Tải bản đầy đủ (.pdf) (152 trang)

Xác Định Ngưỡng Chịu Hạn Và Nhu Cầu Sử Dụng Nước Cho Một Số Giống Lúa Mới Nhập Nội Tại Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (702.93 KB, 152 trang )

®¹i häc th¸i nguyªn
tr−êng ®¹i häc n«ng l©m
----------

----------

ĐẶNG THỊ THU HIỀN

XÁC ĐỊNH NGƯỠNG CHỊU HẠN
VÀ NHU CẦU SỬ DỤNG NƯỚC CHO MỘT SỐ
GIỐNG LÚA MỚI NHẬP NỘI TẠI THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

THÁI NGUYÊN - 2009


®¹i häc th¸i nguyªn
tr−êng ®¹i häc n«ng l©m
----------

----------

ĐẶNG THỊ THU HIỀN

“XÁC ĐỊNH NGƯỠNG CHỊU HẠN VÀ NHU CẦU SỬ DỤNG NƯỚC CHO
MỘT SỐ GIỐNG LÚA MỚI NHẬP NỘI TẠI THÁI NGUYÊN”

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
Chuyên ngành : Trồng trọt
Mã số



: 62 62 01 01

Người hướng dẫn khoa học:
1. TS. ĐẶNG QUÝ NHÂN
2. PGS. TS. ĐẶNG VĂN MINH

Thái Nguyên - 2009

2


LỜI C ẢM ƠN

Qua thời gian nghiên cứu, bản luận văn của tôi đã được hoàn thành
với sự nỗ lực của bản thân, sự động viên khích lệ của bạn bè, đồng
nghiệp. Đặc biệt là sự quan tâm giúp đỡ của TS. Đặng Quý Nhân bộ
môn cây Lương thực và cây Công nghiệp; PGS.TS. Đặng Văn Minh
Trưởng Khoa Sau đại học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên là
những người thầy đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt thời gian thực
hiện đề tài.
Nhân dịp này, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa
Nông học cùng các thầy cô giáo trong Ban Giám hiệu Trường Đại học
Nông Lâm Thái Nguyên đã giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu và
hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới gia đình và bạn bè
đã động viên khích lệ, giúp đỡ tôi hoàn thành bản luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 29 tháng 9 năm 2009.


3


MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Lúa (Oryza sativa L.) là một trong những cây lương thực có vị trí quan
trọng hàng đầu trên thế giới và là nguồn thức ăn thường xuyên cho khoảng 3
tỷ người trên trái đất [44].
Lúa có khả năng thích nghi rộng nên được trồng nhiều nơi trên thế giới,
tuy nhiên tập chung chủ yếu ở châu Á chiếm 90% (còn lại phân bố ở châu
Phi, châu Mỹ và châu Úc) trong đó khoảng 75% diện tích lúa được trồng
trong điều kiện ruộng ngập nước, 19% diện tích lúa trồng trong điều kiện
ruộng thấp nhờ nước trời, và khoảng 4% diện tích lúa trồng trong điều kiện
ruộng cạn không chủ động nước [44].
Trong những năm gần đây, nguồn nước cung cấp cho canh tác lúa đang
ngày càng khan hiếm, đặc biệt là ở châu Á, nơi mà cây lúa được trồng trên
khoảng 30% diện tích đất chủ động nước và chiếm 50% lượng nước tưới cho
cây trồng [31]. Theo tính toán, trên đồng ruộng nhu cầu về nước cho cây lúa
cao gấp 2 đến 3 lần so với các cây trồng khác [47], nguyên nhân chính bởi
lượng nước bị thất thoát trong suốt quá trình canh tác mà không tham gia vào
quá trình sản xuất chiếm tới 80% lượng nước được cung cấp, chủ yếu thông
qua quá trình bay hơi, chảy tràn bề mặt, thấm xuống lòng đất. Việc thiếu hụt
lượng nước tưới cho canh tác nông nghiệp nói chung và cây lúa nói riêng đang
là mối đe dọa đối với ngành sản xuất lúa đặc biệt là hệ thống lúa tưới tiêu chủ
động.
Vì những lý do này, việc tiết kiệm nguồn nước và tăng cường hệ số
sử dụng nước cho lúa là việc làm cần thiết mang tính chiến lược trên qui
mô toàn cầu.
4



Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi tiến hành đề tài:
“Xác định ngưỡng chịu hạn và nhu cầu sử dụng nước cho một số
giống lúa mới nhập nội tại Thái Nguyên”.
2. Mục tiêu
Xác định ngưỡng chịu hạn cho các giống lúa thí nghiệm nhằm chọn ra
giống có chất lượng tốt đồng thời có khả năng chịu hạn tốt.
Xác định được ảnh hưởng của tưới nước hạn chế đến các yếu tố cấu
thành năng suất và năng suất của các giống lúa trong điều kiện thí
nghiệm.
3. Yêu cầu
Đánh giá được ngưỡng chịu hạn cho các giống lúa ở giai đoạn đẻ nhánh
trong điều kiện thí nghiệm.
Đánh giá được nhu cầu về nước, hệ số sử dụng nước cho các giống lúa
trong điều kiện thí nghiệm.
Đánh giá mối quan hệ giữa ngưỡng chịu hạn, hệ số sử dụng nước, chỉ
số chịu hạn và hiệu suất sử dụng nước với các yếu tố cấu thành năng
suất và năng suất lúa.

5


CHƯƠNG I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu
Hiện nay, tình trạng thiếu hụt nước đang đe dọa hệ thống sản xuất lúa
nước chủ động và an ninh lương thực của châu Á [47]. Điều này thách thức
chúng ta cần phải phát triển các công nghệ mới, kỹ thuật mới và các hệ thống
sản xuất mới để duy trì ngành sản xuất lúa gạo và tăng cường khả năng chống
chịu với điều kiện khan hiếm nước. Với tiêu đề mở đầu như một lời hiệu

triệu:
“Làm ra nhiều thóc gạo hơn nhưng lại sử dụng ít nước hơn”
Đó chính là mục tiêu của các nghiên cứu về canh tác lúa tiết kiệm nước
mà Tiến sỹ, Viện sỹ Viện nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI) Tô Phúc Tường đã
viết trong phần mở đầu một bài báo về canh tác lúa tiết kiệm nước đăng trên
tạp chí Plant Production Sciences số 8 (3) năm 2005 [32].
Tưới nước hợp lý, ngoài tiết kiệm đáng kể được lượng nước trong canh
tác còn giúp nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón và giảm sâu bệnh hại trên
đồng ruộng.
Nguyên lý chung cho việc phát triển công nghệ và hệ thống mới trong quá
trình canh tác lúa tiết kiệm nước nhằm giảm tối thiểu lượng nước đầu vào, tăng
lượng nước sản xuất hay còn gọi là lượng nước mà cây sử dụng là quản lý nguồn
nước ở mức độ hệ thống. Làm ra nhiều thóc gạo hơn nhưng lại sử dụng nước tiết
kiệm hơn hoàn toàn có thể thực hiện khi qui trình quản lý nước được thực hiện
các biện pháp tổng hợp: (i) Chọn tạo và sử dụng nguồn gen, giống chống chịu
hạn, đồng thời thực hiện các biện pháp kỹ thuật quản lý nguồn tài nguyên nhằm
6


tăng năng suất cây trồng. (ii) Quản lý nước ở mức độ toàn bộ hệ thống chẳng
hạn như lượng nước tiết kiệm trên đồng ruộng được sử dụng hiệu quả hơn khi
tưới cho các ruộng trồng lúa mà các cây trồng trước đó không cần tưới hoặc sử
dụng ít nước.
Nhiều nghiên cứu gần đây về canh tác lúa ở Trung Quốc, IRRI,
Philippine, Ấn độ… đã chỉ ra rằng khi canh tác lúa bằng các kỹ thuật mới như
tưới và không tưới xen kẽ theo yêu cầu của từng thời kỳ sinh trưởng, lượng nước
có thể tiết kiệm được cho lúa là rất lớn, chỉ cần từ 32 - 54% so với phương thức
canh tác ngập nước truyền thống nhưng năng suất chỉ giảm nhẹ khoảng 8% so
với đối chứng. Tuy nhiên hiệu số sử dụng nước trong phương pháp mới là cao
hơn hẳn 0,35 so với 0,23 của đối chứng [40].

Mặc dù vậy trong thực tế việc giảm thiểu lượng nước đầu vào, thay đổi
hẳn tập quán canh tác cây lúa sẽ gây ra những tác động rất lớn cần nghiên cứu
như: cỏ dại, dinh dưỡng cây trồng, dinh dưỡng đất, môi trường, duy trì hệ
thống canh tác bền vững… đòi hỏi chúng ta cần nỗ lực tập chung nghiên cứu
tìm ra được những giải pháp tổng thể đảm bảo canh tác bền vững cây lúa.
1.2. Khái quát về tài nguyên nước
1.2.1. Một số khái niệm về tài nguyên nước
Nước là tài nguyên có ý nghĩa quyết định đối với sự sống và phát triển
của con người và xã hội loài người. Ngôn ngữ Việt Nam đã dùng chữ ‘nước”
để nói lên phạm vi lãnh thổ quốc gia, trên đó người dân của quốc gia được
hưởng những quyền lợi chung của dân tộc. Nước là thành phần cấu thành sinh
quyển và tác động trực tiếp đến các yếu tố của thạch quyển, khí quyển và các
nhân tố tác động tới khí hậu, thời tiết trong khí quyển. Nước vừa là tài nguyên
vật liệu vừa mang năng lượng, di chuyển các vật chất trên trái đất dưới dạng
hoà tan, lơ lửng hoặc di đẩy trong nước.
Nước di chuyển theo tuần hoàn nước như là một chu trình thu thập,
7


thanh lọc và phân phối nước một cách liên tục khắp mọi nơi trên Trái Đất.
Nước là một trong những nhân tố chủ yếu quyết định chất lượng môi trường
sống của con người, cũng như của mọi sinh vật sống trên trái đất. Chỗ nào có
nước chỗ ấy có sự sống, không có nước thì mọi hoạt động sống đều đình chỉ.
Nước bao phủ 70% mặt đất và tạo thành hơn 2/3 trọng lượng của tất cả các
sinh vật sống [12].
1.2.2. Phân bố nước trên trái đất
Nước là dạng tài nguyên rất phong phú gần như vô tận trong sinh quyển,
tập trung nhiều nhất ở Đại Dương và trong các lớp băng hà. Tuy nhiên, lượng
nước ngọt thực sự hiện hữu cho nhân loại trực tiếp sử dụng không phải là vô
tận và đặc biệt do sự phân bố không đồng đều nên con người ở nhiều khu vực

trên thế giới đã chịu hạn hán thiếu nước trầm trọng, nhất là vào mùa khô. Bên
cạnh đó, lượng nước ngầm, nước sông suối còn bị ô nhiễm do hoạt động sinh
hoạt của con người nên một số trường hợp trở thành nguy hiểm cho sức khoẻ
và đời sống của con người và sinh vật.
Tổng lượng nước lớn nhưng lượng nước ngọt mà con người có thể sử
dụng được rất ít và chỉ có thể khai thác được từ các nguồn sau (lượng nước
ngọt trên bề mặt đất):
- Lượng nước mưa rơi xuống mặt đất.
- Nước tồn tại trong các sông, rạch, ao, hồ.
- Một phần rất ít nước từ đầm lầy và băng tuyết.
Hiện nay trên phạm vi toàn cầu con người dùng 8% trong tổng lượng
nước ngọt được khai thác cho sinh hoạt, 23% cho công nghiệp và 63% cho
nông nghiệp [12].
Nước ta với lượng mưa bình quân năm khoảng gần 2.000 mm/năm trên
cả nước, lại ở vùng trung và hạ lưu một số sông lớn xuất phát từ các quốc gia
khác nên có lượng nước bình quân trên đầu người khá lớn bằng
8


17.000m3/người/năm. Modun dòng chảy vùng nhiều mưa lên tới 70 – 100
l/giây/km2, nơi ít mưa cũng 5 l/giây/km2. Sông ngòi Việt Nam có tiềm năng
cung cấp cho dân sinh và các ngành kinh tế ở nước ta một lượng nước khoảng
100-150 km3/năm, chưa kể lượng nước từ bên ngoài đổ vào. Trữ lượng nước
ngầm có thể khai thác vào khoảng 10 triệu m3/ngày, hiện nay ta đã khai thác
khoảng 500m3/năm/người, chỉ khoảng 3% tiềm năng [12].
Trong thực tế hiện tượng thiếu nước đã trở nên nghiêm trọng tại một số
địa phương. Các hồ chứa nước lớn nhỏ, các khu tưới lớn được xây dựng và
hoạt động vài mươi năm gần đây đã tăng tổn thất nước do bốc hơi. Lượng
nước tưới cho nông nghiệp không hồi quy vào vùng hạ lưu lên tới trên 20%
lượng nước dùng. Tại các vùng rừng đã bị tàn phá nghiêm trọng các suối khô

cạn, nạn thiếu nước trở nên trầm trọng. Vào mùa khô nhân dân vùng núi cao
phía Bắc (Đồng Văn, Mèo Vạc...) Tây Bắc (Lai Châu) phải đi xa hàng chục
km để lấy nước ăn. Năm 1993 hạn hán nghiêm trọng tại Quảng Trị, năm 1995
tại Đắc Lắc gây thiệt hại nghiêm trọng về nông nghiệp và khó khăn lớn về đời
sống.
Ví dụ tại đồng bằng Miền Bắc Trung Quốc, khu vực này đang thiếu hụt
khoảng 15 tỷ m3 nước hàng năm, điều này làm sụt giảm năng suất và lượng
nước ngầm đang ngày càng cạn kiệt dần [40]. Hơn nữa, sự cạnh tranh về nhu
cầu nước của các ngành công nghiệp, sinh hoạt của các khu đô thị ngày càng
tăng đối với nguồn nước sử dụng cho nông nghiệp. Diện tích đất dành cho
canh tác đặc biệt là những cây trồng đòi hỏi lượng nước lớn như lúa nước lúa
bắt đầu bị cắt giảm từ những năm 2002, và năm 2007 lúa nước bị cấm canh
tác ở khu vực thành phố Bắc Kinh [41]. Ở Việt Nam trong đợt hạn kéo dài
đầu năm 2007, do cần một lượng nước tưới lớn cung cấp cho đồng bằng
Sông Hồng canh tác nông nghiệp, nhà máy thủy điện lớn nhất Việt Nam đã
phải cắt giảm sản xuất đến mức duy trì tối thiểu để đập nước Hòa Bình xả
9


nước cho sản xuất nông nghiệp lưu vực hạ lưu sông Hồng.
Do đó, vấn đề sử dụng nước ngọt một cách hợp lý và hữu hiệu cần phải
đặc biệt chú ý nhằm có đủ dự trữ cho nhu cầu ngày càng tăng nhanh (nước
sinh hoạt, nước tưới tiêu, nước cho công nghiệp và giải trí...).
1.2.3. Tác động gây suy thoái chất lượng nguồn nước
Ngày nay, nhu cầu phát triển kinh tế nhanh với mục tiêu lợi nhuận cao,
con người đã lờ đi các tác động ảnh hưởng đến các nhân tố tự nhiên và môi
trường một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Đặc biệt đối với các nước đang phát
triển và các nước nghèo đã làm cho môi trường nước bị ô nhiễm ngày càng
trầm trọng hơn.
Sự gia tăng dân số quá nhanh là nguyên nhân chính gây áp lực lên nguồn

nước. Vì nhu cầu nước cho phát triển nông nghiệp để gia tăng lương thực thực
phẩm, phát triển công nghiệp để gia tăng hàng hóa và gia tăng thêm nhiều hình
thức dịch vụ.
Với trình độ công nghệ hiện nay để sản xuất 1 tấn giấy cần 250 tấn nước,
1 tấn phân đạm cần 600 tấn nước. Trong nông nghiệp để sản xuất đường hoặc
chất bột cần khoảng 1000 tấn nước. Sản xuất chất bột từ lúa nước còn cần
nhiều hơn. Nhu cầu sinh học của người và động vật vào khoảng 10 tấn
nước/1tấn tế bào sống. Để đáp ứng nhu cầu của mình, tại nhiều nơi trên thế giới
con người đã sử dụng hết nguồn nước mặt và đã phải khai thác nguồn nước
ngầm. So với 3 thập kỉ trước đây lượng nước ngầm khai thác đã tăng gấp 30
lần và đến đầu thế kỉ 21 tăng thêm 1/3 lần nữa. Chất lượng nước có những suy
thoái nghiêm trọng. Nồng độ Nitrat ở các sông châu Âu cao hơn nhiều lần so
với tiêu chuẩn cho phép [12].
Từ năm 1980, Liên Hiệp Quốc đã khởi xướng “thập kỉ quốc tế về cung
cấp nước uống và vệ sinh” với mục tiêu là tới năm 1990 tất cả mọi người trên
thế giới đều được cung cấp nước sạch và có các điều kiện vệ sinh tối thiểu cần
10


thiết. Chương trình đã sử dụng khoảng 300 tỉ USD, thu được nhiều kết quả tốt
nhưng mục tiêu cuối cùng vẫn chưa đạt tới. Tới cuối năm 1990, theo báo cáo
chỉ 79% dân thành thị và 41% dân nông thôn được hưởng nước sạch và điều
kiện vệ sinh. Bình quân trong 5 người sống ở các nước đang phát triển, có 3
người không được uống nước sạch, không có nguồn bệnh. 80% bệnh tật trong
nhân dân ở các nước này bắt nguồn từ việc dùng nước bị ô nhiễm [12].
Các dòng nước mặt (sông, kênh rạch…) đặc biệt là ở vùng đô thị đều bị
ô nhiễm trầm trọng bởi rác thải, nước thải sinh hoạt từ các khu dân cư xả vào
kênh rạch chưa qua xử lý. Tình trạng lấn chiếm lòng, bờ sông kênh rạch để
sinh sống, xả rác và nước thải trực tiếp trên bề mặt gây ô nhiễm nước mặt, cản
trở lưu thông của dòng chảy, tắc nghẽn cống rãnh tạo nước tù. Môi trường

yếm khí gia tăng phân hủy các hợp chất hữu cơ, không những gây mùi hôi
thối, ô nhiễm nguồn nước và môi trường mà còn gây khó khăn trong việc lấy
nguồn nước mặt để xử lý thành nguồn nước sạch cấp cho nhu cầu xã hội.
Nhu cầu nước sử dụng cho ăn uống, sinh hoạt và các hoạt động khác của
con người gia tăng, dẫn đến tình trạng khai thác nước dưới đất tràn lan gây cạn
kiệt nguồn nước và ảnh hưởng đến môi trường như sụp lún, nhiễm mặn.
Tài nguyên nước là thành phần chủ yếu của môi trường sống, quyết định
sự thành công trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia. Hiện nay nguồn tài nguyên thiên
nhiên quý hiếm và quan trọng này đang phải đối mặt với nguy cơ ô nhiễm và
cạn kiệt. Nguy cơ thiếu nước, đặc biệt là nước ngọt và sạch là một hiểm họa
lớn đối với sự tồn vong của con người cũng như toàn bộ sự sống trên trái đất.
Do đó con người cần phải nhanh chóng có các biện pháp bảo vệ và sử dụng
hợp lý nguồn tài nguyên nước.
Hiện nay, đã có nhiều hoạt động tuyên truyền chủ trương xã hội hoá
công tác bảo vệ tài nguyên nước, đưa ra nhiều biện pháp nhằm kêu gọi tất cả
11


các thành viên trong xã hội nâng cao ý thức, cùng hành động tích cực bảo vệ
nguồn tài nguyên thiên nhiên này. Bảo vệ tài nguyên nước, nghiên cứu khai
thác và sử dụng nước tiết kiệm là nhiệm vụ cấp bách, nó không chỉ đáp ứng các
yêu cầu trước mắt mà còn tạo nền tảng vững chắc cho sự nghiệp bảo vệ Tài
nguyên và môi trường trong tương lai lâu dài, vì đó là sự sống còn của chính
chúng ta hiện nay và con cháu sau này.
1.3. Tình hình sản xuất và tiêu thụ lúa trên thế giới
Cây lúa có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới, có khả năng thích nghi rộng
nên cây lúa có thể trồng ở nhiều vùng khí hậu khác nhau và được trồng ở
nhiều nơi trên thế giới. Hiện nay trên thế giới có trên 100 nước trồng lúa
hầu hết các châu lục, với tổng diện tích thu hoạch năm 2007 khoảng 156

triệu ha (Bảng 2.1). Tuy nhiên sản xuất lúa gạo vẫn tập trung chủ yếu ở
các nước châu Á nơi chiếm tới 90% diện tích gieo trồng và sản lượng
[57]. Trong đó Ấn Độ là nước có diện tích thu hoạch lúa lớn nhất tiếp đến
là Trung Quốc.
Bảng 1.1. Diện tích năng suất sản lượng lúa thế giới

12


Năm

Diện tích
( triệu ha )

Năng suất
( Tạ/ha)

Sản lượng
( Triệu tấn)

1961

115,50

18,7

215,65

1970


133,10

23,8

316,38

1980

144,67

27,4

396,87

1990

146,98

35,3

518,23

2000

154,11

38,9

598,97


2001

151,97

39,4

598,03

2002

147,69

39,31

577,99

2003

149,20

39,1

583,00

2004

151,02

40,3


608,37

2005

153,78

40,2

618,53

2006

154,32

41,12

634,60

156,95
41,50
( Nguồn: FAOSTAT, 2008) [57]

651,7

2007

Từ năm 1961 đến năm 2000 diện tích lúa trên thế giới tăng từ 115,5
triệu ha lên 154,1 triệu ha. Sau đó diện tích lúa lại giảm dần và mức giảm thấp
nhất xuống tới 147,6 triệu ha năm 2002 sau đó lại tăng dần và nay duy trì ở
mức khoảng 156,95 triệu ha năm 2007.

Nhờ tác động của cuộc cách mạng xanh lần thứ nhất, tạo ra nhiều giống
mới có năng suất cao, và áp dụng các biện pháp kỹ thuật mới như tưới nước,
bón phân, năng suất lúa trung bình tăng gấp đôi từ năm 1961-2000, và nay đạt
ở mức khoảng 41 tạ/ha. Đồng thời sản lượng lúa cũng tăng gấp 3 lần từ 215,6
triệu tấn năm 1961 tăng lên 598,9 triệu tấn năm 2000 và duy trì ở mức 651,7
triệu tấn năm 2007 (Bảng 1.1).
Bảng 1.2. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa của 10 nước hàng đầu
13


Thế giới năm 2007
Tên nước
Trung Quốc
Ấn Độ
Inđônêxia
Băngladesh
Việt Nam
Thái Lan
Myanma
Philippin
Braxin
Nhật Bản

Diện tích
Năng suất
( Triệu ha)
( Tạ/ha)
29,49
63,41
44,00

32,07
12,16
46,89
11,20
38,84
7,30
48,68
10,36
26,91
0,82
39,76
4,25
37,64
2,90
38,20
1,67
65,37
(Nguồn: FAO STAT, 2007) [57]

Sản lượng
(triệu tấn)
187,04
141,13
57,04
43,5
35,56
27,87
32,61
16,00
11,09

10,97

Châu Á là vùng đông dân cư và cũng là vùng sản xuất lúa trọng
điểm trên thế giới, có diện tích lúa 133,251 triệu ha và sản lượng 477,267
triệu tấn, năng suất bình quân đạt 36 tạ/ha chiếm 90% sản lượng thóc trên
thế giới, đồng thời Châu Á cũng là nơi tiêu thụ khoảng 90% sản lượng
gạo thế giới.
Theo số liệu của Bảng 1.2 thì trong 10 nước trồng lúa có sản lượng trên
10 triệu tấn/ năm đã có 9 nước nằm ở châu Á, chỉ có một đại diện của châu
lục khác đó là Braxin (Nam Mỹ). Riêng 8 nước: Trung Quốc, Ấn Độ, Thái
Lan, Inđônêxia, Banglađét, Việt Nam, Mianma, Nhật Bản chiếm 90% sản
lượng lúa của thế giới.
Trung Quốc và Nhật Bản là 2 nước có năng suất cao hơn hẳn đạt 61,9
tạ/ha (Trung Quốc) và 65,8 tạ/ha (Nhật Bản). Điều đó có thể lý giải là vì
Trung Quốc là nước đi tiên phong trong lĩnh vực phát triển lúa lai và người
dân nước này có tinh thần lao động cần cù, có trình độ thâm canh cao. Còn
Nhật Bản là nước có trình độ khoa học kỹ thuật cao, đầu tư lớn [16]. Việt
14


Nam cũng là nước có năng suất và sản lượng lúa cao đứng hàng trong 10
nước trồng lúa chính, đạt 45,9 tạ/ha. Thái Lan tuy là nước xuất khẩu gạo đứng
hàng đầu thế giới trong nhiều năm liên tục, song năng suất chỉ đạt 26,1 tạ/ha,
bởi vì Thái Lan chú trọng nhiều hơn đến canh tác các giống lúa dài ngày, chất
lượng cao [6].
Trong vài thập niên gần đây Trung Quốc có nhiều thành tựu trong cải
tiến giống lúa trong đó đặc biệt quan tâm đến sử dụng ưu thế lai ở lúa do đó
năng suất bình quân đạt 63,41 tạ/ha, sản lượng năm 2007 đạt 187,04 triệu tấn
cao nhất thế giới [48], thấp hơn so với những năm 90 của thế kỷ XX, nguyên
nhân do diện tích sản xuất lúa ngày càng bị thu hẹp bởi sự chuyển đổi cơ cấu

kinh tế và vấn đề đô thị hoá. Bên cạnh đó nguồn nước ngọt không đủ và phân
bố không đều [12] còn là trở ngại lớn trong việc nâng cao năng suất và sản
lượng lúa của Trung Quốc. Để bình ổn thị trường lương thực trong năm 2007
vừa qua Trung Quốc cho biết, sản lượng ngũ cốc nước này năm nay vượt mức
500 triệu tấn và là năm thứ tư liên tiếp sản lượng ngũ cốc tăng [7]. Tuy nhiên,
lượng gạo trong nước của Trung Quốc vẫn không đáp ứng đủ cầu.
Ấn Độ trong niên vụ 2002 - 2003 sản lượng gạo là 72,66 triệu tấn, giảm
20,42 triệu tấn so với năm 2001 - 2002 tương đương 21,94%. Một trong những
lý do của sự giảm sụt sản lượng là do thời tiết xấu như hạn hán, lũ lụt, sâu bệnh...
ở nhiều vùng. Tuy nhiên, đến năm 2006 - 2007, Ấn Độ được mùa và sản lượng
gạo của Ấn Độ đã đạt 141,13 triệu tấn, tăng 68,47 triệu tấn, gần gấp đôi sản
lượng so với năm 2002 - 2003 [57].
Thái Lan là nơi có đất đai màu mỡ, diện tích canh tác lớn (chiếm
khoảng 40% diện tích tự nhiên), điều kiện thời tiết thuận lợi, mưa thuận gió
hoà thích hợp cho phát triển cây lúa nước. Vì vậy, cây lúa là cây trồng
chính trong sản xuất nông nghiệp của Thái Lan với diện tích 9,8 triệu ha,
năng suất bình quân 27,8 tạ/ha, sản lượng 28 triệu tấn (năm 2000) và là
15


nước xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới, chiếm hơn 30% thị phần của thị
trường thế giới [57] (Bảng 1.2).
Phát biểu với các nhà lãnh đạo Thế giới tại Hội nghị thượng đỉnh lương
thực ở Rome, Tổng thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon cho rằng: lương thực
của thế giới cần phải tăng thêm 50% vào năm 2030 mới đáp ứng được nhu cầu
sử dụng lương thực do dân số gia tăng [27].
1.4. Tình hình nghiên cứu về canh tác lúa tiết kiệm nước trên thế giới
Trong nhiều năm qua tình trạng thiếu nước phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp đã gây sức ép lên hệ thống sản xuất lúa gạo, một trong nhưng cây
trồng tiêu tốn nhiều lượng nước nhất, theo tính toán lượng nước cần cung cấp

cho lúa cao gấp 3 - 4 lần so với các loại cây trồng thuộc họ hòa thảo khác
[47]. Việc cắt giảm khoảng 10% lượng nước cho hệ thống canh tác lúa gạo sẽ
cung cấp một lượng nước tương ứng với 150.000 triệu m3 tương ứng khoảng
25% tổng lượng nước ngọt dùng cho mục đích phi nông nghiệp trên toàn cầu
[31].
Gần đây các nghiên cứu về cải tiến hệ thống canh tác lúa nước với mục
đích tiết kiệm nguồn nước tưới, nâng cao hệ số sử dụng nước cho lúa đã được
rất nhiều các nhà khoa học quan tâm và nhiều công trình nghiên cứu đã được
công bố như ở Trung Quôc, Ấn độ, IRRI, Philippine [56].
Các nhà khoa học nông nghiệp Bangladesh đã lai tạo được 93 giống
lúa mới có khả năng tiết kiệm 33-50% lượng nước trong quá trình canh
tác. Đây là thành quả chung của các chuyên gia đến từ Viện Phát triển
Nông thôn (RDA) (Bogra, Bangladesh) và Viện Nghiên cứu Lúa
Bangladesh [29].
Dự án này có tên gọi "Phát triển và phổ biến công nghệ lúa tiết kiệm
nước ở Nam Á" do Viện nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI) và Ngân hàng Phát
triển châu Á (ADB) hỗ trợ. Ông Mohammad Ferdous Alam, Tổng giám đốc
16


RDA hy vọng rằng những giống lúa mới không chỉ sử dụng ít nước mà còn
tiết kiệm thêm năng lượng và điện một khi được đưa vào canh tác. Trong số
93 giống lúa mới này, có một số có thể cho thu hoạch chỉ trong 120-130 ngày
so với 150 ngày của các giống lúa thông thường.
Ông AKM Zakaria, điều phối viên của dự án đồng thời là Phó giám đốc
RDA, cho biết hiện nay để sản xuất 1 kg gạo phải cần tới 5 tấn nước (cao gấp
5 lần so với Ấn Độ) và Bangladesh sẽ phải đối mặt với cuộc khủng hoảng
nước trong vài năm tới nếu vẫn sử dụng nước với mức độ hiện nay [29].
Canh tác lúa tiết kiệm nước hoặc giảm lượng nước đầu vào
Để xác định được lượng nước tiết kiệm thông thường cần sử dụng các

kỹ thuật nhằm giảm lượng nước đầu vào tồn tại trên bề mặt ruộng. Thuật ngữ
này rất thích hợp khi nguồn nước ngày càng khan hiếm và tổng lượng nước
tiết kiệm được có thể sẽ được sử dụng cho các cây trồng khác hoặc dự trữ
cho vụ sau [31]. Lượng nước tiết kiệm được sẽ phụ thuộc vào quan điểm của
người sử dụng nước tưới. Đối với người nông dân trồng lúa, họ ưa thích
nguồn nước dồi dào, nhưng họ lại không nghĩ đến việc cần phải tiết kiệm
nước trừ khi có các kỹ thuật tiết kiệm nước nhằm mang lại lợi ích cho bản
thân họ như giảm giá thành nước tưới, tăng năng suất cây trồng.
Giảm lượng nước đầu vào không hẳn đồng nghĩa với việc tiết kiệm
nước, Ở những vùng khan hiếm nước, người nông dân cần phải trang bị các
kỹ thuật trồng lúa trong điều kiện thiếu nước, không phải là tiết kiệm nước
bởi ở đó không có lượng nước để tiết kiệm, đơn giản là ở những nơi đó không
có đủ lượng nước để trồng lúa theo phương thức truyền thống. Chính vì vậy,
nguyên lý của việc tiết kiệm nước chính là làm tăng lượng nước cây sử dụng.
Lượng nước cây sử dụng là tổng lượng chất khô mà cây tạo nên trên
một đơn vị nước tưới. Điều này phụ thuộc vào các dạng nước dòng chảy của
nước trong đất, hay lượng nước cây sử dụng có thể được định nghĩa chính là
17


lượng chất khô mà cây tạo nên trên đơn vị nước bay hơi đi (WPET) hay tính
bằng lượng chất khô mà cây tạo nên trên một tổng đơn vị nước đầu vào
(WPIT) [47].
Các kỹ thuật canh tác tiết kiệm nước
Có rất nhiều kỹ thuật canh tác lúa tiết kiệm nước đã được áp dụng, các
kỹ thuật đang được phát triển và giúp nông dân trồng lúa có cách nhìn tổng
quát về điều kiện tưới tiêu [47]. Các kỹ thuật này nhằm tăng lượng nước cây
sử dụng so với tổng số nước cung cấp (do mưa, tưới), mà chủ yếu là giảm sự
chảy tràn, và thất thoát do thoát hơi bề mặt [32].
Cải tạo tính chất đất: làm đất tối thiểu, tăng khả năng giữ nước của đất

Giảm thời gian đất trống: Giảm thiểu thời gian giữa làm đất và gieo
cấy, đây là thời gian đất không có cây trồng mọc nên lượng nước lúc này
không hề tham gia vào việc hình thành năng suất sinh khối trong cây [33].
Canh tác trên đất vừa đủ bão hòa nước: Đất vừa đủ bảo hòa nước là
loại đất có thể giữ được lượng nước nhất định trong đất, bởi vậy giảm thiểu
lượng nước tồn tại trên bề mặt ruộng tạo điều kiện có mặt nước ở phía trên
ruộng. Điều này đồng nghĩa với việc giảm thiểu lượng nước chảy tràn và
lượng nước thoát hơi lãng phí trên bề mặt ruộng. Canh tác trên đất vừa đủ bão
hòa nước đồng nghĩa với việc chỉ duy trì một lượng nước rất thấp khoảng 1cm
trên bề mặt. Giảm độ cao mặt nước trên mặt ruộng cũng có nghĩa là giảm
được sự thất thoát nước trên bề mặt thoáng tự do [31].
Áp dụng phương thức tưới Ngập - Cạn (AWD: Alternate Wetting and Drying)
Đối với phương thức AWD quá trình tưới nước được thực hiện nhằm tạo
cho ruộng ngập nước bề mặt trong một khoảng thời gian nhất định, sau đó sẽ
tháo nước đi không cho ruộng ngập nước nữa. Mặc dù đã có một số nghiên cứu
cho thấy phương thức AWD làm tăng năng suất lúa, tuy nhiên gần đây, các
nghiên cứu đã cho thấy đó chỉ là các trường hợp ngoại lệ chứ không phải là qui
18


luật [34].
Trong 31 thửa ruộng được phân tích bởi Bouman và Tuong năm 2001,
92% số công thức AWD cho kết quả năng suất lúa giảm và biến động này từ 070% so với công thức đối chứng tưới ngập nước. Trong tất cả các trường hợp,
phương thức AWD làm tăng hiệu quả sử dụng nước bởi chúng làm tăng lượng
nước cây sử dụng so với tổng lượng nước đầu vào bởi phương thức này làm
giảm lượng nước đầu vào.
Bouman và Tuong (2005) đã đưa ra kết luận, sự biến động lớn về kết
quả của phương thức canh tác AWD là do nguyên nhân bởi sự khác nhau về số
ngày giữa lần tưới ngập và thời gian tháo cạn nước trên mặt ruộng. Các thí
nghiệm này được thực hiện rất nhiều tại Trung Quốc và Phillipine trên đất thịt

và có mức nước bề mặt ngập nước thấp [48]. Kết quả của các thí nghiệm này
cho thấy, tổng lượng nước đầu vào (nước mưa và nước tưới) giảm khoảng 1530% mà không làm giảm năng suất một cách có ý nghĩa.
Canh tác lúa trên đất cạn: Hệ thống trồng lúa trên đất cạn đặc biệt là sự
thích ứng của các giống lúa chịu hạn trồng trên đất cạn giống như các giống lúa
mì hoặc ngũ cốc khác hoặc trồng trong điều kiện không thường xuyên ngập
nước. Các thí nghiệm ở Philippine và Trung Quốc cũng đã cho thấy, lượng
nước đầu vào cho hệ thống lúa cạn giảm từ 30-50% so với hệ thống lúa trồng
trên đất ngập nước với mức giảm năng suất khoảng từ 20-30% [31].
1.5. Tình hình sản xuất lúa trong nước
Việt Nam là nước có nền kinh tế nông nghiệp dựa trên sản xuất lúa gạo.
Sự phát triển của cây lúa luôn gắn liền với sự phát triển của dân tộc. Theo
nhiều tài liệu khảo cổ học đáng tin cậy đã công bố thì cây lúa được trồng phổ
biến và nghề trồng lúa đã khá phồn thịnh ở nước ta ở thời kỳ đồ đồng (4000 3000 năm trước Công nguyên) [8].
Việt Nam nằm gần giữa vùng Đông Nam châu Á, khí hậu nhiệt đới gió
19


mùa rất thích hợp với sự phát triển của cây lúa, với nhiều đồng bằng châu thổ
rộng lớn có lượng phù sa bồi đắp, tương đối bằng phẳng và màu mỡ từ Bắc
tới Nam (Đồng bằng châu thổ sông Hồng, đồng bằng châu thổ sông Cửu
Long...) cùng một loạt châu thổ nhỏ hẹp ở ven dòng sông, ven biển miền
Trung. Cũng giống như các đồng bằng của các nước Đông Nam Á khác, ở
Việt Nam đồng bằng châu thổ đều được dùng cho sản xuất nông nghiệp mà
chủ yếu là trồng lúa.
Bảng 1.3. Tình hình sản xuất lúa gạo ở Việt Nam
Năm
1995
1996
1997
1998

1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008

Diện tích
Năng suất
(triệu ha)
(tạ/ha)
36,90
6,77
36,80
7,07
39,10
7,09
40,00
7,10
41,00
7,65
42,43
7,67
42,85
7,49
45,9

7,5
46,39
7,45
7,44
48,21
7,34
49,51
48,90
7,32
7,21
49,84
52,26
7,41
(Nguồn Tổng Cục Thống kê) [21]

Sản lượng
(triệu tấn)
24,96
26,39
27,75
28,40
31,36
32,53
32,11
34,45
34,57
35,89
36,34
35,82
35,94

38,73

Người Việt Nam vẫn thường tự hào về nền văn minh lúa nước của đất
nước mình. Từ xa xưa cây lúa đã trở thành cây lương thực chủ yếu, có ý nghĩa
quan trọng trong đời sống của người dân Việt Nam [6]. Quá trình khai hoang
phục hoá cùng với việc thâm canh tăng vụ đã đưa tổng diện tích lúa thu hoạch
20


của nước ta từ 4,74 triệu ha năm 1961 lên 7,67 triệu ha năm 2000, sau đó
giảm dần xuống còn 7,34 triệu ha vào năm 2003 và chỉ còn 7,41 triệu ha năm
2008. Gần nửa thế kỷ qua, nước ta phấn đấu đi lên giải quyết vấn đề lương
thực theo hướng sản xuất đa dạng các loại ngũ cốc và cây ăn củ. Những loại
đất thích hợp cho trồng lúa như đất phù sa, đất glây, đất phèn, đất mặn thì
dành cho trồng lúa [15].
Hiện nay lúa vẫn là cây lương thực quan trọng nhất ở nước ta, cây lúa
cung cấp 85 - 87% tổng sản lượng lương thực trong nước. Trong những năm
gần đây diện tích cấy lúa không tăng nhưng do năng suất cây lúa được cải
thiện đáng kể nên sản lượng lúa không ngừng tăng lên từ 24,9 triệu tấn thóc
năm 1995 đến năm 2008 đã đạt hơn 38 triệu tấn.
Do có bước nhảy vọt về sản xuất lúa trong thập kỷ vừa qua mà Việt
Nam từ một nước thiếu đói phải nhập khẩu trong những năm 80 của thế kỷ
20 đã vươn lên thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới trong nhiều
năm liên tục. Năm 1989 là năm đầu tiên chúng ta xuất khẩu được 1,42 triệu
tấn. Năm 1999 là năm kỷ lục chúng ta đã xuất khẩu được 4,56 triệu tấn.
Năm 2004, xuất khẩu gạo của chúng ta đạt 3,5 triệu tấn. Cho đến nay sản
lượng lúa gạo xuất khẩu hàng năm của nước ta khoảng 4 triệu tấn. Đây là
thành công lớn trong công tác chỉ đạo và phát triển sản xuất lúa của Việt
Nam.
1.6. Tình hình nghiên cứu canh tác lúa tiết kiệm nước ở Việt Nam

Một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng hạn hán như hiện nay
đã được các nhà khoa học xác định là do tỉ lệ thất thoát nước cao trong quá
trình tưới. Công nghệ tưới tiết kiệm nước (TTKN) lần đầu tiên trên thế giới
được sử dụng trong nhà kính ở nước Anh từ cuối năm 1940.
Ở Việt Nam, công nghệ TTKN đang còn ở mức thấp, đơn giản, hiệu quả
chưa cao. Trước thực trạng đó, Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam đã xây dựng
21


và hoàn thiện thành công chuyển giao công nghệ kỹ thuật TTKN tại một số địa
phương. Đây cũng là nội dung nghiên cứu khoa học của Đề tài cấp nhà nước
KHCN.08.09 "Nghiên cứu ứng dụng các giải pháp công nghệ tưới hiện đại tiết
kiệm nước cho các vùng khan hiếm nước" đã được đánh giá đạt hiệu quả cao
trong nghiên cứu, chế tạo cũng như đưa sản phẩm ứng dụng vào thực tiễn sản
xuất.
Với nhiệm vụ chính là nghiên cứu chế tạo một số thiết bị tưới thay thế
hàng ngoại nhập, Đề tài đã nghiên cứu chế tạo thành công 9 thiết bị tưới. Đây
là những thiết bị tưới tiết kiệm nước đầu tiên được sản xuất trong nước để từ
đó Việt Nam có thể chủ động sản xuất cung ứng cho yêu cầu của công nghệ
TTKN với giá thành rẻ hơn nhiều so với thiết bị ngoại nhập cùng tính năng và
chủng loại. Đề tài đã xây dựng hoàn thiện các sơ đồ hợp lý của kỹ thuật
TTKN trên các diện tích từ 1000m2 đến hàng chục ngàn mét vuông. Mỗi loại
sơ đồ mẫu đều có giới thiệu phương pháp bố trí các loại đường ống, thiết bị
tưới với bảng tổng hợp vật tư và giá thành để người nông dân tiện lựa chọn
theo nhu cầu cũng như khả năng tài chính của mình.
Thông qua các mô hình thực nghiệm TTKN, Đề tài cũng thực hiện
thành công nội dung khảo sát, nghiên cứu động thái ẩm của đất theo các
phương pháp tưới khác nhau trên các loại đất, địa hình và với các loại cây
trồng khác nhau. Kết quả thu được là cơ sở để khẳng định tính ưu việt nổi bật
của kỹ thuật TTKN. Bằng nhiều khảo nghiệm trên các loại đất khác nhau như

đất thịt nặng, thịt nhẹ, cát, cát pha; các loại địa hình như bằng phẳng, gồ ghề,
dốc một chiều, nhiều chiều cũng như với nhiều loại cây trồng cho thấy TTKN
phù hợp với tất cả các loại cây trồng cạn, các loại đất và các dạng địa hình
khác nhau. Kỹ thuật tưới này luôn giữ cho đất một khoảng độ ẩm tối ưu phù
hợp với loại cây trồng bởi một qui trình tưới vận hành nhẹ nhàng, đơn giản.
Đây là điều mà các phương pháp tưới cổ truyền trước đây không thể thực hiện
22


được. Đặc biệt đề tài đã xây dựng thành công mô hình tưới nhỏ giọt tự động,
chỉ với một bồn chứa nước nhỏ đặt cao hơn mặt đất 3-4m có gắn phao tự
động với một máy bơm điện nhỏ. Hệ thống tưới này có thể hoạt động liên tục
suốt ngày đêm trong một đợt tưới, được nông dân đánh giá là rất tiện lợi và
kinh tế.
Ưu điểm cơ bản nhất của công nghệ TTKN làm giảm nhỏ lượng nước
tưới (tiết kiệm từ 50 - 70% lượng nước tưới theo phương pháp cũ), tăng năng
suất, chất lượng sản phẩm. Đồng thời giảm công lao động, thuận lợi cho cơ
giới hóa và tự động hóa. Đây cũng là giải pháp giúp kiểm soát tổng lượng
nước dùng, tối ưu hóa hiệu quả sử dụng nước, cải tiến được chính sách thủy
lợi phí.
Viện Khoa học thủy lợi miền Nam đã áp dụng thành công công nghệ
TTKN cho các cây công nghiệp (chè, cà phê) tại Di Linh, Bảo Lộc (Lâm Đồng),
rau quả xuất khẩu tại Đà Lạt, nho vùng Ninh Thuận, điều, tiêu ở Quảng Trị,…Tuy
nhiên, việc đầu tư cho ứng dụng công nghệ này còn tương đối cao, nên đây thực
sự còn là điều khó khăn cho nông dân. Vì thế, Nhà nước cần có chính sách ưu tiên
cho người nông dân vay vốn ưu đãi để đầu tư công nghệ TTKN vào sản xuất [24].
Ngay từ đầu những thập niên 90 của thế kỷ trước, Viện Khoa học Kỹ
thuật Nông nghiệp Việt Nam, cũng đã nghiên cứu được nhiều giống có khả
năng chống chịu với điều kiện hạn, có khả năng khai thác tốt nguồn nước
ngầm trong điều kiện khô hạn như các giống CH2, CH3, CH133 của Giáo sư

Viện sỹ Vũ Tuyên Hoàng.
Gần đây nhất trong hội thảo về lúa lai và hệ sinh thái lúa giữa trường
ĐH Nông nghiệp I với tổ chức JSPS (Japan Society for the Promotion of
Science) của Nhật bản, Tiến sỹ Nguyễn Văn Dũng, khoa quản lý đất đai và
môi trường cũng đã báo cáo một đề tài nghiên cứu về “Tiết kiệm nước tưới Hiệu quả quản lý nước trong thâm canh lúa và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên”.
23


Qua đó nhờ các phương pháp canh tác lúa tiết kiệm nước mà trong vụ xuân đã
tiết kiệm được 720-802m3/ha và trong vụ mùa tiết kiệm được 250m3/ha. Đồng
thời nhờ các biện pháp này mà cây lúa có thể khai thác được nước ngầm ở độ
sâu -70 đến -80 mm, nhờ đó làm hàm lượng đạm vô cơ tăng lên trong đất
giúp bảo vệ môi trường và tăng hiệu quả sản xuất.
Từ vụ thu đông năm 2005, lần đầu tiên 9 nông dân ở phường Mỹ Thới,
TP Long Xuyên, canh tác 8,3ha đã ứng dụng kỹ thuật “tưới tiết kiệm nước
trên lúa” để đối chứng với ruộng lúa của 10 nông dân khác (canh tác 9ha). Kết
quả ruộng “tưới tiết kiệm nước” giảm được 4 lần bơm nước so với ruộng đối
chứng (8 lần bơm) nhưng năng suất lúa lại cao hơn 600 kg/ha; giá thành sản
xuất của ruộng “tưới tiết kiệm nước” chỉ 1.142 đồng/kg lúa, trong khi ruộng
đối chứng tới 1.382 đồng/kg, mức chênh lệch 240 đồng/kg.
Từ hiệu quả mô hình này, Sở NN&PTNT An Giang mở rộng thí điểm ở
11 điểm. Trong vụ đông xuân 2005-2006 và vụ hè thu này, An Giang tiếp tục
nhân rộng ra mỗi xã có 15 hộ nông dân tham gia, riêng huyện Châu Thành và
Châu Phú, số nông dân đăng ký thực hiện gấp đôi. Cùng với mô hình này, Sở
NN&PTNT An Giang kết hợp với Trường Ðại học Nông lâm TP Hồ Chí Minh
đưa vào sử dụng máy san đất điều khiển bằng tia laser, tạo độ phẳng gần như
tuyệt đối cho mặt ruộng để triển khai chương trình ứng dụng kỹ thuật “tưới tiết
kiệm nước” trên diện rộng cho nông dân.
Hiện nay, Chi cục BVTV An Giang đang tiến hành đặt ống theo dõi
mực nước trên ruộng lúa cho nông dân theo chương trình thí điểm “tưới tiết

kiệm nước trên lúa” vụ hè thu. Chi cục BVTV An Giang trực tiếp hướng dẫn
nông dân cách đặt ống, theo dõi và điều khiển mực nước thích hợp với từng
chu kỳ sinh trưởng, phát triển của cây lúa. Việc ứng dụng kỹ thuật “tưới tiết
kiệm nước” chỉ áp dụng trên nền lúa áp dụng chương trình “3 giảm, 3 tăng”,
đặt ống theo dõi mực nước âm xuống mặt đất 20 cm và một phần nhô lên 10
24


cm (đối với lúa sạ sau 14 ngày, lúa cấy sau 21 ngày) để theo dõi mực nước. Ở
giai đoạn cây lúa đang phát triển, khi mực nước trong ống hạ thấp dưới mặt
đất 15 cm thì bơm nước tràn mặt ruộng 3-5 cm. Ðến giai đoạn lúa trổ bông,
phải giữ mực nước trên mặt ruộng 5 cm. Sau khi lúa trổ đều, giữ độ ẩm mặt
ruộng như giai đoạn đầu và rút nước khô trước khi thu hoạch 10 - 15 ngày.
Nông dân phải chú ý giai đoạn lúa phát triển và sau khi lúa trổ đều, dù mặt đất
cạn nhưng nước ngầm vẫn cung cấp đủ độ ẩm mặt đất cho cây lúa phát triển
tốt.
Tổng kết chương trình “3 giảm, 3 tăng” 4 năm qua ở khu vực
ÐBSCL, Thạc sĩ Nguyễn Hữu Huân, Phó Cục Trưởng Cục Bảo vệ thực vật
phía Nam, cho biết, có 60-70% nông dân áp dụng rất hiệu quả nên việc
chuyển giao kỹ thuật mới không dừng lại ở đây. Bước tiến mới trong khoa
học kỹ thuật trồng lúa là ứng dụng kỹ thuật “tưới tiết kiệm nước”. Cục
BVTV đang xây dựng từng mô hình nhỏ ở nhiều địa phương, nhằm tổng
hợp nhiều biện pháp, kỹ thuật để bổ sung vào chương trình 3 giảm 3 tăng.
Xem đây là gói công nghệ làm tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp, như
việc sử dụng bảng so màu lá lúa, bón phân cân đối...đến ứng dụng kỹ thuật
máy san đất điều khiển bằng tia laser, tạo độ phẳng cho mặt ruộng để ứng
dụng kỹ thuật “tưới tiết kiệm nước”. Khi mặt ruộng bằng phẳng, dễ cân
bằng mực nước nên ít phát sinh cỏ dại và sâu bệnh, thân cây lúa cứng, hạn
chế bị đổ ngã, thích hợp với điều kiện thu hoạch bằng máy gặt đập liên hợp
[22].

1.7. Yêu cầu về nước của cây lúa
1.7.1. Nhu cầu về nước của lúa cấy trong các thời kì sinh trưởng
Lúa yêu cầu nhiều nước hơn các loại cây trồng khác. Theo Goutchin để
tạo ra một đơn vị thân lá, lúa cần 400 – 450 đơn vị nước, để tạo ra một đơn vị
hạt lúa cần 300 – 350 đơn vị nước. Để tạo ra một gam chất khô cây lúa cần 628
25


×