Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

Giáo trình luật kinh tế (giáo trình đào tạo từ xa) phần 2 ths trần thị vân trà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (825.98 KB, 35 trang )

14. So sánh doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh?
15. Vì sao trong doanh nghiệp đều có thành viên chịu trách nhiệm vô hạn đối với các
khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp tư nhân không
có tư cách pháp nhân mà công ty hợp danh lại có tư cách pháp nhân?
16. Các hình thức tổ chức lại doanh nghiệp?
17. Các trường hợp giải thể và thủ tục giải thể doanh nghiệp?

CHƯƠNG 3
PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN
1. KHÁI QUÁT VỀ PHÁ SẢN

1.1. Phá sản – hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường
59


Trong nền kinh tế tự cung tự cấp, con người làm ra sản phẩm để tự phục vụ, tự đáp
ứng cho nhu cầu của mình nên hoạt động thương mại chưa tồn tại và do đó không thể có
hiện tượng phá sản. Còn trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, chủ thể kinh tế chủ yếu
là các doanh nghiệp quốc doanh được nhà nước thành lập và tài sản thuộc sở hữu nhà
nước. Các doanh nghiệp này không có quyền chủ động trong hoạt động kinh doanh, mà
mọi hoạt động trong quá trình kinh doanh đều theo kế hoạch của nhà nước, từ sản xuất
cho đến tiêu thụ. Nếu doanh nghiệp kinh doanh có lãi thì nộp vào ngân sách nhà nước,
còn nếu thua lỗ thì được nhà nước bù lỗ. Các doanh nghiệp này vì thế không thể bị mất
khả năng thanh toán và hiện tượng phá sản vì thế cũng không xảy ra.
Trong nền kinh tế thị trường, phá sản doanh nghiệp là một hiện tượng kinh tế - xã
hội tồn tại khách quan bởi các lý do sau:
- Doanh nghiệp là một thực thể xã hội như các thực thể xã hội khác, có nghĩa là
cũng có quá trình sinh ra, phát triển và diệt vong hoàn toàn phù hợp với quy luật sinh tồn
của các sự vật, hiện tượng.
- Nền kinh tế thị trường có nhiều hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, đa thành phần
kinh tế, nhiều loại hình doanh nghiệp cùng song song tồn tại. Các loại hình doanh nghiệp


đều tự chủ về tài chính, bình đẳng và tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật. Cạnh
tranh là một quy luật khách quan trong nền kinh tế thị trường bởi các doanh nghiệp đều
hướng tới mục tiêu tối thượng là lợi nhuận. Dưới tác động của quy luật này, một số doanh
nghiệp mạnh dần lên chiếm lĩnh thị trường, ngược lại, một số doanh nghiệp dần yếu đi, nợ
nần chồng chất, đi tới chỗ mất khả năng chi trả các nghĩa vụ tài chính của mình và thực
chất đã lâm vào tình trạng phá sản.
- Trong quá trình sản xuất kinh doanh, bên cạnh lợi nhuận thu được thì doanh
nghiệp cũng phải chịu rất nhiều rủi ro. Theo thống kê của Ngân hàng thế giới, tỉ lệ rủi ro
là ¼. Nguyên nhân dẫn đến phá sản thì hết sức đa dạng và phá sản bao giờ cũng kéo theo
những hậu quả kinh tế - xã hội nhất định. Ngoài những tác động tiêu cực như sự xáo trộn,
ảnh hưởng xấu đến việc phát triển sản xuất, ổn định đời sống, đến việc làm và thu nhập
của người lao động, thì phá sản bản thân nó là một giải pháp hữu hiệu trong việc “cơ cấu
lại” nền kinh tế, góp phần duy trì sự tồn tại của những doanh nghiệp đủ sức đứng vững
trong điều kiện cạnh tranh ngày khốc liệt.
1.2. Khái niệm phá sản doanh nghiệp
Hiện tượng phá sản xuất hiện từ rất sớm, và Italia là nước đầu tiên khai sinh ra đạo
luật phá sản đầu tiên từ thời kỳ La Mã. Đến thời kỳ Trung cổ, các quốc gia Châu Âu cũng
lần lượt ban hành luật phá sản, lúc đầu chỉ được áp dụng trong lĩnh vực thương nghiệp,
60


sau này được mở rộng ra nhiều lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong thời kỳ tư
bản chủ nghĩa, phá sản trở thành hiện tượng phổ biến và là nguyên nhân thúc đẩy sự phát
triển kinh tế, hình thành nên các tập đoàn kinh tế tư bản độc quyền.
Phá sản là một quá trình gồm hai thủ tục chính: tái cơ cấu doanh nghiệp mắc nợ
(hay còn gọi là phục hồi hoạt động kinh doanh) và thanh lý tài sản. Chủ nợ và doanh
nghiệp mắc nợ có thể lựa chọn một trong hai thủ tục theo điều kiện cụ thể. Ở các nước
phương Tây, thủ tục phục hồi kinh doanh được nhấn mạnh. Phục hồi kinh doanh về bản
chất là quá trình thỏa thuận giữa chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ nhằm xây dựng một kế
hoạch tái cơ cấu lại doanh nghiệp và lập một kế hoạch trả nợ phù hơp. Thủ tục phục hồi

cho phép doanh nghiệp mắc nợ tiếp tục hoạt động kinh doanh nhằm bảo đảm cho con nợ
có cơ hội thoát ra khỏi khó khăn về tài chính và do đó thoát khỏi tuyên bố phá sản.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, phá sản được xem xét dưới hai bình diện:
(a) doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, và (b) phá sản là thủ tục phục hồi hoặc xử lý
nợ đặc biệt.
1.2.1. Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
Điều 3 Luật phá sản năm 2004 xác định, doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
là doanh nghiệp không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có
yêu cầu. Như vậy, tương tự như pháp luật phá sản của các nước trên thế giới, pháp luật
Việt Nam cũng coi việc mất khả năng thanh toán nợ đến hạn khi các chủ nợ có yêu cầu là
căn cứ cơ bản và duy nhất để xem xét mở thủ tục phá sản doanh nghiệp mà không cần
xem xét đến các dấu hiệu khác.
Tuy nhiên, cần lưu ý những vấn đề liên quan đến dấu hiệu mất khả năng thanh toán
nợ đến hạn. Trước hết, mất khả năng thanh toán nợ đến hạn không có nghĩa là doanh
nghiệp hoàn toàn cạn kiệt tài sản. Doanh nghiệp có thể vẫn còn rất nhiều tài sản mà vẫn
mất khả năng thanh toán vì các tài sản đó không thể bán được nên doanh nghiệp không có
tiền để thanh toán các khoản nợ. Thứ hai, mất khả năng thanh toán không chỉ là hiện
tượng doanh nghiệp không thanh toán được nợ mà nó còn thể hiện doanh nghiệp đang
lâm vào tình trạng tài chính tuyệt vọng, có nghĩa là không thể trả được nợ, không có lối
thoát trừ khi có sự can thiệp của tòa án hoặc sự giúp đỡ của các chủ nợ. Thứ ba, pháp luật
không nhất thiết quy định cụ thể mất khả năng thanh toán một khoản nợ bao nhiêu thì coi
là lâm vào tình trạng phá sản, bởi vì tình hình tài chính trong các doanh nghiệp rất khác
nhau. Thứ tư, bản chất của việc mất khả năng thanh toán có thể không trùng với biểu hiện
bên ngoài là trả được nợ hay không. Bởi vì nhiều doanh nghiệp không trả được nợ nhưng
đó chỉ mang tính nhất thời trong khi mọi hoạt động của doanh nghiệp vẫn diễn ra bình
61


thường. Ngược lại, có những doanh nghiệp sự trả nợ chỉ là trá hình, che đậy tình trạng tài
chính tuyệt vọng của mình, họ phải sử dụng nhiều phương tiện gian trá để bù đắp ngân

quỹ như vay nặng lãi, thế chấp tài sản nhiều lần để vay tiền ngân hàng,…
Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản chưa hẳn là đã bị phá sản. Doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản chỉ được coi là bị phá sản khi đã tiến hành thủ tục tuyên bố phá
sản.
1.2.2. Phá sản là thủ tục phục hồi hoặc xử lý nợ đặc biệt
a. Tính chất đặc thù của thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
Để thấy được tính đặc thù của thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản, chúng ta so sánh nó với quá trình tự phục hồi của doanh nghiệp khi doanh nghiệp
gặp khó khăn hoặc thua lỗ trong kinh doanh nhưng chưa bị yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Thủ tục phục hồi của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là thủ tục tư pháp,
chứ không phải là giải pháp tổ chức sản xuất kinh doanh được doanh nghiệp chủ động
thực hiện như quá trình tự phục hồi.
Đây là một giai đoạn trong thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, được
tiến hành sau khi tòa án mở thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp và do chính
tòa án quyết định thủ tục này. Mặc dù công việc chính trong quá trình phục hồi do doanh
nghiệp thực hiện nhưng việc phục hồi chỉ có thể được thực hiện khi có đủ điều kiện pháp
luật quy định; nội dung, thủ tục xem xét thông qua và thời hạn thực hiện phương án phục
hồi phải tuân thủ quy dịnh của pháp luật.
Hoạt động phục hồi này nằm dưới sự giám sát nghiêm ngặt của tòa án cũng như
các chủ nợ; và doanh nghiệp phải chịu những hậu quả pháp lý tồi tế nếu phục hồi không
thành công.
b. Tính đặc thù của thủ tục thanh toán nợ
Tính đặc thù của thủ tục thanh toán nợ thông qua phá sản được nhận định thông
qua sự so sánh với thủ tục thanh toán nợ dân sự thông thường. Và tính đặc thù này được
thể hiện như sau:
Thứ nhất, việc đòi nợ và thanh toán nợ mang tính tập thể.
Đó là tất cả các chủ nợ đều có cơ hội tham gia vào quá trình đòi nợ và thanh toán
nợ. Nhưng họ không thể tiến hành đòi doanh nghiệp mắc nợ phải thanh toán các khoản nợ
cho mình một cách tùy tiện mà phải tuân theo một thủ tục tư pháp đặc biệt do pháp luật
phá sản ban hành, nhằm đảm bảo sự đồng đều về quyền lợi cho các chủ nợ, tránh để họ

hành động vô tổ chức, mạnh ai nấy làm dẫn tới sự đổ vỡ của hàng loạt doanh nghiệp khác
có liên quan, gây xáo trộn hoạt động kinh tế - xã hội. Các chủ nợ được phân chia thành
62


các nhóm khác nhau và yêu cầu của họ sẽ được xem xét công bằng, tại cùng một địa
điểm, thời điểm và theo một thứ tự ưu tiên nhất định.
Khi có đơn yêu cầu phá sản doanh nghiệp của những người có thẩm quyền, tòa án
có thẩm quyền xem xét nếu đủ căn cứ thì ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Từ thời điểm này, doanh nghiệp ngừng thanh toán nợ.
Các chủ nợ muốn được thanh toán nợ thì phải gửi giấy đòi nợ
Giấy đòi nợ là thủ tục đặc biệt mà bất cứ chủ nợ nào cũng phải tiến hành để được
tham gia vào quá trình phân chia tài sản của doanh nghiệp sau này. Chỉ những chủ nợ gửi
giấy đòi nợ trong thời hạn quy định thì mới được đưa vào danh sách chủ nợ, và khi doanh
nghiệp có quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản thì chỉ những chủ nợ có trong danh sách
mới được lấy nợ từ doanh nghiệp.
Thứ hai, việc đòi nợ và thanh toán nợ được tiến hành thông qua một cơ quan đại
diện có thẩm quyền, đó là Tòa kinh tế Tòa án nhân dân địa phương nơi doanh nghiệp
đăng ký kinh doanh, hoặc nơi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đặt trụ sở chính
(điều 7 Luật phá sản năm 2004, điều 30 Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2001).
Thứ ba, việc thanh toán các khoản nợ được tiến hành trên cơ sở số tài sản còn lại
của doanh nghiệp. Đây là điểm khác với nghĩa vụ trả nợ trong dân sự là nợ bao nhiêu thì
trả bấy nhiêu. Ở đây nghĩa vụ của doanh nghiệp mắc nợ sẽ chấm dứt sau khi dùng toàn bộ
tài sản của mình để trả nợ, mặc dù có thể thanh toán chưa đủ cho các chủ nợ.
Đối với doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh của công ty hợp danh hiện
tượng khoanh nợ có thể xảy ra theo khoản 1 điều 90 Luật phá sản năm 2004, nhưng các
chủ nợ chỉ có thể được thanh toán khi tìm thấy tài sản còn lại của những người này. Đây
là quy định nhằm loại trừ tình trạng doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh lợi dụng thủ
tục phá sản để nhằm xóa số nợ và trốn tránh nghĩa vụ trả nợ.
Thứ tư, việc thanh toán các khoản nợ được tiến hành sau khi có quyết định của cơ

quan nhà nước có thẩm quyền.
Việc thanh toán nợ chỉ được tiến hành sau khi có quyết định của tòa án. Đây là
điểm khác với thủ tục thanh toán nợ thông thường có thể diễn ra bất cứ lúc nào, theo
phương thức do hai bên lựa chọn. Tuy nhiên tòa án không trực tiếp thanh toán nợ của
doanh nghiệp mà công việc này thuộc về Tổ quản lý, thanh lý tài sản (điều 10 Luật phá
sản năm 2004) hoặc do chính doanh nghiệp thực hiện (điều 31 Luật phá sản năm 2004).
Như vậy, thủ tục phục hồi và xử lý nợ theo Luật phá sản quy định là một thủ tục
đặc biệt, khác với thủ tục thanh toán nợ thông thường trong dân sự, kinh tế hay trong đời
sống hàng ngày.
63


1.3. Phân loại phá sản
Phá sản có thể được phân loại theo các cách khác nhau dựa trên các căn cứ khác
nhau.
Căn cứ vào nguyên nhân gây ra phá sản, phá sản được chia thành phá sản trung
thực và phá sản gian trá. Trong đó phá sản trung thực là phá sản do những nguyên nhân
khách quan hay những rủi ro trong kinh doanh, còn phá sản gian trá là phá sản do con nợ
có những thủ đoạn gian trá, có sắp đặt trước nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác.
Cách phân chia này nhằm xác định thái độ đối xử của pháp luật đối với con nợ.
Khi giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, đối với phá sản trung thực, pháp luật chỉ tập
trung giải quyết các vấn đề liên quan đến xử lý tài sản; đối với phá sản gian trá, pháp luật
không chỉ tập trung giải quyết các vấn đề liên quan đến xử lý tài sản mà còn có thể giải
quyết các vấn đề liên quan đến nhân thân của chủ doanh nghiệp.
Căn cứ vào cơ sở phát sinh quan hệ pháp lý, phá sản được chia thành phá sản tự
nguyện và phá sản bắt buộc. Phá sản tự nguyện là phá sản do chính con nợ yêu cầu khi
thấy mình lâm vào tình trạng phá sản. Phá sản bắt buộc là phá sản được thực hiện theo
yêu cầu của chủ nợ hoặc đại diện chủ sở hữu ở một số loại hình doanh nghiệp.
Và cách phân loại này là một trong những căn cứ để xây dựng hồ sơ vụ phá sản
cũng như để thẩm phán lựa chọn thủ tục phá sản thích hợp, thủ tục phục hồi hay thủ tục

xử lý tài sản.
Căn cứ vào đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật phá sản, phá sản được chia
thành phá sản doanh nghiệp, phá sản hợp tác xã và phá sản cá nhân.
Về mặt ý nghĩa, cách phân loại này nhằm xác định pháp luật áp dụng khi giải quyết
vụ việc phá sản. Tuy nhiên, ở Việt Nam, Luật phá sản chỉ được áp dụng cho doanh nghiệp
và hợp tác xã.
1.4. So sánh phá sản với giải thể
Điểm giống nhau giữa phá sản và giải thể chính là chúng đều là các thủ tục dẫn
đến việc chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp và phân chia tài sản còn lại cho các chủ
nợ, giải quyết quyền lợi của người lao động,…
Những điểm khác nhau giữa chúng là:
Về lý do: phá sản chỉ do một nguyên nhân duy nhất là sự mất khả năng thanh toán
nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu, trong khi giải thể được tiến hành khi rơi doanh nghiệp
vào những trường hợp pháp luật quy định đối với những loại hình doanh nghiệp cụ thể,
mà doanh nghiệp đó có thể tự giải thể hoặc bị giải thể. Những lý do này rất đa dạng, như:

64


mục tiêu đề ra không đạt được, đã hoàn thành xong mục tiêu đề ra, bị thu hồi giấy phép
hoạt đông do vi phạm nghiêm trọng pháp luật,…
Về thủ tục pháp lý và cơ quan có thẩm quyền tiến hành thủ tục: giải thể là thủ tục
hành chính, là một giải pháp mang tính tổ chức do chủ doanh nghiệp tự mình quyết định
hoặc do cơ quan có thẩm quyền cho phép thành lập quyết định. Còn phá sản là thủ tục tư
pháp, là hoạt động do một cơ quan nhà nước duy nhất là tòa án có thẩm quyền tiến hành
theo những quy định chặt chẽ của pháp luật phá sản.
Về hậu quả: giải thể dẫn đến sự chấm dứt hoạt động và xóa tên doanh nghiệp. Phá
sản thì không phải bao giờ cũng dẫn đến sự chấm dứt hoạt động và xóa tên doanh nghiệp.
Về thái độ của nhà nước đối với chủ sở hữu hay người quản lý, điều hành của
doanh nghiệp: đối với phá sản, pháp luật thường quy định cấm những người trên không

được hành nghề trong một thời gian nhất định. Còn trong trường hợp giải thể thì không
đặt ra vấn đề này.
2. PHÁP LUẬT PHÁ SẢN

2.1. Khái niệm pháp luật phá sản
Trong thời kỳ Cổ đại và Trung đại, pháp luật phá sản đều mang nặng tính trừng
phạt. Khi không trả được nợ, không chỉ tài sản của con nợ được mang ra thanh lý ngay mà
bản thân họ cùng gia đình còn phải chịu những chế tài hình sự nghiêm khắc. Điều này gây
ra nhiều thiệt hại cho con nợ và bất ổn cho xã hội.
Trong xã hội hiện đại ngày nay, pháp luật phá sản đã có cái nhìn khoan dung hơn.
Đó là vì bản thân hoạt động kinh doanh đã là một lĩnh vực đầy khó khăn, rủi ro. Mặt
khác, hậu quả của phá sản rất lớn nên thương gia phá sản được coi là người kém may mắn
và cần được bảo vệ. Do vậy mà pháp luật phá sản không chỉ đặt ra những thiết chế bảo vệ
lợi ích cho chủ nợ mà còn bảo vệ lợi ích cho cả con nợ. Bên cạnh đó, xu thế toàn cầu hóa,
nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đã ảnh hưởng không nhỏ đến hệ thống pháp luật của mỗi
quốc gia. Pháp luật phá sản của mỗi nước không chỉ phản ánh những đặc điểm của quốc
gia mình mà còn phản ánh xu hướng chung của thời đại.
Pháp luật phá sản là tổng thể nguyên tắc và các quy phạm pháp luật do nhà nước
ban hành, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết yêu cầu phá
sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
2.2. Vai trò của pháp luật phá sản
Pháp luật phá sản đóng vai trò rất lớn và quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân
nói riêng và đối với toàn xã hội nói chung. Điều này được thể hiện ở những nội dung cơ
bản sau:
65


2.2.1. Pháp luật phá sản bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ nợ, cung cấp cho
các chủ nợ một công cụ để thực hiện việc đòi nợ
Khi một doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì chủ nợ là những

người đầu tiên có khả năng mất trắng những khoản tín dụng, tài sản mà mình cung cấp
cho con nợ. Do vậy mà pháp luật phá sản từ khi mới ra đời đã đặt mục tiêu đầu tiên là bảo
vệ lợi ích của chủ nợ. Phá sản thường mang tính dây chuyền nên việc bảo vệ lợi ích của
chủ nợ cũng gắn liền với việc bảo vệ và duy trì sự ổn định của nền kinh tế.
Bản thân sự tồn tại của pháp luật phá sản và sự đe dọa sẽ áp dụng thủ tục này là
một cơ chế có hiệu quả nhằm hạn chế những hành vi kinh doanh quá mạo hiểm của các
nhà quản lý, tạo áp lực buộc các doanh nghiệp mắc nợ phải tìm cách tổ chức lại doanh
nghiệp, tìm kiếm nguồn tài chính để thanh toán các khoản nợ, hạn chế tình trạng dùng tiền
của người khác để phục vụ lợi ích riêng của mình.
Khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, pháp luật phá sản trao cho chủ nợ
quyền khởi động thủ tục phá sản như là một biện pháp đòi nợ đặc biệt. Trong quá trình
giải quyết, pháp luật phá sản đưa ra các cơ chế cho phép các chủ nợ có khả năng bảo vệ
tối đa lợi ích của mình, như: kiểm tra, giám sát các hoạt động, hành vi của con nợ; tham
gia giải quyết những vấn đề liên quan trực tiếp tới quyền lợi của mình; khiếu nại các
quyết định của tòa án;…
2.2.2. Pháp luật phá sản bảo vệ lợi ích của con nợ, đem lại cho các doanh
nghiệp đang trong tình trạng phá sản một cơ hội phục hồi hoặc rút khỏi thương
trường một cách có trật tự
Trong quá trình tồn tại của mình, doanh nghiệp nào cũng có thể phải đối mặt với
những cạnh tranh, rủi ro dẫn tới sự suy thoái và mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Phá
sản lại luôn đem đến những hậu quả xấu về kinh tế - xã hội. Pháp luật phá sản vì thế cũng
bảo vệ lợi ích của con nợ bằng các quy định như: giảm bớt gánh nặng tài chính, hạn chế
những hành vi pháp lý chống lại con nợ từ phía chủ nợ, buộc các chủ nợ vào một khuôn
khổ chung trong quá trình đòi nợ.
Hơn thế nữa, thông qua pháp luật phá sản, con nợ được tạo cơ chế, điều kiện để
khôi phục lại tình hình tài chính và sản xuất kinh doanh của mình. Khi con nợ có những
dấu hiệu không thể khôi phục được thì pháp luật phá sản đưa ra cơ chế giúp cho việc
thanh lý tài sản của con nợ được nhanh nhất và giải phóng con nợ khỏi trách nhiệm thanh
toán đối với các chủ nợ.
2.2.3. Pháp luật phá sản bảo vệ lợi ích của người lao động


66


Hậu quả đáng chú ý nhất của phá sản là làm mất đi thu nhập và việc làm của người
lao động. Vì vậy, đây luôn là một trong những vấn đề pháp luật phá sản quan tâm bảo vệ,
nhằm hạn chế những thiệt hại vật chất mà phá sản có thể gây ra cho người lao động.
Pháp luật phá sản thường quy định, trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá
sản doanh nghiệp, người lao động có quyền cử đại diện tham gia để bảo vệ lợi ích của
mình; tiền lương và các khoản lợi ích chính đáng khác của họ luôn thuộc diện ưu tiên
trong thứ tự phân chia tài sản của doanh nghiệp; những người lao động trong doanh
nghiệp bị phá sản thường được tạo cơ hội tìm việc làm mới.
2.2.4. Pháp luật phá sản góp phần tổ chức và cơ cấu lại nền kinh tế
Pháp luật phá sản đưa ra khả năng so sánh giữa tổ chức lại và thanh lý doanh
nghiệp. Bất kỳ sự lựa chọn nào của doanh nghiệp đều dựa trên những cơ sở tối ưu nhằm
ngăn chặn những trường hợp thanh lý quá vội vàng hoặc trì hoãn việc thanh lý.
Khi một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, pháp luật phá sản tạo ra cơ chế
thiết thực và có hiệu quả nhằm giúp doanh nghiệp có cơ hội khôi phục. Xét trên khía cạnh
tăng trưởng kinh tế, đây rõ ràng là biện pháp góp phần tạo dựng một nền kinh tế ổn định.
Khi việc lựa chọn tổ chức lại không khả thi thì áp dụng thủ tục thanh lý doanh
nghiệp và đi tới chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp. Và lúc này, đây là một cơ chế hữu
hiệu để loại bỏ triệt để những doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, góp phần làm trong
sạch môi trường kinh doanh.
2.2.5. Pháp luật phá sản góp phần bảo đảm trật tự, kỷ cương xã hội
Khi con nợ lâm vào tình trạng phá sản, trước nguy cơ có thể mất những khoản tín
dụng, tài sản của mình, các chủ nợ có động cơ mạnh mẽ thúc đẩy thực hiện những hành
vi chống lại con nợ. Những hành vi đó có thể là hợp pháp hoặc bất hợp pháp. Nếu không
có sự can thiệp của pháp luật hoặc sự can thiệp không hiệu quả thì những hành vi bất hợp
pháp của chủ nợ rất dễ xảy ra, gây nên tình trạng lộn xộn. Do vậy, việc pháp luật phá sản
quy định cách mà mỗi nhóm chủ nợ khi được bồi thường không làm thiệt hại đến những

nhóm chủ nợ khác tạo nên một sự công bằng cần thiết trong việc thanh toán cho các chủ
nợ, đồng nghĩa với việc các bên được đưa vào một khuôn khổ chung mà trong đó lợi ích
của các bên đều được xem xét một cách công bằng và minh bạch.
Bằng việc giải quyết thỏa đáng mối quan hệ về lợi ích giữa chủ nợ với con nợ, giữa
các chủ nợ với nhau, pháp luật phá sản đã góp phần hạn chế những mâu thuẫn có thể phát
sinh giữa họ, và vì thế góp phần đảm bảo được trật tự, kỷ cương trong xã hội.
3. THỦ TỤC PHÁ SẢN

3.1. Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản
3.1.1. Nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
67


-

Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thuộc về những đối tượng sau:
Chủ nợ: Chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn

yêu cầu mở thủ tục phá sản khi nhận thấy doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
Luật phá sản không quy định chủ nợ có bảo đảm có quyền này, vì xuất phát từ luận
điểm cho rằng quyền đòi nợ của các chủ nợ có bảo đảm luôn được ưu tiên thanh toán
bằng tài sản bảo đảm của doanh nghiệp hoặc của người thứ ba. Chỉ đặt ra quyền này cho
chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần để giúp họ có cơ hội lựa chọn một
thủ tục thích hợp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản.
- Người lao động: theo quy định của khoản 1 điều 14 Luật phá sản năm 2004, người
lao động được cử người đại diện hoặc thông qua đại diện công đoàn nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản khi doanh nghiệp không trả được lương, các khoản nợ khác cho người lao
động và người lao động nhận thấy doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
Đây là sự tiến bộ của Luật phá sản 2004 so với Luật phá sản doanh nghiệp 1993

khi không quy định điều kiện “không trả được lương cho người lao động trong 3 tháng
liên tiếp”.
Và sau khi nộp đơn, đại diện cho người lao động hoặc công đoàn được coi là chủ
nợ.
- Đại diện chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản khi nhận thấy doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản mà doanh nghiệp không
thực hiện nghĩa vụ nộp đơn.
- Cổ đông hoặc nhóm cổ đông công ty cổ phần có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản theo quy định của điều lệ công ty khi nhận thấy công ty lâm vào tình trạng
phá sản; nếu điều lệ công ty không quy định thì việc nộp đơn được thực hiện theo nghị
quyết của đại hội đồng cổ đông; nếu điều lệ công ty không quy định mà không tiến hành
họp đại hội đồng cổ đông được thì cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 20% số cổ
phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất là 06 tháng có quyền nộp đơn.
- Thành viên hợp danh của công ty hợp danh có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản khi nhận thấy công ty lâm vào tình trạng phá sản. Đơn yêu cầu và các giấy tờ, tài
liệu kèm theo được thực hiện như trường hợp chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp
của doanh nghiệp nộp đơn.
Nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thuộc về chủ doanh nghiệp hoặc đại
diện hợp pháp của doanh nghiệp có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi
nhận thấy doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
68


Trong 3 tháng kể từ ngày nhận thấy doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản mà
những chủ thể trên không nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì phải chịu trách nhiệm
theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, đây là một quy định khá mơ hồ, bởi việc xác định
thời điểm “nhận thấy” là không rõ ràng và khó có căn cứ cụ thể.
3.1.2. Thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Sau khi nhận được đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, nếu thấy cần sửa đổi, bổ sung
tài liệu thì Tòa án yêu cầu người nộp đơn phải sửa đổi, bổ sung trong vòng 10 ngày kể từ

ngày nhận được yêu cầu của Tòa án. Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản kể từ
ngày người nộp đơn xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng phí phá sản; trường hợp người
nộp đơn không phải nộp tiền tạm ứng phí phá sản thì ngày thụ lý là ngày Tòa án nhận
được đơn.
Tòa án trả lại đơn yêu cầu trong các trường hợp sau:
- Người nộp đơn không nộp tiền tạm ứng phí phá sản trong thời hạn do Tòa án ấn
định.
- Người nộp đơn không có quyền nộp đơn.
- Có Tòa án khác đã mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản đó.
- Có căn cứ rõ ràng cho thấy việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản do không
khách quan gây ảnh hưởng xấu đến danh dự, uy tín, hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp hoặc có sự gian dối trong việc yêu cầu mở thủ tục phá sản.
- Doanh nghiệp chứng minh được mình không lâm vào tình trạng phá sản.
Trường hợp Tòa án trả lại đơn, trong vòng 10 ngày kể từ ngày nhận được quyết
định của Tòa án, người làm đơn có quyền khiếu nại với Chánh án Tòa án đó. Trong thời
hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, Chánh án phải ra một trong các quyết định
sau:
- Giữ nguyên quyết định trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
- Hủy quyết định trả lại đơn yêu cầu và thụ lý đơn theo quy định của Luật phá sản.
Tòa án phải thông báo cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản biết về việc
thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản trong vòng 05 ngày kể từ ngày thụ lý nếu người
nộp đơn không phải là chủ doanh nghiệp hoặc người đại diện của doanh nghiệp. Trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án, doanh nghiệp phải xuất
trình cho Tòa án các giấy tờ, tài liệu quy định tại khoản 4 điều 15 Luật phá sản năm 2004.

69


Sau khi thụ lý đơn, nếu thấy việc giải quyết phá sản không thuộc thẩm quyền của

mình thì Tòa án đã thụ lý chuyển việc giải quyết cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo
cho người nộp đơn.
Kể từ ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, việc giải quyết các yêu
cầu sau đây đòi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thực hiện nghĩa vụ về tài sản
phải tạm đình chỉ:
- Thi hành án dân sự về tài sản mà doanh nghiệp là người phải thi hành án.
-

Giải quyết vụ án đòi doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện nghĩa vụ về tài sản.
Xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp đối với các chủ nợ có bảo đảm, trừ trường

hợp được Tòa án cho phép.
3.1.3. Mở thủ tục phá sản
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, Tòa án
phải ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản.
Nếu thấy không có đủ căn cứ thì Tòa án ra quyết định không mở thủ tục phá sản.
Quyết định này phải được gửi cho người làm đơn. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày
nhận được quyết định, người làm đơn có quyền khiếu nại với chánh án Tòa án đó.
Nếu thấy đủ căn cứ chứng minh doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, Tòa án
ra quyết định mở thủ tục phá sản. Quyết định này phải được gửi cho doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản, Viện kiểm sát cùng cấp, và đăng báo địa phương, báo hàng ngày
của trung ương trong 03 số liên tiếp. Quyết định này phải được thông báo cho chủ nợ,
người mắc nợ. Thời hạn cho việc gửi, thông báo là 07 ngày kể từ ngày ra quyết định.
Quyết định mở thủ tục phá sản kéo theo các vấn đề pháp lý sau:
- Đồng thời với việc ra quyết định mở thủ tục phá sản, thẩm phán ra quyết định
thành lập tổ quản lý, thanh lý tài sản. Đây là cơ quan làm nhiệm vụ quản lý, thanh lý tài
sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
Thành phần của Tổ bao gồm một chấp hành viên của cơ quan thi hành án cùng cấp
làm tổ trưởng, một cán bộ của Tòa án, một đại diện của chủ nợ, đại diện hợp pháp của
doanh nghiệp bị mở thủ tục phá sản. Ngoài ra trong trường hợp cần thiết còn có đại diện

công đoàn, đại diện người lao động, đại diện các cơ quan chuyên môn do thẩm phán
quyết định.
- Quyền đòi nợ và nghĩa vụ gửi giấy đòi nợ của các chủ nợ.
Về nguyên tắc, mọi chủ nợ của doanh nghiệp bị mở thủ tục phá sản đều có quyền
gửi giấy đòi nợ đến Tòa án có thẩm quyền. Để hưởng quyền đòi nợ của mình, các chủ nợ
phải gửi giấy đòi nợ đến Tòa án trong vòng 60 ngày kể từ ngày cuối cùng đăng báo về
70


quyết định mở thủ tục phá sản. Giấy đòi nợ phải nêu cụ thể các khoản nợ, số nợ đến hạn
và chưa đến hạn, số nợ có bảo đảm và không có bảo đảm; kèm theo đó là các tài liệu
chứng minh. Nếu hết thời hạn này mà chủ nợ không gửi giấy đòi nợ thì được coi là từ bỏ
quyền đòi nợ.
-

Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản;

trách nhiệm kiểm kê tài sản.
Mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau khi có quyết định mở thủ tục phá
sản vẫn được tiến hành bình thường nhưng phải chịu sự giám sát, kiểm tra của thẩm phán
và tổ quản lý, thanh lý tài sản. Quy định này nhằm mục đích tạo cơ hội tái tổ chức hoạt
động kinh doanh để cứu vớt doanh nghiệp vượt ra khỏi tình trạng mất khả năng thanh
toán nợ đến hạn.
Nhằm bảo vệ tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, bảo vệ tối đa
quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ nợ và các chủ thể liên quan, doanh nghiệp bị cấm
thực hiện một số hoạt động sau: cất giấu, tẩu tán tài sản; thanh toán nợ không có bảo đảm;
từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ; chuyển các khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có
bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, các hoạt động sau chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý bằng văn bản
của thẩm phán: cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng, bán, tặng cho, cho thuê tài sản; nhận tài

sản từ một hợp đồng chuyển nhượng; chấm dứt thực hiện hợp đồng đã có hiệu lực; vay
tiền; bán, chuyển đổi cổ phần hoặc chuyển quyền sở hữu tài sản; thanh toán các khoản nợ
mới phát sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và trả lương cho người lao động.
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản,
doanh nghiệp phải kiểm kê toàn bộ tài sản theo bảng kê chi tiết đã nộp cho Tòa án và xác
định trị giá các tài sản đó.
Tòa án có thể áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm bảo toàn tài sản của doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Đó là quyết định áp dụng một hoặc một số biện pháp
khẩn cấp tạm thời nhằm bảo toàn tài sản của doanh nghiệp khi thấy cần thiết theo đề nghị
của tổ quản lý, thanh lý tài sản; hoặc tuyên bố các giao dịch của doanh nghiệp là vô hiệu
theo yêu cầu của chủ nợ không có bảo đảm, tổ quản lý, thanh lý tài sản; hay ra quyết định
đình chỉ thực hiện hợp đồng đang có hiệu lực và đang được thực hiện hoặc chưa được
thực hiện theo yêu cầu của chủ nợ, doanh nghiệp, tổ trưởng tổ quản lý, thanh lý tài sản
nếu xét thấy việc đình chỉ này có lợi hơn cho doanh nghiệp; hay đình chỉ thi hành án dân
sự, đình chỉ giải quyết vụ án và giải quyết vụ án bị đình chỉ trong thủ tục phá sản.
3.1.4. Hội nghị chủ nợ
71


a. Thành phần tham gia Hội nghị chủ nợ
Các chủ thể có quyền tham gia Hội nghị chủ nợ:
- Các chủ nợ có tên trong danh sách chủ nợ. Chủ nợ có thể ủy quyền bằng văn bản
cho người khác tham gia và người được ủy quyền có quyền, nghĩa vụ như chủ nợ.
-

Đại diện cho người lao động, đại diện công đoàn được người lao động ủy quyền.

Trong trường hợp này họ có quyền, nghĩa vụ như chủ nợ.
- Người bảo lãnh sau khi đã trả nợ thay cho doanh nghiệp, và họ trở thành chủ nợ
không có bảo đảm

Nghĩa vụ tham gia Hội nghị chủ nợ thuộc về người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản khi người nộp đơn là doanh nghiệp, chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước, cổ đông
của công ty cổ phần, thành viên hợp danh của công ty hợp danh. Nếu họ không tham gia
vào hội nghị chủ nợ thì phải ủy quyền bằng văn bản cho người khác tham gia. Người
được ủy quyền có quyền và nghĩa vụ như người ủy quyền. Đối với doanh nghiệp tư nhân
mà chủ doanh nghiệp đã chết thì người thừa kế hợp pháp của người đó tham gia.
b. Thủ tục triệu tập Hội nghị chủ nợ
Thẩm phán phải triệu tập hội nghị chủ nợ trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày lập
xong danh sách chủ nợ. Trường hợp việc kiểm kê tài sản của doanh nghiệp kết thúc sau
ngày lập xong danh sách chủ nợ thì thời hạn này tính từ ngày kiểm kê xong tài sản. Các
hội nghị chủ nợ tiếp theo có thể được thẩm phán triệu tập bất kỳ theo đề nghị của tổ quản
lý, thanh lý tài sản hoặc của các chủ nợ đại diện cho ít nhất 1/3 tổng số nợ không có bảo
đảm.
Giấy triệu tập phải được gửi cho người có quyền và nghĩa vụ tham gia chậm nhất
là 15 ngày trước ngày khai mạc hội nghị. Kèm theo là chương trình, nội dung của hội
nghị và các tài liệu khác.
c. Điều kiện hợp lệ của Hội nghị chủ nợ
Hội nghị chủ nợ chỉ hợp lệ khi có đầy đủ hai điều kiện sau:
- Có quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho ít nhất 2/3 tổng số nợ không
có bảo đảm tham dự.
- Có sự tham gia của người có nghĩa vụ tham gia hội nghị chủ nợ.
Hội nghị chủ nợ được hoãn một lần trong các trường hợp sau:
- Không đủ quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho ít nhất 2/3 tổng số nợ
không có bảo đảm tham dự.
- Quá nợ số chủ nợ không có bảo đảm có mặt tại hội nghị biểu quyết hoãn hội nghị.
- Người có nghĩa vụ tham gia hội nghị vắng mặt có lý do chính đáng.
72


Thẩm phán ra quyết định đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản trong những trường hợp

sau:
- Khi hội nghị chủ nợ đã được hoãn một lần nếu người nộp đơn yêu cầu là chủ nợ
hoặc người lao động không tham gia hội nghị chủ nợ được triệu tập lại.
-

Trường hợp chỉ có doanh nghiệp/chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước/cổ đông của

công ty cổ phần/thành viên hợp danh của công ty hợp danh nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản mà những người này không tham gia hội nghị chủ nợ mà không có lý do chính
đáng.
- Người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản rút lại đơn; nếu doanh nghiệp, chủ sở
hữu doanh nghiệp nhà nước, cổ đông của công ty cổ phần, thành viên hợp danh của công
ty hợp danh nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản mà chỉ có một hoặc một số người rút
đơn thì Tòa án vẫn tiến hành thủ tục phá sản.
3.2. Phục hồi hoạt động kinh doanh
3.2.1. Điều kiện áp dụng thủ tục phục hồi kinh doanh
Thẩm phán ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi kinh doanh sau khi hội nghị chủ
nợ lần thứ nhất thông qua nghị quyết đồng ý với các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh
doanh, kế hoạch thanh toán nợ và yêu cầu doanh nghiệp phải xây dựng phương án phục
hồi hoạt động kinh doanh.
Doanh nghiệp phải xây dựng phương án phục hồi và nộp cho Tòa án trong thời hạn
30 ngày, kể từ ngày hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua nghị quyết.
Điều kiện để áp dụng thủ tục phục hồi là:
- Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất tổ chức thành.
- Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua nghị quyết đồng ý với các giải pháp tổ
chức lại hoạt động kinh doanh, kế hoạch thanh toán nợ và yêu cầu doanh nghiệp phải xây
dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.
3.2.2. Xem xét, thông qua phương án phục hồi
Thẩm phán phải xem xét phương án phục hồi hoạt động kinh doanh trong thời hạn
15 ngày kể từ ngày nhận được phương án để ra quyết định đưa phương án ra hội nghị chủ

nợ xem xét, quyết định; hoặc đề nghị sửa đổi, bổ sung nếu thấy phương án chưa đảm bảo
nội dung theo quy định của pháp luật.
Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày quyết định phục hồi ra hội nghị chủ nợ, thẩm
phán phải triệu tập hội nghị chủ nợ để xem xét, thông qua phương án phục hồi.

73


Nghị quyết về phương án phục hồi được thông qua khi có quá nửa số chủ nợ
không có bảo đảm đại diện cho từ 2/3 tổng số nợ không có bảo đảm trở lên biểu quyết tán
thành.
3.2.3. Công nhận nghị quyết về phương án phục hồi và giám sát thực hiện
phương án phục hồi
Thẩm phán ra quyết định công nhận nghị quyết của hội nghị chủ nợ về phương án
phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Nghị quyết
này có hiệu lực đối với tất cả các bên có liên quan. Sau khi thẩm phán ra quyết định công
nhận, tổ quản lý, thanh lý tài sản giải thể.
Phương án phục hồi hoạt động kinh doanh sẽ do chính doanh nghiệp tự tiến hành
với cơ chế giám sát thích hợp. Sáu tháng một lần, doanh nghiệp phải gửi cho Tòa án báo
cáo về tình hình thực hiện phương án phục hồi. Chủ nợ có nghĩa vụ giám sát việc thực
hiện phương án phục hồi của doanh nghiệp.
Kết thúc giai đoạn phục hồi hoạt động kinh doanh, Tòa án phải ra một trong hai
quyết định sau:
- Đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh.
- Mở thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp. Trường hợp này rõ ràng cần thành
lập lại tổ quản lý, thanh lý tài sản, nhưng vấn đề này lại không được quy định trong Luật
phá sản.
3.2.4. Thời hạn thực hiện phương án phục hồi
Thời hạn tối đa để thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là 03 năm, kể từ ngày cuối cùng đăng báo về quyết

định của Tòa án công nhận nghị quyết của hội nghị chủ nợ về phương án phục hồi kinh
doanh của doanh nghiệp. Thời hạn này mở rộng hơn so với quy định trong Luật phá sản
doanh nghiệp là 02 năm.
Luật phá sản năm 2004 cho phép các chủ nợ và doanh nghiệp trong quá trình thực
hiện phương án phục hồi được quyền thỏa thuận về sửa đổi, bổ sung phương án phục hồi.
Thỏa thuận này dược chấp nhận khi có quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho
từ 2/3 tổng số nợ không có bảo đảm trở lên đồng ý.
3.2.5. Đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh và hậu quả pháp lý
Thẩm phán ra quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh nếu có
một trong các trường hợp sau:
- Doanh nghiệp đã thực hiện xong phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.

74


- Được quá nửa số phiếu của chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ 2/3 tổng số
nợ không có bảo đảm trở lên chưa thanh toán đồng ý đình chỉ.
Hậu quả pháp lý đầu tiên của quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh là doanh nghiệp được coi là không còn lâm vào tình trạng phá sản. Bên cạnh đó,
việc thi hành án dân sự chưa được thi hành hoặc việc giải quyết vụ án bị đình chỉ chưa
được giải quyết thì ngay sau quyết định đình chỉ, việc thi hành án hoặc giải quyết vụ án
được tiếp tục. Tòa án ra quyết định đình chỉ phải gửi trả hồ sơ vụ án cho tòa án có thẩm
quyền để giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

-

3.3. Thanh lý tài sản, các khoản nợ
3.3.1. Các trường hợp Tòa án ra quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản
Tòa án ra quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản trong các trường hợp sau:
Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bị thua lỗ đã được nhà nước áp dụng biện


pháp đặc biệt để phục hồi hoạt động kinh doanh mà vẫn không phục hồi được và không
thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu. Đây là trường hợp đặc biệt
không cần phải triệu tập hội nghị chủ nợ.
- Khi hội nghị chủ nợ không thành trong các trường hợp: (1) chủ doanh nghiệp hoặc
đại diện hợp pháp của doanh nghiệp không tham gia hội nghị chủ nợ mà không có lý do
chính đáng hoặc sau khi hội nghị chủ nợ đã được hoãn một lần nếu người nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản là chủ nợ, người lao động; (2) không đủ số chủ nợ tham gia hội
nghị chủ nợ sau khi chủ nợ đã được hoãn một lầm nếu người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản không phải là chủ nợ, người lao động.
- Khi hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua nghị quyết đồng ý với dự kiến các giải
pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh, kế hoạch thanh toán nợ và yêu cầu doanh nghiệp
phải xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh mà: (1) doanh nghiệp không xây
dựng được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh trong thời hạn 30 ngày; (2) hội nghị
chủ nợ không thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; (3)
doanh nghiệp thực hiện không đúng hoặc không thực hiện được phương án phục hồi hoạt
động kinh doanh, trừ trường hợp các bên liên quan có thỏa thuận khác
3.3.2. Khiếu nại, kháng nghị và giải quyết khiếu nại, kháng nghị về quyết định
mở thủ tục thanh lý tài sản
Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, các chủ nợ có quyền khiếu nại, Viện
kiểm sát nhân dân cùng cấp có quyền kháng nghị quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản.
Những người mắc nợ doanh nghiệp có quyền khiếu nại phần quyết định mở thủ tục thanh
lý tài sản của doanh nghiệp liên quan đến nghĩa vụ trả nợ của mình.
75


Thời hạn khiếu nại, kháng nghị là 20 ngày kể từ ngày cuối cùng đăng báo về quyết
định mở thủ tục thanh lý tài sản.
3.3.3. Tài sản phá sản và thứ tự phân chia tài sản
Tài sản phá sản là tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản được xác

định từ thời điểm Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Ngoài ra nó còn là những
tài sản được thu hồi từ các giao dịch của doanh nghiệp bị coi là vô hiệu quy định tại điều
43 Luật phá sản năm.
Thứ tự phân chia tài sản là: (1) các khoản nợ có bảo đảm; (2) phí phá sản; (3) các
khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội và các quyền lợi khác theo thỏa ước
lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết; (4) Các khoản nợ không có bảo đảm.
Trường hợp giá trị tài sản của doanh nghiệp sau khi đã thanh toán các khoản theo
quy định mà vẫn còn thì phần còn lại thuộc về: chủ doanh nghiệp tư nhân, các thành viên
của công ty, các cổ đông của công ty cổ phần, chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước.
3.3.4. Đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản
Thẩm phán ra quyết định đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản trong các trường hợp sau
đây:
-

Doanh nghiệp không còn tài sản để thực hiện phương án phân chia tài sản.
Phương án phân chia tài sản đã thực hiện xong.
Quyết định này khép lại thủ tục thanh lý tài sản để Tòa án tuyên bố doanh nghiệp
bị phá sản.
3.4. Tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản
3.4.1. Các trường hợp Tòa án tuyên bố phá sản
Tòa án tuyên bố phá sản doanh nghiệp trong các trường hợp sau:
- Đồng thời với việc ra quyết định đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản, thẩm phán ra
quyết định tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản.
- Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày hết hạn nộp tiền tạm ứng phí phá sản do Tòa án
ấn định, chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục thanh lý tài sản không còn tiền và tài sản khác để nộp tiền tạm ứng phí phá sản thì
tòa án ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản.
- Sau khi thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục thanh lý tài sản và nhận được các tài liệu,
giấy tờ do các bên có liên quan gửi đến, Tòa án ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp bị
phá sản nếu doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản không còn tài sản hoặc còn nhưng

không đủ để thanh toán phí phá sản.

76


Trường hợp ra quyết định tuyên bố phá sản thứ nhất được xem là thủ tục phá sản
thông thường. Hai trường hợp còn lại là thủ tục phá sản đặc biệt, bởi vì lúc này doanh
nghiệp không còn tài sản hoặc còn tài sản nhưng không đủ để nộp tiền tạm ứng phí phá
sản hay không đủ để thanh toán phí phá sản. Do đó mà Tòa án không thể thực hiện được
thủ tục thông thường mà phải rút gọn nó.
Quyết định tuyên bố phá sản không miễn trừ nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp
tư nhân, thành viên hợp danh của công ty hợp danh đối với chủ nợ chưa được thanh toán,
trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Các nghĩa vụ
về tài sản phát sinh sau khi có quyết định được giải quyết theo quy định của pháp luật về
thi hành án dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
3.4.2. Thông báo quyết định tuyên bố phá sản
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày ra quyết định tuyên bố phá sản, Tòa án phải gửi
quyết định tới doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, chủ
nợ, người mắc nợ doanh nghiệp, và đăng báo.
Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp có
hiệu lực pháp luật, Tòa án phải gửi quyết định cho cơ quan đăng ký kinh doanh để xóa tên
doanh nghiệp trong sổ đăng ký kinh doanh.
3.4.3. Khiếu nại, kháng nghị và giải quyết khiếu nại, kháng nghị quyết định
tuyên bố phá sản
Doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản, chủ nợ, người mắc nợ doanh nghiệp có quyền
khiếu nại, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp có quyền kháng nghị quyết định tuyên bố phá
sản. Thời hạn cho quyền khiếu nại, kháng nghị là 20 ngày kể từ ngày cuối cùng đăng báo
về quyết định tuyên bố phá sản.
Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày hết hạn khiếu nại, kháng nghị, Tòa án đã ra quyết định
phải gửi hồ sơ về phá sản kèm theo đơn khiếu nại, kháng nghị cho Tòa án cấp trên trực

tiếp. Trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày nhận hồ sơn, tổ thẩm phán (gồm 03 người) do
chánh án Tòa án cấp trên thành lập phải xem xét, giải quyết và ra quyết định không chấp
nhận khiếu nại, kháng nghị và giữ nguyên tuyên bố phá sản; hoặc ra quyết định hủy tuyên
bố phá sản và giao hồ sơ phá sản cho Tòa án cấp dưới tiếp tục tiến hành thủ tục phá sản.
Quyết định giải quyết khiếu nại, kháng nghị là quyết định cuối cùng và có hiệu lực kể từ
ngày ra quyết định.
Quyết định tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản không bị khiếu nại, kháng nghị thì có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn khiếu nại, kháng nghị.
CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Phân tích khái niệm phá sản theo quy định của pháp luật Việt Nam?
77


2. So sánh phá sản và giải thể?
3. Trình bày vai trò của pháp luật phá sản?
4. Thủ tục phá sản?

CHƯƠNG 4
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI
1. KHÁI QUÁT VỀ TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI VÀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI

1.1. Tranh chấp thương mại
Tranh chấp thương mại và tranh chấp kinh doanh là thuật ngữ quen thuộc trong đời
sống kinh tế xã hội ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Khái niệm này mới được sử dụng
ở nước ta trong mấy năm gần đây, bởi trước đây là sự tồn tại của khái niệm tranh chấp
kinh tế rất quen thuộc trong cơ chế kinh tế tập trung bao cấp.
Về mặt khái niệm, tranh chấp thương mại được hiểu là những mâu thuẫn về quyền
và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động thương mại. Như vậy,
các yếu tố của tranh chấp thương mại gồm có:

Thứ nhất, tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa
vụ giữa các bên trong mối quan hệ cụ thể.
Thứ hai, những mâu thuẫn, bất đồng nêu trên phải phát sinh từ hoạt động thương
mại.
Thứ ba, những mâu thuẫn, bất đồng nêu trên phát sinh chủ yếu giữa các thương
nhân.
1.2. Các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại
Trên thế giới cũng như tại Việt Nam hiện nay, có bốn phương thức để giải quyết
tranh chấp thương mại, đó là: thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và tòa án.
1.2.1. Thương lượng
Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại thông qua việc các
bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc, tự dàn xếp, tháo gỡ những bất đồng phát sinh để loại
bỏ tranh chấp mà không cần có sự trợ giúp hay phán quyết của bất kỳ bên thứ ba nào.
Đây là phương thức giải quyết tranh chấp xuất hiện sớm nhất, thông dụng và phổ
biến nhất được các bên tranh chấp áp dụng rộng rãi để giải quyết mọi tranh chấp phát sinh
trong đời sống xã hội, và trong hoạt động thương mại không phải là ngoại lệ. Nó là
phương thức giải quyết tranh chấp được thực hiện bởi cơ chế tự giải quyết thông qua việc
các bên tranh chấp gặp nhau bàn bạc, thỏa thuận để tự giải quyết những bất đồng phát
78


sinh mà không cần có sự hiện diện của bên thứ ba để trợ giúp hay phán quyết. Quá trình
thương lượng của các bên không chịu sự ràng buộc của các nguyên tắc pháp lý hay những
quy định mang tính khuôn mẫu của pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp. Và Việc
thực thi kết quả thương lượng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của các bên tranh
chấp mà không có bất kỳ cơ chế pháp lý nào bảo đảm việc thực thi.
Thương lượng có hai phương thức là thương lượng trực tiếp và thương lượng gián
tiếp.
1.2.2. Hòa giải
Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại với sự tham gia của bên

thứ ba làm trung gian hòa giải để hỗ trợ, thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải
pháp nhằm loại trừ tranh chấp đã phát sinh.
Đặc trưng của hòa giải chính là có sự hiện diện của bên thức ba làm trung gian để
trợ giúp các bên tìm kiếm giải pháp tối ưu nhằm loại trừ tranh chấp. Bên thứ ba này
không có quyền quyết định hay áp đặt bất kỳ vấn đề gì nhằm ràng buộc các bên tranh
chấp. Quyền quyết định vẫn thuộc về các bên tranh chấp khi họ thống nhất được ý chí về
giải quyết tranh chấp trên cơ sở hướng dẫn, trợ giúp của người thứ ba làm trung gian hòa
giải.
Quá trình hòa giải không chịu sự chi phối của các quy định có tính khuôn mẫu và
bắt buộc của pháp luật về thủ tục hòa giải. Và cũng như thương lượng, kết quả hòa giải
thành được thực thi hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của các bên tranh chấp mà
không có bất kỳ cơ chế pháp lý nào đảm bảo thi hành.
So với thương lượng, hòa giải có những ưu điểm hơn, là có sự tham gia của bên
thứ ba, thường là người có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm, am hiểu lĩnh vực và vấn
đề đang tranh chấp. Khi những người này hiểu rõ được nguyên nhân, hoàn cảnh phát sinh
mâu thuẫn cũng như quan điểm, nhận thức của mỗi bên, họ sẽ biết cách làm cho ý chí của
các bên dễ gặp nhau để loại trừ tranh chấp. Ưu điểm thứ hai là kết quả hòa giải được ghi
nhận và chứng kiến bởi người thứ ba nên mức độ tôn trọng và tự nguyện tuân thủ cao hơn
thương lượng.
Nhược điểm của hòa giải so với thương lượng chính là sự tham gia của bên thứ ba.
Đó là bí mật kinh doanh, uy tín của các bên tranh chấp dễ bị ảnh hưởng hơn do các bên
tranh chấp phải trao đổi, cung cấp thông tin cho người thứ ba về hoạt động kinh doanh
của các bên kiên quan đến tranh chấp. Và chi phí cho hòa giải tốn kém hơn do phải trả
khoản dịch vụ phí cho người hòa giải.
1.2.3. Trọng tài thương mại
79


Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng cách
giao vụ việc cho người thứ ba là các trọng tài viên để họ xét xử và ra quyết định cuối

cùng trong trường hợp các bên không dàn xếp được với nhau bằng con đường thương
lượng trực tiếp, đồng thời không muốn đưa vụ tranh chấp ra xét xử tại tòa án.
Các hình thức trọng tài thương mại là trọng tài vụ việc (trọng tài ad-hoc) và trọng
tài thường trực. Trong đó, trọng tài vụ việc là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp
thỏa thuận thành lập để giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và trọng tài sẽ chấm dứt sự
tồn tại khi giải quyết xong vụ tranh chấp. Còn trọng tài thường trực là trọng tài được
thành lập để hoạt động một cách thường xuyên, có tổ chức, có trụ sở cố định, có danh
sách trọng tài viên, hoạt động theo điều lệ tổ chức và có quy tắc tố tụng riêng.
1.2.4. Tòa án
Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại tại cơ quan xét xử nhân
danh quyền lực nhà nước, được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và
bản án hay quyết định của tòa án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ
được bảo đảm thi hành bằng sức mạng cưỡng chế của nhà nước.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương
mại của Tòa án được xác định trên ba cơ sở:
Thứ nhất, thẩm quyền theo cấp tòa án. Có ba cấp tòa án có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp thương mại, đó là Tòa án nhân dân cấp huyện, tòa án nhân dân cấp tỉnh và tòa
án nhân dân tối cao.
Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các tranh chấp
thương mại được quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g, h và i khoản 1 điều 29 Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2004.
Tòa án nhân dân cấp tỉnh: (1) Tòa kinh tế Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền
sơ thẩm đối với các tranh chấp thương mại không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
cấp huyện hoặc lấy lên để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các tranh chấp thuộc thẩm
quyền của Tòa án cấp huyện; thẩm quyền phúc thẩm đối với những vụ án mà bản án,
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp huyện bị kháng cáo, kháng
nghị; (2) Ủy ban thẩm phán Tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm đối
với những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp
huyện bị kháng nghị theo đúng trình tự, thủ tục.
Tòa án nhân dân tối cao: (1) Tòa kinh tế Tòa án tối cao có thẩm quyền giám đốc

thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án
cấp tỉnh bị kháng nghị theo đúng trình tự, thủ tục; (2) Tòa phúc thẩm Tòa án tối cao có
80


thẩm quyền phúc thẩm đối với những vụ án mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp
luật của Tòa án cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị; (3) Hội đồng thẩm phán Tòa án tối cao
có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm đối với những vụ án mà bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của các tòa thuộc Tòa án tối cao bị kháng nghị theo đúng trình tự, thủ
tục.
Thứ hai, thẩm quyền theo lãnh thổ.
Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc (với bị đơn là cá nhân) hoặc nơi bị đơn có trụ sở
(nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức) có thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại.
Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về bất động
sản.
Đương sự có quyền thỏa thuận bằng văn bản yêu cầu tòa án nơi cứ trú, làm việc
hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn giải quyết tranh chấp thương mại.
Thứ ba, thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn.
Nguyên đơn được chọn tòa án để giải quyết tranh chấp thương mại trong các
trường hợp sau:
- Không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu
tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải
quyết.
- Nếu tranh chấp phát sinh từ chi nhánh của tổ chức thì nguyên đơn có thể yêu cầu
tòa án nơi tổ chức có trụ sở hoặc nơi trụ sở có chi nhánh giải quyết.
- Nếu bị đơn không có nơi cư trú, làm việc, trụ sở ở Việt Nam thì nguyên đơn có thể
yêu cầu tòa án nơi mình cư trú, làm việc giải quyết.
- Nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu tòa
án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết.
- Nếu các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở ở nhiều nơi khác nhau thì nguyên đơn có

thể yêu cầu tòa án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở giải quyết.
- Nếu tranh chấp bất động sản mà bất động sản có ở nhiều địa phương khác nhau thì
nguyên đơn có thể yêu cầu tòa án nơi có một trong các bất động sản giải quyết.
Thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại tại tòa án bao gồm: thủ tục giải quyết vụ
án tại tòa án sơ thẩm, thủ tục giải quyết vụ án tại tòa án phúc thẩm, thủ tục xét lại bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật, bao gồm thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm.
Ưu điểm của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng tòa án chính là:
quá trình giải quyết tranh chấp tuân theo trình tự, thủ tục luật định; kết quả giải quyết

81


tranh chấp được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh nhà nước, cụ thể là thông qua sự
cưỡng chế của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
Nhược điểm của phương thức này chính là: tốn kém, không linh hoạt; không bảo
đảm được bí mật kinh doanh và uy tín của các bên tranh chấp do thủ tục xét xử tại tòa án
là thủ tục xét xử công khai.
2. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI

2.1. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
2.1.1. Nguyên tắc thỏa thuận trọng tài
Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng trọng tài
các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động thương mại.
Các bên có thể thỏa thuận trọng tài trước khi có tranh chấp hoặc sau khi có tranh
chấp. Về mặt hình thức, thỏa thuận trọng tài phải bằng văn bản, và có thể là một thỏa
thuận riêng hoặc là một điều khoản trong hợp đồng.
Thỏa thuận trọng tài vô hiệu trong các trường hợp sau:
- Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của trọng tài.
Các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của trọng tài được quy định tại điều 2 Luật trọng
tài thương mại năm 2010, bao gồm:

 Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
 Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động
thương mại.
 Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng
trọng tài.
- Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp
luật.
- Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy định
của Bộ luật dân sự.
- Hình thức của thỏa thuận trọng tài không phù hợp với quy định của pháp luật.
- Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thỏa thuận
trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài đó là vô hiệu.
- Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.
Tranh chấp thương mại chỉ được giải quyết tại trọng tài nếu các bên có thỏa thuận
trọng tài và thỏa thuận trọng tài đó có hiệu lực. Nếu không có thỏa thuận trọng tài hoặc
thỏa thuận trọng tài vô hiệu mà hội đồng trọng tài vẫn giải quyết thì quyết định của hội
đồng sẽ bị hủy.
82


2.1.2. Nguyên tắc trọng tài viên độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy
định của pháp luật
Đối với việc giải quyết tranh chấp một cách công bằng thì tính độc lập của các
trọng tài viên đối với các bên là vấn đề cần được đặc biệt quan tâm.
Trọng tài viên phải có đủ các điều kiện nhất định để đảm bảo rằng họ độc lập, vô
tư, khách quan trong việc giải quyết tranh chấp. Đó là các điều kiện quy định tại điều 20
Luật trọng tài thương mại năm 2010, bao gồm: a, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; b, có
bằng đại học và đã qua thực tế công tác trong ngành đã học từ 05 năm trở lên; c, trong
trường hợp đặc biệt, chuyên gia có trình độ chuyên môn cao và có nhiều kinh nghiệm
thực tiễn, tuy không đáp ứng được yêu cầu tại điểm b thì cũng có thể được chọn làm trọng

tài viên.
Trọng tài viên phải từ chối giải quyết vụ tranh chấp, các bên có quyền yêu cầu thay
đổi trọng tài viên vụ tranh chấp trong các trường hợp:
- Trọng tài viên là người thân thích hoặc đại diện của một bên.
- Trọng tài viên có lợi ích liên quan trong việc tranh chấp.
- Có căn cứ rõ ràng cho thấy trọng tài viên không vô tư, khách quan.
- Đã là hòa giải viên, người đại diện, luật sự của bất cứ bên nào trước khi đưa vụ
tranh chấp đó ra giải quyết tại trọng tài, trừ trường hợp được các bên chấp thuận bằng văn
bản.
Nếu trọng tài viên không vô tư, khách quan trong việc giải quyết tranh chấp, vi
phạm nghĩa vụ của trọng tài viên thì quyết định của hội đồng trọng tài có trọng tài viên đó
sẽ bị hủy.
Trọng tài viên là người được các bên tranh chấp chọn giải quyết tranh chấp. Để
giải quyết tranh chấp một cách công bằng, hợp lý, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của
các bên thì trọng tài viên phải tuân theo pháp luật. Đây là một nguyên tắc rất quan trọng
trong mọi thủ tục tố tụng cũng như giải quyết mọi vấn đề của đời sống xã hội trong điều
kiện nhà nước pháp quyền. Và chỉ khi căn cứ vào pháp luật thì trọng tài viên mới giải
quyết được các tranh chấp một cách vô tư, khách quan và được các nhà kinh doanh tín
nhiệm.
2.1.3. Nguyên tắc trọng tài viên phải tôn trọng sự thỏa thuận của các bên
Tranh chấp thương mại chỉ được giải quyết tại trọng tài nếu có thỏa thuận trọng tài.
Nói cách khác, quyền hạn của hội đồng trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp là do các
bên giao cho họ. Các bên lựa chọn hình thức trọng tài nào, trọng tài viên nào hay trung

83


×