy cho từng loại cây trồng
thậm chí cho từng giống cây trong cùng một loài.
1.3.8.2. Giai đoạn phát triển của bao phấn
Giai đoạn phát triển của bao phấn tại thời điểm tách rời ra và nuôi cấy
cũng có ảnh hưởng rất quan trọng đến kết quả nuôi cấy. Đối với lúa giai đoạn
phản ứng tốt nhất là trước và giữa giai đoạn hạt phấn một nhân trong điều kiện
nồng độ đường trong môi trường nuôi cấy tăng từ 6% đến 9% (Chen, 1978).
Các tác giả Oono (1975), Lin (1976) và Chen (1977) cho thấy: Mẫu
bao phấn được lấy vào thời điểm các tiểu bào tử trong bao phấn đang ở giai
đoạn đơn bào muộn là tốt nhất. Bao phấn ở giai đoạn tứ thể không có khả
năng phát triển trong môi trường nuôi cấy invitro. Bao phấn ở giai đoạn đơn
bào sớm phát triển kém. Hạt phấn chỉ có thể phát triển tốt khi đã tách ra khỏi
tứ tử (giai đoạn đơn bào giữa đến đơn bào muộn).
1.3.8.3. Điều kiện sinh lý của cây cho bao phấn
Chen và Lin (1976), Chen và Tsay (1984) cho rằng bao phấn nào được
lấy ở những bông trỗ sớm thì cho kết quả nuôi cấy tốt hơn bao phấn lấy ở
những bông trỗ muộn. Tỷ lệ tạo callus ở bao phấn lấy từ nhánh cấp 3 thấp hơn
bao phấn từ nhánh cấp 1, cấp 2 và từ cây mẹ. Lý do bao phấn từ nhánh cấp 3
cho hiệu quả nuôi cấy kém hơn có thể những nhánh này thiếu dinh dưỡng.Tuy
nhiên không có sự sai khác giữa những hoa ở các vị trí khác nhau trên cùng
một nhánh. Nhìn chung cây nào sinh trưởng khoẻ, trong điều kiên môi trường
dinh dưỡng tối ưu, có cường độ ánh sáng mạnh thường cho bao phấn có tỷ lệ
thành cây cao.


22


×