Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Một số giải pháp nâng cao chất l¬ượng thẩm định tài chính dự án đầu t¬ư trong hoạt động cho vay tại NHNTVN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.4 KB, 78 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm gần đây, nền kinh tế thế giới có nhiều chuyển biến khá
phức tạp. Cụ thể như: cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực đã có
những tác động ảnh hưởng trực tiếp đến qúa trình tăng trưởng và phát triển kinh tế
thế giới nói chung, kinh tế các nước trong khu vực ASEAN nói riêng, trong đó có
Việt Nam. Trong thời gian đó, kể cả trong nhiều năm trước đó và sau này, vai trò
của hệ thống ngân hàng là không thể phủ nhận được, các phương tiện thông tin đại
chúng đã nhiều lần đề cập đến hàng loạt vấn đề nóng bỏng có liên quan đến hoạt
động của Ngân hàng thương mại Việt Nam như: tình trạng ứ đọng vốn, vốn hàng
đóng băng, nợ quá hạn tăng cao, rủi ro tín dụng v..v..gây thiệt hại hàng nghìn tỉ
đồng. Mặc dù những vấn đề này đã được nêu ra nhiều lần, cũng đã có không ít
những đề xuất, kiến nghị, giải pháp nhưng những rủi ro trong hoạt động kinh doanh
Ngân hàng thương mại vẫn xảy ra, vẫn tồn tại và còn có chiều hướng gia tăng.
Đối với hệ thống Ngân hàng ngoại thương Việt Nam(NHNTVN), đây là một
bài toán cực kì nan giải: Ngân hàng phải làm gì? và làm như thế nào? để có thế mở
rộng, nâng cao chất lượng, hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình.
Hoạt động cho vay trung và dài hạnh đang trở thành một hoạt động chính của
NHNTVN. Cho vay trung và dài hạn là hình thức cho vay theo các dự án đầu tư.
Chất lượng của khoản vay phụ thuộc phần lớn vào chất lương thẩm định tài chính
dự án đầu tư, song công tác này của Ngân hàng còn nhiều vấn đề cần phải xem xét.
Qua thời gian thực tập tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, em nhận thấy
đây là vấn đề mà Ngân hàng đã và đang quan tâm để có thể đưa ra nhiều biện pháp
thực hiện.
Xuất phát từ thực tế đó cùng với sự khuyến khích ủng hộ của Ban giám đốc,
cùng các cô, các chú, anh chị em cán bộ NHNTVN, em đã chọ đề tài này, đề tài:
Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư
trong hoạt động cho vay tại NHNTVN.
1


Với mong muốn có thể tìm tòi, phát hiện được một số rủi ro, hạn chế và đưa


ra một số giải pháp nhằm khắc phục một số tồn tại, qua đó nâng cao hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng. Đây là đề tài nghiên cứu một nội dung nhỏ trong tổng thể
những nội dung cần xem xét với một khoản vay hay một dự án đầu tư. Vì vậy, đối
tượng và phạm vi nghiên cứu của bài viết này, chỉ giói hạn và tập chung chủ yếu
vào công tác thẩm định tài chính của dự án đầu tư, gắn với hoạt động cho vay của
NHNTVN.
Trên cơ sở hệ thống hoá những vấn đề, những lí luận cơ bản liên quan đến
hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư, đánh giá công tác thẩm định tài chính
dự án đầu tư tại NHNTVN để đa ra giải pháp. Bài viết được trình bày trong ba chương:
Chương I: NHNTVN với hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư.
Chương II: Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt
động cho vay tại NHNTVN
Chương III: Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư
trong hoạt động cho vay tại NHNTVN.
Do điều kiện hiểu biết, trình độ còn hạn chế, thời gian thực tập tại Ngân hàng
chưa nhiều nên vấn đề nêu ra không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em rất
mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các cô chú, anh chị em cán bộ công
nhân viên NHNTVN, cùng với những đóng góp sửa chữa, bổ xung của các thầy cô
giáo và các bạn, đặc biệt là những ý kiến đóng góp bổ xung, sửa chữa của thầy
giáo, giáo viên hướng dẫn, TS. Mai Văn Bưu để bài viết sau được hoàn thiện hơn.

2


CHƯƠNG I
NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VỚI HOẠT ĐỘNG THẨM
ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ.
1. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI.


1.1 Ngân hàng thương mại và hoạt động cho vay của Ngân hàng thương
mại.
Trong hoạt động sản xuất, tiêu dùng của xã hội luôn luôn xảy ra tình trạng đối
nghịch: có những cá nhân, những tổ chức có tiền tiết kiệm, nhàn rỗi không có nhu
cầu hoặc chưa có nhu cầu sử dụng đến nó trong khi đó lại có những cá nhân, những
tổ chức có nhu cầu về một khoản tiền nhất định để sử dụng cho một mục đích đầu
tư hay tiêu dùng cá nhân. Ngân hàng thương mại (NHTM) là một trung gian trên
thị trường tài chính, đóng vai trò cầu nối dẫn vốn từ những nhà gửi tiết kiệm sang
các nhà đầu tư, đáp ứng nhu cầu nguyện vọng giữa những người cần tiền và những
người có tiền. Kết quả là tất cả các bên đều có lợi, nền kinh tế luôn vận hành một
cách nhịp nhàng, sản xuất phát triển, đời sống được nâng cao.
NHTM là tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và Ngân hàng.
Tất cả các hoạt động của Ngân hàng đều hướng tới mục tiêu tối cao, chi phối các
mục tiêu khác là tối đa hoá lợi nhuận. Theo đuổi mục tiêu này, NHTM không
ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến dịch vụ đa dạng hóa các loại hình
dịch vụ và được thực hiện qua ba hoạt động chính:
-Hoạt động huy động vốn.
-Hoạt động cho vay và đầu tư.
-Hoạt động trung gian.
Đây là ba hoạt động truyền thống của một NHTM. Chúng có quan hệ chặt
chẽ, hỗ trợ lẫn nhau. Để có vốn vay Ngân hàng phải huy động những đồng tiền

3


nhàn rỗi từ tay các nhà tiết kiệm. Đồng thời với một lợi thế là một trung gian trên
thị trường tài chính, NHTM thực hiện một số dịch vụ cung cấp cho khách hàng.
Các hoạt động dịch vụ này vừa tạo ra thu nhập, vừa hỗ trợ cho các hoạt động huy
động vốn, cho vay, đầu tư.
Thứ nhất, huy động vốn: trước hết mỗi NHTM phải có một số vốn tự có là

điều kiện ban đầu của hoạt động kinh doanh của mình. Số vốn này được tạo lập
bằng cách phát hành cổ phiếu hay do ngân sách Nhà nước cấp, hay là từ các quỹ
được tạo ra trong quá trình hoạt động của Ngân hàng.
Tuy nhiên, hoạt động huy động vốn của NHTM được thể hiện tập trung
thông qua việc thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong công chúng, Ngân hàng tập chung
được một số vốn lớn từ các khoản séc, tài khoản tiết kiệm, tài khoản tiền gửi có kỳ
hạn, từ các công cụ kỳ phiếu, trái phiếu, giấy chứng nhận tiền gửi v..v. Bên cạnh đó
khi cần vốn cho nhu cầu thanh toán, cho vay Ngân hàng có thể vay của NHTW hay
các tổ chức tín dụng khác. Trên bảng cân đối tài sản, hoạt động huy động vốn được
biểu hiện qua các tài sản nợ của Ngân hàng.
Thứ hai, hoạt động cho vay, đầu tư: NHTM sử dụng số tiền tiết kiệm, nhàn
rỗi huy động được từ công chúng đem cho vay hoặc đầu tư chứng khoán. Trên
bảng cân đối tài sản, các hoạt động này được biểu hiện là tài sản có của Ngân hàng.
Các hoạt động cho vay và đầu tư mang lại cho NHTM một khoản thu nhập.
Đây là khoản thu chiếm tỷ trọng lớn trong thu nhập của NHTM.
Thứ ba, hoạt động trung gian: các NHTM còn thực hiện nghiệp vụ trung gian
theo yêu cầu của khách hàng nh: thanh toán, chuyển tiền, ưuỷ thác, ký gửi, tư vấn,
bảo lãnh...Nghiệp vụ này không những mang lại thu nhập cho Ngân hàng mà còn
tạo điều kiện mở mang các hoạt động trên.
1.2. Hoạt động cho vay của NHTM.
Đây là hoạt động truyền thống mang tính đặc trưng cơ bản của NHTM. Nó
đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng. Trên cơ sở nguồn vốn huy
động được, Ngân hàng tiến hành cho vay và thu khoản lãi nhất định trên số tiền cho
vay theo nguyên tắc vay vốn phải được khoản trả và thu tiền lãi phải đủ trang trải
cho các khoản chi và phải có lợi nhuận.
4


NHTM có thể cho vay theo nhiều hình thức khác nhau tuỳ theo tiêu thức phân
loại:



Theo mục đích cho vay:

-Cho vay công nghiệp.
-Cho vay nông nghiệp.
-Cho vay xây dựng cơ bản.
-Cho vay xuất nhập khẩu.


Theo lãi xuất:

-Cho vay theo lãi xuất cố định.
-Cho vay theo lãi xuất thả nổi.


Theo thành phần kinh tế:

-Cho vay quốc doanh.
-Cho vay ngoài quốc doanh.


Theo tài sản đảm bảo:

-Cho vay có tài sản đảm bảo.
-Cho vay không có tài sản đảm bảo.


Theo thời hạn cho vay:


-Cho vay dài hạn.
-Cho vay trung, ngắn hạn.
Dù cho vay theo bất kỳ hình thức nào thì nghiệp vụ cho vay cũng trải qua ba
giai đoạn sau:
-Xem xét trước khi cho vay.
-Thực hiện cho vay.
-Thu gốc và lãi.

5


Ba giai đoạn này là một quá trình gắn bó chặt chẽ, mỗi giai đoạn đều có tầm
quan trọng nhất định, ảnh hưỏng đến chất lượng của khoản vay. Tuy nhiên, giai
đoạn xem xét trước khi cho vay mang ý nghĩa chiến lược, nó ảnh hưỏng đến chất
lượng của khoản vay và các giai đoạn sau. Bởi vì, trong nền kinh tế thị trường luôn
tồn tại sự bất cân xứng về thông tin giữa Ngân hàng Thương Mại và khách hàng
dẫn đến Ngân hàng có thể thực hiện những khoản cho vay sai lầm. Vì vậy Ngân
hàng Thương Mại luôn luôn cân nhắc, xem xét kỹ lưỡng và bằng nhiều phương
pháp nghiệp vụ đặc thù, phải xác định đúng khách hàng tốt, khoản cho vay đảm
bảo yêu cầu trước khi quyết định cho vay. Đó chính là hoạt động thẩm định các
khoản cho vay, một hoạt động mang tính dịch vụ của Ngân hàng Thương Mại
nhằm xác định các khoản cho vay an toàn, chất lượng cao.
Một hình thức phổ biến cho vay của Ngân hàng Thương Mại là cho vay theo
dự án đầu tư ). Đây chính là hình thức cho vay trung và dài hạn với đặc điểm là số
vốn cho vay lớn, thời hạn cho vay dài do đó chịu nhiều biến động và rủi ro cao.
Tuy nhiên, nếu là một dự án đầu tư tốt thì sẽ đem lại cho Ngân hàng một khoản thu
nhập xứng đáng và bảo đảm an toàn vốn. Để đạt được mục tiêu này, Ngân hàng
Thương Mại phải làm tốt công tác thẩm định dự án đầu tư từ trước khi đi đến một
quyết định tài trợ.
2..


SỰ CẦN THIẾT THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TRONG HOẠT

ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.

Đầu tư được hiểu là việc bỏ vốn vào một hoạt động nhất định nhằm mục
đích thu lại một khoản tiền lớn hơn hay là việc sử dụng tiền vào mục đích sinh lời.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động đầu tư vô cùng quan trọng. Đầu tư sẽ duy
trì được tiềm lực sẵn có đảm bảo cho quá trình tái sản xuất diễn ra bình thường vào
tạo một tiềm lực lớn hơn trong tương lai.
Mục tiêu của đầu tư là hiệu quả, nhng ở những mức độ khác nhau, người ta
nhìn nhận vấn đề hiệu quả không giống nhau. Doanh nghiệp(DN) quan tâm đến
hiệu quả tài chính, tối đa hoá lợi nhuận, nhà nước lại quan tâm đến lợi ích xã hội,
đầu tư sẽ mang lại hiệu quả và đóng góp cho sự phát triển xã hội của đất nước.

6


Mặt khác hợp đồng đầu tư là hợp đồng phức tạp, nó liên quan và đòi hỏi sự
phối hợp của nhiều cấp: Chính phủ-Bộ-Ngành-Ngân hàng-Chủ đầu tư... Do đó, để
đảm bảo cho hoạt động đầu tư được tiến hành thuận lợi, đạt được mục tiêu mong
muốn của các bên liên quan thì trước khi bỏ vốn chúng ta cần làm tốt thận trong và
nghiêm túc trong công tác chuẩn bị đầu tư. Hợp đồng đầu tư được thể hiện qua việc
thực hiện các dự án đầu tư.
2.1. Dự án đầu tư .
•Khái niệm:
Dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động kinh tế đặc thù với các mục tiêu
phương pháp và phương tiện cụ thể để dạt tới trạng thái mong muốn.
•Các yếu tố cấu thành nên Dự án đầu tư.
- Các mục tiêu của dự án: đó là những kết quả và lợi ích mà dự án đem lại

cho các nhà đầu tư và cho xã hội
- Các hợp đồng (giải pháp về tổ chức, kinh tế xã hội..) để thực hiện mục tiêu
dự án.
- Đầu vào của dự án đầu tư: Đó là những kết quả cụ thể, mang tính chuẩn
mực được tao ra từ những hoạt động khác của dự án.
- Thời hạn: Là khoảng thời gian từ khi bắt đầu nghiên cứu cơ hội đầu tư đến
khi chấm dứt hợp đồng. Thông thường, thời hạn hợp đồng của dự án được xác
địnhtrong luận chứng kinh tế kĩ thuật.
- Địa điểm thực hiện dự án đầu tư.
- Các nguồn đầu tư để hình thành nên vốn đầu tư của dự án
- Các chủ thể; bao gồm các bên liên quan phối hợp với nhau để thực hiện và
thụ hưỏng những lợi ích mà dự án đầu tư mang lại.
•Các giai đoạn hình thành và phát triển của dự án đầu tư
Một dự án đầu tư từ khi hình thành đến khi kết thúc thường trải qua ba giai
đoạn sau:
- Giai đoạn1: Giai đoạn chuẩn bị đầu tư:

7


Nghiên cứu, đánh giá cơ hội đầu tư: sản phẩm của bước này là báo cáo cơ hội
đầu tư.
Nghiên cứu tiền khả thi: sản phẩm của bước này là báo cáo tiền khả thi.
Nghiên cứu khả thi: sản phẩm của bước này là luận chứng kinh tế, kỹ thuật.
-Giai đoạn 2: Giai đoạn thực hiện đầu tư:
Đây là giai đoạn cụ thể hoá về nguồn hình thành vốn đầu tư và triển khai
thực hiện dự án đầu tư. Trong các dự án đầu tư người ta thường thực hiện một loạt
các ký kế hợp đồng như hợp đồng liên doanh, hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất,
thuê nhà xởng, nhận thầu thiết kế về thi công công trình, mua bán máy móc thiết bị,
chuyển giao công nghệ, thuê công nhân lao động,...để xây dựng và đa công trình

vào hoạt động.
-Giai đoạn 3: Giai đoạn vận hành khai thác:
Là giai đoạn chính thức đa công trình vào hoạt động và tạo ra sản phẩm tiêu
thụ trên thị trường.
Trong 3 giai đoạn trên, giai đoạn 1 có ý nghĩa và vai trò quan trọng, nó mang
ý nghĩa quyết định và là cơ sở cho việc triển khai dự án ở các giai đoạn sau. trong
giai đoạn này thẩm định hiệu quả tổ chức, nói cách khác là thẩm định dự án đầu tư,
đóng vai trò then chốt để có một quyết định đầu tư đúng đắn.
2.2. Sự cần thiết thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của
Ngân hàng thương mại.
2.2.1. Thẩm định dự án đầu tư.
•KN: Thẩm định dự án đầu tư là một tổ chức xem xét một cách khách quan,
khoa học và toàn diện cho phép ra quyết định đầu tư.
•Thẩm định về sự cần thiết phải đầu tư: Với quan điểm mỗi dự án đầu tư là
một mắt xích quan trọng trong chương trình phát triển kinh tế dài hạn, trung hạn
của ngành, vùng lãnh thổ nhằm đạt được các mục tiêu của chương trình phát triển
kinh tế đó, việc thẩm định sự cần thiết phải đầu tư nhằm trả lời các câu hỏi: Dự án
có ưu thế nào trong quy hoạch phát triển chung. Dự án nếu đầu tư sẽ làm gia tăng
thu nhập cho doanh nghiệp và cho nền kinh tế là bao nhiêu? sử dụng các nguồn tài
8


nguyên và cơ sở vật chất sẵn có, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu,
giảm chi ngoại tệ ra sao, công nghệ trong dự án nguồn tài nguyên...Nội dung của
thẩm định này không phức tạp nhng có ý nghĩa định hướng cho nội dung tiếp theo
của thẩm định dự án.
•Thẩm định dự án là phương diện thị trường: Đây là khía cạnh quan trọng
quyết định đến sự thành bại của dự án đầu tư. Nhìn nhận dưới góc độ của của Ngân
hàng thương mại thì sản phẩm của dự án chính là đối tượng tín dụng Ngân hàng sẽ
tài trợ. Xét dưới góc độ gián tiếp thì rủi ro của Ngân hàng sẽ gắn liền với sản phẩm

của dự án. Vì vậy việc phân tích đánh giá vị thế sản phẩm và thị trường của doanh
nghiệp vô cùng quan trọng. Việc thẩm định dự án về phương diện thị trường được
tiến hành trên các mặt giá cả, quy cách sản phẩm, mẫu mã, nhu cầu thị trường, chất
lượng sản phẩm cạnh tranh, phạm vi hoạt động của sản phẩm, từ đó xây dựng khả
năng cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp.
•Thẩm định về mặt kỹ thuật công nghệ: Phân tích kỹ thuật là tiền đề cho
việc phân tích kinh tế tài chính của dự án đầu tư. Việc thẩm định về mặt kỹ thuật
phải xem xét việc lựa chọn công nghệ, thiết bị, giải pháp kỹ thuật có phù hợp
không, tiết kiệm được chi phí sản xuất, địa điểm có phù hợp không, các giải pháp
xử lý tác động đến môi trường.
•Thẩm định dự án về khía cạnh tổ chức quản lý: Trong nhiều trường hợp
mức độ thành bại của dự án không phải do yếu tố về thị trường hay kỹ thuật mà do
chính năng lực tổ chức, quản lý và thực hiện của các cơ quan có liên quan cũng như
quan hệ kết hợp giữa họ, đó là chủ dự án, các tổ chức thiết kế thi công, cung ứng
nguyên vật liệu, thiết bị và đội ngũ thi công chịu trách nhiệm vận hành dự án.
•Thẩm định dự án về phương diện tài chính: Phải xem xét tính toán các chỉ
tiêu phản ánh hiệu quả tài chính, xem xét các kế hoạch của DÙ áN đầU Tư có đem
lại hiệu quả tài chính hay không.
•Thẩm định các điều kiện pháp lý để quyết định xét duyệt dự án bao
gồm: Hồ sơ trình duyệt có đủ và có hợp lệ theo quy định hay không? tư cách pháp
nhân và năng lực của chủ đầu tư?
•Thẩm định mục tiêu của dự án: Nhằm xem xét các mục tiêu của dự án có
phù hợp với chương trình kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của cả nước, của vùng,
9


ngành, địa phương. Ngành nghề trong dự án có thuộc ngành nghề nhà nước cho
phép hay không, có được ưu tiên hay không?
•Thẩm định về kinh tế xã hội: Thực tế là việc đánh giá, xem xét những cái
được và mất khi thực hiện dự án đầu tư đối với nền kinh tế xã hội. Dự án có sử

dụng hợp lý nguồn tài nguyên sẵn có hay không? đã mang lại lợi ích gì cho đất
nước, dự án có mang lại công ăn việc làm cho người lao động làm nâng cao đời
sống xã hội, thu nhập, tạo nếp sống phong tục tập quán. Mục tiêu của dự án có phù
hợp với mục tiêu của xã hội hay không?
•Thẩm định dự án về môi trường theo hai chiều hướng: Tích cực và tiêu
cực.
2.2.2.Sự cần thiết thẩm định tài chính dự án đầu tư.
Mỗi dự án đầu tư chứa đựng nhiều nội dung kinh tế kỹ thuật rất phù hợp.
Các nội dung này có mối quan hệ ràng buộc, ảnh hưỏng lẫn nhau hình thành nên dự
án đầu tư. Do vậy bất cứ một khó khăn tại một mặt nào đều ảnh hưỏng đến mặt
khác và ảnh hưỏng tới kết quả của dự án đầu tư. Thẩm định dự án đầu tư phải xem
xét tất cả các khía cạnh để đề ra câu trả lời cho mỗi khía cạnh đó. Tuy nhiên các dự
án đầu tư đa đến Ngân hàng thương mại xin vay vốn thường rất đa dạng, với nhiều
lĩnh vực và quy mô khác nhau. Trong điều kiện và khả năng có hạn, đặc biệt là đối
với những Ngân hàng thương mại không chuyên sâu về nghiệp vụ cho vay đầu tư
phát triển thì Ngân hàng khó có thể thẩm định chi tiết tất cả các khía cạnh. Ngân
hàng chủ yếu tập trung vào mặt tài chính-Đây là mặt Ngân hàng có thế mạnh cả về
quyền hạn cũng như trách nhiệm. Dự án đầu tư thường do các chủ dự án lập hoặc
thuê các cơ quan tư vấn lập trên cơ sở các ý đồ kinh doanh và ý muốn chủ quan của
chủ dự án. Trên quan điểm của chủ dự án thì dự án của họ bao giờ cũng có tính khả
thi và họ mong muốn được Ngân hàng cho vay. Do vậy, dự án mang tính chủ quan
của chủ đầu tư và thường không xem xét đánh giá được hết tất cả các khía cạnh có
liên quan. Thông tin, số liệu trong luận chứng kinh tế, kĩ thuật hay các báo cáo tài
chính liên quan có thể không phản ánh đúng thực trạng. Doanh nghiệp có thể quá
lạc quan về tình hình tiêu thụ trong những năm tới hay tính toán không đầy đủ các
yếu tố làm tăng tính hiệu quả của dự án...Vì vậy, để thẩm định tài chính dự án đầu
tư được đa đến NHTM khi vay vốn là cần thiết.

10



Là một đơn vị kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng, hoạt động Ngân
hàng có những đặc thù mà các ngành khác không có được, đặc biệt là mức độ rủi ro
cao. Nâng cao hiệu quả dụng vốn và hạn chế rủi ro là mục đích của bất cứ Ngân
hàng nào.Lĩnh vực kinh doanh càng hứa hẹn sinh lời cao thì càng chịu nhiều rủi ro.
Vấn đề là phải đánh giá tác động rủi ro để có các biện pháp trách hoặc tính toán
mức rủi ro có thể chấp nhận tương ứng với hiệu quả mà dự án mang lại. Tuy nhiên
an toàn vốn không có nghĩa là không đảm bảo đầu tư vào các dự án dài hạn mà
trước hết phải tìm các giải pháp tích cực để giải quyết thẩm định tài chính dự án
đầu tư được coi là biện pháp hữu hiệu để phát huy tích cực.
Đối với Ngân hàng thương mại, việc tài trợ cho dự án đầu tư là một hoạt
động nghiệp vụ là hình thức cho vay trung và dài hạn hay theo các dự án đầu tư.
Đây là một phương pháp kinh doanh thu lợi nhuận và là cơ sở để các Ngân hàng thong mại cung cấp các sản phẩm dịch vụ. Cho vay theo dự án đầu tư Tư hiện nay là
một hoạt động rất phổ biến của các Ngân hàng thương mại. Do vậy trước khi đi đến
một quyết định cho vay theo dự án đầu tư, Ngân hàng thương mại phải tiến hành
xem xét, đánh giá thẩm định như đối với các khoản vay khác. như trên chúng ta đã
nêu thẩm định một khoản cho vay theo dự án đầu tư bao gồm nhiều nội dung khác
nhau, trong đó thẩm định tài chính là một khía cạnh rất quan trọng. Việc thẩm định
tài chính dự án đầu tư sẽ giúp Ngân hàng thương mại ra được những quyết định
đúng đắn trong việc tài trợ như số lượng cho vay, thời hạn, lãi suất áp dụng, quản lý
và thu hồi vốn hỗ trợ dự án...
Qua thẩm định tài chính dự án đầu tư, Ngân hàng thương mại phải lựa chọn
và tìm ra được những dự án đầu tư có hiệu quả tài chính để cho vay. Bởi vì chỉ có
như thế mới đảm bảo cho các hoạt động của Ngân hàng diễn ra một cách bình
thường trong nền kinh tế.
Cũng như cụ thể là việc thu hồi cả gốc và lãi theo đúng tiến độ nâng cao chất
lượng tín dụng, hạn chế mức độ rủi ro ở mức thấp nhất. Qua đó Ngân hàng thương
mại mới đảm bảo có lợi nhuận và an toàn trong hoạt động cho vay để không ngừng
tăng trưởng và phát triển. Đây chính là lý do và sự cân bằng cần thiết Ngân hàng
thương mại thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay.

3. TRÌNH TỰ VÀ NỘI DUNG THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐÀU TƯ TRONG HOẠT
ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.

11


Thẩm định dự án là xem xét, kiểm tra tính khả thi về tất cả các mặt của dự án
đầu tư, xét trên quan điểm cho vay- thu hồi vốn là trách nhiêm chính của Ngân
hàng thương mại thì ngiệp vụ thẩm định tài chính là một ngiệp vụ quan trọng hàng
đầu của Ngân hàng. Đối với Ngân hàng thương mại, việc thẩm định hiệu quả dự án
đầu tư là xem xét dự án có đủ khả năng trả nợ Ngân hàng từ kết quả tài chính tạo ra
hay không.
Thẩm định tài chính xuất hiện trong quá trình hoạt động của dự án có tính đến
giá trị thời gian của tiền thu nhập ròng của các luồng tài chính này sẽ được so sánh
với luồng chi phí đầu tư bỏ ra ban dầu và xem xét sự bù đắp đó có thoả đáng hay
không. Bên cạnh đó, thẩm định tài chính dự án đầu tư còn tiến hành phân tích tài
chính dự án qua các năm hoạt động để ngành đánh giá tinh hình tài chính, chất
lượng hoạt động, các rủi ro để có biện pháp khắc phục kịp thời, hữu hiệu.
Nội dung thẩm định tài chính dự án đầu tư :
Thẩm định tài chính dự án đầu tư

Tổng vốn đầu


Các nguồn tài
trợ

Bảng tài chính,
phân tích tài chính


Đánh giá tài
chính

Cân đối khả
năng trả nợ

Đánh giá tài chính
Khả năng sinh lợi
- Giá trị hiện tại thuần
- Chỉ số doanh lợi
- Tỉ lệ hoàn vốn nội bộ
- Tỉ lệ vốn tự có/VĐT

Khả năng hoàn vốn
Mức độ rủi ro
- Thời gian hoàn vốn
- Điểm hoà vốn
- Thời gian hoàn trả vốn vay - Đánh giá độ nhạy
- Khả năng trả nợ
- Tỉ lệ lợi ích / CF
- Tỉ lệ lợi nhuận / VĐT

12


Một là: Xác định tổng nhu cầu vốn đầu tư (VĐT) cho dự án. Khi một dự án
đầu tư đưa đến Ngân hàng xin vay thì dự án đó được thông qua nhiều cấp đánh giá,
phê duyệt, tổng VĐT đươc xác định. Tuy nhiên, Ngân hàng thương mại vẫn xem
xét lại trên cơ sở thẩm định của Ngân hàng. Điều này là rất quan trọng vì khi xác
định được một lượng vốn đầu tư vừa đủ cho dự án sẽ tạo điều kiện được thực hiện

một cách thuận lợi thông suốt, từ đó nâng cao tính hiệu quả của dự án. Vốn đầu tư
thiếu sẽ gây khó khăn cho việc thi công cũng như các hoạt động của dự an sau này.
Ngược lại, thừa vốn sẽ gây lãng phí vốn, làm giảm hiệu quả tài chính của dự án gây
thiệt hại cho nền kinh tế.
Tổng vốn đầu tư cần thiết cho một doanh nghiệp bao gồm:
Vốn đầu tư cố định:
-

Chi phí ban đầu: mặt đất, mặt nước.

-

Giá trị nhà xưởng và vật kiến trúc.

-

Chi phí xây dựng mới hoặc cải tạo nhà xưởng…

-

Chi phí về máy móc thiết bị, phương tiện vận tải…

-

Chi phí trước vận hành.

Vốn lưu động ban đầu:
Là các chi phí để tạo ra tài sản cố định ban đầu, các điều kiện để dự án có thể
đi vào hoạt động bình thường theo các điều kiện kinh tế kỹ thuật dự tính gồm:
-


Dự trữ sản xuất.

-

Dự trữ cho bán thành phẩm, thành phẩm tồn kho.

-

Các khoản thuộc quỹ tiền mặt.

Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào từng điều kiện cụ thể của từng dự án mà có thể có
hoặc không có, có ít hay có nhiều về vốn lưu động ban đầu.
Hai là: Xem xét các nguồn tài trợ cho dự án khả năng đảm bảo từ mỗi
nguồn, từ đó xác định số vốn mà Ngân hàng phải tài trợ.

13


Các nguồn tài trợ cho dự án có thể do ngân sách nhà nước cấp phát, NH cho
vay, vốn liên doanh, vốn nước ngoài … vì vậy, khi thẩm định cơ cấu nguồn vốn
đầu tư, Ngân hàng cần làm rõ vốn đầu tư cần thiêt từ từng nguồn để đi sâu tìm hiểu
khả năng hiện thực của các nguồn đó. Đối với các dự án được ngân sách nhà nước
hỗ trợ vốn một phần hay cấp phát thì cần xem xét các cam kết đảm bảo các cấp có
thẩm quyền đối với ngân sách.
Đối với các nguồn vốn vay từ các Ngân hàng khác cần xem xét độ tin cậy về
khả năng cho vay của các Ngân hàng đã cam kết cho vay. Nếu là vốn tự có thì
Ngân hàng cần kiểm tra, phân tích tình hình tài chính và sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp 3 năm trước đây và hiện tại chứng tỏ rằng cơ sở đã, đang và sẽ tiếp
tục hoạt động có hiệu quả, có tích luỹ để đảm bảo cho cung cầu vốn để thực hiện

dự án.
Ở những dự án có vốn vay nước ngoài, Ngân hàng tập trung xem xét các điều
kiện cho vay: lãi xuất cố định thả nổi, các loại chi phí vay vốn, thời gian cho vay
và ân hạn, phương thức và kĩ thuật chuyển vốn, hoàn trả vốn và lãi vay.
Về vốn đầu tư phải được thưc hiện đúng tiến độ ghi trong dự án để đảm bảo
tiến độ thực hiện các công việc chung của dự án vừa để tránh ứ đọng vốn, do đó,
các nguồn tài trợ không chỉ được xem xét về mặt số lượng mà cả về thời đIểm được
nhận tài trợ.
Sau khi kiểm tra tính hiện thực của các nguồn vốn, xác định lịch trình rút vốn
từ các nguồn khác, Ngân hàng thương mại sẽ xác định được số vốn mà Ngân hàng
cần phải tài trợ và kế họch bỏ vốn của mình.
Ba là: Xem xét dự án các bảng tài chính và phân tích tài chính.
Ở nội dung này, Ngân hàng thương mại sẽ thẩm định tính chính xác, hợp lí,
hợp lệ của các bảng dự trù tài chính. Cơ sở để xem xét là dụa trên nội dung của
luận chứng kinh tế kĩ thuật, các chỉ tiêu định mức kinh tế kĩ thuật của ngành do
Ngân hàng ban hành hoặc do các cơ quan chức năng chuyên môn công bố và dựa
trên kết quả thẩm định các mặt thị trường, tổ chức, kinh tế xã hội của Ngân hàng.
Các bảng tài chính được thẩm định thông thường bao gồm:
- Bảng dự trù chi phí sản xuất.

14


- Bảng dự trù lỗ lãi.
- Bảng dự trù tổng kết tài sản.
- Bảng dự trù cân đối thu chi.
Trên cơ sở thẩm định được tính chính xác hợp lý của bảng này, Ngân hàng
thương mại tiến hành phân tích tài chính dự án để xác định tình hình tài chính hiệu
quả hoạt động của dự án qua các năm và thường sử dụng các phương pháp sau:
Bảng dự trù tổng kết tài sản:

Năm thực hiện
Các chỉ tiêu
A- Tài sản.
1.-Tài sản cố định
- Nguyên giá
- Khấu hao
- Giá trị còn lại
2.- Tài sản lưu động
- Vốn bằng tiền
- Dự trữ (tồn kho)
- Tài sản lưu động
khác
- Các khoản phải thu
Cộng tài sản
B- Nguồn vốn
1.- Vốn cho vay
- Vốn vay ngắn hạn
- Vốn vay trung hạn
- Vốn vay dài hạn
2.- Vốn tự có
- Vốn đã có
- Quỹ phát triển
- Các quỹ khác
Cộng nguồn vốn

I

II

III


15


Bảng dự trù cân đối thu - chi:
Các chỉ tiêu

Vòng đời của dự án
Năm thứ 1 Năm thứ 2 Năm thứ 3

A- Các nguồn tiêu thụ
1.- Tổng doanh thu
2.- Vốn góp
3.- Vốn vay
- Ngắn hạn
- Trung hạn
- Dài hạn
4.- Thu do giải toả hàng tồn kho
5.- Nhượng bán tài sản cố định
6.- Thu nợ
7.-Thu khác
B- Các nguồn tiền chi
1.- Chi sản xuất trực tiếp
2.- Chi điều hành sản xuất
3.- Trả lãi vay
4.- Hoàn trả nợ gốc
5.- Chi phí chuẩn bị đầu tư
6.- Chi phi mua sắm tài sản cố định
7.- Vốn lưu động
8.- Chi phí khác

Chênh lệch thu chi
•Phân tích các tỉ lệ tài chính:
- Tỉ lệ về khả năng thanh toán:
+ Khả năng thanh toán hiện hành.
+ Khả năng thanh toán nhanh.
- Tỉ lệ về cân đối vốn:
+ Vốn riêng /tổng vốn đầu tư.
+ Vốn riêng /tổng nợ.
16


+ Tổng nợ /tổng vốn đầu tư.
- Tỉ lệ về khả năng hoạt động:
+ Vòng quay tiền.
+ Vòng quay dự trữ.
+ Chu kì tiền bình quân.
+ Hiệu suất sử dụng tài sản cố định.
+ Hiệu suất sử dụng tổng tài sản.
- Tỉ lệ khả năng sinh lời:
+ Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm.
+ Doanh lợi vốn tự có.
+ Doanh lợi vốn.
Các chỉ tiêu trên sẽ được tính toán dựa trên bảng dự trù tổng kết tài sản và
bảng dự trù lỗ lãi trong luận chứng kinh tế kỹ thuật của dự án đầu tư. Trong quá
trình phân tích, các chỉ tiêu này được so sánh qua các năm để thấy được xu hướng
thay đổi các tỉ lệ tài chính, đánh giá tình hình tài chính qua các năm được cải thiện
hay trở nên yếu kém để có biện pháp khắc phục dự án kịp thời. Các chỉ tiêu này
được so sánh với các dự án cùng loại để xác định vị thế của dự án mà Ngân hàng
đang xem xét tài trợ.



Phân tích các luồng tiền mặt:

Phân tích tài chính dự án đầu tư quan tâm tớilượng tiền mặt đi vào và đi ra của
dự án hay còn gọi là luồng tiền của dự án. Đảm bảo cân đối các dòng tiền là mục
tiêu quan trọng của phân tích dự án.
Trên cơ sở bảng dự trù cân đối thu chi, người thẩm định biết được khi nào tiền
mặt của dự án tăng, giảm, nguyên nhân biến đổi của dòng tiền. Điều này là rất có ý
nghĩa vì các dòng tiền mặt đảm bảo cho dự án đầu tư vận hành một cách nhịp
nhàng, hiệu quả. Nếu dòng tiền mặt bị ngưng trệ thì hoạt động của dự án rất khó
khăn, đôi khi còn rơi vào tình trạng phá sản.

17


Ngoài ra, Ngân hàng còn có thể phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian như
giá trị gia tăng, kết quả kinh doanh trước thuế, sau thuế.
Trong quá trình phân tích tài chính, Ngân hàng có thể áp dụng phương pháp
này, phương pháp khác có thể tính hết các chỉ tiêu hoặc thêm một số chỉ tiêu khác
nữa phụ thuộc vào điều kiện của từng dự án cụ thể.
Bốn là: Đánh giá tài chính dự án đầu tư.
Xuất phát từ ba đặc điểm của hoạt động dự án đầu tư là đánh đổi lợi ích hiện
tại lấy lợi ích tương lai, lâu dài và bấp bênh hoạt động nên hệ thống chỉ tiêu đánh
giá dự án đầu tư cũng phải phản ánh đông thời các mặt trên của dự án. Các chỉ tiêu
thường được sử dụng khi phân tích đánh giá tài chính dự án đầu tư bao gồm:
- Khả năng sinh lời của vốn đầu tư vào dự án.
- Khả năng hoàn vốn.
- Mức độ rủi ro.
Khả năng sinh lời của vốn đầu tư:
Mức sinh lời của dự án được xác định trên cơ sở so sánh lợi ích thu được với

lợi ích đã bỏ ra.Một số cách so sánh chi phí với lợi ích tương ứng nhận được các
chỉ tiêu so sánh như sau:
Giá trị hiện tại ròng: Giá trị hiện tại ròng ( NPV) hay còn gọi là giá trị hiện tại
thuần nhất của một dự án đầu tư là số chênh lệch giữa giá trị hiện tại của các luồng
tiền kì vọng trong tương lai với giá trị hiện tại của vốn đầu tư.Mục đích của việc
tính chỉ tiêu NPV là để xem xem chi phí cơ hội của vốn đầu tư, xem xét việc sử
dụng nguồn lực cho dự án đầu tư có mang lai lợi ích lớn hơn nguồn lực đã sử dụng
không.
n

NPV = - Co + ∑
t =1

Trong đó : Co: vốn đầu tư ban đầu của dự án tính tại thời điểm đầu
Ct: luồng tiền cho dự án mang lại ở năm thứ t
n : thời kì phân tích dự án
r : tỉ lệ chiết khấu áp dụng cho dự án
18


Sử dụng: chỉ sử dụng các dự án có NPV > 0
Nếu có nhiều dự án loại trừ nhau thì ta chọn dự án có NPV max
- Ưu điểm: NPV là một chỉ tiêu rất quan trọng. Nó cho ta biết quy hiểu giá tiền
tiền lời của một dự án là lớn hay nhỏ sau khi đã hoàn trả đủ vốn đầu tư. Nói cách
khác, NPV phản ánh hiệu quả của việc đầu tư về phương diện tài chính.
- Nhược điểm: chỉ tiêu này phụ thuộc vào lãi xuất chiết khấu.Do đó cần phải
lựa chọn lãi xuất chiết khấu sao cho phù hợp với từng dự án, trên cơ sở tinh toán
chi phí sử dụng vốn của từng dự án.Chỉ tiệu NPV không cho biết tỉ lệ sinh lời mà
bản thân dự án có thể tạo ra được.Chỉ tiêu này không được áp dụng cho các dự án
có thời gian khác nhau và có vốn đầu tư khác nhau.Do đó, muốn so sánh ta phải

tính chuyển đổi NPV.
•Chỉ số doanh lợi PI:
Chỉ số này được tính dựa vào mối quan hệ tỷ số giữa thu nhập ròng hiện tại so
với vốn đầu tư ban đầu.
Công thức:

n


PI =

t=1

C0
Về nguyên tắc, dự án nhả thi phải là dự án có PI >1, tức là giá trị hiện tại của
các khoản tiền mặt trong thời kỳ phân tích tại thời đIểm bắt đầu vận hành dự án
phải lớn hơn số vốn đầu tư ban đầu đã bỏ ra.Tuy nhiên, thực tế người ta chỉ chấp
nhận những dự án có PI đáp ứng được yêu cầu của NHTM đối với chủ đầu tư (chỉ
số doanh lợi chấp nhận được)
Chỉ tiêu PI phản ánh khả năng sinh lợi của dự án trên mỗi đơn vị tiền tệ được
đầu tư nhưng vẫn phụ thuộc vào lãi suất chiết khấu được áp dụng.
Chỉ số doanh lợi PI hay còn gọi là chỉ số lợi ích chi phí.

19




Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ IRR


+ Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ đo lường tỷ lệ hoàn vốn đầu tư của một dự án, nó là
lãi xuất chiết khấu mà với giá trị này thì giá trị hiện tại tòng của dự án = 0.
Cách tính:
Đặt IRR = r và NPV = 0 :
n

NPV = - Co + ∑ = 0
t=1

Dùng phương pháp nội suy, ta có:

IRR = r1 + (r2 - r1)

Trong đó:

r1, r2: tỷ lệ chiết khấu lựa chọn.
NPV1: giá trị dương gần 0 với tỷ lệ chiết khấu r1.
NPV2: giá trị âm gần 0 với tỷ lệ chiết khấu r2.

Sử dụng: Nếu các dự án đầu tư đã độc lập với nhau thì dự án có.
IRR >=r sẽ được lựa chọn. Nếu các dự án có loại trừ nhau thì ta chọn dự án có
IRR cao nhất.
Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ biểu thị sự hoàn trả vốn đầu tư và nó chỉ ra tỷ lệ lãi suất
tối đa dự án đầu tư có thể chịu được. Nó cung cấp một thông tin hữu hiệu cho nhà
tài trợ khi định giá các khoản vay.
Sử dụng chỉ tiêu IRR có ưu điểm là nó được tính toán dựa vào số liệu của dự
án mà không cần số liệu về tỷ lệ chiết khấu.Tuy nhiên, tiêu chuẩn này có một số
nhược điểm sau:
- Không xác định được tỷ lệ hoàn vốn nội bộ trong trường hợp đồng tiền bị
biến dạng nhiều lần vì có rất nhiều lời giải khi tính IRR.

20


- Sử dụng chỉ tiêu IRR để lựa chọn dự án sẽ dẫn tới sai lầm khi các dự án là
các giải pháp thay thế có những đIêu kiện khác nhau như quy mô, thời gian tồn taị,
thời điểm đầu tư.

NPV

0

r (%)

Hình 1: Có 3 tỷ xuât nội hoàn.
Không cho phép xác định được những thông tin về mức độ sinh lợi
của một đồng vốn bỏ ra ban đầu, thời gian hoàn vốn.
.

Khả năng hoàn vốn: khả năng hoàn vốn của một dự án đầu tư được

biểu thị bằng thời gian thu hồi vốn đầu tư ban đầu và thời gian hoàn trả vốn
vay.
Thời gian hoàn trả vốn ban đầu: thời gian hoàn trả vốn ban đàu là khoảng thời
gian từ khi bắt đầu thực hiện đầu tư đến năm T, được xác định như sau:
n

C0 = ∑
t=1

Thời gian hoàn trả vốn vay: được xác định tương tự như đối với xác định thời

gian hoàn trả vốn đầu tư đầu tư ban đầu nhưng được xác định tương ứng với lượng
vốn đầu đi vay.

21


Khả năng trả nợ: được đánh bằng chỉ tiêu tỷ lệ đảm bảo trả nợ đến hạn
hay còn gọi là Rtrả nợ được xác định theo công thức:

Rtrả nợ =

Nguồn tiền trả nợ hàng năm
Số nợ phải trả hàng năm

Nguồn tiền trả nợ được xác định bằng tổng mức khấu hao hàng năm và lợi
nhuận dùng để trả nợ. Bởi vì trong nhiều trường hợp xét tổng nguồn trả nợ trong cả
thời gian trả nợ hoàn toàn đảm bảo nhưng xét từng năm thì có thể có năm thiếu tiền
trả nợ.
Đánh giá khả năng trả nợ không những cho phép cho thấy mức độ tin cậy của
dự án về mặt tài chính mà còn là điều kiện để các Ngân hàng, các tổ chức tài chính
xem xét tài trợ cho dự án. Đây chính là chỉ tiêu rất quan trọng và được các nhà tài
trợ tài chính đặc biệt quan tâm.
3 . Các chỉ tiêu đánh giá mức độ rủi ro của dự án đầu tư:
4 Để đánh giá mức độ rủi ro của các dự án người ta thường dùng một số chỉ
tiêu trong đó phổ biến và đơn giản nhất là hai chỉ tiêu: điểm hoà vốn và độ nhạy.
Điểm hoà vốn: xét về mặt lý thuyết thì điểm hoà vốn là điểm mà tại đó có
Tổng doanh thu = tổng chi phí. Người ta có thể tính điểm hoà vốn cho cả dự
án và cho từng năm cụ thể.
- Điểm hoà vốn lý thuyết tính cho cả dự án là điểm mà tại đó
Tổng doanh thu = tổng CF khả biến từ đầu dự án tới thời điểm đó và tổng định

phí của cả dự án. Thông thường, điểm hoà vốn được biểu thị = tổng số sản phẩm
sản xuất ra và được xác định theo công thức:
X = f/(P-V)

Trong đó:

X: số sản phẩm cần sản xuất để hoà vốn

22


f : tổng định phí giá cả
P: giá bán bình quân một đơn vị sản phẩm
V: biến phí một đơn vị sản phẩm
- Điểm hoà vốn lý thuyết tính theo từng năm là điểm mà tại đó doamh thu
ngang bằng với chi phí sản xuất trong năm.
Một số chỉ tiêu biểu thị điểm hoà vốn trong năm:
+ Điểm hoà vốn lý thuyết = định phí/(doanh thu-B.phí)
+ Doanh thu hoà vốn = điểm hoà vốn lý thuyết *tổng doanh thu năm
+ Số lượng hoà vốn = điểm hoà vốn lý thuyết *tổng số lượng
+ Công xuất hoà vốn = số lượng hòa vốn/công xuất hoặch định
- Điểm hoà vốn thực hiện: là điểm hoà vốn cho phép dự trù khả năng của dự
án để có triển vọng trả nợ trung- dài hạn Ngân hàng.
- Điểm hoà vốn thực hiện = định phí khấu hao cơ bản /(doanh thu – biến phí)
Đánh giá độ nhạy của dự án đẩu tư: nhằm mục đích tính giới hạn an toàn của
dự án khi có sự thay đổi các yếu tố đẩu tư và hoạt động xét theo hiệu quả của nó.
Từ ý nghĩa độ nhạy cảm của dự án được đặc trưng bằng tỷ lệ mức độ các chỉ tiêu
dánh giá dự án(khả năng sinh lợi, hoàn vốn)so với mức độ thay đổi các yếu tố thay
đổi của dự án. Tổng quát độ nhạy của dự án được xác định như sau:
E = PF1-PX1

Trong đó:

E: độ nhạy
PF: mức độ biến đổi các chỉ tiêu đánh giá dự án
PX: mức độ biến đổi các nhân tố ảnh hưởng

Thông thường, người ta kiểm tra độ nhạy của dự án theo từng nhân tố có ảnh
hưởng riêng biệt và đôi khi cũng tiến hành kiểm tra với sự biến đổi đồng thời của
một vài yếu tố. Đối với Ngân hàng thương mại, việc đánh giá độ nhạy là xác định
lại các chỉ tiêu đánh giá dự án đầu tư, điều đó đòi hỏi khá nhiều công sức. Vì vậy,
23


Ngân hàng thương mại thường kiểm tra một vài yếu tố cơ bản nhất trong các tình
huống thích hợp, như là:
- Khối lượng sản phẩm tiêu thụ trong trường hợp xác định thị trường chắc
chắn
- Chi phí xác định trong trường hợp khối lượng công tác xác định và giá đầu
tư chưa cụ thể.
- Chi phí sản xuất trong trường hợp giá cả và điều kiện cung cấp các yếu tố
đầu vào thường biến động.
Năm là: Xác định bảng cân đối khả năng trả nợ.
Ở nội dung này, Ngân hàng thương mại sẽ xác định tất cả số nợ gốc mà dự án
phải trả hàng năm so với nguồn trả nợ từ khấu hao, phần lợi nhuận dùng để trả nợ
và các nguồn khác. Nếu dự án không đủ khả năng trả nợ thì phải tìm giải pháp bù
đắp.
4.

CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG.


4.1 Chất lượng thẩm định dự án đầu tư:
Ngân hàng thương mại trong chính sách tín dụng của mình luôn đặt mục tiêu
an toàn, lợi nhuận lên hàng đầu. Thẩm định dự án đầu tư là một hoạt động nghiệp
cù phức tạp, có ảnh hưởng quyết định tới hoạt động cho vay của Ngân hàng. Vì
vậy, đối với Ngân hàng thương mại, mối quan tâm hàng đầu chính là chất lượng
công tác thẩm định dự án đầu tư.
Thẩm định dự án đầu tư nhằm giúp Ngân hàng đưa ra mồt quyết định tài trợ
có chất lượng cao. Đứng trên giác độ của các nhà quản lý Ngân hàng, hoạt động
thẩm định được coi là có chất lượng khi hỗ trợ đắc lực cho việc đưa ra một kế
hoặch cho vay, thu nợ với lãi suất phù hợp với tình hình hoạt động của dự án cũng
như các hoạt động của Ngân hàng. Điều này có nghĩa là chất lượng thẩm định dự
án đầu tư tốt sẽ giúp Ngân hàng nhanh chóng tìm ra lời giải tối ưu cho bài toán: cho
dự án nào vay, cho vay bao nhiêu, thời gian, lãi suất…

24


Để có chất lượng thẩm định tài chính cao, đòi hỏi Ngân hàng phải tuân thủ
chặt chẽ trình tự và nội dung thẩm định, đồng thời quá trình thẩm định phải hội tụ
đầy đủ các nhân tố tích cực tác động đến nó.Như vậy, yếu tố nào đã làm ảnh hưởng
tới chất lượng thẩm định dự án đầu tư.
4.2 Các nhân tố ảnh hưởng
Phương pháp thẩm định và chỉ tiêu thẩm định: Thu thập các tài liệu cần thiết
cho việc phân tích đánh giá dự án, tiến hành sắp xếp thông tin và sử dụng các biện
pháp sử lý một cách có hệ thống theo các nội dung thẩm định.Trong điều kiện hiện
nay, nếu Ngân hàng sử dụng các phương pháp thẩm định cũ với các chỉ tiêu cũ thì
kết quả thẩm định tài chính sẽ không chính xác, chất lượng thấp. Những phương
pháp thẩm định tài chính hiện đại sữ giúp cho việc phân tích đánh giá dự án đầu tư
ddược toàn diện, chính xác và có hiệu quả cao.
Thẩm định tài chính bao gồm ập hợp các hoạt động xem xét, đánh giá dự đoán

các luồng chi phí, lợi ích tài chính của dự án và xác định giá trị ròng của chúng
trong đIều kiện giá trị của tiền thay đổi theo thời gian. Việc tính đến giá trị thời
gian của tiền trong các phương pháp, chỉ tiêu thẩm định là rất quan trọng. Có nhiều
dự án là khả thi nếu không tính tới giá trị thời gian của tiền nhưng lại không khả thi
khi áp dụng phương pháp hiện tại các luồng tiền.
Một trong những yếu tố quan trọng để xác định hiệu quả kinh tế tài chính là tỷ
lệ chiết khấu được lựa chọn để tính toán. Nếu tỷ lệ này quá thấp sẽ kích thích đầu
tư vào các dự án kém hiệu quả nhưng nếu quá cao sẽ hạn chế đầu tư.
Hiện nay có rất nhiều phương pháp thẩm định dự án đầu tư khác nhau nhưng
việc lựa chọn phương pháp, chỉ tiêu thẩm định nào cho phù hợp với điều kiện của
từng dự án cũng rất quan trọng. Các phương pháp thẩm định tài hiện đại không chỉ
xem xét dự án trong trạng thái tĩnh mà còm phân tích trạng thái động của thị
trường. Điều quan trọng là Ngân hàng thương mại phải biết áp dụng một cách đồng
bộ các chỉ tiêu để vừa đảm bảo tính chính xác toàn diện, kết hợp được ưu điểm của
các chỉ tiêu phù hợp với điều kiện tình hình thực tế của các ngành vùng, mỗi dự án
cũng như điều kiện cụ thể của Ngân hàng.

25


×