Tải bản đầy đủ (.pdf) (166 trang)

Các nhân tố tác động đến việc vận dụng kế toán quản trị trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 166 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong quá trình hội nhập vào “Thế giới phẳng” theo xu hướng toàn cầu hoá, môi
trường kinh doanh truyền thống ngày càng có nhiều đối thủ tham gia, thay đổi
nhanh hơn và ngày càng trở nên khó lường hơn bao giờ hết. Cùng với sự phát triển
của internet cũng như thương mại điện tử (e-commerce), nhu cầu của khách hàng
ngày càng đa dạng và mạnh mẽ, làm thay đổi hẳn phương thức kinh doanh truyền
thống (Thomas Friedman, 2005). Tuy nhiên, việc môi trường kinh doanh thay đổi
đem lại cả nguy cơ lẫn cơ hội cho các doanh nghiệp cũng như các ngành kinh tế.
Doanh nghiệp đứng trước sự lựa chọn hoặc là tự đào thải, hoặc là thay đổi để kịp
nhịp phát triển: thay đổi về cấu trúc doanh nghiệp, về chiến lược cũng như triết lý
quản trị; điều này làm cho doanh nghiệp ngày càng thích ứng tốt hơn, đáp ứng
được nhu cầu của khách hàng nhanh hơn thông qua các quyết định kịp thời
(Langfield-Smith et al., 2009).
Khi bắt đầu xu hướng hội nhập, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các
doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) nói riêng đứng trước những cơ hội và thách
thức mới. Với quy mô sản xuất nhỏ, tiếp cận nguồn vốn khó khăn, sử dụng lao
động trình độ thấp … đặc biệt là chưa quen vận dụng các công cụ quản trị nói
chung cũng như kế toán quản trị (KTQT) nói riêng nên các DNNVV gặp nhiều bất
lợi khi cạnh tranh với các công ty lớn, các tập đoàn nước ngoài. Theo các điều
khoản chung khi tham gia vào WTO cũng như các tổ chức thương mại khác như
ASEAN, hoặc là việc ký kết hiệp định thương mại tự do giữa VN và Liên minh
kinh tế Á – Âu (vào ngày 29-5-2015 vừa qua) … thì theo lộ trình Việt Nam phải
dỡ bỏ dần các hàng rào thuế quan khiến việc giao thương trở nên thông suốt hơn,
tuy nhiên điều đó cũng có nghĩa là mức độ cạnh tranh sẽ trở nên gay gắt hơn (Ban
Công tác về việc gia nhập WTO của Việt Nam, 2006).
Trong 2015 Việt Nam đã tham gia ký kết một loạt các hiệp định thương mại tự do
(FTA) – đứng đầu khối ASEAN (15 hiệp định) và xếp thứ hạng cao trên thế giới
trong đó nổi bật với sự kiện quan trọng là hoàn tất tham gia ký kết hiệp định Hợp




2

tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP). Tuy nhiên một vấn đề đáng
quan ngại ở đây là nền kinh tế của Việt Nam lại chậm đổi mới từ bên trong do đặc
thù mới chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Vì vậy các DNNVV không những không tận dụng được nhiều cơ hội mà
lại phải đối diện với nhiều khó khăn do quá trình hội nhập tạo ra.
Một khi môi trường kinh doanh thay đổi theo xu hướng hội nhập toàn cầu, một
thách thức lớn đặt ra cho các nhà quản trị Việt Nam là phải vận dụng các công cụ
kỹ thuật quản trị mới để ứng phó, nhằm gia tăng lợi thế cạnh tranh của doanh
nghiệp mình. Và việc vận dụng KTQT sẽ tận dụng được các công cụ quản trị để
giúp các nhà quản trị có được các thông tin kịp thời và thích hợp, hữu hiệu, hiệu
quả nhằm hỗ trợ quá trình ra quyết định. Tuy nhiên, với lịch sử hình thành kinh tế
thị trường muộn so với các nước trên thế giới, việc giảng dạy đào tạo KTQT tại
Việt Nam mới chỉ bắt đầu từ những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ 20, do đó
hiện nay phần lớn bộ phận kế toán công tác tại các DNNVV tại Việt Nam vẫn còn
bỡ ngỡ ít nhiều đối với việc vận dụng KTQT. Qua khảo sát sơ bộ của tác giả cũng
như những nghiên cứu trước đây, cho đến nay việc vận dụng KTQT vào hoạt động
quản trị trong các DNNVV vẫn còn nhiều vướng mắc, hệ quả tất yếu là trong thực
tế tỷ lệ vận dụng KTQT trong các DNNVV nói chung còn rất thấp, các công cụ kỹ
thuật KTQT được vận dụng hầu hết là công cụ kỹ thuật truyền thống và hiệu quả
đóng góp cho công tác quản trị chưa cao. Việc vận dụng KTQT trong các DNNVV
tại Việt Nam chịu sự tác động của nhiều nhân tố bên trong lẫn bên ngoài doanh
nghiệp, có thể làm gia tăng tính khả thi của việc vận dụng KTQT trong các
DNNVV tại Việt Nam hoặc ngược lại. Do đó việc nghiên cứu nhằm nhận diện và
lượng hóa mức độ tác động của từng nhân tố đến việc vận dụng KTQT trong các
DNNVV tại Việt Nam là chủ đề quan trọng và cấp thiết. Chính vì vậy, tác giả đã
lựa chọn nội dung nghiên cứu “Các nhân tố tác động đến việc vận dụng kế toán

quản trị trong các DNNVV tại Việt Nam” để thực hiện luận án của mình.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Luận án được thực hiện nhằm xác định các nhân tố tác động và mức độ tác động
của từng nhân tố đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam. Từ


3

việc nhận diện nhân tố tác động và mức độ tác động của chúng, luận án gợi ý một
số chính sách cần thiết nhằm nâng cao tính khả thi của việc vận dụng KTQT trong
các DNNVV tại Việt Nam, để từ đó có thể giúp các DNNVV tại Việt Nam hoàn
thiện và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trong sân chơi hội nhập quốc tế.
Để đạt được mục tiêu trên, tác giả đặt ra hai câu hỏi nghiên cứu như sau:
 Q1: Thực trạng của việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam
trong thời gian qua?
 Q2: Các nhân tố nào tác động đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại
Việt Nam, mức độ tác động của từng nhân tố và mối tương quan giữa chúng với
nhau?
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các DNNVV tại Việt Nam đã, đang hoặc sẽ
có ý định vận dụng dụng KTQT. Qua đối tượng nghiên cứu này, luận án sẽ nhận
diện các nhân tố nào tác động đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại
Việt Nam, mức độ tác động của từng nhân tố và mối tương quan giữa chúng với
nhau
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Có nhiều nhóm nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT trong các DN nói
chung và DNNVV tại Việt Nam. Tuy nhiên, tác sẽ sẽ chọn lọc những nhóm nhân
tố phù hợp và mang tính chất đặc thù với nền kinh tế thị trường mới mở cửa của
Việt Nam. Ngoài ra do hạn chế về thời gian và nguồn lực thực hiện của luận án,
tác giả giới hạn phạm vi tiến hành khảo sát các DNNVV chủ yếu nằm tập trung ở

hai thành phố lớn như TP HCM, Hà Nội và các tỉnh lân cận hai thành phố đó, mục
đích để đa dạng hóa sự khác biệt về nhân tố văn hóa, cơ cấu tổ chức, chiến lược
kinh doanh … giữa các vùng miền đặc trưng của Việt Nam. Bên cạnh đó tác giả sẽ
lựa chọn ngẫu nhiên một số DNNVV tại các tỉnh, thành phố nhỏ ở miền Trung có
nền kinh tế chậm phát triển trên cả nước để đa dạng hóa sự khác biệt các đặc trưng
cơ bản về quy mô, trình độ lực lượng lao động…Thời gian khảo sát trong vòng 12
tháng kể từ tháng 01 năm 2015.


4

5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận án đã được thực hiện theo một quá trình xuyên suốt và áp dụng kết hợp hai
phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng như sau:
- Phương pháp định tính: dùng công cụ phỏng vấn kết hợp với xin ý kiến chuyên
gia để xác định các nhóm nhân tố có thể tác động đến việc vận dụng KTQT trong
các DNNVV tại Việt Nam. Từ nội dung trao đổi, tác giả sẽ sử dụng kết quả thảo
luận cuối cùng để làm cơ sở để xây dựng bảng câu hỏi phục vụ cho công tác khảo
sát.
- Phương pháp định lượng: dùng công cụ khảo sát để tập hợp các dữ liệu bằng
cách chọn mẫu và gửi bảng khảo sát trực tiếp đến các đối tượng có liên quan đến
việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam, từ đó tiếp tục dùng công cụ
phần mềm SPSS để kiểm định dữ liệu được tập hợp từ các cuộc khảo sát để kiểm
tra lại độ tin cậy của các thang đo các nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT
trong các DNNVV tại Việt Nam, đồng thời tìm ra các nhân tố mới và đo lường
mức độ tác động của chúng. Các công cụ sử dụng bao gồm Chi bình phương (Chisquare), Conbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá (EFA), phân tích hồi quy
đa biến.
6. NHỮNG ĐIỂM MỚI VÀ CÁC ĐÓNG GÓP KHOA HỌC CỦA LUẬN ÁN
6.1. Những điểm mới của luận án
Xem xét và đối chiếu với những nghiên cứu đã được các nhà khoa học trong nước

thực hiện trước đây thì luận án đã thực hiện được một số điểm mới như sau:
- Thứ nhất, khám phá thêm các nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT trong
các DNNVV tại Việt Nam.
- Thứ hai, đo lường mức độ tác động của các nhân tố tác động đến việc vận dụng
KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam bằng các phương pháp định tính và định
lượng.
- Thứ ba, từ những khám phá đó tác giả đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm làm
gia tăng tính khả thi của việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam.


5

6.2. Các đóng góp khoa học của luận án
Luận án là một công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc của tác giả. Kết quả
nghiên cứu của luận án đã đóng góp khoa học một số điểm cơ bản như sau:
- Một là, thông qua việc tổng hợp thực tiễn vận dụng KTQT trong các DNNVV tại
một số quốc gia và khu vực, rút ra được những bài học kinh nghiệm cho việc vận
dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam.
- Hai là, thông qua kết quả nghiên cứu, tác giả đã đề xuất các giải pháp đồng bộ để
góp phần làm gia tăng tính khả thi của việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại
Việt Nam.
- Ba là, kết quả nghiên cứu này cũng góp phần làm tài liệu tham khảo cần thiết và
bổ ích cho các nghiên cứu khoa học liên quan khác cũng như áp dụng trong thời
gian tới tại những cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở Việt Nam.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
Luận án được thực hiện bao gồm tổng cộng có 154 trang, 09 hình vẽ và 37 bảng
biểu minh họa, bổ trợ cho nội dung của bài viết. Xét chi tiết, ngoài phần mở đầu,
kết luận chung, các danh mục khác nhau, tài liệu tham khảo và 09 phụ lục thì luận
án được kết cấu thành 5 chương với tên gọi của từng chương cụ thể như sau:
 Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu có liên quan đến luận án.

 Chương 2: Cơ sở lý thuyết về kế toán quản trị và các nhân tố tác động đến
việc vận dụng kế toán quản trị vào DNNVV.
 Chương 3: Thiết kế nghiên cứu.
 Chương 4: Kết quả nghiên cứu và bàn luận.
 Chương 5: Kết luận và kiến nghị.


6

CHƯƠNG 1- TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN
Thông qua chương này, tác giả muốn cung cấp đến người đọc một bức tranh tổng
quan về quá trình nghiên cứu trước đây trên thế giới cũng như trong nước về các vấn
đề có liên quan đến nội dung của luận án. Từ đó tiến hành xác định khe hổng nghiên
cứu cho đề tài nghiên cứu của mình và bên cạnh đó, công tác tổng hợp các nghiên cứu
trước đó cũng một phần nhằm minh chứng cho tính cấp thiết của luận án này.
1.1. CÁC NGHIÊN CỨU CÔNG BỐ Ở NƯỚC NGOÀI
1.1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
Mặc dù các DNNVV đóng vai trò quan trọng cả về mặt kinh tế và xã hội, tuy nhiên
trên thế giới việc nghiên cứu về KTQT tại DNNVV được đánh giá là chưa đầy đủ
(Marriott and Marriott, 2000; Mitchell and Reid, 2000). Các nghiên cứu liên quan đến
việc vận dụng KTQT trong các DNNVV có thể tóm tắt ở một số mảng như sau:
Thứ nhất, các nghiên cứu tổng thể liên quan về sự thay đổi và nguyên nhân dẫn
đến sự thay đổi trong việc vận dụng KTQT trong các doanh nghiệp (DN) nói
chung qua các giai đoạn phát triển của KTQT.
Hiệp hội kế toán quốc tế (IFAC) vào năm 1998 đã tóm lược tiến trình phát triển của
KTQT qua bốn giai đoạn. Theo đó giai đoạn một (trước những năm 1950) với trọng
tâm xác định chi phí và kiểm soát tài chính. Trong giai đoạn này, KTQT chủ yếu liên
quan đến các vấn đề nội bộ, đặc biệt là năng lực sản xuất. Và trong nửa đầu thế kỷ 20,
việc vận dụng KTQT thịnh hành là sử dụng dự toán và kế toán chi phí. Tuy nhiên việc

phổ biến về thông tin chi phí có khuynh hướng bị xem nhẹ, và việc sử dụng thông tin
chi phí để ra quyết định chỉ được khai thác một cách kém cỏi (Aston et al., 1995).
Trọng tâm của KTQT trong giai đoạn hai (từ những năm 1950 – 1960) là cung cấp
thông tin để phục vụ cho mục địch hoạch định và kiểm soát. IFAC (1998) đã mô tả
KTQT trong giai đoạn này là “hoạt động quản trị nhưng trong vai trò của nhân viên”.
Thông qua việc sử dụng các công cụ kỹ thuật như phân tích quyết định và kế toán
trách nhiệm, các nhân viên sẽ hỗ trợ cấp trên trực tiếp của mình. Quản trị kiểm soát
giai đoạn này hướng đến sản xuất và quản lý nội bộ hơn là hướng về chiến lược và các


7

vấn đề về môi trường. Giai đoạn này có khuynh hướng là chỉ khi có sự sai lệch giữa
kết quả thực tế với kế hoạch kinh doanh đã được lập thì KTQT, với vai trò là một bộ
phận của hệ thống quản trị kiểm soát, mới xác định vấn đề và đưa ra hành động ứng
phó (Aston et al., 1995). Giai đoạn ba (từ những năm 1970 – 1980) trọng tâm KTQT
lại thay đổi sang “giảm sự lãng phí trong việc sử dụng các nguồn lực cho quá trình
kinh doanh”. Sự thay đổi này được lý giải là do một phần kết quả từ cuộc suy thoái thế
giới những năm thập kỷ 70 và kéo theo sau đó về cú sốc giảm giá dầu và sự gia tăng
cạnh tranh toàn cầu trong những năm đầu thập kỷ 80. Sự phát triển nhanh chóng về
mặt công nghệ đã tác động nhiều mặt của khu vực công nghiệp, cũng như kéo theo sự
phát triển về máy tính đã làm thay đổi về bản chất và khối lượng thông tin mà các nhà
quản trị có thể truy cập. Thách thức đặt ra đối với các kế toán quản trị viên – với vai
trò là người cung cấp hàng đầu các thông tin này – trong giai đoạn này là thông qua
các quy trình phân tích và công cụ kỹ thuật quản trị chi phí, làm cách nào đó để đảm
bảo việc các thông tin thích hợp luôn có sẵn để hỗ trợ các nhà quản trị cũng như nhân
viên ở mọi cấp độ. Giai đoạn bốn (từ những năm 1980 trở về sau) trọng tâm KTQT lại
thay đổi qua việc tạo ra các giá trị bằng cách sử dụng một cách hiệu quả các nguồn
lực. Điều này đạt được thông qua việc “… sử dụng các công cụ kỹ thuật nhằm nghiên
cứu sự hướng tới các giá trị khách hàng, giá trị cổ đông và sự cải tiến của DN nói

chung” (IFAC, 1998).
Tuy nhiên cho đến nay theo Gary Cokin (2013) chúng ta có thể nói đến một giai đoạn
mới của KTQT với xu hướng phát triển mạnh từ 2015 trở về sau là kỷ nguyên phân
tích dự báo (predictive analytics era). Theo đó dựa trên dữ liệu quá khứ, DN có thể
đánh giá và dự báo tầm nhìn chiến lược cũng như các hành động cụ thể, cùng với các
kế hoạch chi phí thì DN có thể dễ dàng chuyển đổi các mục tiêu, hành động cụ thể
thành những con số để có thể đánh giá hiệu quả và hiệu lực của các quyết định. Và
trong kỷ nguyên phân tích dự báo này, Gary Cokin (2013) tổng hợp bảy xu hướng
chính của KTQT bao gồm:
+ Mở rộng từ việc phân tích sản phẩm sang phân tích kênh phân phối và tính khả lợi
của khách hàng;
+ Sự mở rộng vai trò của KTQT trong việc quản lý hiệu suất DN (EPM – Enterprise
performance management);


8

+ Sự nhấn mạnh về kế toán dự báo;
+ Phân tích kinh doanh được bao hàm trong các phương thức quản lý hiệu suất DN;
+ Cùng tồn tại và hoàn thiện các phương pháp KTQT khác nhau trong DN;
+ Quản trị công nghệ thông tin và chia sẻ dịch vụ;
+ Nhu cầu về kỹ năng cao hơn và năng lực tốt hơn về quản trị chi phí theo hành vi
ứng xử.
Sau thập niên 90s, các nghiên cứu nổi bật lên về các điều tra về sự thay đổi của việc
vận dụng KTQT (MAPs) trong các DN. Tại các nước Châu Âu, các nghiên cứu của
Abdel-Kader và Luther (2006) đối với các doanh nghiệp sản xuất (DNSX) trong lĩnh
vực công nghiệp thức ăn và nước giải khát của Anh Quốc chỉ ra rằng các công cụ kỹ
thuật KTQT truyền thống vẫn được các DN quen dùng tiếp tục áp dụng phổ biến, tuy
nhiên đồng thời cũng có dấu hiệu cho thấy các công cụ kỹ thuật của KTQT tiên tiến
được áp dụng như: các thông tin liên quan đến chi phí chất lượng, các thước đo phi

tài chính liên quan đến nhân viên, các phân tích về điểm mạnh – điểm yếu của đối thủ
cạnh tranh. Bên cạnh đó, có rất nhiều các tác giả khác cũng đã tiến hành các nghiên
cứu việc vận dụng KTQT tại các DN Châu Âu về rất nhiều các lĩnh vực như chi phí,
hoạch định và kiểm soát, hệ thống đo lường và đánh giá cũng như các hệ thống thông
tin hỗ trợ ra quyết định (DSS – decision support system). Vào năm 1996, Bruggeman
et al. đã tiến hành điều tra việc vận dụng KTQT tại các DN Bỉ và phát hiện ra rằng các
công cụ kỹ thuật truyền thống của KTQT vẫn được sử dụng nhưng đồng thời các DN
cũng chọn lựa sử dụng các công cụ kỹ thuật quản trị mới như ABC (activity-based
costing). Pierce và O‘Dea (1998) khi tiến hành nghiên cứu vận dụng KTQT tại các
DN Ailen đưa ra kết luận rằng các công cụ kỹ thuật truyền thống của KTQT như các
chỉ tiêu tài chính về đo lường và đánh giá hiệu quả hoạt động của DN vẫn được lựa
chọn và chiếm ưu thế, tuy nhiên việc cập nhật các công cụ kỹ thuật hiện đại của
KTQT như ABC, kế toán chi phí mục tiêu (target costing) … ngày càng được phổ
biến. Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng các công cụ kỹ thuật hiện đại đóng vai trò bổ
sung chứ không phải thay thế cho các công cụ kỹ thuật truyền thống. Hyvo¨ nen
(2007) khi nghiên cứu về vận dụng KTQT trong các DNSX đã cung cấp các bằng
chứng thực tiễn về việc mở rộng chấp nhận vận dụng KTQT trong các DN, sự ghi
nhận về những tiện ích khi vận dụng KTQT cũng như những tiềm năng phát triển


9

trong tương lai. Các kết quả chỉ ra rằng các thước đo tài chính như phân tích lợi nhuận
biên sản phẩm, dự toán, kiểm soát chi phí … vẫn còn tiếp tục đóng vai trò quan trọng
trong tương lai, tuy nhiên đồng thời cũng nhấn mạnh vai trò quan trọng trong tương
lai của các công cụ kỹ thuật đo lường phi tài chính như đo lường sự hài lòng của
khách hàng, thái độ của khách hàng …
Tại các nước Châu Á – Thái Bình Dương, theo Scarbrough et al. (1991) thì các nghiên
cứu về việc vận dụng KTQT tại Nhật chỉ ra rằng các DN tại Nhật không chú trọng
phát triển các phương pháp cải tiến cho việc đánh giá chi phí sản phẩm và đánh giá

hàng tồn kho hơn các nước phương Tây. Thay vào đó, các công ty chú trọng nhiều
vào sự nỗ lực cải tiến vào phân tích chi phí cho việc ra quyết định và kiểm soát chi phí
thông qua các công cụ kỹ thuật KTQT đơn nhất như chi phí mục tiêu và các công cụ
kỹ thuật TQC, TPM, JIT, VE và ROS. Việc phát triển công cụ kỹ thuật trong các
mảng này dường như rất cẩn trọng khi hội nhập và hỗ trợ cho các hoạt động của hệ
thống chiến lược. Các nhà nghiên cứu phát hiện rằng sự tập trung của các cố gắng về
quản trị DN đã trở thành một vấn đề được mô tả và giao tiếp trong mục tiêu và chiến
lược toàn DN; nó không phải là một hệ thống phức tạp phản ánh đặc thù riêng của thị
trường và quá trình SX. Bên cạnh đó, các nghiên cứu về các bước phát triển của
KTQT từ việc vận dụng các công cụ kỹ thuật truyền thống cho đến các công cụ kỹ
thuật của kế toán quản trị chiến lược (SMA) đã chỉ ra rằng cùng với nhu cầu phát triển
về quản trị chiến lược, sự liên quan của KTQT đến công tác quản trị chiến lược DN
ngày càng được các học giả quan tâm. Là một trong những người tiên phong,
Simmonds (1981) đã khái niệm SMA theo hướng KTQT phát triển và hỗ trợ cho quản
trị chiến lược, có nghĩa SMA là “… việc cung cấp và phân tích dữ liệu KTQT về một
DN và các đối thủ cạnh tranh của nó để sử dụng và kiểm soát chiến lược doanh
nghiệp”. Theo đó sự phát triển của SMA để đáp ứng cho nhu cầu quản trị nhằm đạt
đến sự thành công và “…đạt được một lợi thế cạnh tranh bền vững”. Sau này ngày
càng nhiều học giả tiếp tục phát triển nghiên cứu chuyên sâu của SMA trong ứng dụng
và liên kết của kế toán và chiến lược trong thực tiễn (Ahrens and Chapman, 2005,
2007). Simon, trong các loạt nghiên cứu của mình từ những năm 1987, 1990, 1991,
1994 đã truyền bá rằng việc sử dụng các hệ thống kiểm soát quản trị như dự toán có
tác động qua lại với các mục đích quản trị; Simon đã chứng minh được mối liên hệ


10

giữa dự toán và quy trình chiến lược, được gọi là lợi thế cạnh tranh. Các hệ thống
kiểm soát quản trị có thể dùng cả chiến lược đã được hoạch định hoặc chiến lược tức
thời, điều này phụ thuộc vào các cơ hội hay mối đe dọa mà DN có được (Simon,

1990). Các nhà quản trị sử dụng các hệ thống kiểm soát quản trị trong cả các trường
hợp chiến lược thay đổi hoặc bất ổn, nhằm để thích ứng và từ đó tiếp tục tạo ra sự
khởi đầu mới (Simon 1991, 1994); và điều này cũng phù hợp với nghiên cứu của
Albernethy và Brownell (1999) khi họ chỉ ra rằng có mối quan hệ tương tác giữa việc
sử dụng dự toán để quản trị các sự bất ổn bên ngoài. Trên cơ sở đó, Simon đã phác
thảo mô hình dự toán chiến lược, đóng một vai trò quan trọng như một kỹ thuật của
SMA. Chiến lược ngày càng trở nên quan trọng đối với mỗi DN do sự gia tăng về
cạnh tranh cũng như mức độ toàn cầu hoá, và điều này cũng làm cho SMA ngày càng
trở nên quan trọng hơn (Dent, 1996; Lord, 1996). Các ý tưởng tổng quan trong SMA
được dùng để hỗ trợ cho quá trình ra quyết định cũng như phản ứng trước những sự
thay đổi của chiến lược toàn cầu. Bản chất của SMA ngày càng linh hoạt và tổng quát
hơn tuỳ thuộc vào các hoạt động của tổ chức, cũng như các mô hình và lý thuyết được
thiết kế tuỳ thuộc vào phạm vi hoạt động, môi trường kinh doanh và khả năng nguồn
lực của DN. So với các phương pháp tập quán truyền thống thì SMA hướng về tương
lai hơn là so sánh kết quả quá khứ; và bên cạnh đó, điều này còn làm cho KTQT cống
hiến nhiều hơn cho chiến lược của DN (Tomkins and Carr, 1996a). Tomkin và Carr đã
chỉ ra rằng bên cạnh việc thu thập dữ liệu của các đối thủ cạnh tranh, thì các phương
pháp và cách thức phân tích trong nội bộ của DN cũng như vai trò/quy trình kế toán sẽ
giúp các nhà quản trị vạch ra các chiến lược tốt hơn (Tomkins and Carr, 1996a, 165).
Slagmulder (1997) đã tiến hành việc nghiên cứu lý thuyết nền tảng nhằm mục đích
tìm hiểu cách hệ thống kiểm soát quản lý hỗ trợ việc ra quyết định đầu tư chiến lược
và phù hợp với chiến lược của DN. Tác giả đã phát triển một lý thuyết nền về sự thích
nghi năng động, phản ứng kịp thời với các thay đổi bên ngoài trong các điều kiện môi
trường thay đổi, nhằm thích nghi với chiến lược DN. Trong điều kiện và môi trường
toàn cầu hoá, ngày càng gia tăng sự cạnh tranh khốc liệt thì chính kế toán chi phí và
KTQT được hồi sinh, và trở nên hữu dụng cho việc quản trị.
Ở một khía cạnh khác, Bhimani (2002) đã nhận thức được sự thành công của hệ thống
KTQT liên quan đến các bối cảnh văn hoá và tác giả nhấn mạnh rằng văn hoá toàn hệ



11

thống và văn hoá đội, nhóm phải tương thích. Qua việc nghiên cứu sâu trường hợp cụ
thể của tập đoàn Siemens, tác giả đã chỉ ra rằng các nhóm lĩnh hội được rằng giá trị cá
nhân, tập thể của nhóm được gắn chặt với hệ thống KTQT. Trong nghiên cứu gần đây
của Kober et al.(2007) về hệ thống KTQT và mối liên hệ của nó đối với chiến lược,
các tác giả đã chỉ ra rằng hệ thống KTQT và chiến lược có mối quan hệ phụ thuộc và
tác động qua lại lẫn nhau. Kết quả nghiên cứu cho thấy những kiểm soát quản trị
tương tác trong hệ thống có thể tác động đến sự thay đổi chiến lược và từ đó sự thay
đổi chiến lược này lại phù hợp với những thay đổi trong DN. Các DN phải chấp nhận
việc chiến lược thay đổi phù hợp theo những sự tác động từ thay đổi của bên ngoài,
mặc dù sự thay đổi chiến lược chịu sự tác động từ những nhóm quản trị cao cấp không
đồng nhất về ý kiến, đường lối ... Và trong những trường hợp này, những hệ thống
KTQT được sử dụng để khắc phục những khó khăn này cũng như hỗ trợ sự thay đổi
chiến lược (Naranjo and Hartman, 2006). Trong giai đoạn Simonds (1981) giới thiệu
khái niệm về SMA, thì đồng thời Shank và Govindarajan (1993) cũng phát triển ý
tưởng tương tự gọi là quản trị chi phí chiến lược. Ứng dụng này phát triển dựa trên lý
thuyết của Porter, cụ thể là chiến lược chung và chuỗi giá trị. Theo đó, quản trị chi phí
chiến lược được khái niệm là “sự quản trị việc sử dụng các thông tin chi phí một cách
dứt khoát tại một hoặc nhiều hơn trong bốn giai đoạn của chu kỳ quản trị chiến lược
bao gồm: tạo lập chiến lược, truyền đạt chiến lược trong DN, phát triển và thực hiện
các sách lược để ứng dụng chiến lược, phát triển và vận dụng các thủ tục kiểm soát
nhằm giám sát mức độ thành công của các bước ứng dụng cũng như đạt được các
mục tiêu của chiến lược”. Theo Shank và các cộng sự, quản trị chi phí chiến lược là
sự tích hợp bởi ba nhân tố: phân tích chuỗi giá trị, phân tích vị thế chiến lược và phân
tích nhân tố dẫn dắt chi phí; sự kết hợp này tạo ra dữ liệu của chiến lược chi phí phù
hợp (Shank and Govindarajan, 1993; Shank, 1996). Nhân tố đầu tiên cung cấp một sự
tập trung diện rộng bao gồm cả các nhân tố bên ngoài tác động đến DN nhằm mục
đích quản trị chi phí hiệu quả, nhân tố thứ hai được nhận diện bởi câu hỏi vai trò của
kế toán chi phí trong một DN như thế nào? Việc phân tích chi phí thay đổi còn tuỳ

thuộc vào chiến lược DN đã lựa chọn, ví dụ như lựa chọn chiến lược chi phí thấp hay
chiến lược khác biệt. Rõ ràng một sự phân tích về chi phí marketing đóng một vai trò
cực kỳ quan trọng cho chiến lược khác biệt lại tỏ ra không phù hợp trong trường hợp


12

DN chọn chiến lược chi phí thấp. Nhân tố thứ ba được tiếp cận theo ý nghĩa rộng hơn,
bao gồm các tiêu thức phân bổ chi phí thuộc về hai mảng: cấu trúc và hoạt động của tổ
chức. Đối với các tiêu thức phân bổ chi phí thuộc về cấu trúc của tổ chức bao gồm quy
mô DN, phạm vi hoạt động, kinh nghiệm trong quá khứ, công nghệ và mức độ phức
tạp của sản phẩm/dịch vụ (Shank, 1996). Còn đối với các tiêu thức thuộc về hoạt động
của tổ chức có thể kể đến như sự tham gia hoạt động của nhân viên, hoạt động quản trị
chất lượng toàn diện (TQM), tận dụng mở rộng công suất sản xuất, thiết kế sản phẩm
và khai thác các mối liên hệ với khách hàng/các nhà cung ứng (Shank, 1989).
Alawattage và Wickramasingh (2007) cũng đã đưa ra nhận xét dựa trên nghiên cứu
của mình rằng sự thay đổi trong KTQT như một phương pháp nghiên cứu để hiểu
phương thức tác động của các nhân tố bên ngoài làm thay đổi quá trình định hướng
trong nội bộ DN. Theo họ, tiến trình thay đổi thể hiện và phản ánh vấn đề là các công
cụ kỹ thuật KTQT được nêu bật lên, vận dụng và thay đổi như thế nào trước những
yêu cầu thay đổi của môi trường nơi DN hoạt động.
Theo Laitinen (2003), các nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi của KTQT được dán nhãn
là “các nhân tố đóng vai trò động cơ thúc đẩy”, và được các nhà nghiên cứu liệt kê cụ
thể như các nhân tố khuyến khích sự thay đổi (ví dụ như sự cạnh tranh của thị trường,
cấu trúc DN, công nghệ sản xuất sản phẩm); các chất xúc tác cho sự thay đổi (ví dụ
như sự yếu kém về chỉ số tài chính, sự sụt giảm về thị phần, sự thay đổi của tổ
chức...); các nhân tố làm cho quá trình thay đổi dễ dàng (ví dụ như nguồn nhân lực kế
toán, mức độ về tự trị, yêu cầu về kế toán …). Sự tương tác giữa các nhân tố nói trên
khuyến khích sự thay đổi không chỉ lĩnh vực KTQT mà còn các lĩnh vực khác có liên
quan như cấu trúc và chiến lược của DN. Laitinen (2003) đã sắp xếp các nhân tố này

vào sáu nhóm khác nhau bao gồm: nhu cầu thông tin, thay đổi về công nghệ và môi
trường, sự sẵn sàng thay đổi, nguồn lực để thay đổi, mục tiêu của sự thay đổi và các
yêu cầu từ bên ngoài. Ngoài ra tác giả cũng sử dụng bốn loại hạng mục khác nhau của
các nhân tố để giải thích sự thay đổi của KTQT bao gồm: các nhân tố của DN, các
nhân tố tài chính, các nhân tố thúc đẩy và các kỹ thuật quản trị (Laitinen, 2003). Sự
thay đổi ở môi trường kinh doanh và công nghệ được sử dụng như là các nhân tố
khuyến khích trong việc giải thích sự thay đổi của KTQT và sự thay đổi của các nhân
tố khác của DN như cấu trúc và chiến lược. Các nghiên cứu khác cũng chỉ ra sự kết


13

hợp chặt chẽ giữa các nhân tố tác động qua về lẫn nhau theo dây chuyền và nguyên
nhân - kết quả khi xem xét sự thay đổi của KTQT. Ví dụ như ba nhân tố được xem xét
ở đây là các nhân tố thúc đẩy, nhân tố của DN và nhân tố tài chính: sự thay đổi trong
môi trường và công nghệ được xem như là các nhân tố thúc đẩy để giải thích sự thay
đổi của KTQT và các nhân tố khác của DN như cấu trúc và chiến lược. Và bên cạnh
đó, các nhân tố cấu trúc và chiến lược của DN lại có mối liên hệ với KTQT trong cùng
bối cảnh thay đổi. Còn đối với các nhân tố tài chính thì đóng vai trò là sản phẩm đầu
ra đối với sự thay đổi của KTQT và cấu trúc DN. Bằng nghiên cứu của mình
Grandlund (2001) đã chỉ ra rằng các chỉ số tài chính yếu kém có thể đặt áp lực kinh tế
lên DN để buộc DN có những sự thay đổi về việc vận dụng các kỹ thuật KTQT nhằm
tạo ra một hiệu quả làm việc cao hơn. Và cũng đồng quan điểm đó, Baines và
Langfield-Smith (2003) chỉ ra rằng nếu sự thay đổi của KTQT dựa trên những thông
tin kế toán đáng tin cậy sẽ tạo ra sự cải thiện về thành tích của DN. Và điều đó cũng
có nghĩa là các thành tích về tài chính cũng là các chỉ báo sớm hay kết quả đầu ra của
sự thay đổi về KTQT. Trong một nghiên cứu tổng hợp các nghiên cứu thực tiễn tiến
hành tại Úc, Anh và Mỹ, Lobo et al. (2004) đã xác định vai trò của các nhân tố (nhân
tố thuộc về môi trường bên ngoài và nhân tố thuộc về DN) tác động đến sự thay đổi
của KTQT như sau:

 Nhân tố thuộc về môi trường bên ngoài: sự toàn cầu hóa của các thị trường,
sự tiến bộ của thông tin và các công cụ kỹ thuật sản xuất, sự gia tăng cạnh
tranh.
 Nhân tố thuộc về DN: năng lực lõi, mối quan hệ với các khách hàng và các
nhà cung ứng, sự giảm biên chế, sự gia công, sự phẳng hóa về cấu trúc DN
và sự hợp tác đồng đội trong DN.
Rất nhiều DN đã trải qua những sự thay đổi quan trọng trong môi trường kinh doanh
như sự tiến bộ về kỹ thuật công nghệ, sự gia tăng cạnh tranh trong môi trường kinh
doanh, những chiến lược quản trị mới hay là xu hướng tập trung vào các dịch vụ chăm
sóc khách hàng … Và có rất nhiều nghiên cứu có liên quan về sự thay đổi của KTQT
cũng chỉ ra rằng sự thay đổi của môi trường hoạt động sẽ có tác động lên việc lựa
chọn những hệ thống KTQT hay những công cụ kỹ thuật KTQT được đánh giá hiệu
quả nhất, để từ đó dẫn đến việc DN phải cân nhắc lại các chiến lược và tiến hành tái


14

cấu trúc nhằm đặt được những thành quả cao hơn (Burns and Vaivio, 2001; Choe,
2004; Gomes et al., 2007).
Thứ hai, các nghiên cứu liên quan về việc vận dụng KTQT trong các DNVVV.
Mặc dù về số lượng nghiên cứu về KTQT tăng lên trong các thập kỷ qua, vẫn rất ít các
nghiên cứu về việc vận dụng KTQT vào các DNNVV (McChlery et al., 2004). Điều
này xuất phát từ niềm tin rằng KTQT được nghiên cứu tốt nhất ở những công ty hàng
đầu, và những ví dụ về sự vận dụng thành công KTQT chỉ có thể tìm thấy ở những
công ty hàng đầu của phương Tây hoặc các công ty Nhật Bản (Mitchell et al., 1998).
Kết quả là các DN lớn luôn được ưu tiên hơn theo kinh nghiệm các nghiên cứu trước
và theo các ý kiến của các chuyên gia về việc cải tiến và phát triển KTQT ở các DN
này (Mitchell and Reid, 2000). Điều này tạo ra không ít thách thức về việc nghiên cứu
hoạt động KTQT trong các DNNVV. Tuy nhiên do tác động của quá trình toàn cầu
hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ, giai đoạn sau này ngày càng gia tăng nhiều các

nghiên cứu về việc vận dụng KTQT vào các DNNVV.
Khi nghiên cứu về nhu cầu của việc vận dụng KTQT trong các DN, Nandan (2010)
lưu ý rằng do các DNNVV thường dễ gặp những rắc rối tương tự nhau, nên dẫn đến
dễ bị thất bại hơn, do đó thông tin KTQT cực kỳ quan trọng đối với họ, nhất là trong
việc quản lý nguồn lực cũng như các quyết định phân bổ nguồn lực. Với tầm quan
trọng về sự đóng góp trong nền kinh tế của mình, thì việc các DNNVV cần những
thông tin KTQT kịp thời, chính xác và đáng tin cậy là điều dễ hiểu. Điều đó cũng có
nghĩa là KTQT đóng vai trò quan trọng đối với các DNNVV. Và theo Birkett et al.
(1992), nhu cầu của việc vận dụng KTQT của các DNNVV phụ thuộc vào sự phức tạp
ngẫu nhiên trong kinh doanh mà họ phải đối đầu tại những thời điểm khác nhau với
các tình huống khác nhau, tạo nên bởi sự thay đổi về chiến lược, cấu trúc và tài chính
của DN, từ lúc khởi đầu cho đến lúc kết thúc. Tại mỗi giai đoạn phát triển, các
DNNVV thường thay đổi rất nhiều về quy mô cũng như nguồn lực sử dụng, do đó nhu
cầu về vận dụng kế toán nói chung – bao gồm cả kế toán tài chính và kế toán chi phí,
cũng như mức độ chi tiết, sẽ bị tác động bởi sự phức tạp ngẫu nhiên trong mỗi giai
đoạn phát triển của DN. Tuy nhiên có rất nhiều nhà quản trị lại thiếu năng lực về
KTQT, nên để đáp ứng nhu cầu về vận dụng KTQT, các chủ DN thường phải tìm


15

kiếm các lời tư vấn từ các tổ chức hoặc hiệp hội kế toán chuyên nghiệp bên ngoài
(Mitchell and Reid, 2000).
Tại một nghiên cứu được tiến hành ở miền Bắc Thái Lan về mối quan hệ giữa nhận
thức (am hiểu) về KTQT và nhu cầu về KTQT của người chủ/người quản lý trong các
DNNVV, sự khác nhau về nhận thức (am hiểu) về KTQT và nhu cầu về KTQT của
người chủ/người quản lý trong các DN nhỏ và DN vừa, Kosaiyakanont (2011) đã chỉ
ra một số kết quả sau:
- Đối với các DNNVV thì người chủ/người quản lý DN nếu nhận thức (am hiểu) về
tầm quan trọng và hữu ích của KTQT càng cao thì nhu cầu về vận dụng KTQT càng

cao (sự nhận thức/am hiểu của người chủ/người quản lý DN về KTQT dựa trên các
nền tảng về kỹ năng, kiến thức và giáo dục của họ);
- Có sự khác biệt về nhận thức (am hiểu) về tầm quan trọng và hữu ích của KTQT và
nhu cầu về vận dụng KTQT giữa DN nhỏ và DN vừa; theo đó các DN có quy mô
vừa thì nhận thức (am hiểu) về tầm quan trọng và hữu ích của KTQT cũng như nhu
cầu về vận dụng KTQT cao hơn các DN có quy mô nhỏ.
Sau đó vào năm 2012, khi Ahmad tiến hành khảo sát thực trạng vận dụng KTQT tại
các DNNVV tại Malaysia đã chỉ ra rằng các công cụ kỹ thuật truyền thống được sử
dụng phổ biến hơn các công cụ kỹ thuật hiện đại (kỹ thuật hỗ trợ ra quyết định, KTQT
chiến lược …) và việc vận dụng KTQT được đánh giá cao trong vai trò quản trị DN.
Ngoài ra nghiên cứu này cũng chỉ ra việc vận dụng KTQT đóng vai trò hỗ trợ làm
tăng hiệu quả và hiệu suất quản trị của DN.
Gần đây khi Armitage và Webb (2013) tiến hành nghiên cứu về việc vận dụng các
công cụ KTQT tại các DNNVV ở Canada đã cho thấy kết quả thu được với một số
điểm “đáng ngạc nhiên” như sau:
+ Có sự thiết lập và sử dụng hệ thống kế toán chi phí và giá thành cơ bản trong các
DNNVV. Ngoài ra DNNVV cũng thực hiện các công cụ kỹ thuật KTQT khác như
việc phân tích BCTC (bao gồm việc phân tích vốn lưu động), lập dự toán và phân tích
sai lệnh. Tuy nhiên DNNVV không sử dụng dự toán động cho phân tích sai lệch, và
việc phân tích cũng không toàn diện mà chỉ tập trung vào một số chỉ tiêu. Như vậy
DNNVV sử dụng các dự toán và phân tích sai lệch chủ yếu cho mục đich lập kế
hoạch, chưa chú trọng chức năng vai trò như một công cụ kiểm soát.


16

+ Các công cụ KTQT chiến lược như chi phí chất lượng, chi phí mục tiêu, chi phí dựa
trên hoạt động hoăc thẻ điểm cân bằng… rất hiếm hoặc không được sử dụng.
+ Việc phân tích chiết khấu luồng tiền, phân tích CVP và một số công cụ phân tích
phục vụ cho việc ra quyết định hầu như không được sử dụng.

Cũng trong năm 2013, nhóm tác giả Michael Lucas, Malcolm Prowle và Glynn Lowth
tiến hành khảo sát thực trạng vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Anh. Nghiên cứu
chỉ ra rằng trong các DNNVV việc vận dụng KTQT chú trọng vào kiểm soát thông tin
hơn là hỗ trợ ra quyết định, và DNNVV có quy mô càng nhỏ thì người chủ (người
điều hành) DN thường đảm trách luôn công tác KTQT.
Thứ ba, nghiên cứu về các nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT trong các
DN nói chung và DNNVV nói riêng.
Cùng với sự thay đổi và phát triển của nền kinh tế, KTQT cũng đã có rất nhiều sự thay
đổi, tuy nhiên sự thay đổi của KTQT không phải là hiện tượng đồng nhất. Các nghiên
cứu chỉ ra rằng các sự thay đổi trong hệ thống KTQT mới hay các công cụ kỹ thuật
mới bị ảnh hưởng bởi cả nhân tố bên ngoài (môi trường) cũng như các nhân tố nội tại
(liên quan đến DN). Theo như Shields (1997) thì các nhân tố tiềm năng dẫn dắt sự
thay đổi bao gồm yếu tố cạnh tranh, các công nghệ, cấu trúc doanh nghiệp và các
chiến lược. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự thay đổi này cũng chỉ ra các vai trò khác
nhau khi tác động đến quá trình thay đổi của KTQT.
Abdel-Kader và Luther, R.(2008) trong một nghiên cứu về việc vận dụng KTQT trong
658 doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp thực phẩm, nước giải khát tại
Anh Quốc đã khảo sát sự tác động đến mức độ phức tạp của việc vận dụng KTQT tại
các DN với mười nhân tố tác động khác nhau bao gồm: nhận thức của DN về sự bất
ổn của môi trường, thiết kế tổ chức của DN, quy mô của DN, mức độ phức tạp của hệ
thống xử lý, kỹ thuật sản xuất tiên tiến (AMT), quản trị chất lượng toàn diện (TQM),
quản trị Just in Time (JIT), chiến lược của DN, sức mạnh về nguồn lực khách hàng,
mức độ dễ hư hỏng của hàng hóa. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu sau khảo sát chỉ ra
chỉ có các nhân tố nhận thức của DN về sự bất ổn của môi trường, thiết kế tổ chức
phân quyền của DN, quy mô của DN, kỹ thuật sản xuất tiên tiến (ATM), quản trị chất
lượng toàn diện (TQM), quản trị Just in Time (JIT), sức mạnh về nguồn lực khách
hàng là có tác động đến việc vận dụng KTQT với chi tiết như sau:


17


 DN nếu nhận thức về sự bất ổn cao của môi trường sẽ lựa chọn vận dụng
KTQT ở mức độ phức tạp hơn so với DN nhận thức về sự bất ổn thấp;
 DN nếu phải đối mặt với nguồn lực khách hàng mạnh hơn sẽ lựa chọn vận
dụng KTQT ở mức độ phức tạp hơn so nhằm cải thiện quy trình ra quyết định
và kiểm soát để thỏa mãn nhu cầu của khách hàng tốt hơn;
 DN nếu áp dụng thiết kế tổ chức phân quyền sẽ lựa chọn vận dụng KTQT ở
mức độ phức tạp hơn so với DN áp dụng thiết kế tổ chức tập quyền;
 DN có quy mô lớn sẽ lựa chọn vận dụng KTQT ở mức độ phức tạp hơn so với
DN có quy mô nhỏ;
 DN nếu có áp dụng các kỹ thuật sản xuất tiên tiến (ATM), quản trị chất lượng
toàn diện (TQM), quản trị Just in Time (JIT) sẽ lựa chọn vận dụng KTQT ở
mức độ phức tạp hơn so với DN không áp dụng.
Tuan Mat (2010) khi tiến hành khảo sát tại các DNSX tại Malaysia đã chỉ ra rằng sự
thay đổi về mặt cấu trúc DN cũng như chiến lược DN có tác động đến việc vận dụng
KTQT trong DN. Và tiếp tục phát triển nghiên cứu của Abdel-Kader và Luther
(2008), vào năm 2012 Erserim tiến hành nghiên cứu ở các DNSX tại Thổ Nhĩ Kỳ về
tác động của các nhân tố bao gồm VHDN, đặc điểm của DN và các nhân tố môi
trường bên ngoài đến việc vận dụng KTQT. Mô hình nghiên cứu và các biến như sau:
Các nhân tố DN:
VHDN
Thiết kế tổ chức tập
quyền
Thiết kế tổ chức chính
thức hóa

Các nhân tố môi
trường:
Nhận thức về sự bất ổn
của môi trường

Nhận thức về mức độ
cạnh tranh

Vận dụng KTQT:
+ Xác định chi phí và kiểm soát tài chính
+ Thông tin cho việc quản trị hoạch định và
kiểm soát
+ Giảm sự lãng phí nguồn lực kinh doanh
+ Tạo ra giá trị bằng cách sử dụng nguồn
lực hiệu quả

Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng chỉ có sự tác động đến việc vận dụng KTQT từ các


18

nhân tố như sau: VHDN hỗ trợ (supportive organizational culture), VHDN dựa trên
luật lệ (rule-based organizational culture), VHDN hướng về mục tiêu (goal-oriented
organizational culture), thiết kế tổ chức chính thức hóa (formalization).
Cũng trong năm 2012, Ahmad tiến hành khảo sát tại các DNNVV tại Malaysia với kết
luận rằng việc vận dụng KTQT trong các DN vừa bị ảnh hưởng bởi các nhân tố: quy
mô, mức độ cạnh tranh của thị trường, mức độ tham gia của người chủ DN/quản lý
DN, các kỹ thuật SX tiên tiến. Ngoài ra kết quả nghiên cứu một lần nữa chứng minh
cho việc vận dụng KTQT đóng vai trò hỗ trợ làm tăng hiệu quả và hiệu suất quản trị
của DN.
Sau này nhóm tác giả Lucas, Prowle and Lowth (2013) tiến hành khảo sát thực trạng
vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Anh đã công bố kết quả nghiên cứu trong đó
chỉ ra rằng việc vận dụng KTQT trong DNNVV chịu sự tác động của các nhân tố như:
quy mô, giới hạn tài chính, yêu cầu từ các bên liên quan bên ngoài DN, nền tảng kiến
thức và kinh nghiệm của đội ngũ quản lý và cuối cùng là môi trường kinh doanh và

ngành nghề DN đó kinh doanh.
Ngoài ra trên thế giới còn có rất nhiều các nghiên cứu chuyên sâu về KTQT và việc
vận dụng KTQT trong các DN nói chung và DNNVV nói riêng, tác giả tóm lược một
số nghiên cứu nổi bật bao gồm các luận án tiến sỹ, công trình, bài báo nghiên cứu
khoa học như sau:
Phụ lục 1.1: Bảng tóm tắt một số công bố nước ngoài tiêu biểu nghiên cứu về
vận dụng KTQT trong DN nói chung và DNNVV nói riêng
1.1.2. Nhận xét
Qua việc nghiên cứu các công trình nghiên cứu trên thế giới, tác giả nhận thấy các
nghiên cứu trước đã chỉ ra được được tiến trình và xu hướng phát triển của KTQT từ
việc vận dụng vào DN những công cụ kỹ thuật quản trị sơ lược ban đầu cho đến
những hệ thống hoạch định phát triển phức tạp ngày nay, những thay đổi của KTQT
để có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của DN và các nguyên nhân dẫn đến
những sự thay đổi trong việc vận dụng KTQT vào DN nói trên. Ngoài ra, mặc dù
trước đây chưa nhiều các nhà nghiên cứu quan tâm đến thực trạng vận dụng KTQT
trong các DNNVV, tuy nhiên với sự gia tăng cạnh tranh do quá trình phẳng hóa thế
giới mang lại, ngày càng có nhiều các nghiên cứu thực trạng vận dụng KTQT trong


19

các DNNVV ở cả các nước đã và đang phát triển. Các khảo sát nghiên cứu không
những đã chỉ ra mức độ vận dụng cũng như các công cụ kỹ thuật được sử dụng trong
các DNNVV mà bên cạnh đó, bằng các phương pháp định tính và định lượng, cũng đã
chỉ ra một số các nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT vào DN nói chung và các
DNNVV nói riêng.
1.2. CÁC NGHIÊN CỨU CÔNG BỐ Ở TRONG NƯỚC
1.2.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
Để tồn tại được trong một môi trường kinh doanh biến động và cạnh tranh hết sức gay
gắt, các DN Việt Nam ngày càng nhận thức rõ tầm quan trọng trong mối quan hệ giữa

việc xây dựng chiến lược và điều hành DN. Trong thực tế, xây dựng thành công được
một chiến lược có khoảng cách rất xa với việc điều hành thành công DN, vì việc xây
dựng thành công chiến lược không có nghĩa là đảm bảo vận dụng thành công chiến
lược. Một tín hiệu đáng mừng là đối với các DN lớn tại Việt Nam, cụ thể là theo khảo
sát trong Top 500 DN lớn nhất Việt Nam, đã có đến 68% các DN đã và đang triển
khai áp dụng các công cụ kỹ thuật đánh giá, đo lường chiến lược cho DN. Và cũng
theo khảo sát của Diễn đàn VNR500 thì có đến 7% DN được khảo sát đã và đang áp
dụng thẻ Bảng điểm cân bằng cũng như 36% DN đang có kế hoạch áp dụng trong quá
trình xây dựng chiến lược của mình (VNR500, Số 3, 2009).
Tuy nhiên, theo các khảo sát, nghiên cứu về việc áp dụng KTQT vào DN Việt Nam
nói chung và DNNVV nói riêng trong một giai đoạn dài từ 1997 cho đến 2010 (Phạm
Văn Dược, 1997; Trần Anh Hoa, 2003; Phạm Ngọc Toàn, 2010) thì các DN chưa chú
trọng đến việc vận dụng các công cụ kỹ thuật của KTQT vào hoạt động quản lý DN,
thậm chí ở một số các DNNVV còn chưa có khái niệm về vận dụng KTQT hoặc chưa
có bộ máy KTQT riêng biệt để phục vụ cho nhu cầu quản trị của DN. Sau đó vào năm
2012, Đoàn Ngọc Phi Anh khi tiến hành khảo sát trên 220 các DN Việt Nam với quy
mô vừa và lớn đã chỉ ra một số nhân tố như yếu tố cạnh tranh càng cao, phân cấp quản
lý càng lớn thì càng khiến cho các DN có xu hướng sử dụng càng nhiều các công cụ
của SMA; và khi DN sử dụng càng nhiều công cụ của SMA thì thành quả về cả hai
mặt tài chính – phi tài chính đạt được càng cao (Đoàn Ngọc Phi Anh, 2012).
Khi tìm hiểu về các nghiên cứu trong nước có đề cập đến KTQT trong DNNVV thì
tác giả nghiên cứu, tập hợp, phân tích và tổng hợp được một số luận văn thạc sĩ, luận


20

án tiến sĩ, công trình nghiên cứu và bài báo tiêu biểu có tính chất, nội dung về cơ bản
có liên quan đến luận án như sau:
(i) Phạm Văn Dược (1997), ‘Phương hướng xây dựng nội dung và tổ chức vận dụng
KTQT vào các doanh nghiệp Việt Nam’, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Kinh Tế

TPHCM, 159 trang.
Luận án của tác giả đã góp phần tổng hợp các quan điểm về KTQT, phương hướng
xây dựng nội dung KTQT cũng như phương hướng tổ chức vận dụng KTQTDN. Từ
đó tác giả đề xuất các giải pháp cần có để tổ chức vận dụng KTQT trong các DN Việt
Nam.
(ii) Phạm Châu Thành (2001), ‘Vận dụng KTQT vào các DN thương mại Việt Nam’,
Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Kinh Tế TPHCM, 161 trang.
Luận án của tác giả đã tổng hợp các lý luận về KTQTcũng như thực trạng công tác
KTQT trong các DN thương mại Việt Nam. Từ đó tác giả đề xuất các quan điểm cùng
những nội dung chủ yếu vận dụng KTQT vào các DN thương mại Việt Nam với các
mô hình cụ thể nhằm tạo ra khả năng vận dụng KTQT vào các DN thương mại Việt
Nam một cách có hiệu quả.
(iii) Trần Anh Hoa (2003), ‘Xác lập nội dung và vận dụng KTQT vào các DN Việt
Nam’, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Kinh Tế TPHCM, 180 trang.
Luận án của tác giả đã phân tích thực trạng của hệ thống kế toán Việt Nam nhằm chỉ
ra những mặt hạn chế về cơ cấu tổ chức hệ thống. Bên cạnh đó tác giả đã hệ thống hóa
một số nội dung cơ bản của KTQT phù hợp với yêu cầu và đặc điểm quản lý của DN
Việt Nam. Từ đó tác giả đưa ra các giải pháp khả thi nhằm vận dụng một cách nhanh
chóng và có hiệu quả KTQT vào quản lý các DN Việt Nam.
(iv) Nguyễn Thị Huyền Trâm (2007), ‘Tổ chức công tác kế toán trong các doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam’, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh Tế
TPHCM, 86 trang.
Luận văn của tác giả đã hệ thống hóa một số vấn đề lý luận chung về công tác tổ chức
kế toán, tiến hành khảo sát và đánh giá những ưu, nhược điểm của hệ thống kế toán ở
các DNNVV. Dựa vào kết quả khảo sát, tác giả cũng đã đề xuất những giải pháp để để
hệ thống ngày càng hoàn thiện và góp phần phục vụ tốt hơn cho công tác kế toán.


21


(v) Phạm Ngọc Toàn (2010), ‘Xây dựng nội dung và tổ chức KTQT cho các DNNVV ở
Việt Nam’, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Kinh Tế TPHCM, 131 trang.
Luận án của tác giả đã tổng hợp, phân tích, trình bày các nội dung và tổ chức KTQT
trong DN, cũng như đã tổng hợp kinh nghiệm nội dung tổ chức KTQT của một số
quốc gia ở Châu Á và các nước phát triển khác. Đối với trong nước, tác giả cũng đã
khảo sát hiện trạng tình hình tổ chức cũng như nội dung KTQT đang áp dụng trong
các DNNVV, từ đó tác giả đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm hỗ trợ cho các
DNNVV tổ chức tốt KTQT, tăng cường cung cấp thông tin phục vụ cho các quyết
định quản lý.
(vi) Đoàn Ngọc Quế và Trịnh Hiệp Thiện (2014), SMA trong môi trường kinh doanh
hiện đại, KTQT trong môi trường kinh doanh hiện đại, Kỷ yếu hội thảo khoa học,
Trường Đại học Kinh Tế TPHCM.
Bài báo của các tác giả đã tổng hợp lịch sử quá trình phát triển của SMA, khái quát
các kỹ thuật của SMA cũng như sự tác động của việcmôi trường kinh doanh thay đổi
(quá trình toàn cầu hóa, tính linh hoạt của môi trường kinh doanh) tác động đến hệ
thống KTQT. Đối với trong nước, các tác giả cũng đã bước đầu thống kê hiện trạng
tình hình chương trình đào tạo về SMA cũng như đưa ra các kiến nghị, định hướng về
đào tạo cũng như vận dụng triển khai SMA vào các DN tại Việt Nam.
Phụ lục 1.2: Bảng tóm tắt một số công bố trong nước tiêu biểu nghiên cứu về
vận dụng KTQT trong DN nói chung và DNNVV nói riêng
1.2.2. Nhận xét
Tại Việt Nam, qua một quá trình nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển KTQT
tại Việt Nam, các tác giả đã đề xuất các phương hướng về vận dụng và xây dựng
KTQT tại các DN Việt Nam. Việc phân tích chi tiết và đưa ra các mô hình KTQT cho
mỗi loại hình DN khác nhau về ngành nghề (sản xuất, thương mại), về quy mô
(DNNVV, DN lớn) … đã giúp cho việc vận dụng KTQT vào các DN có được hướng
đi rõ ràng hơn.
Tuy nhiên cho đến nay tại Việt Nam vẫn còn thiếu các khảo sát chỉ ra các nhân tố tác
động đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam theo phương pháp
định tính và định lượng, để từ đó có thể đưa ra các giải pháp nhằm gia tăng mức độ

khả thi của việc vận dụng KTQT trong các DNNVV.


22

1.3. KHE HỔNG NGHIÊN CỨU VÀ ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU CỦA TÁC
GIẢ
1.3.1. Xác định khe hổng nghiên cứu
Từ việc xem xét, đánh giá các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan
đến đề tài mà tác giả đang nghiên cứu, kết hợp với xu hướng các DN Việt Nam đang
ngày càng quan tâm nhiều đến việc vận dụng KTQT nhằm có được những công cụ kỹ
thuật quản trị tốt hơn để đối phó với sự cạnh tranh trong xu hướng hội nhập toàn cầu,
gia tăng lợi thế cạnh tranh cho DN, tác giả nhận thấy việc vận dụng KTQT cho các
DNNVV tại Việt Nam có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần tạo nên sự thành công
cho DNNVV tại Việt Nam trong kinh doanh. Tuy nhiên vấn đề vướng mắc còn lại ở
đây là mặc dù tính cấp thiết cao nhưng hiện nay qua các cuộc khảo sát từ trước đến
nay tỷ lệ vận dụng KTQT trong DNNVV lại rất thấp, đặc biệt là đối với DN nhỏ và
siêu nhỏ.
Hiện nay tại Việt Nam mặc dù đã có những nghiên cứu về việc vận dụng KTQT vào
các DNNVV, tuy nhiên chưa có những nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu
định tính và định lượng với độ tin cậy cao, có tính khách quan về các nhân tố tác
động đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam. Thay vào đó, các
công trình chỉ mới tập trung vào việc xây dựng định hướng, xây dựng các mô hình
vận dụng KTQT cho các loại hình DN khác nhau … trên quan điểm và kinh nghiệm
của các tác giả.
1.3.2. Định hướng nghiên cứu của tác giả
Từ việc xác định khe hổng nghiên cứu nói trên, trên quan điểm kế thừa và tiếp tục
nghiên cứu về việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam, luận án sẽ tiếp
tục nghiên cứu một cách trực tiếp và có hệ thống, đầy đủ về các nhân tố tác động đến
việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam. Bên cạnh đó, tác giả cũng sẽ

tiến hành đo lường mức độ tác động của các nhân tố đến việc vận dụng KTQT vào các
DNNVV tại Việt Nam. Tác giả lần lượt thực hiện các bước nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, khảo sát về thực trạng vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam
hiện nay.
Thứ hai, khảo sát và tổng hợp các nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT trong
các DNNVV tại Việt Nam.


23

Thứ ba, đo lường độ tin cậy và mức độ tác động của các nhân tố tác động đến việc vận
dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam.
Thứ tư, đưa ra định hướng và giải pháp, kiến nghị nhằm gia tăng tính khả thi của việc
vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam.


24

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Trong chương này tác giả đã trình bày việc tìm hiểu của mình về những nghiên cứu
trước đây đã được các nhà khoa học trong và ngoài nước thực hiện. Từ những nghiên
cứu đó, tác giả đã xác định khe hổng nghiên cứu để làm cơ sở chứng minh tính cấp
thiết khi lựa chọn đề tài để tiến hành nghiên cứu trong luận án tiến sĩ. Hai nhóm nội
dung cơ bản được đề cập trong chương này là: nêu bật lên những công trình tiêu biểu
trước đây đã thực hiện trong và ngoài nước có liên quan đến luận án và, nêu ra những
hạn chế trong các nghiên cứu đó cũng như sự cấp thiết đối với việc tiến hành tiếp tục
nghiên cứu các nhân tố tác động việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt
Nam.



25

CHƯƠNG 2 - CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ VÀ CÁC NHÂN
TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC VẬN DỤNG KẾ TOÁN QUẢN TRỊ VÀO DNNVV
2.1. TỔNG QUAN VỀ KTQT
2.1.1. Các khái niệm về KTQT
Trong nghiên cứu của mình vào năm 1991, Scapens nhấn mạnh rằng cho đến nay,
không có một khái niệm nào về KTQT được toàn bộ các trường phái chấp nhận rộng
rãi, xuất phát từ lý do là một số các khái niệm thì quá chung chung không phù hợp với
một cấu trúc cụ thể nào, số còn lại thì lại quá hẹp chỉ chuyên về một vài mảng hoạt
động, một vài khía cạnh của KTQT (Scapens, 1991). Tuy nhiên hầu hết các cuộc cách
mạng về sự thay đổi khái niệm KTQT có thể phát triển dựa trên ba trường phái chính;
đó là việc phát triển từ các khái niệm của Viện KTQT Hoa Kỳ (IMA), Viện điều lệ
KTQT (CIMA) và Hiệp hội kế toán quốc tế (IFAC).
Vào năm 1981, IMA đưa ra khái niệm đầu tiên của mình về KTQT dựa trên sự phản
ánh về nhu cầu thay đổi của DN đối với thông tin kế toán; theo đó “…. KTQT là một
quá trình xác định, đo lường, tổng hợp, phân tích, chuẩn bị, diễn giải và truyền đạt
các thông tin tài chính bởi các nhà quản lý nhằm mục đích hoạch định, đo lường và
kiểm soát một tổ chức, và để đảm bảo rằng nguồn lực của tổ chức đó được sử dụng
một cách phù hợp và có trách nhiệm. KTQT cũng bao gồm việc chuẩn bị các báo cáo
tài chính cho các nhóm đối tượng không thuộc nhà quản lý như cổ đông, chủ nợ, các
cơ quan thuế …” (IMA, 1981, 1). Tuy nhiên gần đây nhất vào 2008, IMA đưa ra khái
niệm về công việc của KTQT là: “… một công việc chuyên nghiệp có liên quan đến
việc tham gia vào quá trình ra quyết định, đề ra kế hoạch và hệ thống thực hiện, đồng
thời cung cấp những báo cáo tài chính chuyên nghiệp, giúp các nhà quản trị kiểm soát
trong việc tạo lập và thực hiện chiến lược của tổ chức” (Atkinson et al, 2012, 4). Sự
thay đổi về mặt khái niệm KTQT của IMA phản ánh xu hướng thay đổi vai trò của
KTQT ngày càng thể hiện vai trò là một nhân tố của chiến lược kinh doanh nhằm giúp
DN quản trị hiệu suất DN, lập kế hoạch và dự toán, quản trị rủi ro, kiểm soát nội bộ,

lập báo cáo tài chính ở những thời điểm có sự thay đổi lớn, và thể hiện vai trò chuyên
gia trong các phương pháp quản trị chi phí (IMA, 2008).


×