Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

sử dụng bột rong mơ (sargassum spp ) làm thức ăn chăn nuôi gà thịt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 73 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

ĐỖ TRÍ HÒA

SỬ DỤNG BỘT RONG MƠ (SARGASSUM SPP.)
LÀM THỨC ĂN CHĂN NUÔI GÀ THỊT

LUẬN VĂN THẠC SĨ

HÀ NỘI, NĂM 2015


HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

ĐỖ TRÍ HÒA

SỬ DỤNG BỘT RONG MƠ (SARGASSUM SPP.)
LÀM THỨC ĂN CHĂN NUÔI GÀ THỊT

Chuyên ngành: Chăn nuôi
Mã số: 60.62.01.05
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Việt Phương

HÀ NỘI, NĂM 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên
cứu được trình bày trong luận văn là trung thực, khách quan và chưa từng dùng để bảo
vệ lấy bất kỳ học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được cám


ơn, các thông tin trích dẫn trong luận văn này đều được chỉ rõ nguồn gốc.

Hà Nội, ngày 30 tháng 12 năm 2015
Tác giả

Đỗ Trí Hòa

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page i


LỜI CẢM ƠN

Trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn, tôi đã nhận được
sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo, sự giúp đỡ, động viên của bạn bè,
đồng nghiệp và gia đình.
Nhân dịp hoàn thành luận văn, cho phép tôi được bày tỏ lòng kính trọng và biết
ơn sâu sắc tới TS. Lê Việt Phương, giảng viên Bộ môn Dinh dưỡng – Thức ăn – Khoa
Chăn nuôi – Học Viện Nông nghiệp Việt Nam đã tận tình hướng dẫn, dành nhiều công
sức, thời gian và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Ban Giám đốc, Ban Quản lý đào tạo, Bộ
môn Dinh dưỡng – Thức ăn, Khoa Chăn nuôi - Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã tận tình
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể lãnh đạo, cán bộ viên chức Trại thực nghiệm gà
Liên Ninh thuộc Trung tâm nghiên cứu và huấn luyện chăn nuôi – Viện Chăn nuôi đã
giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi về mọi mặt, động viên khuyến khích tôi hoàn thành luận văn./.


Hà Nội, ngày 30 tháng 12 năm 2015
Học viên

Đỗ Trí Hòa

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page ii


MỤC LỤC
Lời cam đoan

i

Lời cảm ơn

ii

Mục lục

iii

Danh mục chữ viết tắt

v

Danh mục bảng

vi


Danh mục hình, đồ thị

vii

Trích yếu luận văn

viii

Thesis abstract

ix

Phần 1 Mở đầu

1

1.1

Đặt vấn đề

1

1.2

Mục tiêu của đề tài

2

Phần 2 Tổng quan tài liệu


3

2.1

Một số đặc điểm của rong mơ (sargassum spp.)

3

2.1.1

Giới thiệu về rong mơ

3

2.1.2

Cấu trúc quần thể, vùng tập trung phân bố và vấn đề nuôi trồng, thu
hoạch của rong mơ vùng bờ biển Việt Nam

5

2.1.3

Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của rong Mơ

6

2.1.4


Ứng dụng của rong mơ

7

2.2

Sinh trưởng của gia cầm và các yếu tố ảnh hưởng

8

2.2.1

Khái niệm về sinh trưởng

8

2.2.2

Các chỉ tiêu đánh giá sinh trưởng và các yếu tố ảnh hưởng

9

2.2.3

Các chỉ tiêu đánh giá năng suất, chất lượng thịt và các yếu tố ảnh hưởng

15

2.2.4


Sức sống và khả năng kháng bệnh

20

2.2.5

Hiệu quả sử dụng thức ăn

20

2.3

Đặc điểm giống gà và tổ hợp lai liên quan tới nghiên cứu

22

2.3.1

Đặc điểm của giống gà Tò

22

2.3.2

Đặc điểm giống gà VP3

22

2.4


Các nghiên cứu về rong mơ ở Việt Nam

22

Phần 3 Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
3.1

Địa điểm nghiên cứu

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

26
26

Page iii


3.2

Thời gian nghiên cứu

26

3.3

Đối tượng nghiên cứu

26

3.4


Nội dung nghiên cứu

26

3.5

Phương pháp nghiên cứu

26

3.5.1

Xác định thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của bột rong Mơ khai
thác từ vùng biển các tỉnh miền Trung

26

3.5.2

Đánh giá hiệu quả sử dụng bột rong Mơ trong khẩu phần của gà sinh trưởng

27

3.5.3

Phương pháp xử lý số liệu

31


Phần 4 Kết quả và thảo luận

32

4.1

Xác định thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của bột rong mơ

32

4.2

Đánh giá hiệu quả sử dụng bột rong mơ trong khẩu phần của gà

35

4.2.1

Khối lượng cơ thể

35

4.2.2

Sinh trưởng tuyệt đối

38

4.2.3


Sinh trưởng tương đối

41

4.2.4

Lượng thức ăn thu nhận của gà ở các lô qua các tuần tuổi

44

4.2.5

Tỷ lệ nuôi sống của gà qua các tuần tuổi

47

4.2.6

Hiệu quả sử dụng thức ăn

48

4.2.7

Năng suất, chất lượng thịt

51

Phần 5 Kết luận và kiến nghị


56

5.1

Kết luận

56

5.2

Kiến nghị

56

Tài liệu tham khảo

57

Phụ lục

61

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page iv


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Từ viết tắt


Nghĩa tiếng Việt

A

: Sinh trưởng tuyệt đối

ĐC

: Đối chứng

Cs

: Cộng sự

CP

: Protein thô

HQSDTA

: Hiệu quả sử dụng thức ăn

KL

: Khối lượng

KLCT

: Khối lượng cơ thể


LTATN

: Lượng thức ăn thu nhận

ME

: Năng lượng trao đổi

n

: Số con



: Thức ăn

TN

: Thí nghiệm

TCVN

: Tiêu chuẩn Việt Nam

TTTA

: Tiêu tốn thức ăn

SE


: Sai số trung bình

SD

: Độ lệch chuẩn

R

: Sinh trưởng tương đối

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page v


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1

Diện tích rong Mơ theo vùng biển các tỉnh Nam Trung Bộ

Bảng 2.2

Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của thức ăn cho gà thịt

16

Bảng 4.1

Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của bột rong Mơ


32

Bảng 4.2

Hàm lượng các axit amin của bột rong Mơ

34

Bảng 4.3

Khối lượng gà thí nghiệm qua các tuần tuổi (g/con)

36

Bảng 4.4

Sinh trưởng tuyệt đối của gà qua các tuần tuổi (g/con/ngày)

40

Bảng 4.5

Sinh trưởng tương đối của gà qua các tuần tuổi (%)

42

Bảng 4.6

Lượng thức ăn thu nhận của gà qua các tuần tuổi


45

Bảng 4.7

Tỷ lệ nuôi sống của gà qua các tuần tuổi (%)

47

Bảng 4.8

Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng (kg)

50

Bảng 4.9

Năng suất thân thịt của gà thí nghiệm

52

Bảng 4.10

Màu sắc da gà

55

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

5


Page vi


DANH MỤC HÌNH, ĐỒ THỊ
Hình 2.1

Rong Mơ trên biển

3

Hình 2.2

Khai thác rong Mơ

3

Hình 4.1

Thịt lườn và thịt đùi của gà ở lô ĐC và các lô TNError! Bookmark not defined.

Hình 4.2

Màu sắc da của gà ở lô ĐC và các lô TN

Đồ thị 4.1

Khối lượng gà thí nghiệm qua các tuần tuổi (g)

37


Đồ thị 4.2

Tốc độ sinh trưởng tuyệt đối (g/con/ngày)

41

Đồ thị 4.3

Tốc độ sinh trưởng tương đối của gà trong thí nghiệm (%)

43

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

535

Page vii


TRÍCH YẾU LUẬN VĂN
Để xác định thành phần hóa học, giá trị dinh dưỡng của bột rong Mơ và đánh giá
được khả năng sinh trưởng, chất lượng thịt khi sử dụng bột rong Mơ trong thức ăn của gà
thịt. Thí nghiệm được tiến hành trên 300 con gà Tò x VP3 một ngày tuổi hướng thịt, gà
được chia làm 4 lô (01 lô đối chứng và 3 lô thí nghiệm). Ở 3 lô thí nghiệm thức ăn của gà
được bổ sung bột rong Mơ với tỷ lệ 3%, 4% và 5%, lô đối chứng không bổ sung bột rong
Mơ. Kết quả phân tích thành phần hóa học cho thấy rong Mơ có hàm lượng protein thô và
lipit thô ở mức thấp (Protein-4,03% và Lipit-0,1%). Tuy nhiên, hàm lượng khoáng tổng
số của rong Mơ lại khá cao (35,36%). Đặc biệt, hàm lượng các nguyên tố khoáng vi
lượng rất cao (sắt đạt 535,15 mg/100g, đồng là 3,65; mangan là 181,79 và kẽm là 20,88

mg/100g). Kết quả sau khi kết thúc thí nghiệm gà ở 14 tuần tuổi cho thấy việc bổ sung bột
rong Mơ vào khẩu phần thức ăn của gà thí nghiệm không làm ảnh hưởng đến tỷ lệ nuôi
sống và lượng thức ăn thu nhận. Khối lượng gà ở các lô thí nghiệm có bổ sung bột rong
Mơ trong khẩu phần thức ăn cao hơn khối lượng gà ở lô đối chứng; gà ở thí ngiệm có bổ
sung 3% bột rong Mơ tại thời điểm 14 tuần tuổi có khối lượng cao nhất (1831,6g), tăng
134,4g so với gà ở lô đối chứng (1697,2g). Các chỉ tiêu đánh giá năng suất, chất lượng
thịt của gà ở lô thí nghiệm đều cao hơn so với lô đối chứng.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page viii


THESIS ABSTRACT
To determine the chemical composition, nutritional value of algae powder Mo
and assess the growth and quality of meat to use powder open in broiler feed. The
experiment was carried out on 300 chickens a day old VP3 Tò x direction meat, chicken
is divided into 4 blocks (01 control group and three experimental groups). In three
experimental groups of chicken feed is supplemented with wide open powder 3%, 4%
and 5%, no additional control group wide open powder. The analysis results showed
that the chemical composition Mo rong crude protein and crude lipid is low (4.03% of
protein-lipid-and 0.1%). However, the total mineral content of the open again relatively
high (35.36%). In particular, the levels of the trace mineral elements are very high (iron
reached 535.15 mg/100g, and 3.65; manganese and zinc was 20.88 181.79 mg/100g).
The results after the end of the experiment at 14 weeks old chickens showed the
addition of flour open in the diet of chicken experiments do not affect the survival rate
and the amount of food intake. Volume chickens in the experimental groups
supplemented with powdered seaweed in the diet apricots higher body weight in the
control group; chicken in science fair experiment with additional 3% seaweed powder
Mo at 14 weeks of age have the highest volume (1831,6g), up 134,4g than chickens in

the control group (1697,2g). The evaluation criteria of productivity, quality of chicken
meat in the experimental groups were higher than the control group.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page ix


PHẦN 1. MỞ ĐẦU

1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong các loài rong biển phân bố tại Việt Nam, rong mơ (Sargassum spp.)
phân bố ở cả vùng cận nhiệt đới và cả vùng nhiệt đới nên có thành phần loài phong
phú nhất ở vùng biển nước ta, chúng phân bố rộng, trên khắp các vùng biển nước
ta từ Quảng Ninh, Hải phòng đến các tỉnh miền Trung như Thừa Thiên Huế,
Quảng Bình, Quảng ngãi, Bình Định, Khánh Hòa, Ninh Thuận và vịnh Thái Lan.
Trong các loài rong có ở vùng biển nước ta, rong mơ có sản lượng tự nhiên cao
nhất với ước tính đạt 35.000 tấn khô/năm và tiềm năng phát triển nuôi trồng nhân
tạo còn rất lớn.
Hiện nay, việc sử dụng rong mơ của các cư dân ven biển còn rất đơn giản,
một lượng rất nhỏ được thu hái từ biển về làm thực phẩm cho con người, làm
thức ăn dạng tươi cho động vật, ngoài ra, phần khác được sơ chế (phơi khô) rồi
bán thô nên giá trị kinh tế rất thấp, đa phần người dân vùng biển chưa biết đến
giá trị và tiềm năng của rong mơ nên dẫn đến sử dụng khá lãng phí nguồn lợi to
lớn này.
Rong mơ rất giàu các chất dinh dưỡng như vitamin nhóm B, niacine,
vitamin C, nhóm carotenid và các khoáng chất như canxi, natri, magie, kali và
đặc biệt hàm lượng các nguyên tố khoáng vi lượng rất cần thiết cho cơ thể người,
động vật như Iod, sắt, coban, đồng, kẽm, mangan... rất cao, đặc biệt thích hợp
cho động vật trong giai đoạn sinh trưởng, ngoài ra rong mơ còn chứa nhiều hoạt

chất sinh học quí khác.
Hàng năm Việt Nam phải bỏ ra một lượng lớn ngoại tệ để nhập khẩu đến
70-80% các nguyên liệu như ngô, bột cá, khô đỗ tương, các loại thức ăn bổ sung,
phụ gia, chất nhuộm màu, cỏ và bột cỏ alfalfa ... để sản xuất thức ăn chăn nuôi
cho gia súc, gia cầm. Ngành chăn nuôi nước ta đang rất cần các loại nguyên liệu
thức ăn có nguồn gốc tự nhiên, được sản xuất từ các nguồn nguyên liệu sẵn có,
chủ động, có tiềm năng lớn, tái tạo và bền vững để thay thế và giảm các nguồn
nguyên liệu thức ăn nhập khẩu.
Việc nghiên cứu chế biến, sử dụng rong biển làm thức ăn chăn nuôi nếu
thành công sẽ mang lại nhiều lợi ích về mặt kinh tế, xã hội do tạo ra cho người

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 1


dân vùng ven biển sinh kế mới là trồng và khai thác và chế biến rong biển, nhà
nước sẽ tiết kiệm được nguồn ngoại tệ không nhỏ do giảm áp lực nhập khẩu
nguyên liệu từ nước ngoài.
Xuất phát từ các vấn đề thực tế trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Sử dụng bột rong Mơ (Sargassum spp.) làm thức ăn chăn nuôi gà thịt”
1.2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
Đánh giá được khả năng và hiệu quả sử dụng bột rong mơ làm thức ăn cho
gà nuôi thịt.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 2



PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA RONG MƠ (SARGASSUM SPP.)
2.1.1. Giới thiệu về rong mơ

Hình 2.1. Rong Mơ trên biển

Hình 2.2. Khai thác rong Mơ

Rong mơ là một giống tảo lớn (macroalgae) thuộc bộ rong đuôi ngựa
(Fucales), ngành rong nâu, họ rong mơ (Sargassaceae). Rong mơ mọc ở những
vùng biển ấm nóng, trên nền đá vôi, san hô chết, nơi sóng mạnh và nước trong,
nhất là ven các đảo. Rong mơ phân bố rộng ở các vùng biển nước ta, kéo dài từ
vùng biển Quảng Ninh đến Kiên Giang. Chúng mọc từ phía trên của mức nước
trung bình thấp của con nước, thường đến độ sâu từ 2 - 4m, điều kiện độ mặn
khoảng 30–32‰, nhiệt độ khoảng 25–300C. Sinh trưởng trung bình từ 2.000 4000g/m2, tuy nhiên, ở một số vùng như ở Hòn Chồng, Nha Trang có thể đạt đến
7.000g/m2
Rong mơ có thân dạng trụ gần tròn, màu từ xanh ô liu, vàng đến nâu, dài
từ 0,7-1,2m, có nhiều mấu lỗi nhỏ nhưng có khi mọc dài đến một vài mét bao
gồm một chân bám, một bộ cuống dài phân nhánh và bộ lá mang theo các túi sinh
dục (noãn, phấn). Nơi một số loài mọc ra nhiều túi khí hình cầu giúp cây đứng
thẳng nhờ đó bộ lá dễ dàng quang hợp. Nơi một số loài khác có thân khá nhám
để bấu vào nhau nhằm giữ cho cây khỏi bị cuốn trôi nơi dòng chảy mạnh.
Nhánh chính trụ dẹp, các nhánh thứ cấp trụ tròn, dài 5-6cm, mọc theo kiểu

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 3



lông chim không theo quy luật về hai phía của nhánh chính, trên đó mọc ra nhiều
chùm nhánh bên nhỏ, ngắn. Lá hình bầu dục dài hay dạng kim lớn, số lượng
nhiều, đặc biệt là phần ở gốc; thường chia nhánh, dài 3,5-6,5cm, rộng 3-8mm;
mép nhẵn hay có răng cưa, đôi khi có răng cưa kép, có ổ lông, có gân giữa. Túi
khí hình cầu hay hình bầu dục tròn, đường kính 2-3mm, có cuống hình trục, dài
3-8mm.
Rong mơ là loài có kích thước cá thể lớn và trữ lượng cao nhất trong các
loài rong biển Việt Nam. Rong mơ mọc trên tất cả các loài vật bám cứng, trên
các vách đá dốc đứng, các bãi đá tảng, các vùng có đá ngầm hay rạn san hô
ngầm, nhưng thích nghi nhất là trên vật bám đá san hô. Trên các bờ đá dốc đứng,
chúng phân bố thành đai hẹp ở dưới mức triều thấp đến sâu khoảng 0,5 m. Ở các
bờ biển đá tảng nằm trên nền cát hay đá cuội, chúng mọc thành quần thể dày,
phân bố tương đối đều, mật độ khi rong trưởng thành có thể đạt 10 cá thể/dm2,
cho nên vào mùa phát triển của chúng rất ít các loài rong biển khác có thể mọc
chen được vào trong quần thể rong này. Đa số các loài rong đều thích mọc nơi
có sóng mạnh. Ở các đảo, bờ phía Đông chúng mọc dày và phong phú hơn bờ
phía Tây. Ở các bãi đá hướng ra biển khơi, chúng phát triển mạnh và sinh lượng
cao hơn nhiều so với các bãi rong trong các vũng, vịnh yên sóng. Các bãi rong
trên bờ biển dốc, thềm san hô chết, đá vôi đóng vai trò quan trọng trong nguồn
lợi của rong mơ, nhiều vùng rộng 30 – 50 ha hay hàng trăm ha, kéo dài vài chục
km, thường gặp ở ven biển miền Trung, nhất là từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận.
Mùa vụ rong mơ có sự sai khác chút ít tùy thuộc từng loài, nơi phân bố,
tùy các điều kiện môi trường sống…, nhưng nhìn chung qui luật về mùa vụ khá
rõ rệt. Chúng tăng trưởng rất mạnh từ tháng 2 đến tháng 3, đa số các loài có kích
thước tối đa vào tháng 3, 4 và hình thành các cơ quan sinh sản, sau đó sẽ bị sóng
nhổ tấp vào bờ và tàn lụi. Đến tháng 7 hầu hết các loài rong đều trơ trụi. Một số
loài mọc lên cao hoặc phân bố lên cao (vùng triều thấp) như: Sargassum
mcclurei, Sargassum polystum phát triển và tàn lụi sớm (tháng 4). Trong khi đó
các loài mọc vùng dưới triều như Sargassum binderi, Sargassum microcystum…
mọc chậm hơn, đến tháng 6, 7 đôi nơi vẫn còn các quần thể rong này. Một vài

loài thích nghi trong các vũng, vịnh yên sóng có thể tồn tại và phát triển tốt vào
tháng 7 như Sargassum polycystum và Sargassum longicaulis.
Rong trưởng thành và phóng thích giao tử vào các tháng 3, 4, 5, vào thời
điểm này, kích thước của rong đạt đến tối đa và sinh lượng cao nhất. Các đặc
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 4


điểm này rất quan trọng, phù hợp và có lợi cho việc khai thác nguồn lợi từ tháng
4 trở đi. Việc khai thác đúng mùa vụ hoàn toàn có khả năng bảo vệ nguồn giống
tự nhiên, giúp cho rong tái phát triển lại vào mùa sau. Ngoài ra việc khai thác
bằng cách cắt cách gốc rong từ 10cm giúp cho một số nhánh còn sót lại vẫn tiếp
tục phát triển tạo ra các cơ quan sinh sản. Các bãi rong mơ mọc trên thềm san hô
chết có diện tích rộng lớn, mật độ dày, sinh lượng cao (trên 12kg rong tươi/m2)
rất quan trọng với nguồn lợi, tìm thấy ở các tỉnh Quảng Ninh, Quảng Ngãi, Bình
Định, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận. Các bãi rong rộng lớn nằm gần
trục giao thông rất thuận lợi cho việc khai thác và vận chuyển. Sản lượng hàng
năm ước tính có thể đạt 10.000 tấn rong tươi
2.1.2. Cấu trúc quần thể, vùng tập trung phân bố và vấn đề nuôi trồng, thu
hoạch của rong mơ vùng bờ biển Việt Nam
Theo nghiên cứu của Nguyễn Hữu Đại (1997), nhiều nơi, rong hình thành
nên những thảm rong dày đặc, rất nhiều bãi có diện tích 30-50ha, một số bãi có
diện tích lên tới 100ha, kéo dài hàng chục km như ở Quảng Ninh, Khánh Hòa,
Ninh Thuận. Sinh lượng rong trung bình đạt 7kg tươi/m2. Tại vùng Hòn Chồng
(Nha Trang – Khánh Hòa), 15.000 tấn rong khô/năm. Cũng theo nghiên cứu của
ông, trong thời gian trưởng thành của rong, có tới 10 cá thể/dm2.
Các vùng có khả năng khai thác lớn nhất nguồn lợi rong mơ tự nhiên theo
thứ tự là: Khánh Hòa (Vịnh Nha Trang, Vịnh Cam Ranh, Vịnh Văn Phong – Hòn
Khói), Bình Định (Qui Nhơn – Phù Mỹ), Ninh Thuận, Đà Nẵng, Quảng Nam,

Phú Yên,…
Rong mơ phân bố dọc bờ biển nước ta, khu vực miền Trung và phía
Nam, rong mơ tập trung chính tại các tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên
Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận,
Bình Thuận, Vũng Tàu, Kiên Giang.
Bảng 2.1. Diện tích rong Mơ theo vùng biển các tỉnh Nam Trung Bộ
Các địa danh
Quảng Nam – Đà Nẵng
Bình Định
Khánh Hòa
Ninh Thuận

Năng suất sinh

Mùa vụ

lượng (kg/m2)

(tháng)

190.000

2–7

3-4-5

42.750

2,5


3-4-5

2.000.000
1.500.000

5,5
7

3-4-5
3-4-5

Diện tích (m2)

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 5


Vùng biển Khánh Hòa có diện tích rong Mơ mọc cao nhất, tổng diện tích
lên đến 2.000.000m2, sinh lượng khá cao có thể lên tới hơn 5,5 kg/m2, trữ lượng
có thể khai thác hàng năm ước tính hơn 11.000 tấn rong tươi.
Theo kết quả khảo sát của Bùi Minh Lý (Viện Nghiên cứu và Ứng
dụng Công nghệ Nha Trang) cho thấy rong Mơ là loài chiếm ưu thế nhất ở các
khu vực với trữ lượng chiếm 98% tổng trữ lượng của các bãi rong, mật độ cây
trung bình 43,8 ± 20,2 cây/m2 và sinh lượng trung bình đạt 456 ± 64,2g khô/m2.
Diện tích phân bố rong Mơ tại Khánh Hòa ước tính là 1.167,33 ha, trữ lượng
7.302,12 tấn khô/năm, tập trung ở 4 khu vực chính: Vịnh Vân Phong, đầm Nha
Phu, vịnh Nha Trang, vịnh Cam Ranh. Số lượng loài ưu thế tạo nên sinh lượng
lớn ở các điểm khảo sát là 21 loài. Trong đó có loài Sagarssum mcclurei có tần
suất xuất hiện cao trên 95%, thường thấy ở phần lớn các bãi triều ven bờ với độ

sâu từ 1 đến 6m.
2.1.3. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của rong Mơ
Rong mơ chứa 10-15% muối vô cơ (trong đó có nhiều iod 0,05-0,25%,
asen, kali), 0,2-0,6% lipid, 5-15% protein và rất nhiều algin hay acid alginic.
Hàm lượng protein trong rong Mơ không cao, chỉ từ 5-15% so với trọng
lượng khô. Lượng protein này không chỉ phụ thuộc vào loài mà còn phụ thuộc
vào quá trình phát triển của cá thể, điều kiện sống của rong, cách phơi sấy, bảo
quản rong nguyên liệu. Rong mơ chứa 17 loại axit amin thiết yếu. Vì vậy protein
của rong mơ có tính dinh dưỡng cao hơn các protein của các cây trồng trên cạn.
Hàm lượng lipid chỉ chiếm một phần nhỏ so với các chất hữu cơ khác có
trong rong. Rong mơ có tới 28 loại axit béo chủ yếu là axit palmitic, axit linoleic,
axit oleic với khoảng 0,2-0,6% so với trọng lượng khô.
Thành phần quan trọng nhất trong rong là các gluxid, gồm nhóm
monosaccarid và polysaccarid. Nhóm monosaccarrid gồm các đường đơn với tỷ
lệ khác nhau như mannitol, galactose, manose, xylose... nhóm polysaccarid gồm
có alginat, laminaran, fucoidan, cellulose...trong đó thành phần hoá học quan
trọng nhất là alginat. Laminarin chiếm 10-15%, có khi tới 43%; fucoidan chiếm
khoảng 4%, có khi tới 20%. Dạng chủ yếu của alginat trong rong là các sợi calci
và magie alginat không tan, giúp tạo độ rắn chắc cho tế bào. Phần nhầy vô định
hình bao quanh dạng sợi chủ yếu là alginat tan trong nước hoặc fucoidan. Hàm
lượng alginat trong rong chiếm khoảng 19-44%. So với hàm lượng của các loài

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 6


rong nâu trên thế giới thì hàm lượng này của rong mơ Việt Nam khá cao.
Các chất khoáng có mặt trong rong với tỷ lệ tùy thuộc vào từng loài , nơi
phân bố và giai đoạn phát triển. Tổng lượng khoáng theo trọng lượng khô dao

động từ 20-40%. Ngoài các nguyên tố phổ biến như K, Na, Ca, Mg.., rong mơ
Việt Nam cũng có khả năng tích tụ nguyên tố stronti khá cao.
Hàm lượng iod khoảng 0,05-0,25%. Ngoài ra còn có chất diệp lục và một
số chất khác.
Giá trị dinh dưỡng của rong mơ là cung cấp đầy đủ các khoáng chất đặc biệt
là các nguyên tố vi lượng, các acid amin cần thiết cho cơ thể, các loại vitamin,
các carbohydrate đặc trưng và các hoạt chất sinh học có lợi cho cơ thể, đồng thời
có khả năng phòng và trị bệnh. Theo số liệu nghiên cứu của Nhật Bản trong rong
mơ có chứa các vitamin sau đây (miligam %): tiền vitamin A (caroten)-1.1; A –
622; B1 – 0.53; B2 – 0.41; acid nicotin- 1.6; acid folic – 0.14; B12 – 0.0033 và
ascorbic – 28. Rong mơ có hàm lượng lipid rất thấp (ít hơn 2%). Nhưng acid
licozopentae khá cao tới 20 ÷ 25% tổng số lượng các acid béo, trong rong biển
còn tìm thấy nhiều fucosterol và nhiều nguyên tố vi lượng khác. Trong rong mơ
có chứa nhiều Iod hữu cơ rất có giá trị trong y học.
2.1.4. Ứng dụng của rong mơ
Các sản phẩm hữu cơ từ rong mơ ngày nay được sử dụng hết sức rộng rãi
trong các ngành như: thực phẩm, dược phẩm, mỹ phẩm, công nghiệp dệt, nông
nghiệp, công nghệ sinh học và nghiên cứu khoa học.
Các polysaccharide từ rong mơ được coi là những hợp chất hữu cơ không
thể thay thế trong nhiều lĩnh vực công nghiệp khi được sử dụng như chất tạo
đông, làm đặc, chất ổn nhũ và chất ổn định. Giá trị công nghiệp của rong mơ là
cung cấp các chất keo rong quan trọng như: Agar, Alginate, Carrageenan,
Fucryllanzan… dùng cho thực phẩm và nhiều ngành công nghiệp khác. Khoảng
20% sản lượng rong biển Thế giới được dùng để sản xuất các loại keo rong, chế
biến thức ăn cho vật nuôi và làm phân bón, số còn lại chủ yếu được dùng làm
thức ăn cho người (Ohno và Critchley, 1997). Năm 1870 người ta điều chế xà
phòng từ các chất K2O, Na2O lấy từ rong biển (rong mơ), phát hiện trong rong
mơ có chứa Iod, từ đó người ta dùng nguyên liệu rong mơ để điều chế Iod và
được dùng làm thuốc phòng chống và chữa bệnh bướu cổ (Basedow).


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 7


2.2. SINH TRƯỞNG CỦA GIA CẦM VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
2.2.1 Khái niệm về sinh trưởng
Sinh trưởng là quá trình tích luỹ các chất hữu cơ do quá trình đồng hoá và
dị hoá, là sự tăng lên về khối lượng của các bộ phận và toàn bộ cơ thể về chiều
dài, chiều rộng, chiều cao của con vật dựa trên cơ sở tính di truyền từ đời trước.
Quá trình sinh trưởng chính là sự tích luỹ dần các chất, chủ yếu là protein
nên tốc độ và khối lượng tích luỹ của các chất, tốc độ và sự tổng hợp protein
cũng chính là sự hoạt động của các gen điều khiển sự sinh trưởng của cơ thể.
Theo Trần Đình Miên và Nguyễn Kim Đường (1992), quá trình sinh trưởng
là quá trình phân chia tế bào, tăng thể tích tế bào để tạo nên sự sống.
Phát triển là sự biến đổi không những về đặc điểm hình thái mà cả chức
năng sinh lý theo từng giai đoạn của sinh vật. Sinh trưởng và phát triển luôn gắn
liền với nhau, bổ sung cho nhau để sinh vật lớn nhanh và trưởng thành. Sinh
trưởng là điều kiện để phát triển và phát triển làm thay đổi sự sinh trưởng.
Tính giai đoạn của sinh trưởng biểu hiện ở nhiều hình thức khác nhau. Thời
gian của các giai đoạn dài hay ngắn, số lượng giai đoạn và sự đột biến trong sinh
trưởng của từng giống, từng cá thể có sự khác nhau. Giai đoạn này nối tiếp giai
đoạn khác, không đi ngược trở lại, không bỏ qua thời kỳ nào, ở mỗi giai đoạn,
thời kỳ đều có đặc điểm riêng.
Ở gà, căn cứ vào sự sinh trưởng của các cá thể ta có thể phân biệt các giai
đoạn phát triển của phôi trong trứng trước khi đẻ, giai đoạn phát triển của phôi
trong trứng sau khi đẻ, giai đoạn trứng nở thành con (sơ sinh) đến khi thành
thục sinh dục, giai đoạn sinh sản. Mỗi giai đoạn đều có đặc điểm hình thái, sinh
lý đặc trưng.
Đối với gia cầm, sinh trưởng là sự biến đổi, tổng hợp của sự tăng lên về số

lượng, kích thước của tế bào và thể dịch trong mô bào ở giai đoạn phát triển của
phôi. Trong giai đoạn sau khi nở thì sinh trưởng là do sự lớn lên của các mô.
Trong một số mô, sinh trưởng là do sự tăng lên về kích thước của các tế bào.
Giai đoạn này sinh trưởng được chia làm hai thời kỳ: thời kỳ gà con và thời kỳ
gà trưởng thành.
- Thời kỳ gà con: Thời kỳ này lượng tế bào tăng nhanh nên quá trình sinh
trưởng diễn ra rất nhanh, một số cơ quan nội tạng chưa phát triển hoàn chỉnh như
các men tiêu hóa chưa đầy đủ, khả năng điều tiết thân nhiệt kém, gà con dễ bị
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 8


ảnh hưởng bởi thức ăn và nuôi dưỡng. Vì vậy thức ăn và nuôi dưỡng trong thời
kỳ này ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ sinh trưởng của gia cầm. Thời kỳ này còn
diễn ra quá trình thay lông, đây là quá trình sinh lý quan trọng của gia cầm, nó
làm tăng trao đổi chất. Cho nên cần chú ý vấn đề nuôi dưỡng đặc biệt là các chất
dinh dưỡng có trong thức ăn, trong đó quan trọng nhất là các axit amin hạn chế
như lysine, methionine, tryptophan…
- Thời kỳ gà trưởng thành: Thời kỳ này các cơ quan trong cơ thể gia cầm
gần như đã phát triển hoàn thiện. Số lượng tế bào tăng chậm, chủ yếu là quá
trình phát dục. Quá trình tích lũy chất dinh dưỡng của gia cầm một phần là để
duy trì sự sống, một phần để tích lũy mỡ, tốc độ sinh trưởng chậm hơn thời kỳ
gà con. Vì vậy giai đoạn này cần xác định tuổi giết mổ thích hợp để cho hiệu
quả kinh tế cao.
Trong chăn nuôi gia cầm, việc nghiên cứu sinh trưởng đầu tiên là phải xác
định khối lượng cơ thể qua các tuần tuổi. Đây là một chỉ tiêu quan trọng đánh giá
sinh trưởng.
2.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá sinh trưởng và các yếu tố ảnh hưởng
* Các chỉ tiêu đánh giá sinh trưởng

Sinh trưởng là quá trình sinh lý phức tạp, khá dài, từ lúc thụ tinh đến khi
trưởng thành. Do vậy việc xác định chính xác toàn bộ quá trình sinh trưởng
không phải dễ dàng. Tuy nhiên, các nhà chọn giống gia cầm có khuynh hướng sử
dụng cách đo đơn giản và thực tế. Theo Chambers (1990), để đánh giá sức sinh
trưởng của gia cầm người ta thường dùng các chỉ tiêu chính như kích thước cơ
thể, sinh trưởng tích luỹ (khối lượng cơ thể), tốc độ sinh trưởng (sinh trưởng
tuyệt đối, sinh trưởng tương đối) và đường cong sinh trưởng.
- Kích thước cơ thể
Kích thước cơ thể là một chỉ tiêu quan trọng cho sự sinh trưởng, đặc
trưng cho từng giai đoạn sinh trưởng, từng giống, qua đó góp phần vào việc
phân biệt giống. Giới hạn kích thước của loài, cá thể… do tính di truyền quy
định. Tính di truyền của kích thước không tuân theo sự phân ly đơn giản theo
các quy luật Mendel.
Kích thước cơ thể luôn có mối tương quan thuận chặt chẽ với khối lượng cơ
thể. Kích thước cơ thể còn liên quan đến các chỉ tiêu sinh sản như tuổi thành thục
về thể trọng, chế độ dinh dưỡng, thời gian giết thịt thích hợp trong chăn nuôi gà.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 9


- Khối lượng cơ thể
Khối lượng cơ thể là một tính trạng số lượng và được quy định bởi yếu tố
di truyền. Khối lượng gà con khi nở phụ thuộc vào khối lượng quả trứng và khối
lượng của gà mẹ vào thời điểm đẻ trứng. Tuy nhiên khối lượng gà khi nở ít ảnh
hưởng đến sự sinh trưởng tiếp theo (Jonhanson, 1992).
Đối với gà hướng thịt, điều quan trọng nhất là khối lượng gà khi giết mổ.
Khối lượng cơ thể không những liên quan đến hiệu quả sử dụng thức ăn mà còn
cần thiết để quyết định thời gian nuôi thích hợp. Khối lượng cơ thể được minh

họa bằng đồ thị sinh trưởng tích lũy. Đồ thị này thay đổi theo dòng, giống, điều
kiện nuôi dưỡng chăm sóc.
- Tốc độ sinh trưởng
Trong chăn nuôi người ta thường sử dụng hai chỉ số để mô tả tốc độ sinh
trưởng ở vật nuôi là tốc độ sinh trưởng tuyệt đối và tốc độ sinh trưởng tương đối.
+ Tốc độ sinh trưởng tuyệt đối chính là sự gia tăng về khối lượng sống
trung bình một ngày đêm. Sinh trưởng tuyệt đối thường được tính bằng
g/con/ngày hoặc g/con/tuần. Đồ thị sinh trưởng tuyệt đối có dạng parabol. Giá trị
sinh trưởng tuyệt đối càng cao thì hiệu quả kinh tế càng lớn.
+ Tốc độ sinh trưởng tương đối là tỷ lệ phần trăm tăng lên của khối
lượng, kích thước và thể tích cơ thể lúc kết thúc khảo sát so với lúc đầu khảo sát
(TCVN – 2.40, 1977). Đồ thị sinh trưởng tương đối có dạng hypebol: liên tục
giảm dần theo độ tuổi. Gà broiler thường có tốc độ sinh trưởng tương đối tăng từ
tuần tuổi đầu tới tuần tuổi thứ ba, sau đó giảm dần.
Gà còn non tốc độ sinh trưởng tương đối cao, sau đó giảm dần theo tuổi.
Tốc độ sinh trưởng của vật nuôi phụ thuộc vào loài, giống, giới tính, đặc điểm cơ
thể và điều kiện môi trường.
- Đường cong sinh trưởng
Đường cong sinh trưởng dùng để biểu thị tốc độ sinh trưởng của gia súc,
gia cầm nói chung. Chambers (1990) cho biết: đường cong sinh trưởng của gà
thịt gồm 4 pha và mỗi pha có đặc điểm như sau:
+ Pha sinh trưởng tích lũy: tăng tốc độ nhanh sau khi nở.
+ Điểm uốn của đường cong tại thời điểm sinh trưởng có tốc độ cao nhất.
+ Pha sinh trưởng có tốc độ giảm dần theo điểm uốn.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 10


+ Pha sinh trưởng tiệm cận có giá trị khi gà trưởng thành.

Thông thường, người ta sử dụng khối lượng cơ thể ở các tuần tuổi để thể
hiện đồ thị sinh trưởng tích lũy và cho biết một cách đơn giản nhất về đường
cong sinh trưởng.
Đường cong sinh trưởng không chỉ sử dụng để chỉ rõ về số lượng mà còn
làm rõ về chất lượng, sự sai khác giữa các dòng, các giống, giới tính, điều kiện
nuôi dưỡng, chăm sóc, môi trường.
* Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng của gà với những
mức độ khác nhau như di truyền, tính biệt, tốc độ mọc lông, các điều kiện môi
trường, nuôi dưỡng, chăm sóc…
- Ảnh hưởng của di truyền
Tốc độ sinh trưởng của gia cầm phụ thuộc vào loài, giống, dòng, cá thể.
Theo kết quả nghiên cứu của các tác giả E. F. Chnetzlen (1936), đã khẳng định:
Các giống gia cầm khác nhau có ảnh hưởng của di truyền tới khả năng sinh
trưởng khác nhau. Như giống gà hướng thịt BE88, AA, ISA… có tốc độ sinh
trưởng cao hơn giống gà kiêm dụng thịt trứng như Lương Phượng, Rhode và các
giống hướng trứng như Leghorn, Brown – nick… giữa các dòng trong cùng một
giống cũng có sự khác nhau về khả năng sinh trưởng. Theo kết quả nghiên cứu
của Nguyễn Đăng Vang và cs. (1999), khi nuôi gà thịt Tam Hoàng ở 85 ngày
tuổi cho thấy dòng 882 có khối lượng trung bình đạt 1418g trong khi dòng
Jiangcun chỉ đạt 1248g.
Các loài gia cầm khác nhau thì có khả năng sinh trưởng hoàn toàn khác
nhau. Nguyễn Duy Hoan và cs. (1998), tốc độ tăng trọng tương đối của một số
giống gà ở các giai đoạn tuổi là hoàn toàn khác nhau. Ở tháng thứ nhất của gà
150%, của vịt là 180%, của ngỗng là 170%, ở tháng thứ năm lần lượt là 20%, 4%
và 7%.
- Ảnh hưởng của giới tính
Ở gia cầm tốc độ sinh trưởng giữa hai giới có sự khác nhau về trao đổi
chất, đặc điểm sinh lý, tốc độ sinh trưởng và khối lượng cơ thể. Thường thì con
trống có tốc độ sinh trưởng mạnh hơn con mái. Sự khác nhau này được giải thích

qua tác động của các gen liên kết giới tính.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 11


Tác giả Jull (1972), cho biết gà trống có tốc độ sinh trưởng khác gà mái từ
24 – 32%, những gen này ở gà trống (2 nhiễm sắc thể giới tính) hoạt động mạnh
hơn ở gà mái (1 nhiễm sắc thể giới tính). Theo M.O. North (1990) ở cùng điều
kiện chăm sóc nuôi dưỡng giống nhau thì gà trống thường sinh trưởng nhanh hơn
gà mái.
Lúc mới nở gà trống nặng hơn gà mái 1% và sự sai khác này ngày càng lớn
khi tuổi càng tăng, lúc 7 tuần tuổi là 23%, 8 tuần tuổi là 27%. Sự khác nhau này là
do nhiều nguyên nhân nhưng quá trình trao đổi chất, đặc điểm sinh lý giữa hai giới
là khác nhau. Như vậy gà trống và gà mái đòi hỏi mức năng lượng và protein khác
nhau cho quá trình sinh trưởng và phát triển. Vì vậy để đạt được hiệu quả cao
trong chăn nuôi nên tách và nuôi riêng trống mái ngay từ khi còn nhỏ.
- Ảnh hưởng của tốc độ mọc lông
Những kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học xác định trong cùng
một giống, cùng giới tính ở gà có tốc độ mọc lông nhanh có tốc độ sinh trưởng,
phát triển cao hơn gà mọc lông chậm. Kushner (1974) cho rằng tốc độ mọc lông
có quan hệ chặt chẽ tới tốc độ sinh trưởng, thường gà lớn nhanh thì mọc lông
nhanh và đều hơn ở gà chậm mọc lông. Hayer và cs (1970) đã xác định trong
cùng một giống thì gà mái mọc lông đều hơn gà trống và tác giả cho rằng ảnh
hưởng của hoocmon sinh trưởng có tác dụng ngược chiều với giới tính quy định
tốc độ mọc lông.
Theo Siegel and Dumington (1978) thì những alen quy định tốc độ mọc
lông nhanh phù hợp với tăng khối lượng cao.
- Ảnh hưởng của dinh dưỡng

Dinh dưỡng là yếu tố quyết định đến quá trình sinh trưởng và phát triển của
gia cầm. Chế độ dinh dưỡng không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển khác nhau của
các tổ chức trong cơ thể mà nó còn ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của từng mô
trong cơ thể như mô cơ, mô mỡ, mô xương… dinh dưỡng không chỉ ảnh hưởng
đến sinh trưởng mà còn ảnh hưởng đến biến động di truyền về sinh trưởng.
Nếu không cung cấp đủ các chất dinh dưỡng sẽ làm cho gia cầm không
phát huy hết khả năng sinh trưởng, khả năng sản xuất, đồng thời cũng không phát
huy hết đặc tính của giống. Dinh dưỡng ảnh hưởng tới sinh trưởng của gia cầm
không chỉ ở mức năng lượng và protein khác nhau mà còn là sự cân bằng giữa năng
lượng và protein, cân bằng giữa axit amin với các chất dinh dưỡng và vitamin.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 12


Lã Văn Kính (1995), cho rằng nên nuôi gà thịt V135 tốt nhất là khẩu phần
có chứa 24% protein với mức năng lượng là 3000 - 3150Kcal ME, tỷ lệ giữa
năng lượng so với mức protein (ME/CP) là 131 - 138 cho giai đoạn từ 0 - 4 tuần
tuổi. Đến giai đoạn 5 - 8 tuần tuổi thì protein và mức năng lượng cho gà này là
20% CP và 3150 - 3300 KcalME, chỉ số ME/CP là 158 - 165.
Theo Bùi Đức Lũng và cs. (1992) để phát huy khả năng sinh trưởng cần
phải cung cấp thức ăn có chứa đầy đủ và cân bằng các chất dinh dưỡng đặc biệt
là cân bằng axit amin, cân bằng năng lượng và protein. Ngoài ra thức ăn cho gia
cầm cần phải được bổ sung hàng loạt các chế phẩm sinh học không mang ý nghĩa
dinh dưỡng nhưng nó kích thích sinh trưởng, làm tăng chất lượng thịt.
- Ảnh hưởng của các yếu tố môi trường
Gà thịt thương phẩm đặc biệt nhất là giống gà cao sản có tốc độ sinh
trưởng và phát triển rất mạnh, nhưng sức đề kháng của cơ thể với môi trường
sống kém hơn, vì vậy nó chịu ảnh hưởng rất lớn bởi các yếu tố môi trường như

nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, độ thông thoáng, mật độ nuôi…. Theo H.Newmeister
(1978), cho biết: các yếu tố môi trường như quá nóng, quá lạnh, ẩm độ quá cao
hay quá thấp, mật độ nuôi quá đông, độ thông thoáng kém sẽ gây tác động xấu
đến quá trình sinh trưởng của gia cầm.
+ Nhiệt độ môi trường
Nhiệt độ môi trường là yếu tố ảnh hưởng rõ rệt đến sinh trưởng của gia
cầm. Nhiệt độ quá cao hoặc quá thấp đều ảnh hưởng tới sinh trưởng của gia cầm.
Khi nhiệt độ quá cao gà sẽ giảm lượng thu nhận thức ăn, mất năng lượng để làm
mát cơ thể, nóng quá gà sẽ chết. Khi nhiệt độ thấp gà phải sản sinh ra một lượng
năng lượng để chống rét làm ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng của gà.
Nhiệt độ môi trường có ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu năng lượng và
protein của gà. Khi nhiệt độ môi trường tăng nhu cầu về năng lượng và protein
giảm. Theo Cerniglia et al. (1983), khi nhiệt độ chuồng nuôi thay đổi 1oC thì tiêu
thụ năng lượng của gà mái thay đổi tương đương 2 KcalME. Vì vậy muốn đạt tỷ
lệ nuôi sống cao, khả năng tăng trọng nhanh, tiêu tốn thức ăn thấp phải tạo nhiệt
độ thích hợp cho gà.
Ở nước ta, vào mùa hè để cho gà sinh trưởng và phát triển tốt khi phải sử
dụng khẩu phần có mức năng lượng cao cần phải tăng hàm lượng các chất dinh
dưỡng khác (đặc biệt là protein) để khi lượng thức ăn thu nhận thấp thì vẫn đủ

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 13


các chất để gà sinh trưởng và phát triển bình thường. Ngoài ra còn dùng các biện
pháp khắc phục chống nóng cho gà.
+ Ẩm độ
Ẩm độ cũng ảnh hưởng tới sự phát triển của gà. Ẩm độ thích hợp nhất cho
gia cầm từ 65 -70%, nếu ẩm độ quá thấp hay quá cao đều gây ảnh hưởng tới sức

khỏe đàn gà. Nếu ẩm độ cao làm cho chất độn chuồng ẩm ướt, thức ăn dễ ôi, mốc
tạo điều kiện cho vi khuẩn nấm mốc phát triển, sản sinh ra nhiều khí NH3 do vi
khuẩn phân huỷ các axit nucleic trong phân và chất độn chuồng, gây ảnh hưởng
xấu đến sức khỏe của đàn gà. Tất cả các yếu tố trên tác động làm cho gà dễ mắc
các bệnh về đường tiêu hoá nhất là bệnh do Ecoli gây ra và bệnh cầu trùng…;
nếu ẩm độ thấp sẽ làm cho không khí chuồng nuôi khô, chất độn chuồng khô tạo
nhiều bụi nên gà rất dễ mắc bệnh về đường hô hấp như CRD, IB, nấm phổi.
Ngoài ra tiểu khí hậu chuồng nuôi vô cùng quan trọng, chuồng nuôi thông thoáng
sẽ cung cấp đầy đủ oxy cho gà, giảm thải các khí độc như CO2, CO, NH3,
H2S…Vì vậy việc điều chỉnh ẩm độ trong chuồng nuôi là vấn đề hết sức quan
trọng trong chăn nuôi gia cầm.
+ Ảnh hưởng của ánh sáng
Ngoài các vấn đề về ẩm độ và nhiệt độ thì chế độ chiếu sáng cũng là một
yếu tố ảnh hưởng lớn đến quá trình sinh trưởng của gà vì gà rất nhạy cảm với ánh
sáng. Khi kéo dài thời gian chiếu sáng sẽ làm tăng đòi hỏi về thức ăn và kích
thích cho cơ thể phát triển, song lại làm giảm hiệu quả sử dụng thức ăn, nhưng
nếu thời gian chiếu sáng ngắn sẽ gây nên hậu quả ngược lại tức là làm giảm nhu
cầu về thức ăn, giảm tăng trọng, tăng hiệu quả sử dụng thức ăn.
Ánh sáng có cường độ chiếu sáng quá yếu sẽ khiến gà không nhìn thấy
đường, khó tìm đến được máng ăn. Nhưng nếu cường độ chiếu sáng quá mạnh sẽ
là nguyên nhân gây hiện tượng mổ cắn nhau. Như vậy để thúc đẩy quá trình sinh
trưởng và sức sản xuất của gia cầm chúng ta cần có chế độ chiếu sáng thích hợp
cho từng gia cầm, với từng phương thức chăn nuôi.
Khi cường độ chiếu sáng cao, gà hoạt động nhiều do đó làm giảm khả năng
tăng khối lượng. Với chuồng nuôi thông thoáng tự nhiên, mùa hè cần phải che
ánh nắng mặt trời chiếu thẳng vào chuồng, nhưng vẫn đảm bảo thông thoáng, ánh
sáng được phân bố đều trong chuồng và sử dụng bóng đèn có cùng công suất để
tránh gà tụ tập vào nơi có ánh sáng mạnh hơn.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp


Page 14


×