Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

PHƯƠNG PHÁP LUYỆN CHỮ CHO học SINH lớp 2 THÔNG QUA PHÂN môn tập VIẾT ở TRƯỜNG TIỂU học VIỆT TIẾN VĨNH bảo hải PHÒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.21 KB, 37 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC VÀ MẦM NON

----------

PHƯƠNG PHÁP LUYỆN CHỮ CHO HỌC SINH LỚP 2
THÔNG QUA PHÂN MÔN TẬP VIẾT Ở TRƯỜNG
TIỂU HỌC VIỆT TIẾN-VĨNH BẢO-HẢI PHÒNG

SINH VIÊN THỰC HIỆN : TRỊNH THỊ DIỆU HOA
LỚP : ĐH GDTH2.K15
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN:

1

TS.ĐỖ THỊ COỎNG


Hải Phòng, tháng 5 năm 2016

2


PHƯƠNG PHÁP LUYỆN CHỮ CHO HỌC SINH LỚP 2
THÔNG QUA PHÂN MÔN TẬP VIẾT Ở TRƯỜNG
TIỂU HỌC VIỆT TIẾN-VĨNH BẢO-HẢI PHỊNG

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Trong cuộc sống con người ln có nhu cầu giao lưu về tình cảm với
nhau, nhằm truyền đạt những khái niệm, tri thức…cho nhau, chính vì vậy mà


ngơn ngữ xuất hiện.Cùng với ngơn ngữ người ta dùng cử chỉ, điệu bộ, hình
vẽ… để phụ giúp cho ngôn ngữ trong việc biểu lộ cảm xúc, truyền đạt thông
tin cho nhau và cuối cùng là chữ viết đã xuất hiện. Đó là bước ngoặt trong
lịch sử văn minh của loài người.Chữ viết trở thành một cơng cụ vơ cùng quan
trọng trong việc hình thành và phát triển văn hoá, văn minh của mỗi dân
tộc;là một trong những công cụ giao tiếp và trao đổi thông tin thuận lợi, là
phương tiện để ghi chép và tiếp nhận những tri thức văn hoá, khoa học và đời
sống.Con người không phải từ khi cắp sách đến trường đã biết viết chữ mà
phải trải qua một quá trình rèn luyện rất kiên trì. Từ xa xưa đã có tấm gương
rèn luyện của ông Cao Bá Quát, một người nổi tiếng “văn hay chữ tốt” ở ngoại
thành Hà Nội. Từ một người viết xấu đến mức không ai đọc được, nhưng nhờ
có lịng kiên trì luyện tập mà ơng trở thành một người có tài viết đủ các loại
chữ, mà chữ nào cũng đẹp, cũng rõ ràng.Chữ viết là một trong những phương
tiện giao tiếp giữa con người với con người, muốn cho mọi người đọc được
chữ viết của mình, người viết phải viết đúng, rõ ràng, sạch đẹp.Chưa cần biết
nội dung văn bản đó viết như thế nào nhưng nếu chữ viết đúng,rõ ràng, sạch
đẹp thường làm cho người đọc có cảm tình ngay.Chính vì chữ viết quan trọng
như vậy mà trong nhà trường nhất là bậc Tiểu học, học sinh phải được học
tập viết, chính tả,… nhằm rèn luyện kỹ năng viết chữ ngay từ những ngày đầu
cắp sách đến trường.Chữ viết có mối liên hệ với tâm hồn và tính cách con
người.Ơng cha ta đã có câu:“ Nét chữ nết người” –nét chữ thể hiện tính cách
con người,đồng thời thông qua rèn chữ viết để giáo dục tính cách con
người.Nhìn chữ viết của con người chúng ta có thể phỏng đốn được phần
nào tính cách,tâm hồn.Chữ đẹp chính là 1 truyền thống cần giữ gìn.Là 1
người dành nhiều tâm huyết cho giáo dục tiểu học,Giáo sư Hồ Ngọc Đại cho
3


rằng chữ đẹp là truyền thống của người Việt và cần phải giữ gìn.Viết chữ đẹp
cịn nhằm tơn vinh vẻ đẹp của chữ Việt,thể hiện sự gìn giữ giá trị văn hóa

Việt.Bởi vậy vấn đề rèn luyện chữ viết cho học sinh Tiều học là vô cùng quan
trọng và cấp thiết bởi chữ viết của học sinh, đặc biệt là của học sinh đầu cấp
Tiểu học đặt nền móng cơ bản cho tồn bộ q trình học tập, rèn luyện cho
học sinh những phẩm chất đạo đức tốt như: tinh thần kỷ luật, tính cẩn
thận,kiên trì và óc thẩm mĩ. Cố vấn Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Chữ viết
cũng là một biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn
thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lịng tự trọng
đối với mình cũng như với thầy và bạn đọc bài vở của mình...”
Hiện nay,chúng ta đang ở trong một thời đại mới,thời đại cơng nghiệp
hóa,hiện đại hóa đất nước,thời đại công nghệ thông tin bùng nổ,mọi người
thường ngồi với chiếc máy tính của mình thay vì cầm bút viết trên giấy,và
việc rèn chữ viết của mọi người dần bị chìm vào quên lãng.Ở trường học cũng
vậy,trong những năm gần đây,hiện trạng học sinh viết chữ xấu ,khơng đúng
chuẩn cịn khá phổ biến ở hầu hết các trường Tiểu học, Trung học cơ
sở,Trung học phổ thông và cả Đại học,Cao đẳng.Đây là vấn đề đang được các
nhà giáo dục học và xã hội học quan tâm và tìm hướng giải quyết.Ta thường
nghe giáo viên than vãn những bài viết của học sinh mà giáo viên không thể
đọc được khi chấm bài do các em viết cẩu thả,nhất là học sinh bậc Tiểu
học.Là một giáo viên tiểu học tương lai,tôi rất băn khoăn về điều này bởi đây
chính là bậc học được coi là “nền tảng” trong quá trình giáo dục một con
người tồn diện.Tính đến nay,Bộ Giáo Dục đã nhiều lần ban hành những quy
định về thay đổi chữ viết ở Tiểu học. Sau nhiều lần thay đổi, chúng ta lại quay
trở về vơi mẫu chữ mềm mại, thanh gọn trước kia nhằm giúp học sinh viết
chữ đẹp và có thẩm mĩ hơn. Tuy nhiên, sau mỗi lần thay đổi như vậy lại có
những điều làm được và chưa làm được. Thực trạng chữ viết của học sinh
hiện nay còn xấu và thiếu chính xác. Các em cịn viết sai, viết quá chậm hay có
những học sinh viết tốt, nhanh, làm tính giỏi nhưng viết q xấu, trình bày
khơng sạch sẽ, rõ ràng thì khơng thể trở thành một học sinh giỏi tồn diện
được. Điều đó ảnh hưởng khơng nhỏ đến chất lượng học Tiếng Việt nói riêng
và các mơn học khác nói chung.Tập viết là một trong những phân mơn có tầm

quan trọng đặc biệt trong bậc tiểu học.Tập viết có liên quan mật thiết đến
chất lượng học tập ở các mơn học khác.Nếu chữ viết rõ ràng thì học sinh có
điều kiện ghi bài nhanh hơn và ơn tập lại dễ hơn.Qua sự rèn luyện trong môn
Tập viết sẽ giúp học sinh viết đẹp hơn, sạch hơn và cẩn thận hơn. Đó cũng là
4


nhằm nâng cao chất lượng dạy- học ở Tiểu học nói chung và dạy – học chữ
viết nói riêng.Việc dạy tập viết sao cho đúng quy trình, đúng phương pháp, có
hiệu quả để nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh địi hỏi người giáo viên
phải có sự tìm tòi, nghiên cứu và khổ luyện sao cho chữ viết của cơ đúng là
mẫu của trị.Nhất là đối với các em học sinh lớp 2 vừa từ lớp 1 lên, các em
mới bước đầu làm quen với cách viết chữ nhỏ, kỹ năng viết chữ của các em
còn nhiều hạn chế. Các em chỉ mới viết ở mức độ tương đối, ghi nhớ các nét
cơ bản còn chưa chắc chắn, nét chữ còn vụng về. Tốc độ viết còn chậm, kĩ
thuật viết và độ điêu luyện chưa cao. Khi các em lên học lớp 2 yêu cầu chữ
viết ở mức độ cao hơn, có chiều sâu hơn. Học lớp 2, các em một lần nữa được
củng cố chữ viết và tăng tốc độ viết, độ nét, kĩ thuật.
Hiện nay,qua theo dõi,tình trạng học sinh viết chữ xấu,viết ẩu rất
nhiều.Từ đó ảnh hưởng phần nào đến chất lượng giáo dục ở tiểu học nói
chung cũng như ảnh hưởng đến kết quả các phong trào thi đua “Dạy tốt-Học
tốt” của nhà trường nói riêng.Qua đó, ta thấy chữ viết của học sinh lớp 2 là
hết sức quan trọng.Muốn học sinh viết đúng,đẹp,giữ gìn sách vở cẩn
thận,trước hết và chủ yếu có sự dạy dỗ công phu của các thầy cô theo phương
pháp khoa học và kinh nghiệm đã được đúc kết cùng với sự kèm cặp thường
xuyên,sâu sát của các bậc phụ huynh,sự nỗ lực kiên trì của mỗi học sinh.Cụ
thể là đối với khối lớp 2,giáo viên phải tăng cường rèn luyện chữ viết cho học
sinh để làm tiền đề cho các lớp trên. Từ việc thấy được tầm quan trọng của
mơn tập viết, tơi đa đi sâu tìm hiểu, học hỏi và nghiên cứu ra những yếu
tố,biện pháp giúp học sinh viết chữ đẹp , mong các em trở thành những con

người phát triển tồn diện, có ích cho đất nước.Đó chính là lí do tơi mạnh dạn
thực hiện đề tài: “Phương pháp luyện chữ cho học sinh lớp 2 thông qua
phân môn tập viết ở trường Tiểu học Việt Tiến-Vĩnh Bảo-Hải Phịng”.
2.Mục đích nghiên cứu
-Qua đề tài này, tơi muốn góp phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng
dạy học phân mơn Tập viết : Tìm hiểu nội dung, biện pháp dạy và một số biện
pháp rèn kĩ năng viết đúng, đẹp trong phân môn tập viết nhằm nâng cao chất
lượng dạy-học chữ viết cho học sinh lớp 2, giúp giáo viên nắm chắc chương
trình, mẫu chữ viết và sử dụng các phương pháp dạy học cho phù hợp, rèn
luyện cho học sinh lớp 2 viết đẹp hơn, tốt hơn, làm cho chất lượng chữ viết
của học sinh được nâng cao .
-Trên cơ sở đánh giá thực trạng và mức độ thành công của việc rèn chữ
viết cho học sinh lớp 2,xác định nguyên nhân thành công và từ đó nâng cao
chất lượng chữ viết ở lớp 2 nói riêng, ở trường tiểu học nói chung.
5


- Thơng qua q trình nghiên cứu,hồn thành đề tài,giúp tơi có thêm
những kinh nghiệm về những lỗi của học sinh trong quá trình viết,những
nguyên nhân khiến học sinh viết chưa đẹp,chưa đúng chuẩn ở Tiểu học từ đó
đề ra biện pháp rèn luyện sao cho học sinhTiểu học,đặc biệt là học sinh khối
lớp 2 hạn chế tình trạng viết sai,viết ngoáy,viết cẩu thả,nhằm phấn đấu rèn
luyện cho đại đa số học sinh đều trở thành những người “văn hay chữ tốt” .
-Nghiên cứu đề tài sẽ giúp ích cho tơi trong q trình học tập cũng như
trong cơng tác giảng dạy sau này,bởi vì đây là vấn đề phổ biến mà học sinh ở
hầu hết các trường Tiểu học nói chung và trường Tiểu học Việt Tiến (Vĩnh
Bảo-Hải Phịng) nói riêng đều mắc phải,đồng thời giúp tơi hiểu thêm đặc
điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu học nhằm phục vụ cho công việc giảng dạy
sau này.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu

3.1. Đối tư ợng nghiên cứu
Phương pháp luyện chữ cho học sinh lớp 2 thông qua phân môn tập
viết ở trường Tiểu học Việt Tiến-Vĩnh Bảo-Hải Phòng
3.2. Khách thể nghiên cứu
-Giáo viên Trường tiểu học Việt Tiến – xã Việt Tiến - huyện Vĩnh Bảo TP Hải Phòng
- 35 học sinh lớp 2B và học sinh khối 2 - Trường tiểu học Việt Tiến – xã
Việt Tiến - huyện Vĩnh Bảo - TP Hải Phòng
4.Giả thuyết khoa học
Tơi giả định rằng nếu trong q trình dạy học, giáo viên biết áp dụng
những biện pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp 2 như trong đề tài này một
cách phù hợp thì chất lượng chữ viết của học sinh sẽ được nâng lên rõ rệt.
Trên cơ sở đó, xây dựng các quy trình hướng dẫn học sinh vận dụng thì hiệu
quả của việc dạy học sẽ được nâng cao.
5.Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1.Cơ sở lí luận về phương pháp luyện chữ cho học sinh lớp 2 thông
qua phân môn Tập viết
5.2.Thực trạng về phương pháp luyện chữ cho học sinh lớp 2 thông qua
phân môn Tập viết ở trường tiểu học Việt Tiến-Vĩnh bảo-Hải Phòng
6


6.Phạm vi nghiên cứu
-Địa điểm: Trường Tiểu học Tân Liên, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải
Phòng.
-Thời gian: Nghiên cứu từ ngày 01 tháng 3 năm 2016 đến ngày 31
tháng 3 năm 2016.
7.Phương pháp nghiên cứu
Để đảm bảo tính chính xác và khoa học của đề tài nghiên cứu tôi phối
hợp một số phương pháp sau:
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận

Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa, chuẩn kiến thức kĩ năng cơ
bản môn Tập viết lớp 2, phương pháp giảng dạy thông qua sách giáo viên, tài
liệu bồi dưỡng phương pháp giảng dạy các mơn học, Tạp chí giáo dục tiểu
học hàng tháng, sách tham khảo về phương pháp dạy học…
7.2. Phương pháp quan sát
Thông qua dự giờ.
7.3. Phương pháp điều tra
Sử dụng phiếu điều tra anket để tìm hiểu thực trạng việc dạy tập viết
cho học sinh lớp 2.
7.4. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
7.5. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
7.6. Phương pháp Toán
Thống kê Toán học để xử lý số liệu thu được.
7.7. Phương pháp phỏng vấn sâu
8. Đóng góp của đề tài
Phân tích vấn đề dạy tập viết cho học sinh lớp 2.
Tìm hiểu thực trạng việc dạy-học tập viết cho học sinh lớp 2 ở trường
Tiểu học Việt Tiến
7


Đề xuất một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 học tập viết hiệu quả.

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHƯƠNG PHÁP LUYỆN
CHỮ CHO HỌC SINH LỚP 2 THÔNG QUA
PHÂN MÔN TẬP VIẾT
1.1.Lịch sử nghiên cứu về phương pháp luyện chữ cho học sinh lớp 2 thông
qua phân môn tập viết
Như đã nói ở trên,việc rèn chữ cho học sinh được sự quan tâm của rất

nhiều người.Do đó,có nhiều nhà nghiên cứu đã đi vào khai thác đề tài này
như trong quyển “Tiếng Việt thực hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo” (Dự án
phát triển giáo viên Tiểu học) , “phương pháp dạy học Tiếng Việt” của nhóm
tác giả Lê Phương Nga (chủ biên)-Lê A-Đặng Kim Nga-Đỗ Xuân Thảo, “Tiếng
Việt” của Bộ Giáo dục và Đào tạo (Dự án phát triển giáo viên Tiểu học), “Rèn
luyện kỹ năng thực hành Tiếng Việt cho học sinh Tiểu học” của nhóm tác giả
Hồng Thị Mai (chủ biên)-Lê Thị Lan Anh-Nguyễn Văn Đơng-Mai Hải
Yến...Qua các cơng trình nghiên cứu trên,tơi nhận thấy các tác giả đã hướng
dẫn việc rèn chữ viết cho học sinh một cách bao quát.Riêng vấn đề rèn chữ
cho học sinh tiểu học ở từng vùng,từng địa phương vẫn chưa được đề cập
nhiều.Đặc biệt, việc rèn chữ viết cho học sinh Tiểu học ở các trường Tiểu học
nói chung và học sinh trường Tiểu học Việt Tiến (Vĩnh Bảo-Hải Phịng) nói
riêng vẫn chưa được tác giả nào nghiên cứu.Do vậy, tơi mong rằng đề tài này
có thể góp phần vào hệ thống các cơng trình nghiên cứu về việc rèn chữ viết.
1.2.Cơ sở lí luận về phương pháp luyện chữ cho học sinh lớp 2 thông qua
phân môn tập viết
1.2.1.Khái quát chung về chữ viết Tiếng Việt
8


1.2.1.1.Lịch sử hình thành chữ viết
Chữ Hán vào Việt Nam theo con đường giao lưu văn hóa bắt đầu từ
thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên.Chữ Hán cổ xuất hiện ở Việt Nam
khá sớm và thực sự trở thành phương tiện ghi chép và truyền thông trong
người Việt kể từ những thế kỷ đầu Công nguyên trở đi.Đến thế kỷ VII-XI chữ
Hán và tiếng Hán được sử dụng ngày càng rộng rãi ở Việt Nam.Thời kỳ này
tiếng Hán được sử dụng như một công cụ giao tiếp,giao lưu kinh tế thương
mại với Trung Quốc.Đó là do Việt Nam bị ánh đơ hộ của triều đình phong kiến
phương Bắc trong khoảng thời gian hơn một ngàn năm.Từ sau thế kỷ thứ X
tuy Việt Nam giành được độc lập tự chủ, thốt khỏi ánh thống trị của triều

đình phong kiến phương Bắc,nhưng chữ Hán và tiếng Hán vẫn tiếp tục là một
phương tiện quan trọng để phát triển văn hóa Việt Nam.Do ý thức dân tộc
mạnh mẽ cùng với sự khẳng định về lãnh thổ và lịch sử riêng biệt,một nền
văn hóa riêng biệt,người Việt Nam thấy cần thiết phải tạo ra một thứ chữ của
riêng mình.Chữ Nơm được nảy sinh từ rất sớm,phát triển từ thời Lý-Trần và
đã trở thành ngôn ngữ sử dụng trong thơ xướng họa của vua quan thời Lê
(hội nhị thập tao đàn bát tú). Đời nhà Nguyễn,Triều Minh Mạng (1820-1840)
lại bỏ chữ Nôm.Chữ Nôm chỉ còn lại trong dân gian.Vào thế kỷ thứ XVI các
nhà truyền giáo phương Tây đã đến xứ ta. Việc phổ cập một lối ghi âm mới
trong Tiếng Việt lại đi song hành với cuộc xâm lược của thực dân Pháp,đã
làm nhiều người Việt Nam khó cháp nhận.Người ta căm thù bọn xâm lược và
ghét lây cả những người cố đạo sang truyền giáo ở Việt Nam.Những người
tri thưc Việt Nam-bộ phận nhạy cảm nhất của dân tộc-đã sớm nhìn ra việc lợi
hại của thứ chữ này và vượt qua sự mặc cảm cùng sự kỳ thị ngoại lai thường
có ở những người dân mất nước,họ cổ vũ việc dùng thứ chữ trên,in sách,in
báo nhằm truyền bá nó trong quảng đại quần chúng và gọi nó là chữ Quốc
ngữ,nhận nó là chữ của nước mình.Và chữ Quốc ngữ,trong gần 100 năm qua
đã tỏ rõ sức mạnh thần kỳ của nó khi biểu thị cách phát âm đa cung bậc của
Tiếng Việt,trình bày được tư tưởng,bộc bạch mọi tâm trạng,cảm xúc của
người Việt Nam.So với chữ nôm,chữ Quốc ngữ tiện lợi hơn.Trải qua nhiều
giai đoạn,chữ Quốc ngữ ngày nay đã trở thành thứ chữ viết duy nhất trong cả
nước được mọi tầng lớp từ trí thức đến bình dân thừa nhận,sử dụng bởi nó
có khả năng ghi chép tương đối chính xác nhất cách phát âm 6 thanh của
người Việt.
1.2.1.2.Quan niệm về chữ đẹp
9


Bàn về chữ đẹp,mỗi thời đại đều có quan điểm khac nhau và cũng chưa
có sự thống nhất.Thời kỳ phong kiến,khi chữ Hán trở thành văn tự chính

trong giao tiếp và học tập thì chữ đẹp phải “vng vức”,nét phải như “phượng
múa rồng bay” và thể hiện được “chí khí hoài bão của người quân tử”.Nhà
văn Nguyễn Tuân trong tác phẩm “Chữ người tử tù”,cho ta thấy quan niệm về
chữ đẹp thời đó là:chữ phải vng,đẹp và người viết cũng như người chơi
chữ phải có thiên lương trong sáng.Trải qua thời gian,quan niệm về chữ đẹp
có sự thay đổi.Hiện nay,phong trào tổ chức rèn chữ đẹp và thi viết chữ đẹp
khá phổ biến nhưng “chuẩn chữ đẹp” vẫn chưa có sự thống nhất cao độ.Dựa
vào quy định mẫu chữ viết của Bộ Giáo dục và Đào tạo,chữ được xem là đẹp
nếu hội tụ đầy đủ những yếu tố sau:









Dáng chữ : thẳng nét, đều đặn, rõ ràng các con chữ
Liền mạch : các chữ đều có nét nối mềm mại, hợp lý
Độ cao,rộng :
 Đúng độ cao, cân đối (theo hướng dẫn hiện hành của Bộ)
 Độ cao 1 thân con chữ (a, o, i ...)
 Độ cao 1 thân rưỡi (t )
 Độ cao 2 rưỡi thân chữ (l, h, k ...)
 Độ rộng thân chữ bằng 2/3 độ cao
Khoảng cách :
 Chữ nọ cách chữ kia 1 con chữ o
 Các con chữ trong 1 chữ cách nhau ½ chữ o (ước chừng vừa đều
nét,không

Sạch sẽ : không tẩy xóa, khơng viết lem bẩn
Trình bày :
 Trình bày phần đầu, tựa bài cân xứng với bài viết
 Bài viết cân đối trên giấy, trình bày đúng quy cách bài viết chính tả
 Viết hoa đúng
 Trình bày tồn bài cân xứng với khuôn khổ giấy
1.2.1.3.Đặc điểm cơ bản của chữ viết Tiếng Việt hiện nay (chữ Quốc

ngữ)
1.2.1.3.1. Khái niệm chữ viết
Chữ viết là 1 hệ thống tín hiệu bằng đường nét được sử dụng để ghi lại
ngôn ngữ âm thanh .Với sự ra đời của chữ viết,hoạt động giao tiếp bằng ngôn
ngữ của con người được chuyển từ dạng âm thanh-thính giác sang dạng
đường nét-thị giác; do đó nó trở nên chính xác,chuẩn mực hơn,có thể tiến
hành trong 1 thời gian lâu bền,trong 1 không gian rộng lớn.
10


1.2.1.3.2.Đặc điểm của chữ viết tiếng Việt
Chữ viết tiếng Việt hiện nay đang được sử dụng là chữ Quốc ngữ.Đó là
chữ theo nguyên tắc ghi âm vị.Nghĩa là,căn cứ để viết chữ là âm thanh chứ
không phải ý nghĩa của tiếng ,từ.Mặt khác, mỗi ký hiệu chữ viết (gọi tắt là
chữ cái) dùng để ghi 1 âm vị.Muốn ghi âm tiêt hay từ thì phải kết hợp các chữ
cái để ghi các âm vị trong thành phần của âm tiết hay từ đó.Theo nguyên tắc
ghi âm vị,chữ Quốc ngữ có những ưu điểm sau:
+ Có sự phù hợp và thống nhất cao giữa âm và các chữ nên rất dễ đọc,
dễ nhớ, dễ học
+ Số lượng các chữ cái không nhiều, bởi vì số lượng các âm vị trong
Tiếng Việt khơng nhiều.Cụ thể,tiếng Việt có khoảng trên 50 âm vị (gồm phụ
âm đầu, âm đệm, âm chính,âm cuối và thanh điệu) nên chữ Quốc ngữ của ta

chỉ có 29 chữ cái và 6 dấu thanh
+ GIống như loại chữ ghi âm vị nói chung,khả năng ghi lại âm thanh
của chữ quốc ngữ rất lớn,chỉ cần người viết tri giác đúng,phân tích đúng âm
thanh và lựa chọn đúng chữ cái ghi âm.
Tuy nhiên,dù luôn được cải tiến nhưng chữ quốc ngữ hiện vẫn có 1 số
hạn chế sau:
+ Chưa thực hiện triệt để nguyên tắc ghi âm vị,nghĩa là nguyên tắc mỗi
chữ cái để ghi một âm vị và mỗi âm vị chỉ ghi bằng một chữ cái
đọc

+ Dùng nhiều dấu phụ nên gây rắc rối,phiền phức khi viết,khi in, khi

+ Vẫn có một số vần khơng phản ánh đúng thành phần âm của âm tiết.
(Ví dụ: ia (trong “kia”), iê (trong “kiên”), yê (trong “khuyên”) chỉ là các hình
thức chữ viết khác nhau của nguyên âm đôi /ie/.
Mặc dù vậy,chữ Quốc ngữ- chữ Việt hiện nay vẫn là một thứ chữ tiên
tiến,có nhiều ưu thế và tiện lợi trong việc ghi lại tiếng nói,âm thanh và lưu
giữ thơng tin của các cuộc giao tiếp.
1.2.1.3.3.Chữ cái tiếng Việt
Để ghi âm tiếng Việt,chữ Quốc ngữ đã sử dụng 29 chữ cái (a, ă, â, b, c,
d, đ, e, ê, g, h, i, k, l, m, n, o, ô, ơ, p, q, r, s, t, u, ư, v, x, y), 10 tổ hợp chữ cái ghi
phị âm (ch, gh, gi, kh, ng, ngh, nh, ph, th, tr) và 6 dấu thanh (thanh ngang,
thanh huyền, thanh hỏi, thanh ngã,thanh sắc,thanh nặng) để ghi thanh
11


điệu.Các con chữ trong bảng chữ cái tiếng Việt được sắp xếp theo một thứ tự
cố định (theo thứ tự bảng chữ cái Lating).Việc thuộc lòng thứ tự bảng chữ
cái,thứ tự các dấu ghi thanh điệu như đã nói ở trên là 1 yêu cầu tối thiểu,phục
vụ cho việc dạy tập viết ở Tiểu học,ứng dụng trong nhiều công việc của giáo

viên như tra cứu từ điển,lập danh sách học sinh 1 cách khoa học,chính xác...

1.2.2. Khái niệm về luyện chữ viết cho học sinh lớp 2
1.2.5.1.Luyện chữ cho học sinh lớp 2
Chữ viết là 1 công cụ giao tiếp và trao đổi thông tin, là phương tiện để
ghi chép và tiếp nhận những tri thức văn hóa,khoa học và đời sống... Do vậy ở
trường Tiểu học việc dạy học sinh biết chữ và từng bước làm chủ công cụ chữ
viết để phục vụ cho học tập và giao tiếp là yêu cầu quan trọng hàng đầu của
môn Tiếng Việt.Lớp 2 là lớp học sinh đầu cấp Tiểu học, khả năng viết chữ của
học sinh còn hạn chế.So với chương trình lớp 1,nội dung của phân mơn tập
viết lớp 2 có những yêu cầu cụ thể như đã nêu ở trên.Để thực hiện nhiệm vụ
này,giáo viên phải giúp học sinh có những hiểu biết nhất định về mẫu chữ hoa
do Bộ mới ban hành nhằm tạo điều kiện cho các em rền kỹ năng viết chữ cụ
thể:
+ Nhớ được hình dáng các chữ cái viết hoa theo mẫu quy định
+ Nắm được kích cỡ của từng chữ cái viết hoa (thể hiện trong khung
chữ,trong mối quan hệ với chữ cái viết thường
1.2.5.2.Tầm quan trọng của việc luyện chữ cho học sinh lớp 2
Viết chữ đẹp là 1 cách giáo dục tâm hồn trẻ.Viết chữ đẹp cũng là một
cách để thể hiện cái đẹp,mà cái đẹp thì bao giờ cũng rất đáng quý.Đối với học
sinh lớp 2,trên cơ sở học sinh biết viết các chữ hoa theo đúng quy định về hình
dáng, kích cỡ (vừa và nhỏ), thao tác viết (đưa bút,rê bút,nhấc bút) theo đúng
quy trình viết. Biết viết các cụm từ ứng dụng của từng bài,từ đó hình thành
cho các em kỹ năng viết chữ rèn luyện cho các em những phẩm chất đạo đức
tốt như: tinh thần kỷ luật, tính cẩn thận, khéo léo, kiên trì, sự chăm chỉ, ham
hiểu biết, óc thẩm mĩ và hứng thú viết chữ đẹp.Việc luyện chữ viết cho học
sinh lớp 2 giúp các em dần hình thành kỹ năng viết chữ đẹp làm nền móng
cho các lớp trên.
1.2.3.Tìm hiểu về mơn Tập viết ở Tiểu học
12



1.2.3.1.Khái quát về môn tập viết ở Tiểu học
Tập viết là một trong những phân mơn có tầm quan trọng đặc biệt ở
tiểu học, nhất là đối với các lớp đầu cấp. Phân môn tập viết trang bị cho học
sinh bộ chữ La Tinh và những yêu cầu về kỹ thuật để sử dụng bộ chữ cái này
trong học tập và giao tiếp. Với ý nghĩa này, tập viết không những có quan hệ
mật thiết tới chất lượng học tập của các mơn học khác mà cịn góp phần rèn
luyện một trong những kỹ năng hàng đầu của việc học Tiếng Việt trong nhà
trường – kỹ năng chữ viết. Nếu viết đúng, viết đẹp, tốc độ nhanh thì học sinh
có điều kiện ghi chép bài học tốt, nhờ vậy kết quả học tập sẽ cao hơn. Viết xấu,
chậm sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập.
Mặt khác tập viết là phân mơn có tính chất thực hành. Tính chất thực
hành có mục đích của việc dạy học tập viết cũng góp phần khẳng định vị trí
quan trọng của phân mơn này ở Tiểu học.
Ngồi ra tập viết cịn góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học
sinh những phẩm chất đạo đức tốt như tính cẩn thận, tính kỷ luật và khiếu
thẩm
mỹ.
Đặc biệt theo chương trình sách giáo khoa mới ở tiểu học và theo quyết
định số 31/2002/QĐ-BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo về mẫu
chữ viết trong trường tiểu học thì tính chất thực hành của phân môn Tập viết
càng thể hiện rõ. Qua việc thực hành của học sinh, người giáo viên lại một lần
nữa rèn cho học sinh tính cẩn thận và khiếu thẩm mỹ của các em.
Trong một năm học, học sinh được học 35 tiết Tập viết, như vậy mỗi tuần có 1
tiết tập viết. Ở lớp 2 học sinh học viết các chữ cái viết hoa, tiếp tục luyện cách
viết các chữ viết thường và tập nối nét chữ từ chữ hoa sang chữ thường.
Trong mỗi tiết tập viết, học sinh được hướng dẫn và tập viết từng chữ cái viết
hoa, sau đó tập viết cụm từ hoặc câu ứng dụng (có nội dung phù hợp với chủ
điểm và tương đối dễ hiểu) có chữ hoa ấy.

1.2.3.2.Chương trình và vở tập viết lớp 2
1.2.3.2.1.Số bài,thời lượng học
Mỗi tuần có một bài tập viết học trong một tiết. Trong cả năm học, học
sinh được học 35 tiết viết và 2 tiết kiểm tra dành cho cuối kỳ I và cuối kỳ II.
1.2.3.2.2.Nội dung
13


+ Về tri thức
Dạy cho học sinh những khái niệm cơ bản,các khái niệm liên kết chữ
cái...Từ đó hình thành ở các em những biểu tượng về hình dáng,độ cao,sự cân
đối,tính thẩm mỹ của chữ viết.Tiếp tục rèn luyện cho học sinh kỹ năng viết các
chữ thường theo cỡ nhỏ đã học ở lớp 1 nhưng mức độ yêu cầu được nâng
cao: viết đúng mẫu và đều nét. Ở lớp 1 các em mới được làm quen với cách
viết chữ thường cỡ vừa và nhỏ và chữ hoa qua hình thức tập tô trong giai
đoạn luyện tập tổng hợp ở học kỳ 2 .Lên lớp 2, các em sẽ được làm quen với
cách viết chữ hoa cỡ vừa và nhỏ; tập nối nét từ chữ hoa sang chữ thường; tập
viết các cụm từ; các câu ứng dụng có chữ hoa ấy; kiểu viết chữ nghiêng cỡ
nhỏ; kiểu viết chữ đứng cỡ vừa và nhỏ kĩ hơn, sâu sắc hơn.
+ Về kỹ năng
Dạy cho học sinh các thao tác viết chữ từ đơn giản đến phức tạp,bao
gồm kỹ năng viết chữ liên kết,tạo chữ cái và liên kết chữ cái tạo chữ ghi
tiếng.Đồng thời giúp các em xác định khoảng cách,vị trí cỡ chữ trên vở,hình
thành kĩ năng viết đúng mẫu rõ ràng và cao hơn là viết nhanh viết đẹp
Ngoài ra tư thế ngồi viết,cách cầm bút,để vở,cách trình bày bài viết,giữ
vở sạch,thói quen cẩn thận và tốc độ nhanh khi viết,cũng là kĩ năng đặc thù
của việc dạy mà giáo viên cần thường xuyên quan tâm.
1.2.3.2.3.Sách giáo khoa,sách giáo viên
Nội dung bài tập viết trong SGK Tiếng việt 2 (Viết chữ hoa-viết ứng
dụng) được cụ thể hóa thành các yêu cầu luyện tập trong vở tập viết 2.

Trong cả năm học, học sinh sẽ được học viết toàn bộ bảng chữ cái viết
hoa do Bộ Giáo dục Đào tạo ban hành (gồm 29 chữ cái viết hoa theo kiểu 1 và
5 chữ viết hoa theo kiểu 2).Cụ thể:
+ 26 chữ cái viết hoa (kiểu 1 và kiểu 2) được dạy trong 26 tuần.Mỗi
tuần 1 tiết,mỗi tiết dạy một chữ cái viết hoa theo thứ tự bảng chữ cái tiếng
Việt:
+ 8 chữ cái viết hoa (kiểu 1) được dạy trong 4 tuần.Mỗi tuần dạy 2 chữ
cái viết hoa có hình dạng gần giống nhau: Ă-Â, E-Ê, Ô-Ơ, U-Ư. Cuối năm học
(tuần 34) có 1 tiết ơn cách viết chữ hoa kiểu 2. Riêng 4 tuần ôn tập (tuần 2, 9,
18, 35) SGK không ấn định nội dung tiết dạy Tập viết trên lớp nhưng vở Tập
viết lớp 2 vẫn biên soạn nội dung ôn luyện ở nhà để học sinh có cơ hội rèn
luyện kỹ năng viết chữ
14


Nội dung mỗi bài Tập viết được thiết kế trên 2 trang vở có chữ viết mẫu
trên dịng kẻ li và được trình bày như sau:
+ Trang lẻ




Tập viết ở lớp (kí hiệu o) bao gồm các yêu cầu tập viết như sau:
 Một dòng chữ cái viết hoa cỡ vừa.
 Hai dòng chữ cái viết hoa cỡ nhỏ.
 Một dịng viết ứng dụng (chữ ghi tiếng có chữ cái viết hoa) cỡ
vừa.
 Ba dòng viết ứng dụng (Một cụm từ có chữ viết hoa) cỡ nhỏ
Tập viết chữ nghiêng ứng dụng (kí hiệu * tự chọn) thường gồm 3 dịng
luyện viết chữ nghiêng theo chữ mẫu

+ Trang chẵn

• Luyện viết ở nhà
• Tập viết chữ nghiêng
Sau mỗi chữ viết,trên mỗi dịng đều có điểm đặt bút (dấu chấm) với
những dụng ý : Giúp học sinh xác định rõ quy trình chữ viết, đảm bảo khoảng
cách đều nhau giữa các chữ, tăng thêm tính thẩm mĩ của trang vở tập viết.
1.2.4. Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh Tiểu học
1.2.4.1.Đặc điểm về mặt cơ thể
Hệ xương cịn nhiều mơ sụn,xương sống,xương hông,xương
chân,xương tay đang trong thời kỳ phát triển (thời kỳ cốt hóa) nên dễ bị cong
vẹo, gẫy,dập.Vì vậy thầy cô cần chú ý tư thế viết của trẻ.Hệ cơ đang trong thời
kỳ phát triển mạnh nên các em rất thích các trị chơi vận động như chạy,
nhảy, nơ đùa...thuận lợi cho học sinh viết đúng hình dạng,quy trình viết chữ,
đảm bảo khoảng cách đều nhau giữa các chữ,tăng thêm tính thẩm mỹ cho vở
tập viết
1.2.4.2.Đặc điểm về nhận thức
Học sinh tiểu học thường tri giác trên tổng thể. Về sau, các hoạt động
tri giác phát triển và được hướng dẫn bởi các hoạt động nhận thức khác nên
chính xác hơn. Chú ý không chủ định chiếm ưu thế ở học sinh tiểu học. Sự chú
ý của học sinh tiểu học cịn phân tán, dễ bị lơi cuốn vào các trực quan, gợi
15


cảm, thường hướng ra bên ngoài vào hành động, chưa có khả năng hướng
vào bên trong, vào tư duy.
Trí nhớ trực quan- hình tượng và trí nhớ máy móc phát triển hơn trí
nhớ logic,hiện tượng hình ảnh cụ thể dễ nhớ hơn các câu chữ trừu tượng,
khơ khan.Trí tưởng tượng còn chịu tác động nhiều của hứng thú, kinh
nghiệm sống, mẫu vật đã biết.


Học sinh tiểu học bước đầu có khả năng thực hiện việc phân tích tổng
hợp, trừu tượng hố - khái qt hố và những hình thức đơn giản của sự suy
luận, phán đoán. Ở học sinh tiểu học, phân tích và tổng hợp phát triển khơng
đồng đều, tổng hợp có khi khơng đúng hoặc khơng đầy đủ, dẫn đến khái quát
sai trong hình thành khái niệm..
Từ những đặc điểm trên của học sinh Tiểu học về quá trình nhận thức,
khi dạy học Tiểu học nói chung và dạy học Tập viết nói riêng, giáo viên cần:
Quan tâm đến việc sử dụng đồ dùng trực quan khi dạy hình thành kiến thức
cho trẻ. Vì hình dạng,kiểu cách,màu sắc…của đồ dùng trực quan dễ gây sự
chú ý cho trẻ, giúp trẻ tri giác tốt, dễ nhớ và nhớ lâu.
Tuy nhiên những đặc điểm trên của học sinh tiểu học cũng lưu ý giáo
viên không nên quá lạm dụng đồ dùng trực quan. Vì hình ảnh, màu sắc lịe
loẹt của nó dễ lơi cuốn học sinh làm các em qn nhiệm vụ học tập của mình.
Hơn nữa, sử dụng trực quan q nhiều sẽ khơng phát triển được trí tưởng
tượng, khả năng liên tưởng khái quát của học sinh.
1.2.5.Một số biện pháp luyện chữ cho học sinh lớp 2 thông qua
môn Tập viết
1.2.5.1.Khơi gợi ở học sinh mong muốn viết chữ đẹp
16


Kể cho học sinh nghe những câu chuyện về gương viết chữ đẹp như
Cao Bá Quát, những học sinh viết chữ đẹp của trường... Đồng thời cho các em
xem những bài viết đẹp của học sinh khóa trước...Từ đó gợi lên trong học sinh
lịng u thích và mong muốn viết chữ đẹp.
Tổ chức cho trẻ hoạt động. Vì khi tham gia hoạt động trẻ có điều kiện
tri giác bằng nhiều giác quan: mắt – nhìn, tai – nghe, miệng – nói, tay – thao
tác… Đây là cơ sở để tưu duy và ghi nhớ kiến thức.
Giáo viên phải tạo cho học sinh tâm thế để ghi nhớ, hướng dẫn thủ

thuật ghi nhớ, chỉ ra những điểm quan trọng, có ý nghĩa để học sinh ghi nhớ.
1.2.5.2.Những quy định chung
-Ánh sáng phòng học, bảng lớp, bàn ghế của học sinh
Đây là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc viết chữ và sức
khoẻ của học sinh. Hiện nay hầu hết các trường Tiểu học trong ngoại thành
đều đảm bảo các yêu cầu cơ bản,và đối với trường Tiểu học Việt Tiến (Vĩnh
Bảo-Hải Phòng) – một trường tiên tiến xuất sắc cấp huyện,cấp thành phố
nhiều năm. Ánh sáng theo tiêu chuẩn học đường có bảng chống lố, có dịng
kẻ rõ ràng, bàn ghế đúng kích cỡ tiêu chuẩn đối với học sinh cấp lớp 2.
-Đồ dùng học tập của học sinh
Một trong những yếu tố góp phần quan trọng vào việc viết chữ đẹp đó
là bút viết và vở viết.Vì vậy ngay từ đầu năm học giáo viên phải hướng dẫn
học sinh mua loại vở do nhà trường đặt hàng,chọn loại bút máy phù hợp,bút
viết nét mảnh, mực đều đặn,bút cùng một màu mực vừa thuận tiện trong việc
rèn chữ viết,vừa thuận lợi cho việc xây dựng hồ sơ vở sạch chữ đẹp của lớp.
Chọn bảng và phấn viết cần được giáo viên lưu tâm đến.Hướng dẫn học
sinh, phụ huynh tìm mua cho các em những quyển vở có đường kẻ tin đều, rõ
ràng và khi viết không bị nhoè mực.

17


`-Cho học sinh học các quy định về mẫu chữ, kích cỡ chữ viết hoa và viết
thường theo quy định của Bộ Giáo dục Đào tạo ngay từ đầu năm.
+Yêu cầu học sinh có đầy đủ số vở để ghi các môn học theo quy định của
nhà trường cho học sinh lớp 2
+ Học sinh phải thuộc và nhớ quy định về các nét viết, độ cao, khoảng
cách giữa các con chữ trong tiếng, giữa các tiếng trong từ và luyện viết chữ
theo quy định đó.Cụ thể:
• Củng cố cho học sinh về độ cao các chữ trong bảng chữ mẫu viết thường

• Những yêu cầu cơ bản của tập viết
 Kiến thức: Giáo viên phải có hiểu biết về đường kẻ, dịng kẻ, độ
cao, cỡ chữ, hình dáng và tên gọi các nét chữ, cấu tạo chữ cái,
khoảng cách giữa các nét chữ và chữ cái,chữ ghi tiếng,cách viết
các chữ viết thường,các chữ viết hoa, dấu thanh và chữ số.
 Kĩ năng: Viết đúng quy trình viết nét, viết chữ cái và liên kết chữ
cái tạo ra chữ ghi tiếng theo yêu cầu liền mạch,viết thẳng hàng
các chữ.Ngoài ra cần rèn các kĩ năng khác như: tư thế ngồi
viết,cách cầm bút, đặt vở
1.2.5.3. Hướng dẫn học sinh viết chữ
1.2.5.3.1.Viết chữ thường
+Dùng tên gọi các nét cơ bản để hướng dẫn học sinh viết chữ. Trong
quá trình hình thành biểu tượng về chữ viết và hướng dẫn học sinh viết chữ,
nên sử dụng tên gọi các nét cơ bản để mơ tả hình dạng, cấu tạo và quy trình
viết một chữ cái theo các nét viết đã quy định ở bảng mẫu chữ.
Nét viết: Là một đường liền mạch, không phải dừng lại để chuyển
hướng ngòi bút hay nhấc bút. Nét viết có thể là một hay nhiều nét cơ bản tạo
thành.
Ví dụ: Nét viết chữ cái “ a ” gồm một nét cong kín và một nét móc ngược
phải tạo thành.
Nét cơ bản: Là nét bộ phận, dùng để tạo thành nét viết hay hình chữ
cái. Nét cơ bản đồng thời là viết hoặc kết hợp hai, ba nét cơ bản để tạo thành
một nét viết.
Ví dụ : Nét cong ( trái ) đồng thời là nét viết chữ cái C, nét ( cong phải )
kết hợp với nét cong ( trái ) để tạo thành nét viết chữ cái e.
18


* Một số nét ghi dấu phụ của chữ cái có thể gọi như sau:






Nét gẫy ( Trên đầu các chữ cái â, ê, ô ) tạo bởi 2 nét thẳng xiên ngắn
( trái - phải ) - dấu mũ.
Nét cong dưới nhỏ ( trên đầu chữ cái ă) - dấu á.
Nét râu ( ở các chữ cái ơ, ư ) - dấu ơ, dấu ư.
Nét chấm ( Trên đầu chữ cái i ) - dấu chấm.

Ở một vài chữ cái viết thường, giữa hoặc cuối nét cơ bản có tạo thêm
một vòng xoắn nhỏ như chữ cái k, b, v, r, s có thể mơ tả bằng lời hoặc khi
dạy cho học sinh gọi đó là các nét vịng ( nét xoắn, nét thắt ).
+Mô tả chữ viết để hướng dẫn học sinh viết chữ. Khi dạy học sinh viết
các chữ cái viết thường cỡ vừa và nhỏ. Để giúp học sinh dễ hình dung và
thực hiện quy trình viết chữ trên bảng con hay trong vở Tập viết, nên mơ
tả theo dịng kẻ li khơng cần dùng đến thuật ngữ đơn vị chữ bởi học sinh
lớp 2 khả năng tư duy của các em còn hạn chế, khi sử dụng lời hướng dẫn
cần nói thật đơn giản, dễ hiểu.
1.2.5.3.2. Viết chữ hoa
Đây là nội dung trọng tâm và cơ bản của phân môn dạy Tập viết ở lớp
2.Khi dạy phần này cần:
+Dùng tên gọi các nét cơ bản. Mỗi chữ cái viết hoa có nhiều nét cong,
nétlượn tạo dáng thẩm mỹ của hình chữ cái. Do vậy, các nét cơ bản ở chữ cái
viết hoa thường có biến điệu, không thuần tuý như chữ cái viết thường. ( Có
nét viết và nét cơ bản )
+Nét cơ bản trong bảng chữ cái viết hoa chỉ có 4 loại ( khơng có nét
hất): nét thẳng; nét cong; nét móc; nét khuyết. Mỗi loại có thể chia ra các
dạng, kiểu khác nhau. Tên gọi các dạng, kiểu chỉ dùng khi giáo viên mơ tả cấu
tạo hình dạng chữ viết hoa cho cụ thể, rõ ràng không bắt học sinh phải thuộc.

+Các nét ghi dấu phụ cũng giống như ở chữ cái viết thường.
1.2.5.3.3.Viết ứng dụng
Trong quá trình dạy tập viết ứng dụng các cụm từ ghi chữ cái hoa đã
học. Cần hướng dẫn học sinh về kỹ thuật nối chữ ( nối nét ) viết liền mạch và
đặt dấu thanh để vừa đảm bảo yêu cầu liên kết các chữ cái, tạo vẻ đẹp của
chữ viết vừa nâng dần tốc độ viết chữ phục vụ cho kỹ năng viết chính tả hoặc
ghi chép thông thường. Trau dồi cho các em kỹ năng viết chữ ngày càng
thành thạo.
19


Khi dạy viết ứng dụng các chữ ghi tiếng có chữ cái viết hoa đứng đầu
( tên riêng, chữ viết hoa đầu câu, …) Cần hướng dẫn học sinh cách viết tạo sự
liên kết bằng nối nét hoặc để khoảng cách hợp lý giữa các chữ cái viết hoa và
chữ cái viết thường trong chữ ghi tiếng. Cụ thể:




17 chữ cái viết hoa A, Ă, Â, G, H, K, M, L, Q, R, U, Ư, Y ( kiểu 1), A, M, N,
Q ( kiểu 2 ) có điểm dừng bút hướng tới chữ cái viết thường kế tiếp.
Khi viết cần tạo sự liên kết bằng cách thực hiện việc nối nét.Ví
dụ : Khánh Hồ, Gia Lai
17 chữ cái viết hoa B, C, D, Đ, E, Ê, I, N, O, Ô, Ơ, P, S, T, V, X ( kiểu 1), V
( kiểu 2 ) có điểm dừng bút khơng hướng tới chữ cái viết thường kế
tiếp, khi viết cần tạo sự liên kết bằng cách viết chạm nét đầu của chữ
cái viết thường vào nét chữ cái viết hoa đứng trước hoặc để khoảng
cách ngắn = 1/2 khoảng cách giữa hai chữ cái.Ví dụ : Bà Trưng, Sóc
Trăng


* Các chữ cái viết thường có một nét là nét hất ( i, u, ư ) hoặc nét móc
( m, n ) nét khuyết xuôi ( h) thường liên kết với một số chữ cái viết hoa
nói trên bằng cách viết chạm đầu nét hất ( nét móc, nét khuyết xi ) vào nét
chữ cái viết hoa.
Các chữ cái viết thường có một nét là nét cong ( a, ă, â, e, ê, g o, ô, ơ )
hoặc một nét thắt ( r) thường liên kết với các chữ hoa nói trên bằng một
khoảng ngắn. ( Không thực hiện việc nối nét ).
Dạy viết từ ngữ ứng dụng, ngoài việc hướng dẫn học sinh thực hiện các
yêu cầu về chữ ghi tiếng, cần quan tâm nhắc nhở các em lưu ý để khoảng
cách giữa các chữ sao cho hợp lý. Khoảng cách giữa các chữ ghi tiếng thường
được ước lượng bằng chiều rộng của một chữ cái o viết thường.
Dạy học sinh tập viết câu ứng dụng cần lưu ý thêm về cách viết và đặt
dấu câu ( dấu phẩy, dấu chấm, dấu chấm hỏi, dấu chấm than,…) như đã thể
hiện trong bài tập viết. Cần nhắc nhở các em về cách trình bày câu văn, câu
thơ theo mẫu trên trang vở tập viết sao cho đều đặn, cân đối và đẹp.
1.2.5.3.4.Giúp học sinh củng cố,nhớ lại và nắm chắc các nét cơ bản
Từ những nét cơ bản này, các chữ cái sẽ được tạo thành.Với một số
kinh nghiệm bản thân cùng với sự trao đổi với thầy cô,bạn bè tôi nhận thấy:
nếu học sinh viết các nét cơ bản không đúng, không đẹp thì việc viết xấu, viết
sai là điều khơng tránh khỏi.Giáo viên cần củng cố lại cho các em cách viết các
nét cơ bản. Chú ý điểm đặt bút, dừng bút.Chẳng hạn với nét khuyến xuôi , nét
khuyết ngược , học sinh khơng rèn viết ngay từ đầu thì dễ viết lệch, xấu sẽ dẫn
20


đến những chữ được tạo bởi 2 nét đó như: h, k, g, y... cũng không được đẹp và
đây cũng là 2 nét khó mà học sinh thường lúng túng khi viết.
Chú ý: nét khuyết phải trịn, thon đều, khơng to quá, cũng không nhỏ
quá hoặc không bị vuông đầu và đặc biệt điểm gặp nhau của hai nét phải ở
đường kẻ 2 từ dưới lên (với nét khuyết xuôi), đường kẻ 1 (với nét khuyết

ngược).Không chỉ vậy, muốn học sinh viết đẹp thì với những chữ khó viết, tơi
thường cho các em luyện viết lên bảng nhiều, đến khi nào học sinh viết tương
đối đồng đều thì lúc đó mới viết vào vở. Những học sinh nào viết bảng xấu,
chậm, giáo viên cần xuống tận nơi cầm tay uốn nắn các em viết đúng.

1.2.5.3.5.Phân loại chữ cái theo nhóm
Để thuận tiện cho công việc giảng dạy và cho học sinh dễ dàng hơn
trong Tập viết,cần phân loại chữ cái theo các nhóm sau:
- Nhóm 1 gồm các chữ: U, Ư, X, Y, N, M
- Nhóm 2 gồm các chữ: A, Ă, Â, M, N
- Nhóm 3 gồm các chữ: P, R, B, D, Đ
- Nhóm 4 gồm các chữ: I, K, H, V
- Nhóm 5 gồm các chữ: C, E, Ê, G, L, S, T
- Nhóm 6 gồm các chữ: O, Ơ, Ơ, A, Q, Q
Việc chia nhóm như vậy sẽ giúp học sinh so sánh được cách viết các
chữ, tìm ra những điểm giống nhau và khác nhau. Từ đó, học sinh nắm chắc
được cách viết và các em sẽ viết được chuẩn hơn, đẹp hơn.Nên cho các em
luyện thêm cách viết theo nhóm trong các tiết hướng dẫn học.
1.2.5.3.6.Hướng dẫn viết nối nét
Khi học sinh đã viết các con chữ đúng mẫu, thì việc hướng dẫn nối chữ
cũng rất quan trọng. Học sinh biết cách nối chữ thì bài viết mới rõ ràng đều
và đẹp được hơn nữa mới đảm bảo được tốc độ viết ở những lớp trên.Giáo
viên cần hướng dẫn kỹ học sinh cách điều tiết điểm đặt bút của chữ đứng
trước sao cho hợp lý. Ví dụ chữ “uê”. Cần điều tiết điểm bắt đầu của chữ ê đi
sau thấp xuống một chút và kéo dài, nét kết thúc của chữ cái đứng trước lên
cao một chút.

21







Ngoài ra giáo viên phải lưu tâm nhắc nhở học sinh viết ... chữ
bằng một con chữ không tưởng tượng. Viết sát quá hoặc xa quá
đều không được.
Tầm quan trọng của viết dấu thanh:Dấu thanh không được viết
to quá, bé quá và phải viết đúng vị trí. Thực tế trong những năm
dạy Tiếng Việt lớp 2 tôi thấy học sinh thường mắc tình trạng các
dấu thanh viết cao quá, ảnh hưởng lớn đến chất lượng chữ viết.
Tôi luôn nhắc học sinh dấu viết vừa phải và gần chữ nhưng
không được dính vào chữ.

Và đặc biệt lưu tâm đến những em hay viết dấu sai vị trí thường gọi lên
bảng viết nhiều lần để các bạn nhận xét
• Với học sinh Tiều học, nhất là học sinh đầu cấp, thường hiếu động,
thiếu kiên trì nên nhiều em khơng tự giác khi viết bài. Các em muốn
viết thật nhanh chóng cho hết bài để chơi. Để khắc phục điều này,
tơi có quy định với học sinh: viết từng dòng theo hiệu lệnh của cơ.
Nhờ vậy, tránh được tình trạng viết nhanh, viết ẩu trong quá trình
viết của học sinh. Đặc biệt, với những em viết đẹp, có nhiều cố gắng
thì tơi sẽ cho điểm động viên, tuyên dương trước lớp để các em
khác nhìn vào noi theo.
• Với học sinh, việc củng cố bài của giáo viên cũng góp phần rất quan
trọng để tạo hứng thú cho học sinh, giáo viên có tiến hành theo
cách sau để thu hút học sinh đến với các giờ Tập viết theo:
 Cho học sinh nhận xét bài viết của bạn và bài viết của chính mình để
các em nhận ra những điểm được và chưa được để sửa chữa.
 Cho học sinh luyện viết lại những chữ chưa đạt yêu cầu.

 Tổ chức một số trò chơi để tánh căng thẳng, mệt mỏi cho học sinh:
Thi viết chữ đẹp, Thi viết nhanh...
 Sau khi học sinh viết xong bài, giáo viên cần chấm điểm ngay một số
vở, sửa lỗi sai cho học sinh: tuyên dương những bài viết tốt.
• Với những bài viết chưa đẹp, viết ẩu thì ngồi việc kèm thêm ở
lớp,giáo viên nên trực tiếp gặp gỡ phụ huynh của em đó trao đổi và
cùng ra hướng giải quyết hay thống nhất cách dạy nhằm giúp học
sinh tiến bộ hơn.
1.2.5.4.Tư thế ngồi và cách cầm bút
1.2.5.4.1.Tư thế ngồi viết
22


Khi viết phải ngồi ngay ngắn:
+ Lưng thẳng, đầu hơi cúi, mắt cách vở khoảng 25-30 cm
+ Ngồi khơng tì ngực vào bàn,hai chân để thoải mái
+ Tay trái tì giữa vở,tay phải cầm bút viết bằng 3 ngón tay:ngón
cái,ngón trỏ và ngó giữa
1.2.5.4.2.Cách cầm bút
+ Khi cầm bút bằng tay phải, cầm bằng 3 ngón tay: ngón trỏ, ngón cái,
và ngón giữa, khuỷu tay di chuyển bút mềm mại, thoải mái từ trái sang
phải
+ Các chữ viết liền mạch, không nhấc bút từng nét,từng chữ cái
1.2.5.5.Rèn nếp viết chữ rõ ràng, sạch đẹp
Chất lượng chữ viết của học sinh không chỉ phụ thuộc vào điều kiện chủ
quan (năng lực cá nhân, sự luyện tập kiên trì, trình độ sư phạm của giáo
viên) mà cịn có sự tác động của các yếu tố khách quan (điều kiện, phương
tiện phục vụ cho việc dạy và học tập viết).
Do vậy muốn rèn cho học sinh thói quen viết chữ rõ ràng, sạch đẹp, giáo
viên cần quan tâm hướng dẫn nhắc nhở các em thường xuyên về các mặt chủ

yếu:
1.2.5.5.1.Chuẩn bị và sử dụng đồ dùng học tập
Hoạt động chủ đạo của học sinh trong giờ học tập viết là thực hành
luyện tập nhằm mục đích hình thành kỹ năng viết chữ ngày càng thành thạo.
Do vậy, để thực hành luyện viết đạt kết quả tốt, học sinh cần có ý thức chuẩn
bị đồ dùng học tập thiết yếu: Bảng con, phấn trắng, khăn lau đúng quy định.






Bảng con có dịng kẻ ( đồng dạng với dòng kẻ li trong vở tập viết ).
Phấn viết có độ dài vừa phải, phấn khơng bụi càng tốt.
Khăn lau sạch ( Bằng vải bông mềm hoặc mút có độ ướt vừa phải ).
Vở Tập viết có đủ 2 tập.
Tuỳ tình hình hồn cảnh học sinh trong lớp giáo viên lựa chọn cho
học sinh dùng bút viết cho hợp lý.

1.2.5.5.2.Thực hiện đúng quy định khi viết chữ

23


Q trình hình thành kỹ năng viết chữ nói chung thường trải qua hai giai
đoạn chủ yếu:












Giai đoạn nhận biết, hiểu biết về chữ viết ( Xây dựng biểu tượng ).
Giai đoạn điều khiển vận động : Giai đoạn này thường có hiện tượng
“lan toả” dễ ảnh hưởng tới một số bộ phận khác trong cơ thể ( Ví dụ:
miệng méo, vai lệch, gù lưng, …). Nhận thức rõ điều đó, giáo viên
phải chú ý nhắc nhở các em cần thực hiện đúng một số quy định khi
viết chữ.
Tư thế ngồi viết: Học sinh cần ngồi với tư thế thẳng lưng, không tỳ
ngực vào bàn, đầu hơi cúi, mắt cách vở từ 25 đến 30cm, cầm bút tay
phải, tay trái tỳ nhẹ lên mép vở để trang viết không bị xê dịch, hai
chân để song song, thoải mái. Tư thế ngồi viết đã được ghi cụ thể ở
trang đầu vở Tập viết lớp 2 tập 1.
Cách cầm bút: Hướng dẫn các em cầm bút bằng ba ngón tay ( ngón
cái, ngón trỏ và ngón giữa ) với độ chắc vừa phải ( không cầm bút
lỏng hay chặt quá). Khi viết dùng ba ngón tay di chuyển một cách
nhẹ nhàng từ trái sang phải. Chú ý không nhấn mạnh đầu bút xuống
mặt giấy, cán bút nghiêng về bên phải, cổ tay,khuỷu tay và cánh tay
cử động theo mềm mại.
Cách để vở xê dịch khi viết: Khi viết chữ đứng, nhắc các em cần để vở
ngay ngắn trước mặt. nếu viết chữ nghiêng ( tự chọn ) cần để vở hơi
nghiêng sao cho mép vở phía dưới cùng với bàn tạo thành một góc
khoảng 15o. Khi viết chữ về bên phải quá xa lề vở, cần xê dịch vở
sang bên trái để mắt nhìn thẳng nét chữ, tránh nhồi người về bên
phải để viết tiếp.

Cách trình bày bài: Học sinh nhìn và viết theo đúng mẫu trong vở
Tập viết lớp 2, viết theo yêu cầu giáo viên hướng dẫn, số chữ viết, số
lần viết trên dòng kẻ và trên trang vở tập viết, tránh viết dở dang
chữ ghi tiếng hoặc viết chòi ra mép vở khơng có dịng kẻ li.Khi viết
sai chữ khơng khơng được tẩy xố mà cần để cách ra một khoảng
ngắn rồi viết lại.

1.2.5.6.Hướng dẫn học sinh làm quen với một số thuật ngữ trong
quá trình rèn chữ viết
- Điểm đặt bút: Là điểm bắt đầu khi viết một nét trong một chữ
cái.Điểm đặt bút có thể nằm ở đường kẻ ngang hoặc nằm trên đường kẻ
ngang.

24


- Điểm dừng bút: Là vị trí kết thúc của nét chữ trong 1 chữ cái, điểm
dừng bút có thể trùng với điểm đặt bút hoặc không nằm trên đường kẻ
ngang.
- Viết liền mạch : Là thao tác đưa ngòi bút liên tục từ 1 điểm kết thúc
của nét đứng trước tới điểm bắt đầu của nét đứng sau.
- Kĩ thuật lia bút: Để đảm bảo tốc độ trong quá trình viết 1 chữ cái hay
nối các chữ cái với nhau, nét bút được thể hiện liên tục nhưng dụng cụ viết
(đầu ngịi bút,phấn) khơng chạm vào mặt phẳng viết (giấy,bảng) thao tác
trên khơng đó gọi là lia bút.
1.2.5.7.BiƯn ph¸p sữa lỗi chữ viết
1.2.5.7.1. Đối với học sinh viết sai độ cao các chữ cái
Trong hệ thống chữ cái Tiếng Việt mỗi nhóm chữ có đặc điểm riêng và độ
cao khác nhau vì vậy khi học sinh mắc lỗi về độ cao các con chữ giáo viên cần
phải:

- Giúp học sinh nắm vững hình dáng, cấu tạo, quá trình viết chữ cái. Trớc
hết giáo viên cần cho học sinh nắm vững các đờng kẻ trong vở luyện viết, toạ độ
các nét chữ, chữ cái trong khung chữ mẫu.
Trong vở luyện viết (vở ô li) của các em đà có sẵn các đờng kẻ, giáo viên
hớng dẫn học sinh gọi tên các đờng kẻ. Các chữ cái có độ cao một đơn vị đợc
xác định từ dới lên bằng đờng kẻ li 1 và đờng kẻ li 2;...đờng kẻ li 5 các chữ cái
có độ cao 2 đơn vị đợc xác định bằng đờng kẻ li 1 đến đờng kẻ li 3.
- Phân loại hệ thống chữ cái Tiếng Việt thành các nhóm, mỗi nhóm là các
chữ cái có cùng độ cao để học sinh luyện viết (giáo viên gắn trong lớp hai bảng
chữ cái mẫu chữ in hoa và chữ viết thờng để học sinh quan sát và học tập).
Ví dụ: Các chữ cái b, g, h, k, l, y có chiều cao là 2,5 đơn vị tức là bằng hai
lần rỡi chiều cao ghi nguyên âm (a, o,u, n , m...).
Đối với viết số, giáo viên cũng chia các chữ số theo nhóm để học sinh
luyện viết.
1.2.5.7.2.Đối với học sinh viết sai các nét chữ
Để sửa lỗi này cho học sinh trớc hết giáo viên cần cho học sinh nắm chắc
tên gọi của từng nét chữ rồi hớng dẫn kĩ năng viết các nét chữ:
- Nét sổ thẳng: Điểm đặt bút trên đờng kẻ 3, đa từ trên xuống.
- Nét cong: Điểm đặt bút ở đờng kẻ li 3 hoặc phía dới 1/3 vòng sang trái
hoặc sang phải tạo nét cong kín hoặc cong trái, cong phải. Khi viết nét cong kín
không nhấc bút, không đa bút ngợc chiều.
- Nét khuyết: Cách viết nét khuyết dựa vào đờng kẻ li 2 lµm chuÈn.
25


×