Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Lí luận về hàng hóa sức lao động và thị trường lao đọng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.7 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP LỚN HỌC KÌ
Bộ môn: Những

nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
( Học phần II )

Tên đề tài: Lý luận về hàng hóa sức lao động của C. Mác với thị

trường sức lao động (thị trường lao động) ở Việt Nam hiện nay.

Họ và tên: NGỌ DUY HÙNG
Lớp: 02
Nhóm: B2
MSSV: 390249

Hà Nội, ngày 26 tháng 12 năm 2014.

1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP LỚN HỌC KÌ
Bộ môn: Những

nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
( Học phần II )

Tên đề tài: Lý luận về hàng hóa sức lao động của C. Mác với thị



trường sức lao động (thị trường lao động) ở Việt Nam hiện nay.

Họ và tên: NGỌ DUY HÙNG
Lớp: 02
Nhóm: B2
MSSV: 390249

Hà Nội, ngày 26 tháng 12 năm 2014.

2


MỤC LỤC
Nội dung

Trang

LỜI NÓI ĐẦU …………………………………………………….. 4
TÌM HIỂU VẤN ĐỀ ……………………………………………….. 5
I. Lý luận về hàng hóa sức lao động của C.Mác …………………...5
1. Sức lao động và điều kiện để sức lao động
trở thành hàng hóa……………………………………………….5
2. Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động …………………….. 5
II. Lý luận về hàng hóa sức lao động của C.Mác
với thị trường lao động ở Việt Nam hiện nay………………………7
1. Định nghĩa thị trường lao động ……………………………….. 7
2. Thực trạng thị trường lao động ở Việt Nam
hiện nay………………………………………………………..7
3. Vận dụng lí luận về hàng hóa sức lao động

của C.Mác vào việc phát triển thị trường lao động
ở Việt Nam hiện nay…………………………………………..10
KẾT LUẬN………………………………………………………...12
Danh mục tài liệu tham khảo ………………………………………13

3


LỜI NÓI ĐẦU
Như chúng ta đã thấy, học thuyết giá trị chính là xuất phát điểm của toàn bộ lí luận
kinh tế của C.Mác.Trên nền tảng học thuyết này, C.Mác đã xây dựng học thuyết
giá trị thặng dư với một vị trí quan trọng trọng lí luận. Ở đây, ông đã nhìn ra rằng,
trong chế độ tư bản chủ nghĩa, để có được giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tìm ra
một loại hàng hóa mà giá trị sử dụng của nó có thuộc tính là nguồn gốc sinh ra giá
trị. Sức lao động được coi là một hàng hóa đặc biệt, tiền lương được coi là mức giá
của sức lao động và được quyết định bởi sự thỏa thuận giữa hai bên.
Trong những năm gần đây, Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thế giới, kinh tế tri
thức đã trở thành xu hướng phát triển chung của thế giới và Việt Nam cũng không
phải là ngoại lệ. Yếu tố con người đã trở nên rất quan trọng, vì vậy, việc phát triển
thị trường sức lao động sao cho hợp lí là một vấn đề rất cần thiết đối với nền kinh
tế Việt Nam hiện nay.
Về mặt phát triển kinh tế, Việt Nam đang chuyển từ sản xuất hàng hóa giản đơn lên
sản xuất hàng hóa xã hội chủ nghĩa, trong đó vận dụng những thành tựu của sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Yếu tố cơ bản để phân biệt sản xuất hàng hóa tư bản chủ
nghĩa với sản xuất hàng hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa là khả năng phát
huy vai trò tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân hàng hóa sức lao động.
Đây chính là vấn đề then chốt trong vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động của
C.Mác vào việc xây dựng một quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa tốt đẹp hơn quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa.

Nhận thấy tầm quan trọng của những vấn đề trên, em xin chọn đề tài nghiên cứu
“Lý luận về hàng hóa sức lao động của C.Mác với thị trường sức lao động (thị
trường lao động) ở Việt Nam hiện nay” để phần nào làm rõ hơn vấn đề này.
4


TÌM HIỂU VẤN ĐỀ
I. Lý luận về hàng hóa sức lao động của C. Mác:
1. Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa:
- Theo C.Mác, “Sức lao động, đó là toàn bộ các thể lực và trí lực ở trong thân
thể một con người, trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực mà
con người phải làm cho hoạt động sản xuất ra những vật có ích”.
- Trong bất cứ xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của sản xuất.
Sức lao động chỉ có thể trở thành hàng hóa trong những điều kiện lịch sử nhất định
sau:
+ Thứ nhất, người có sức lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ được
sức lao động của mình và có quyền bán sức lao động của mình như một hàng hóa.
+ Thứ hai, người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất, để
tồn tại buộc anh ta phải bán sức lao động của mình để sống.
Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu biến sức lao động thành
hànghóa- điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản. Chính sự xuất hiện của
hàng hóa sức lao động đã làm cho sản xuất hàng hóa trở nên phổ biến và báo hiệu
sự ra đời của một thời đại mới trong lịch sử xã hội – thời đại của chủ nghĩa tư bản.
2. Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động:
Cũng giống như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động có hai thuộc tính:
giá trị và giá trị sử dụng.
- Giá trị hàng hóa sức lao động: Do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản
xuất và tái sản xuất sức lao động quyết định. Nhưng sức lao động chỉ tồn tại như
5



năng lực sống của con người. Muốn tái sản xuất ra năng lực đó, người công nhân
phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định (ăn, mặc, ở, học nghề,…) để
duy trì sự sống và mọi hoạt động bình thường khác của họ và gia đình họ. Do đó,
giá trị hàng hóa sức lao động là giá trị những tư liệu sản xuất sinh hoạt cần thiết để
sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động. Giá trị hàng hóa sức lao động được hợp
thành từ các bộ phận sau:
+ Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái
sản xuất sức lao động, duy trì đời sống của bản thân người công nhân.
+ Hai là, phí tổn đào tạo người công nhân.
+ Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái
người công nhân.
Là một loại hàng hóa đặc biệt, giá trị hàng hóa sức lao động khác với hàng hóa
thông thường ở chỗ: Giá trị hàng hóa sức lao động được đo gián tiếp bằng giá trị
của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động. Giá trị của
hàng hóa sức lao động ngoài các yếu tố vật chất còn bao hàm cả yếu tố tinh thần và
lịch sử nên nó không chỉ phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên mà còn phụ thuộc vào
hoàn cảnh lịch sử ở từng thời kì, từng trình độ văn minh đã đạt được, điều kiện địa
lý, khí hậu khác nhau của mỗi nước.
- Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động: Chỉ thể hiện trong quá trình tiêu
dùng sức lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân. Nhưng quá trình
tiêu dùng hàng hóa sức lao động khác với quá trình tiêu dung hàng hóa thông
thường ở chỗ: hàng hóa thông thường sau quá trình tiêu dùng hay sử dụng thì cả
giá trị lẫn giá trị sử dụng của chúng đều biến mất theo thời gian. Trái lại, quá trinh
tiêu dùng hàng hóa sức lao động lại là quá trình sản xuất ra một loạt hàng hóa nào
đó, đồng thời là quá trình sáng tạo ra những giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân
6


nó, phần giá trị dôi ra so với giá trị sức lao động là giá trị thặng dư mà nhà tư bản

sẽ chiếm đoạt. Chính đặc tính này đã làm cho sự xuất hiện của hàng hóa sức lao
động trở thành điều kiện để tiền tệ chuyển hóa thành tư bản.
II. Lý luận về hàng hóa sức lao động của C.Mác với thị trường lao động ở Việt
Nam hiện nay:
1. Định nghĩa thị trường lao động:
- Thị trường lao động là một bộ phận của hệ thống thị trường mà ở đó diễn ra
quá trình trao đổi giữa một bên là người lao động tự do (bên cung) và một bên là
người có nhu cầu sử dụng lao động (bên cầu). Sự trao đổi này được thỏa thuận trên
cơ sở mối quan hệ lao động như tiền lương, tiền công, điều kiện làm việc,… thông
qua một hợp đồng làm việc bằng văn bản hoặc bằng miệng.
- Hai bên (bên cung và bên cầu) dựa vào nhau để tồn tại. Sự tác động lẫn nhau
của hai loại chủ thể này quyết định tính cạnh tranh của thị trường.
- Thị trường lao động tuân thủ theo các quy luật như quy luật cung - cầu, quy luật
giá trị và quy luật cạnh tranh.
2. Thực trạng thị trường lao động ở Việt Nam hiện nay:
a. Thực trạng cung lao động:
- Cung lao động là tổng nguồn sức lao độngdo người lao động tự nguyện đem
tham dự vào quá trình tái sản xuất xã hội. Cung lao động được xem xét dưới hai
góc độ là số lượng và chất lượng lao động.
* Về số lượng lao động:
- Theo kết quả thống kê của Tổng cục Thống kê và Quỹ Dân số Liên hợp
quốc công bố vào ngày 17/12/2014, tổng dân số Việt Nam tính đến thời điểm này
7


là gần 90,5 triệu người. Trong đó số người trong độ tuổi lao động là khoảng 58
triệu người, mức tăng trung bình hàng năm là 2,6%. So với tốc độ tăng dân số
(1,7% / năm) thì tốc độ tăng dân số trong độ tuổi lao động cao hơn nhiều. Kết quả
là mỗi năm nước ta có khoảng 1,5 triệu người bước vào độ tuổi lao động. Và nếu
so với mức tăng việc làm trong cùng thời kì thì nước ta (khoảng tử 1,4 – 2%) thì có

thể thấy rõ rằng có một bộ phận người lao động không thể tìm được việc làm.
* Về chất lượng lao động:
- Thứ nhất, về mặt sức khỏe, thể lực của lao động Việt Nam kém hẳn lao
động của các nước khác về chiều cao, cân nặng, sức bền,... Theo số liệu điều tra
năm 2009 thì số người không đủ tiêu chuẩn về cân nặng ở Việt Nam chiếm tới
48,7%, số lượng người lớn suy dinh dưỡng là 28%, phụ nữ thiếu máu là 40%.
-

- Thứ hai, tỉ lệ lao động đã qua đào tạo ở nước ta còn rất thấp. Dù nước ta có

khoảng 1300 trường cao đẳng, trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề nhưng chất
lượng đào tạo chưa đạt chuẩn quốc tế, trình độ giảng dạy chưa phù hợp, chưa đáp
ứng được yêu cầu của các khu công nghiệp, khu chế xuất,... Đồng thời, ý thức kỉ
luật lao động của người lao động còn thấp, phần lớn họ đều mang nặng tác phong
sản xuất của một nền nhà nước tiểu nông, chưa được trang bị các kiến thức, kĩ
năng làm việc nhóm, không có khả năng hợp tác tốt và gánh chịu rủi ro, ngại phát
huy sáng kiến và chia sẻ kinh nghiệm làm việc.
b. Thực trạng cầu lao động:
- Cầu lao động là nhu cầu về sức lao động của một quốc gia, một địa phương
hay một doanh nghiệp trong một khoảng thời gian xác định. Nhu cầu này thể hiện
qua khả năng thuê mướn lao động trên thị trường lao động.
- Thời gian vừa qua, do khủng hoảng kinh tế, cầu về lao động đã giảm nên tỉ lệ
lao động thất nghiệp, thiếu việc làm đang tăng dần lên.
8


Trong thị trường lao động ở Việt Nam hiện nay, sự chênh lệch giữa cung và cầu là
rất lớn.
c. Sự chuyển dịch lao động:
- Chuyển dịch lao động nội địa:

+ Chuyển dịch cơ cấu lao động theo nghành: nhìn chung đã có sự chuyển biến
tích cực, chuyển dich theo hướng giảm tỉ lệ ở nghành nông - lâm - ngư nghiệp,
tăng tỉ lệ ở các nghành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Điều đó đã phản ánh xu
thế Công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH – HĐH) trong quá trình chuyển đổi cơ
cấu kinh tế ở nước ta. Và để chứng minh cho điều đó, dưới đây em xin đưa racác
số liệu như sau:
Bảng thống kê lao động có việc làm chia theo nhóm nghành kinh tế giai đoạn
1996-2003 (đơn vị: %):
Nghành
Cả nước

1996
100

2002
100

2003
100

Nông - lâm - ngư nghiệp
Công nghiệp - Xây dựng
Dịch vụ

68,96
10,88
20,16

61,14
15,05

23,81

58,35
16,96
24,69

+ Chuyển dịch cơ cấu theo lãnh thổ: Dòng lao động di chuyển mạnh nhất hiện
nay là từ nông thôn ra thành thị. Họ có xu hướng di chuyển đến nơi có điều kiện
phát triển kinh tế tốt hơn.
- Di chuyển lao động quốc tế: Nhờ những chính sách của nhà nước tạo điều kiện
cho người lao động vay vốn đi lao động ở nước ngoài, chỉ trong thập niên 90
chúng ta đã đưa gần 90000 lao động đi làm việc tại 40 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Đặc biệt từ sau năm 1996, con số này đã tăng lên gấp nhiều lần.
9


Nhận xét về thực trạng hàng hóa sức lao động ở Việt Nam hiện nay: Nền kinh
tế thị trường nước ta vận động và phát triển gắn liền với quá trình CNH - HĐH,
đồng thời cũng hội nhập với nền kinh tế thế giới. Vì vậy, khi vận dụng lý luận hàng
hóa sức lao động vào phát triển thị trường lao động cần giải quyết vấn đề về nguồn
cung lao động chất lượng cao cho quá trình này, nâng cao giá trị sử dụng của hàng
hóa sức lao động. Tuy nhiên quá trình nhận thức và vận dụng lí luận hàng hóa sức
lao động của C.Mác vẫn còn những hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được yêu cầu
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cụ thể như: tuy nước ta có
nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển thị trường lao động nhưnggiá trị sử dụng của
sức lao động còn thấp làm hạn chế phần nào sự cạnh tranh của nước ta trên thị
trường thế giới, giá trị hàng hóa sức lao động chưa bao hàm hết những yếu tố đáp
ứng yêu cầu tái sản xuất mở rộng sức lao động, còn tồn tại sự bất ổn trong chính
sách tiền lương (dù đã nhiều lần được điều chỉnh nhưng mức lương tối thiểu và cơ
bản mới chỉ đáp ứng được 60 - 65% nhu cầu cơ bản của người lao động; hệ thống

thang bảng lương hiện hành phức tạp, rườm rà; ở một số doanh nghiệp, mức lương
khá thấp, đối nghịch với giá cả thị trường nên cuộc sống của người lao động còn
khó khăn, …), trình độ lao động còn thấp,…
3. Vận dụng lý luận về hàng hóa sức lao động của C.Mác vào việc phát triển
thị trường lao động ở Việt Nam hiện nay:
Vận dụng lý luận này, em xin đề xuất một số giải pháp giúp nâng cao giá trị hàng
hóa sức lao động ở Việt Nam như sau:
- Vận dụng hàng hóa sức lao động phải gắn liền với việc hình thành đội ngũ lao
động có chất lượng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH – HĐH của đất nước. Để
làm tốt hơn điều này, Đảng và nhà nước ta cần nâng cao trình độ và thay đổi cơ cấu
dạy nghề theo yêu cầu của thị trường lao động, tăng cường phát triển giáo dục ở
10


các vùng miền núi, trung du và hải đảo, học phải đi đôi với hành. Bên cạnh việc
đào tạo nghiệp vụ, chuyên môn, kĩ thuật nghề còn phải quan tâm giáo dục phẩm
chất đạo đức, tinh thần, ý thức trách nhiệm, lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội,
trung thành với mục tiêu, lí tưởng của Đảng,.. để họ hoàn thiện hơn về mọi mặt.
- Vận dụng hàng hóa sức lao động phải phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Lợi ích của người sử dụng
lao động và người lao động phải có sự hài hòa, bình đẳng. Quan hệ lao động ở các
doanh nghiệp cần được luật hóa, người sử dụng lao động và người lao động cần có
mối quan hệ tốt, phối hợp với nhau vì sự phát triển chung của xã hội.
- Tổ chức triển khai những chương trình có khả năng tạo ra nhiều việc làm mới
như: phân bố lại nông nghiệp – nông thôn, phân bố lại dân cư, lao động, xây dựng
các vùng kinh tế mới, phát triển công nghiệp – dịch vụ,…, phát triển các trung tâm
dịch vụ việc làm, hệ thống thông tin lao động, việc làm,…
- Tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp luật về tiền công, tiền lương, các chế độ đối
với người lao động để thị trường lao động vận hành một cách hiệu quả trong nền
kinh tế thị trường.

- Khuyến khích mọi người đầu tư phát triển sản xuất tạo việc làm, tạo điều
kiệnthu hút nguồn đầu tư nước ngoài.
- Chú trọng công tác xuất khẩu lao động, nâng cao chất lượng nghề của lao động,
tạo ra tính liên thông của lao động trong và ngoài nước về cung cầu và giá cả sức
lao động.

KẾT LUẬN
11


Hàng hóa sức lao động đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường,
nhất là trong sự nghiệp Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa của nước ta. Chính vì vậy,
chúng ta cần chú trọng nâng cao chất lượng lao động về mọi mặt đồng thời hoàn
thiện các cơ chế chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho họ để họ phát huy hết
khả năng của mình, góp phần xây dựng một thị trường lao động sôi động, ổn định,
có hiệu quả, cân bằng giữa cung – cầu và tác động tích cực đến sự phát triển kinh
tế.

Danh mục tài liệu:
12


- Tài liệu chính: Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin
- Các tài liệu tham khảo:
các trang báo mạng: + Doko.vn (Lý luận về hàng hóa sức lao động của Mác với thị
trường sức lao động ở Việt Nam hiện nay)
+ 123doc.org (Lí luận về thị trường hàng hóa sức lao
động của chủ nghĩa Mác – Lenin)
+ www.dhluathn.com( Bài tập lớn học kì – Lý luận về
hàng hóa sức lao động của C.Mác với thị trường lao động ở Việt Nam hiện nay)


13


14


15



×