TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ
KHOA NÔNG HỌC
KHÓA LUẬN
TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI:
Điều tra thành phần mọt hại nguyên liệu thức ăn chăn nuôi
nhập khẩu qua cảng Quy Nhơn và nghiên cứu một số đặc điểm
sinh học của loài mọt thuốc lá Lasioderma serricorme Fabricius
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Tiến Hoàng
Lớp: Bảo vệ thực vật K46
Giáo viên hướng dẫn: Trần Đăng Hòa
Bộ môn: Bảo vệ thực vật
NĂM 2016
LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này ngoài sự cố
gắng và nổ lực của bản thân, tôi còn nhận được nhiều sự quan tâm và
giúp đỡ của các cá nhân và tập thể. Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn
sâu sắc đến:
Quý thầy cô giáo khoa Nông học, trường đại học Nông Lâm Huế
đã giảng dạy truyền đạt những kiến thức cơ bản về lý luận và thực tiễn
cho tôi trong suốt thời gian qua.
Thầy giáo PGS.TS Trần Đăng Hòa – người đã trực tiếp hướng
dẫn tận tình và giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt thời gian thực tập và
hoàn thành khoá luận này, người đã giảng dạy cho tôi rất nhiều kiến
thức không chỉ những kiến thức chuyên ngành mà còn có cả những
kiến thức về kỹ năng sống và kỹ năng làm việc.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng do bước đầu làm quen với
nghiên cứu khoa học, trình độ chuyên môn và điều kiện thực tập còn
hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự góp
ý của giáo viên hướng dẫn, các thầy cô giáo trong Khoa Nông học và
nhà trường để tôi hoàn thiện bản thân mình hơn nữa.
Huế, ngày 20 tháng 05 năm 2016
Sinh viên
HOÀNG
NGUYỄN TIẾN
MỤC LỤC
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
1.2. Mục đích của đề tài
1.3.Yêu cầu của đề tài
1.4.Ý nghĩa của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa khoa học
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn
PHẦN 2. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Tình hình nhập khẩu thức ăn chăn nuôi & nguyên liệu trong nước
tháng
11/2015 và 11 tháng đầu năm 2015
2.2.Tình hình nhập khẩu nguyên liệu thức ăn chăn nuôi qua cảng Quy
Nhơn
2.3. Những nghiên cứu về mọt hại kho nước ngoài
2.3.1. Những nghiên cứu trong công tác kiểm dịch thực vật
2.3.2. Nghiên cứu về côn trùng gây hại nông sản lưu trữ trên thế giới
2.3.3. Một số nghiên cứu về loài Lasioderma serricorne (F.)
2.4. Một số nghiên cứu trong nước
2.4.1. Một số nghiên cứu trong công tác kiểm dịch thực vật
2.4.2 . Một số nghiên cứu về mọt thuốc lá L
asioderma serricorne (F.)
2.5. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
2.5.1. Cơ sở lý luận
2.5.2. Cơ sở thực tiễn
PHẦN 3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng vàvật liệu nghiên cứu
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu
3.1.2. Vật liệu nghiên cứu
3.2. Dụng cụ thí nghiệm
3.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
3.3.1. Thời gian
3.3.2. Địa điểm nghiên cứu
3.4. Nội dung nghiên cứu
3.5. Phương pháp nghiên cứu
3.5.1. Phương pháp điều tra mọt hại trên nguyên liệu thức ăn chăn
nuôi nhập
khẩu qua cảng Quy Nhơn và bảo quản sau nhập khẩu
3.5.2. Phương pháp nghiên cứu đặc điểm sinh học của mọt thuốc lá
3.6. Phương pháp xử lý số liệu
PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Thành phần và mức độ phổ biến của mọt gây hại trên nguyên liệu
thức ăn chăn nuôi nhập khẩu
4.1.1. Thành phần và mức độ phổ biến của mọt gây hại trên nguyên
liệu thức ăn chăn nuôi nhập khẩu qua cảng Quy Nhơn
4.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến một số đặc điểm sinh học của mọt
thuốc lá L.serricorne
4.2.1. Thời gian phát dục của mọt thuốc lá L.serricorne ở các điều kiện
nhiệt độ khác nhau
4.2.2. Tỷ lệ sống của mọt thuốc lá L.serricorne qua các tuổi ở các điều
kiện nhiệt độ khác nhau.
4.2.3. Kích thước qua các pha phát dục của mọt thuốc lá L.serricorne ở
các điều kiện nhiệt độ khác nhau
PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. Kết Luận
5.2. Kiến nghị
PHẦN 6. TÀI LIỆU THAM KHẢO
6.1. Tài liệu tiếng việt
6.2. Tài liệu tiếng anh
DANH MỤC VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Chú giải
KDTV
Kiểm dịch thực vật
KNNK
Kim ngạch nhập khẩu
SVGH
Sinh vật gây hại
BVTV
Bảo vệ thực vật
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Nước ta có điều kiện khí hậu, đất đai thuận lợi cho sản xuất nông
nghiệp. Trong những năm qua, sản phẩm nông nghiệp không những đáp
ứng nhu cầu trong nước mà còn được xuất khẩu. Nhiều mặt hàng xuất khẩu
như gạo, cà phê, tiêu, điều đã đưa nước ta vào các nước xuất khẩu trên thế
giới.
Việt Nam là một nước đang phát triển, kinh tế chủ yếu dựa vào sản
xuất nông nghiệp, tuy là nước đứng thứ 2 về xuất khẩu gạo với lượng gạo
xuất khẩu đạt xấp xỉ 4 triệu tấn nhưng hằng năm phải tốn trên 4 tỷ USD để
nhập các loại nguyên liệu cho ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi. Số tiền để
mua nguyên liệu nhập khẩu này cao hơn nhiều lần so với số tiền thu về từ
xuất khẩu gạo. Theo Hiệp hội thức ăn chăn nuôi Việt Nam, năm 2013, cả
nước phải chi khoảng 4,5 tỷ USD để nhập 9,2 triệu tấn nguyên liệu thức ăn
chăn nuôi.
Cảng Quy Nhơn là một cảng lớn của khu vực miền Trung Tây
Nguyên. Theo số liệu thống kê của Chi cục KDTV Vùng IV (Cục Bảo vệ
thực vật) thì lượng nguyên liệu thức ăn chăn nuôi nhập qua cửa khẩu Quy
nhơn được kiểm tra, kiểm dịch ngày càng gia tăng lần lượt là 4320,471 tấn
(năm 2012), 7627,953 tấn (năm 2013), sáu tháng đầu năm 2014 đã kiểm
dịch đến 28026,374 tấn. Dự kiến đến cuối năm 2014 hàng loạt nhà máy chế
biến thức ăn chăn nuôi mới được xây dựng trên địa bàn tỉnh Bình Định sẽ
lắp ráp xong dây chuyền công nghệ và đi vào hoạt động. Hiện nay cảng
thường nhập khẩu các mặt hàng nguyên liệu thức ăn chăn nuôi như: Bã ngô
từ Mỹ, khô đậu nành từ Trung Quốc, cám gạo, ngô hạt, khô hạt cải từ Ấn
Độ, lúa mì từ Uruguay và Úc, bột đậu nành lên men, bột ngô lên men từ
Đài Loan…
Chính việc nhập khẩu các loại thức ăn chăn nuôi từ nhiều nước như
vậy đã tạo điều kiện cho các đối tượng sinh vật gây hại trên sản phẩm thực
vật xâm nhập vào nước ta. Một trong những nhóm sinh vật gây hại ảnh
hưởng rõ rệt nhất đến chất lượng sản phẩm là do sâu mọt gây ra. Sâu mọt
gây hại mang tính tiềm ẩn, chúng xuất hiện, phát triển và gây hại trong quá
trình bảo quản, vận chuyển và trong thương mại quốc tế.
Trong nhóm sâu mọt gây hại hiện nay, loài mọt thuốc lá Lasioderma
serricorne Fabricius (Coleoptera: Anobiidae) là loài xuất hiện thường
xuyên trong quá trình kiểm tra kiểm dịch, đây là một đối tượng nằm trong
danh sách kiểm dịch của nước ta, mức độ tổn thất của chúng cũng khá lớn.
Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về đối tượng này nhưng ở
Việt Nam còn rất hạn chế, nhất là trên các loại thức ăn chăn nuôi khác
nhau. Do đó việc nghiên cứu ảnh hưởng của các loại thức ăn khác nhau đến
đặc điểm sinh học của loài mọt thuốc lá là rất cần thiết. Đây sẽ là cơ sở
khoa học quan trọng để đưa ra các biện pháp phòng trừ mọt có hiệu quả,
hạn chế thấp nhất những tổn thất do mọt hại gây ra.Xuất phát từ những vấn
đề cấp thiết đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thành phần mọt hại
nguyên liệu thức ăn chăn nuôi nhập khẩu qua cảng Quy Nhơn và ảnh
hưởng của các loại thức ăn đến một số đặc điểm sinh học của loài mọt
thuốc lá Lasioderma serricorne Fabricius”.
1.2. Mục đích của đề tài
Xác định được thành phần sâu mọt hại nguyên liệu làm thức ăn chăn
nuôi nhập khẩu qua cảng quy nhơn.
Nắm được một số đặc điểm sinh học, sinh thái học của loài mọt
thuốc lá Lasioderma serricorne Fabricius.
Xác định được ảnh hưởng của các nhiệt độ khác nhau đến đặc điểm
sinh học của chúng.
1.3.Yêu cầu của đề tài
Nắm rõ phương pháp điều tra thành phần loài.
Bố trí thí nghiệm hợp lý.
Theo dõi thí nghiệm hàng ngày.
Sử dụng công cụ thống kê hợp lý để xử lý số liệu.
1.4.Ý nghĩa của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa khoa học
Bổ sung danh mục thành phần sâu mọt hại trên nguyên liệu thức ăn
chăn nuôi trong kho bảo quản sau khi nhập khẩu tại cảng Quy Nhơn.
Bổ sung thêm những dẫn liệu khoa học về đặc điểm sinh học và hình
thái học của loài mọt Lasioderma serricorne Fabricius.
Phát hiện kịp thời loài sâu mọt thuộc danh mục dịch hại kiểm dịch thực
vật (KDTV) của Việt Nam làm cơ sở dữ liệu của ngành KDTV.
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn
Cung cấp các dẫn liệu để đề ra biện pháp phòng trừ thích hợp đế
quản lý dịch hại kiểm dịch thực vật của Việt Nam nói chung, sâu mọt hại
nguyên liệu thức ăn chăn nuôi nói riêng một cách khoa học, góp phần phục
vụ công tác xuất nhập khẩu.
Xác định ảnh hưởng của các loại thức ăn khác nhau đến một số đặc
điểm sinh học của mọt thuốc lá L. serricorne làm cơ sở cho công tác dự
tính dự báo.
Làm cơ sở để đưa ra biện pháp quản lý giúp tăng hiệu quả bảo quản, đảm
bảo chất lượng nông sản phẩm trong kho.
PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Tình hình nhập khẩu thức ăn chăn nuôi & nguyên liệu trong nước
tháng 11/2015 và 11 tháng đầu năm 2015
Theo số liệu thống kê từ TCHQ Việt Nam, nhập khẩu TĂCN và
nguyên liệu trong tháng 11/2015 đạt 233 triệu USD, giảm 12,72% so với
tháng trước đó và giảm 4,25% so với cùng tháng năm ngoái. Tính chung,
11 tháng đầu năm 2015, Việt Nam đã chi hơn 3 tỉ USD nhập khẩu TĂCN
và nguyên liệu, tăng 2,43% so với cùng kỳ năm trước.
Trong 11 tháng đầu năm 2015, nhập khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên
liệu của Việt Nam từ một số thị trường có kim ngạch tăng trưởng mạnh, thứ
nhất là Áo với hơn 108 triệu USD, tăng 7.343,03% so với cùng kỳ; đứng
thứ hai là Tây Ban Nha với gần 35 triệu USD, tăng 226,38% so với cùng
kỳ; Hà Lan với hơn 24 triệu USD, tăng 49,6% so với cùng kỳ, sau cùng là
Anh, với hơn 2 triệu USD, tăng 33,83% so với cùng kỳ.
Các thị trường chính cung cấp TĂCN và nguyên liệu cho Việt Nam
trong tháng 11/2015 vẫn là Achentina, Hoa Kỳ, Áo... Trong đó, Achentina
là thị trường chủ yếu Việt Nam nhập khẩu mặt hàng này với 98 triệu USD,
giảm 20,26% so với tháng trước đó và giảm 11,83% so với cùng tháng năm
ngoái, nâng kim ngạch nhập khẩu TĂC N và nguyên liệu từ nước này trong
11 tháng đầu năm 2015 lên gần 1,3 tỉ USD, chiếm 42,5% tổng kim ngạch
nhập khẩu mặt hàng, tăng 8,14% so với cùng kỳ năm trước – đứng đầu về
thị trường cung cấp TĂCN và nguyên liệu cho Việt Nam. Kế đến là thị
trường Hoa Kỳ với kim ngạch nhập khẩu trong tháng 11 đạt gần 30 triệu
USD, tăng 17,27% so với tháng 10/2015 nhưng giảm 29,83% so với cùng
tháng năm ngoái. Tính chung, 11 tháng đầu năm 2015, Việt Nam đã nhập
khẩu TĂCN và nguyên liệu từ thị trường này đạt hơn 400 triệu USD, tăng
6,9% so với cùng kỳ năm trước.
Kim ngạch nhập khẩu TĂCN và nguyên liệu từ Achentina tăng mạnh
trong 11 tháng đầu năm 2015, do nguồn nguyên liệu từ thị trường này dồi
dào – thị trường TĂCN và nguyên liệu tiềm năng của Việt Nam.
Đứng thứ ba về kim ngạch nhập khẩu TĂCN và nguyên liệu trong tháng
11/2015 là Áo với trị giá 19 triệu USD, tăng 9,21% so với tháng trước đó
và tăng 6.003,09% so với cùng tháng năm ngoái, nâng tổng kim ngạch
nhập khẩu 11 tháng đầu năm 2015 lên 108 triệu USD, tăng 7.343,03% so
với cùng kỳ năm trước.
Ngoài ba thị trường kể trên, Việt Nam nhập khẩu TĂCN và nguyên liệu
từ các thị trường khác nữa như: Brazil, Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan và
Indonesia với kim ngạch đạt 256 triệu USD, 168 triệu USD, 101 triệu USD;
98 triệu USD; và 71 triệu USD.
Bảng 2.1. Tình hình nhập khẩu nguyên liệu thức ăn chăn nuôi trong 11
tháng đầu năm 2015.
Nguồn: Tổng cục Hải quan,
2015
Ghi chú : KNNK: Kim ngạch nhập khẩu
TĂCN : Thức ăn chăn nuôi
2.2.Tình hình nhập khẩu nguyên liệu thức ăn chăn nuôi qua cảng Quy
Nhơn
Thực hiện chiến lược phát triển chăn nuôi Việt Nam đến năm 2020 của
Thủ tướng Chính phủ, trong những năm qua ngành chăn nuôi đã phát triển
mạnh theo hướng trang trại, công nghiệp nên thúc đẩy ngành công nghiệp
chế biến thức ăn chăn nuôi (TACN) trên địa bàn tỉnh phát triển nhanh
chóng, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 20062010 đạt 56%/năm và
giai đoạn 20112015 đạt đến 88%/năm. Trong thời gian tới, dự báo ngành
này tiếp tục tăng trưởng nhanh. Qua quá trình hình thành và phát triển, đến
nay trên địa bàn tỉnh hiện có 12 nhà máy chế biến TACN (năm 2010 là 5
nhà máy) với tổng công suất đạt trên 2 triệu tấn/năm (năm 2010 là 245.000
tấn/năm), tổng vốn đầu tư 2.300 tỷ đồng, diện tích xây dựng các nhà máy
khoảng 78 ha đều được đưa vào hoạt động sản xuất, giải quyết việc làm ổn
định cho 1.000 lao động với mức thu nhập bình quân đạt 4,5 triệu
đồng/người/tháng (năm 2010 là 360 lao động với thu nhập 3,5 triệu đồng).
Ngành công nghiệp chế biến TACN tỉnh Bình Định phát triển nhanh do
có nhiều thuận về các điều kiện hạ tầng, phục vụ đầu tư sản xuất, kinh
doanh TACN; đường Quốc lộ 1A đi qua nối với các tỉnh Bắc và Nam của
cả nước, Quốc lộ 19 nối cảng Quy Nhơn với các tỉnh phíabắc Tây nguyên;
cảng Quy Nhơn thuận lợi nhập khẩu nguyên liệu với số lượng lớn và Bình
Định cũng là cửa ngõ đón nguồn nguyên liệu bắp, sắn… với trữ lượng lớn
từ các tỉnh Tây nguyên.
2.3. Những nghiên cứu về mọt hại kho nước ngoài
2.3.1. Những nghiên cứu trong công tác kiểm dịch thực vật
Nhiều quốc gia như : Úc, Newzeland, Mỹ, Nhật... đã có sự quan tâm rất
lớn đến công tác KDTV, nhất là vấn đề về dịch hại ngoại lai. Các quốc gia
này đã thực hiện theo chế độ KDTV toàn bộ, các loài sinh vật còn sống đều
không được nhập vào. Các mặt hàng thực vật khi nhập vào nếu có sinh vật
gây hại (SVGH) đều phải xử lý bằng biện pháp khử trùng xông hơi thuốc
hoá học. Nếu không thực hiện tốt công tác KDTV, khi để lọt sâu hại còn
sống đã tạo nên những dịch hại nguy hiểm cũng như gây thiệt hại đáng kể
cho nền sản xuất nông nghiệp và ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế của các
quốc gia đó.
Đến năm 1996 đã có 123 nước tham gia vào các tổ chức thương mại
thế giới WTO, các thành viên đã ký kết hiệp định về vệ sinh an toàn thực
phẩm và KDTV: Quy định ngăn cấm những loài côn trùng, nấm bệnh, và vi
trùng bị lây nhiễm qua các hàng hoá nông sản xuất nhập khẩu giữa các
nước thành viên.Việc công bố những loài sinh vật thuộc dịch hại KDTV là
một trong những điều cần thiết đối với công tác quản lý xuất nhập khẩu
hàng hoá thuộc diện KDTV, do vậy các nước đã đề ra những quy định riêng
của mình.
Trung Quốc: Đã đưa ra 84 loài sinh vật thuộc diện dịch hại KDTV,
trong đó có 24 loài côn trùng . Liên Bang Nga công bố 75 loài sinh vật
thuộc diện dịch hại KDTV, trong đó có 52 loài côn trùng. Indonexia công
bố: 164 loài sinh vật thuộc diện dịch hại KDTV, trong đó có 52 loài côn
trùng. Ở mỗi quốc gia công tác KDTV còn có nhiệm vụ xác định những
vùng có dịch hại nguy hiểm, từ đó đưa ra những quyết định cụ thể nhằm
ngăn chặn, tránh để lây lan ra những vùng lân cận.
2.3.2. Nghiên cứu về côn trùng gây hại nông sản lưu trữ trên thế giới
Tổng kết sự có mặt và gây hại của côn trùng, tác giả RL. Semple, J.
V. Lozara và Casterman cho rằng trên thế giới có khoảng trên 100 loài côn
trùng liên quan đến các sản phẩm kho. Trong đó bộ cánh cứng chiếm tỷ lệ
60% và bộ cánh vảy chiếm 810%.
Hầu như ở đâu có sự tồn trữ và lưu trữu, ở đó xuất hiện các loài sinh
vật gây hại. Nhiều khi chỉ cần sau vài tuần, sinh vật gây hại đã phát triển
thành quần thể với số lượng lớn và gây ra những “vụ cháy ngầm”, tiêu hủy
một phần hoặc hoàn toàn hàng hóa bảo quản ở trong kho (Bùi Công Hiển,
1995). Sự phá hoại của côn trùng hại kho có thể nói là rất đa dạng và phổ
biến.
Côn trùng vượt qua tất cả các loài dịch hại khác về số lượng cá thể và
số lượng loài, chúng cạnh tranh với con người về nguồn cung cấp lương
thực, lan truyền dịch bệnh cho con người, cho cây trồng và gia súc của họ.
Đặc điểm nổi bật của dịch hại là chúng thích nghi cao với điều kiện cuộc
sống trên trái đất, điều này có nghĩa là chúng có thể tồn tại và hoạt động
trong cả điều kiện khô hạn (Van der Laan, P.A., 1981).
Trên thế giới đã có nhiều những nghiên cứu về côn trùng hại kho,
trước nhất và chiếm đa số là những nghiên cứu về thành phần loài. Có thể
kể đến trước hết là danh mục côn trùng gây hại sản phẩm ngũ cốc và hạt dự
trữ của Cotton (1937); danh mục dịch hại sản phẩm bảo quản của Cotton và
Wilbur (1974); thành phần côn trùng ở Úc của Anonymous (dẫn theo
Snelson J.T., 1987); côn trùng hại hạt và sản phẩm hạt dự trữ của Cotton
R.T. (1963) [21]; thành phần côn trùng trên thóc và gạo dự trữ ở Thái Lan
của Hiroshi Nakakita et al . (1991); thành phần côn trùng gây hại trên thóc
gạo ở Indonesia của Hall P.W. et al. (1961). Bên cạnh đó còn có các công
trình nghiên cứu đã công bố về thành phần loài như: Nghiên cứu về sinh
thái học côn trùng trên hạt đóng bao của Graham (1970), Smith (1963),
Prevett (1964); sinh thái học côn trùng trong các kho ngũ cốc của Richards
và Woodroffe (1968); hoặc dẫn liệu về côn trùng hại kho của nông dân của
Markham (1981) (dẫn theo Bùi Công Hiển, 1995).
Qua thống kê của Matheson, & O.C. (1996) và Vũ Quốc Trung
(1978): Trên thế giới ước có khoảng 1.000.000 loài côn trùng, trong đó có
900.000 loài đã biết tên, chiếm khoảng 78% trong tổng số 1.150.000 loài
động vật đã biết.Bhadriraju và Wilbur (1996), thống kê được số lượng loài
sâu mọt gây hại trong các kho bảo quản và dự trữ trên thế giới gồm 43 loài,
trong đó có 19 loài gây hại chủ yếu và 24 loài gây hại thứ yếu (Snelson,
1987).
Bhadriraju và David (1996) cho rằng: Số lượng côn trùng hại kho
thuộc bộ cánh cứng (Coleoptra) có khoảng 250.000 loài, trong đó có nhiều
loài gây hại quan trọng. Có khoảng 40 họ thuộc bộ cánh cứng có liên quan
tới sản phẩm trong kho . Nghiên cứu thành phần sâu mọt hại gây hại dược
liệu: Grabnervaf Schidt (1992) đã đưa ra nhận xét: Có 14 loài sâu mọt hại
trên sản phẩm dược liệu được bảo quản, trong đó có 9 loài thuộc bộ cánh
cứng và 3 loài thuộc bộ cánh vảy xuất hiện trong kho hàng thuộc tỉnh
Berlin Liên bang Đức. Có 33 loài sâu mọt trên sản phẩm dự trữ của tư
nhân, những loài sâu mọt phổ biến nhất trong kho dự trữ và trong kho hàng
đó là: Họ ngài đêm( Ephestia elutella Hbn) và mọt thuốc bắc( Stegobium
panoceum L.).
Về đặc điểm sinh thái của mọt thuốc lá và mọt thuốc bắc tác giả
Gunasekaran, Baskaran, & Rajendran (2003), cho biết: Mức độ ảnh hưởng
của mọt thuốc bắc Stegobium panoceum, mọt thuốc lá Lasioderma
serricone phụ thuộc vào thành phần và mức độ axits uric có trong cây, hạt
rau Mùi, rễ cây Nghệ. Có hơn 1.000 loài bọ gặm nhấm được mô tả. Phần đa
là mọt đục thân gỗ. Nhưng có hai loài là mọt thực phẩm (mọt thuốc bắc
Stegobium panoceum L.) (được biết tới ở Anh là mọt bánh qui) và mọt
thuốc lá Lasioderma serricone : Chúng tấn công các sản phẩm được bảo
quản.
Sâu mọt hại các sản phẩm được bảo quản gây ra thiệt hại khổng lồ
cho các sản phẩm sau thu hoạch và hạt giống, các sản phẩm đóng gói kể cả
các sản phẩm có nguồn gốc động vật và thực vật [30].
Nhiệt độ, độ ẩm ảnh hưởng trực tiếp tới điều kiện sống của sâu mọt
nói chung trong đó có mọt thuốc bắc và mọt thuốc lá. Nghiên cứu về sự
phụ thuộc các yếu tố môi trường tác giả Cox & Simms (1978): Có 24 loài
côn trùng bao gồm: Ahasverus advena, Cryptolestes frrugineus, Ephestia
elutella , Lasioderma serricorne, Plodia ỉnterpunctella, Ptinus tectus,
Stegobium panoceum... được tìm thấy trên bột đậu nành. Khi độ ẩm đạt
70% và nhiệt độ 25°C hoặc30°C là điều kiện tốt nhất để côn trùng sinh
sống và trưởng thành.
Cũng Theo Cox & Simms (1978): So sánh ở hai mức độ ẩm, ở mức
80% các loài sâu mọt phát triển trên các loại thức ăn, còn ở mức 70% phát
triển ít hơn. Điều này có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của một số loài.
Đánh giá trên số lượng con trưởng thành và các pha. Các loài có thể tấn
công vào bột đậu nành và dược liệu ở trong điều kiện nhiệt độ môi trường
như: Stegobium panoceum, Ptinus tectus, Tineola bisslliella, Ephestia
cautella và Lasioderma serricome .Theo Cotton và Wilbur (1974), côn
trùng gây hại hạt dự trữ trong kho trên thế giới gồm 43 loài được chia làm 2
nhóm: Nhóm côn trùng gây hại chủ yếu gồm 19 loài và nhóm côn trùng
gây hại thứ yếu nhưng thường xuyên xuất hiện trên hạt dự trữ gồm 24 loài
(dẫn theo Nelson, J.T., 1987).
Christoph Reichmuth (2000) đã ghi nhận được 55 loài côn trùng trên
sản phẩm bảo quản ở Đức. Hiroshi Nakakita (1991) đã ghi nhận được 36
loài côn trùng thuộc 17 họ và 2 bộ gây hại trong thóc và gạo bảo quản ở
Thái Lan năm 1991. Kỹ thuật bảo quản nông sản sau thu hoạch ngày một
phát triển cùng với sự thay đổi về các điều kiện sinh thái, điều kiện môi
trường và nguồn thức ăn của côn trùng hại kho cũng luôn thay đổi, do vậy
thành phần, mật độ các loài côn trùng trong kho cũng luôn có sự thay đổi
cho phù hợp. Cho đến nay việc nghiên cứu về thành phần loài côn trùng hại
kho vẫn đang được các nhà khoa học trên thế giới quan tâm.
2.3.3. Một số nghiên cứu về loài Lasioderma serricorne .
Mọt thuốc lá là loài gây hại chính trong các kho bảo quản nông sản
nói chung và nguyên liệu thuốc lá bảo quản nói riêng. Fabricius là người
đầu tiên quan sát và mô tả về chúng vào năm 1972. Mọt thuốc lá đã được
ghi nhận vào năm 1848 tại Pháp, tại Hoa Kỳ năm 1886 (Ryan, 1999). Mọt
thuốc lá L. serricorne thuộc Bộ Cánh cứng (Coleoptera), họ Anobiidae
(Howe, 1957; Ashworth, 1993; CABI, 2006; Wikipedia, 2010a).
Hiện nay, mọt thuốc lá L. serricorne phân bố rộng khắp trên thế giới
và được coi là loài phổ biến trong các kho bảo quản nông sản, được tìm
thấy chủ yếu ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới (Howe, 1957; Sannino,
1980; Snelson, 1987; Harwalkar et al ., 1995, Christian, 1999). Mọt thuốc lá
L. serricorne không chỉ phá hại lá và thuốc lá đã chế biến, chúng còn tấn
công cả rau quả khô như thảo mộc, bánh làm từ hạt có dầu, ngũ cốc, ca cao,
lạc nhân... và chủ yếu là do sâu non gây ra (Carvalho et al., 2000; Zhu et
al., 2000).
Ryan (1999) đã đề cập đến khả năng lựa chọn thức ăn của mọt thuốc
lá rất phong phú, chúng tấn công trên 50 loại sản phẩm nông sản khác
nhau.Theo Arbogast et al 2002, mọt thuốc lá là loài đa thực, chúng có phổ
thức ăn rộng, có thế ăn nhiều loại sản phẩm của cây trồng và được coi là
loài dịch hại nguy hiểm đối với kho bảo quản nông sản nói chung và kho
nguyên liệu thuốc lá nói riêng
Theo mô tả của Ryan (1999), trưởng thành mọt thuốc lá dài 2,0 –
3,7mm, có màu nâu sáng, trọng lượng cơ thể từ 1,6 4,4 mg. Kích thước
của mọt phụ thuộc chủ yếu vào thức ăn, nhiệt độ và độ ẩm trong quá trình
phát triển. Thông thường trưởng thành cái thường lớn hơn trưởng thành
đực. Phân biệt trưởng thành đực và trưởng thành cái thông qua mấu lồi của
bộ phận sinh dục. Con cái thường có mấu lồi hình chữ V, con đực có mấu
lồi hình chữ U.
Arbogast et al., 2002 đã mô tả mọt thuốc lá là loài có kích thước từ
23 mm. Trưởng thành có màu nâu đỏ, thân hình tròn hoặc bầu dục. Mọt
trưởng thành có thể bay xa tới 3 km, điều này giải thích khả năng xâm hại
và phát tán của chúng trong các kho bảo quản. Chúng thường bay vào buổi
chiều muộn hoặc ban đêm khi có ánh sáng, đặc biệt bay mạnh khi chúng đẻ
trứng (Ryan, 1999). Theo kết quả nghiên cứu của Sannino (1980), hoạt
động sinh sản của mọt thuốc lá L. serricome có liên quan chặt đến nhiệt độ.
Ở nhiệt độ 15°Ccon cái sẽ giao phối sớm hơn ở nhiệt độ 29°C.Theo kết quả
nghiên cứu của Howe (1957), vòng đời của mọt thuốc lá phụ thuộc vào
nhiệt độ và thức ăn, nhưng chúng thường kéo dài 40 90 ngày.
Theo Koehler (1994) (dẫn theo Trần Văn Nguyên, 2007), mọt trưởng
thành trong điều kiện bình thường chúng có thể sống được 34 tuần, trưởng
thành cái đẻ tới 100 trứng. Trứng thường nở sau khi đẻ 610 ngày tuỳ theo
nhiệt độ. Thời gian một vòng đời (từ trứng tới trưởng thành và đẻ quả trứng
đầu tiên) là 23 tháng, trong điều kiện ấm áp chúng có thể có 56 lứa trong
một năm.
2.4. Một số nghiên cứu trong nước
2.4.1. Một số nghiên cứu trong công tác kiểm dịch thực vật
Với chính sách mở cửa, việc buôn bán giữa Việt Nam với các nước
ngày càng phát triển nên lượng hàng hoá thuộc diện KDTV nhập khẩu vào
nước ta với số lượng ngày càng tăng, đa dạng về chủng loại, xuất xứ từ
nhiều vùng lãnh thổ khác nhau trên thế giới. Hàng triệu tấn hàng thuộc diện
KDTV nhập khẩu vào Việt Nam nhằm phục vụ sản xuất trong nước, mặt
khác vói chủ trương đi tắt đón đầu về công nghệ, đa dạng hoá cây trồng,
chúng ta đã và đang tích cực đưa các loại giống cây trồng chủ đạo có năng
xuất cao vào thay thế dần các giống cây trồng cũ trong nước.
Theo thống kê của cơ quan KDTV: Hàng triệu tấn hàng thuộc diện
KDTV nhập khẩu vào Việt Nam nhằm phục vụ sản xuất trong nước, mặt
khác với chủ trương đi tắt đón đầu về công nghệ, đa dạng hoá cây trồng,
chúng ta đã và đang tích cực đưa các loại giống cây trồng chủ đạo có năng
xuất cao vào thay thế dần các giống cũ trong nước. Các mặt hàng thuộc
diện KDTV được nhập khẩu từ Trung Quốc vào nước ta khá lớn, tạo điều
kiện thuận lợi cho sinh vật gây hại nói chung, sâu hại nói riêng xâm nhập,
lây lan.
Những năm qua, tình hình SVGH xuất hiện trên hàng nhập khẩu có
diễn biến tương đối phức tạp, thành phần rất đa dạng như nấm bệnh, côn
trùng, cỏ dại, tuyến trùng, vi khuẩn, virus.... Hầu hết các lô hàng nông sản
đều bị nhiễm SVGH nhưng với mức độ và tính chất khác nhau, nguồn gốc
đa dạng phong phú.
Việc nghiên cứu thành phần SVGH nói chung và sâu mọt gây hại nói
riêng trên các sản phẩm thuộc nông sản xuất nhập khẩu của ngành BVTV
cho thấy: Từ năm 1998 đến năm 2002 đã phát hiện hơn 40 loài côn trùng,
gần 30 loài nấm bệnh, 58 loài cỏ dại, hàng chục loài tuyến trùng, vi khuẩn,
virus là dịch hại thuộc diện KDTV ... Trong đó đã nhiều lần phát hiện dịch
hại thuộc diện KDTV của Việt Nam như: Radopholus similis; Ephilis
oryzae; Trogoderma granarium; Trogoderma inclusum; Spongospora
subterranea; Lolỉum temulentum; Zabrotes subfasciatus; Acanthoscelides
obtectus... .
Đặc biệt năm 2002: Toàn ngành đã phát hiện 531 lần dịch hại thuộc
diện KDTV, một trong những dịch hại quan trọng đó là bệnh ghẻ bột khoai
tây phát hiện tới 350 lần và 124 lần phát hiện Trogoderma inclusion, 53 lần
phát hiện Trogoderma granarium... Trong những năm qua SVGH xuất hiện
trên hàng thực vật nhập khẩu ngày càng tăng, đa dạng về loài; đặc biệt là
các dịch hại thuộc diện KDTV bị phát hiện gần 900 lần. Chúng có nguồn
gốc xuất xứ từ nhiều vùng lãnh thổ khác nhau trên thế giới. Những dịch hại
trên đã được xử lý triệt để tại các cửa khẩu [5].
Việc phát hiện, nắm rõ thông tin khoa học và thành phần SVGH cũng
như nguồn gốc xuất xứ của các lô vật thể thuộc diện KDTV làm cơ sở để
phân tích, đánh giá nguy cơ dịch hại từ đó đề xuất những biện pháp xử lý
và quản lý SVGH trên hàng nhập khẩu vào Việt Nam.
2.4.2. Một số nghiên cứu về mọt thuốc lá Lasioderma serricorne.
Theo Vũ Quốc Trung (1981): Mọt thuốc lá có tên khoa học
Lasioderma serricorne Fabricius thuộc họ Anobiidae, bộ Coleoptera.
*
Phân bố và tác hại: Mọt thuốc lá phân bố khắp thế giới, trong
đó có Việt Nam.
Hàng năm loài mọt này gây thiệt hại lớn tới thuốc lá. Ngoài thuốc lá
loài mọt này còn phá hoại chè, dược liệu, quả khô, cá khô, các loại hạt có
dầu, tiêu bản động vật, tài liệu, sách báo,... có khi còn gặp chúng trong các
kho lương thực. Mọt thuốc lá L. serricorne là loài sâu hại có tính ăn rộng,
nó gây thiệt hại rất lớn cho thuốc lá và nhiều nông sản khác.
*
Đặc điểm hình thái (Vũ Quốc Trung, 1981):
Trứng: Dài 0,4 0,5 mm, hình bầu dục dài, màu vàng trắng
nhạt. Vỏ trứng hơi nhẵn, nhưng một đầu nhô lên.
Sâu non: Khi mới nở đạt 0,55 mm, rất khác so vói sâu non khi
đẫy sức, thân hình thắng và hoạt bát, khi hoạt động giảm dần và thân ngắn
lại. Sâu non đẫy sức thân dài 4,0 mm, thân cong lại và trở thành có hình
chữ c, đường kính các đốt gần như nhau, thân màu vàng trắng nhạt, trên
mình có nhiều lông rất nhỏ, dài. Đầu màu vàng nhạt, không có mắt. Trên
mình có nhiều đường vân ngang. Mảnh lưng ngực trước màu nâu, nở to,
đốt bụng cuối cùng lượn cong. Chân có 4 đốt, có 1 móng vuốt. Lỗ thở dạng
hình trứng.
Nhộng : Dài 3 mm, rộng 1,5 mm, màu trắng sữa, mặt lưng màu vàng
nâu, có cánh, bụng to và mập.
Mọt trưởng thành : Mọt đực dài 2,5 mm; mọt cái dài 3 mm, hình bầu
dục ngắn. Chiều dài của thân gấp đôi chiều rộng. Nếu nhìn chính diện, có
dạng hình trứng, nhìn nghiêng có dạng hình lưng lạc đà.
Thân màu hồng nâu, có cánh, có nhiều lông màu nâu nhạt. Mép sau
ngực trước và gốc cánh cứng có gò rất rõ. Đầu lớn hình bán cầu, rụt vào
dưới ngực trước, vì vậy nếu nhìn từ mặt lưng không thấy đầu. Râu đầu có
11 đốt.
Nhìn phía lưng ngực trước thấy mép trước hình bán cầu, nhìn một bên
thấy mép sau cao hơn phía trước, cong về phía sau, ngực trước cong úp lại.
Cánh cứng khít với gốc ngực trước. Nhìn mặt nghiêng của cánh cứng cao
nối lên và thấp dần về phía đầu cánh. Trên cánh cứng có nhiều điểm lõm
nhỏ.
* Đặc điểm sinh học:
Mọt không thích ăn, ưa ánh sáng yếu, cường độ chiếu sáng khoảng
50 Lux thu hút mọt rất mạnh, nó hoạt động ở ánh sáng mờ nhạt. Ở điều
kiện 25°C và độ ẩm 70%, con cái sống 31 ngày, con đực 28 ngày, chúng
hoạt động mạnh vào lúc hoàng hôn và ban đêm (Vũ Quốc Trung, 1981).
Trưởng thành vũ hóa sau 3 ngày thì giao phối, đẻ trứng. Ở 25°C đẻ ít
nhất 103 trứng, nhiều nhất 120 trứng. Với độ ẩm cao, thời gian trứng
khoảng 6 ngày, sâu non lột xác 4 lần. Thời gian từ tuổi 1 đến tuổi 5 trung
bình 19,2 ngày và thời gian nhộng là 3,8 ngày. Vòng đời là 29,1 ngày (Vũ
Quốc Trung, 1981).
Trong điều kiện nước ta, mọt thuốc lá mỗi năm có 36 lứa. Vòng đời
của mọt là 44 70 ngày, thời kỳ Trứng và sâu non 3050 ngày, nhộng 810
ngày. Mỗi con cái đẻ được 10 100 trứng, thường đẻ rải rác mọi nơi, đẻ
trên đống lương thực, trong kẽ bao bì, trên gân thuốc lá hay kẽ lá. Chúng
thường hoạt động mạnh vào ban đêm và những ngày râm mát, những ngày
nắng không hoạt động, mọt bay, bò và giả chết (Vũ Quốc Trung, 1981).
Theo Bùi Công Hiển (1995), mỗi con trưởng thành cái có thể đẻ từ 10
100 trứng, ở nhiệt độ dưới 20°C mọt cái thường không đẻ trứng. Trong
điều kiện khí hậu ở nước ta, mọt thuốc lá L. serricorne có thể sinh sản
được 36 lứa một năm, vòng đời từ 44 70 ngày, thời kỳ trứng từ 6 10
ngày, sâu non từ 3050 ngày, nhộng từ 6 10 ngày.
2.5. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
2.5.1 .Cơ sở lý luận
Bất cứ sinh vật nào nhân tố thức ăn được xem là nhân tố sinh thái rất
quan trọng, đối với côn trùng cũng vậy. Forbxom (1988) đã viết: “Trong tất
cả các yếu tố môi trường xung quanh không có gì ảnh hưởng đến chúng
một cách mạnh mẽ, phức tạp và sâu sắc như các yếu tố thức ăn, ngay cả
thời vụ, khí hậu, đất đai và các yếu tố vô sinh khác thường ảnh hưởng đến
động vật qua thức ăn ở mức độ như là trực tiếp”. Thật vậy, số lượng và chất
lượng thức ăn quyết định phần lớn đến tốc độ phát dục, đến hoạt tính, sức
sinh sản, hiện tượng ngừng phát dục, tỷ lệ chết, ảnh hưởng đến sự phân bố
phát tán của chúng. Và mọt thuốc lá cũng không ngoại lệ, là đối tượng gây
hại chủ yếu trên các nguyên liệu thức ăn chăn nuôi nên thức ăn có vai trò
đặc biệt quan trọng đối với sinh trưởng và phát triển của mọt. Thời gian
phát dục, vòng đời, tỷ lệ sống, khả năng đẻ trứng...là không giống nhau trên
các loại thức ăn. Mọt thuốc lá chỉ phát dục và sinh sản tốt trên các loại thức
ăn phù hợp. Khi thức ăn không đủ và kém chất lượng thì thời gian phát dục
của sâu non thường kéo dài, khả năng sinh sản ít và kích thước cũng chênh
lệch.
Vì vậy, trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm sinh học của mọt thuốc lá
trên các loại thức ăn khác nhau để từ có chế độ bảo quản phù hợp cũng như
biện pháp phòng trừ mọt thích hợp cho mỗi loại thức ăn khác nhau.
2.5.2. Cơ sở thực tiễn
Cùng với sự phát triển của nông nghiệp nói chung và ngành chăn
nuôi nói riêng thì việc nhập khẩu nguyên liệu thức ăn chăn nuôi của nước
ta ngày càng tăng cao. Đối với nước ta là một nước đang phát triển và kinh
tế chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp cho nên việc nhập khẩu thức ăn
chăn nuôi để chế biết và cung cung cấp cho ngành chăn nuôi là rất quan
trọng.
Cảng Quy Nhơn là một trong những cảng lớn của khu vực miền
Trung Tây Nguyên nên lượng hàng nhập khẩu khá đa dạng và với số lượng
khá lớn. Chính vì sự giao lưu hàng hóa và tình hình nhập khẩu tại cảng Quy
Nhơn với lượng hàng nhập khẩu như thế nên không tránh khỏi được thành
phần sâu mọt hại cũng phong phú và đa dạng, với nhiều loài khác nhau, gây
khó khăn cho việc kiểm dịch và phòng trừ chúng. Trong số đó nổi bật lên là
loài L. serricorne , với mức độ phổ biến và gây hại khá cao. Tuy nhiên việc
điều tra về thành phần loài và nghiên cứu về đặc điểm sinh học của các loài
sâu mọt này còn nhiều hạn chế .
Chính vì vậy nghiên cứu ảnh hưởng của thức ăn đến một số đặc điểm
sinh học của loài L.serricorne ở trong phòng thí nghiệm là cơ sở hết sức
quan trọng và có ý nghĩa thực tiễn . Nghiên cứu nhằm xác định thành phần
sâu mọt hại trong kho bảo quản, ảnh hưởng của các loại thức ăn khác nhau
đến loài L. serricorne giúp đề ra biện pháp phòng trừ đúng lúc, đúng giai
đoạn và trên từng loại thức ăn khác nhau đem lại hiệu quả cao và kinh tế.
Bên cạnh đó làm cơ sở và giúp cho công tác quản lý dịch hại kiếm dịch
thực vật của Việt Nam nói chung, sâu mọt hại nguyên liệu thức ăn chăn
nuôi nói riêng được thuận lợi hơn, góp phần phục vụ công tác xuất nhập
khẩu tại cảng Quy Nhơn.
PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng vàvật liệu nghiên cứu
3.1.1.Đối tượng nghiên cứu
Mọt thuốc lá Lasioderma serricorne Fabricius.
3.1.2. Vật liệu nghiên cứu
Bã ngô nhập từ Mỹ; Khô dầu đậu tương nhập từ Trung Quốc; Cám
gạo nhập từ Ấn Độ (sấy ở 60 o C trong 1 giờ tính từ khi đạt được nhiệt độ
cần thiết).
3.2. Dụng cụ thí nghiệm
Dụng cụ phục vụ cho nghiên cứu thu thập quần thể sâu mọt, nhân
nuôi trong phòng thí nghiệm gồm:
Lọ đựng côn trùng thu thập có nắp lưới thông thoáng
Khay phân tích mẫu
Kính lúp soi nổi (có bộ phận chụp ảnh) quan sát các đặc điểm hình
thái
Lọ nhân nuôi côn trùng
Đĩa petri theo dõi thí nghiệm sinh vật học của sâu mọt loại lớn (100
x 15mm), loại nhỏ (60 x 15mm)
Tủ định ôn 30 o C theo dõi thí nghiệm sâu mọt
Tủ sấy thức ăn nuôi sâu mọt
Giá nuôi côn trùng
Cân kỹ thuật có độ nhạy ± 0,001g
Cồn 70º, formol 5%...
Ngoài ra còn có: Vợt bắt mẫu, bộ rây sàng mọt, túi đựng mẫu, ống
nghiệm, kính lúp, thùng nhựa nuôi mọt, lưu mẫu và các dụng cụ thí nghiệm
khác panh, bút lông, giấy lọc, bông, cồn...
3.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
3.3.1. Thời gian
Đề tài được thực hiện từ 05/2015 đến 03/2016
3.3.2. Địa điểm nghiên cứu
Tại cảng Quy Nhơn và một số kho bảo quản của các đơn vị tham gia
nhập khẩu tại Bình Định.
Tại phòng thí nghiệm côn trùng, bộ môn Bảo vệ thực vật, khoa Nông
học, trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế.
3.4. Nội dung nghiên cứu
Điều tra thành phần và mức độ phổ biến của các loài mọt gây hại
trên nguyên liệu thức ăn chăn nuôi nhập khẩu qua cảng Quy Nhơn.
Nghiên cứu xác định một số đặc điểm hình thái qua các pha phát dục
của mọt thuốc lá.
Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ đến đặc điểm sinh vật học của
mọt thuốc lá.
3.5. Phương pháp nghiên cứu
3.5.1. Phương pháp điều tra mọt hại trên nguyên liệu thức ăn chăn nuôi
nhập khẩu qua cảng Quy Nhơn và bảo quản sau nhập khẩu
+ Phương pháp điều tra thành phần sâu mọt
Thực hiện theo Tiêu chuẩn ngành: 10 TCN 960/2006 Kiểm dịch
thực vật – qui trình kiểm dịch thực vật.
Tiến hành điều tra, thu thập mẫu côn trùng tại các kho thức ăn chăn
nuôi theo phương pháp lấy mẫu TCVN 473189.
Lưu giữ mọt theo tiêu chuẩn ngành: 10 TCN 956/2006, KDTV –
qui trình lưu giữ và bảo quản mẫu vật.
Điều tra kho trung bình 10 ngày một lần và kết hợp các lần bổ
sung. Thời gian điều tra trong ngày thích hợp nhất là sáng sớm hoặc chiều
mát.
Tại mỗi kho, bắt toàn bộ cá thể mọt tìm thấy trong hàng hóa, trên
bao bì và trên sàn kho, trong kẽ nứt tại điểm điều tra.
Tiến hành sàn bằng các ngăn khác nhau để tách côn trùng từ hàng
hóa, phân tích các loại côn trùng kho và loài mọt L. serricorne cho vào lọ
thu mẫu, ghi nhãn: Địa điểm thu thập, nhiệt độ, ẩm độ trong kho.
Tất cả các mẫu thu thập được ở các địa điểm đều được đưa về
phòng thí nghiệm giám định lại bằng kính lúp soi nổi và chụp ảnh tại phòng
kỹ thuật của Chi cục kiểm dịch thực vật vùng IV.
❖ Xử lý mẫu côn trùng:
Đối với côn trùng trưởng thành: Giết chết bằng lọ độc (KCN) sau
đó sấy ở tủ định ôn ở nhiệt độ thấp rồi tăng dần nhiệt độ lên (sấy ở nhiệt độ
4550 o C trong 34 ngày hoặc tăng lên 5060 o C trong 710 ngày, tùy theo
kích thước của côn trùng). Sau đó cho vào lọ nút mài kín và để ở nhiệt độ
phòng, các lọ đều được dán nhãn đầy đủ.
Đối với sâu non: Để cho sâu nhịn đói 1 ngày cho bài tiết sạch
bụng, sau đó cho vào ống nghiệm chứa khoảng 23 ml dung dịch KOH
hoặc NaOH 10% đun trên ngọn đèn cồn (vừa đun vừa lắc ống nghiệm)
không để sôi, cho đến khi khi sâu non dãn thẳng ra.
❖ Bảo quản mẫu côn trùng :
Đối với côn trùng trưởng thành: Sau khi sấy để nguội cho vào lọ
nút mài bảo quản nhiệt độ phòng, ở nơi khô ráo.
Đối với sâu non, nhộng: Ngâm vào dung dịch Paml hoặc cồn 70%.
Dung dịch Paml được pha chế theo tỷ lệ:
Nước cất: 30%
Cồn 96 o : 15%
Formaldehyt 40%: 6%
Acid acetic đậm đặc: 4%
Glyceryl: 5 giọt
Mẫu vật được tiến hành giám định trực tiếp bằng hình thái bên ngoài
hoặc giám định bằng tiêu bản giải phẫu bằng mắt thường, kính lúp, kính
lúp soi nổi có độ phóng đại từ 4070 lần theo khóa phân loại của CABI
(2007), Bousquet (1990), Haines (1991), Bùi Công Hiển (1995); Vũ Quốc
Trung (1978) để giám định.
+ Tính độ thường gặp của loài Lasioderma serricorne F. trong
thành phần mọt hại nguyên liệu thức ăn chăn nuôi nhập khẩu.
Phương pháp tính toán : Tính độ thường gặp (%) để đánh giá mức độ
phổ biến của từng loài côn trùng theo không gian điều tra
Na
C (%) =
x 100
(1)
N
Trong đó: Na: Số điểm điều tra có chứa loài a
N: Tổng số điểm điều tra
* Mật độ của loài được tính theo công thức:
Tổng số con (con)
Mật độ mọt (con/kg) =
Đơn vị lấy mẫu (kg)