Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

BÀI GIẢNG LUẬT tài CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (610.43 KB, 84 trang )

BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM
KHOA: KINH TẾ
BỘ MÔN: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG

BÀI GIẢNG
LUẬT TÀI CHÍNH

TÊN HỌC PHẦN:
LUẬT TÀI CHÍNH
MÃ HỌC PHẦN:
15703
TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO:
ĐẠI HỌC CHÍNH QUY
DÙNG CHO SV NGÀNH: QUẢN TRỊ

HẢI PHÒNG - 2015

1


YÊU CẦU VÀ NỘI DUNG CHI TIẾT
Tên học phần: Luật Tài chính
Mã HP: 15703
a. Số tín chỉ: 02 TC
BTL  ĐAMH 
b. Đơn vị giảng dạy: Bộ môn Tài chính – Ngân hàng
c. Phân bổ thời gian:
- Tổng số (TS): 30 tiết
- Lý thuyết(LT): 28 tiết
- Tự học: 60 tiết


- Kiểm tra (KT): 02 tiết
d. Điều kiện đăng ký học phần : Sinh viên đã học các học phần: Pháp luật Kinh tế
e. Mục đích, yêu cầu của học phần:
Kiến thức:
Cung cấp kiến thức khái quát về Luật tài chính nói chung và các kiến thức về Luật Ngân sách
Nhà nước, Luật thuế một cách cụ thể
Kỹ năng:
- Tư vấn các kiến thức luật pháp về tài chính cho các doanh nghiệp.
- Có khả năng vận dụng những kiến thức về pháp luật thuế để làm việc trong các cơ quan thuế
hoặc trong doanh nghiệp.
- Nắm vững quá trình tạo lập, phân phối sử dụng quỹ ngân sách nhà nước thông qua chu trình
lập, chấp hành, quyết toán ngân sách nhà nước.
f. Mô tả nội dung của học phần:
Môn học gồm năm nội dung cơ bản, một là khái quát về Luật Tài chính và Luật NSNN, hai
là các chế độ pháp lý về thu chi NSNN, ba là tổ chức hệ thống NSNN và phân cấp quản lý
NSNN, bốn là chu trình NSNN và năm là quản lý quỹ NSNN.
g. Người biên soạn: ThS. Lương Thị Kim Dung và ThS Nguyễn Lê Mạnh Cường, PGS. TS.
Vũ Trụ Phi
h. Nội dung chi tiết học phần
PHÂN PHỐI SỐ TIẾT
TÊN CHƯƠNG MỤC
TS LT BT XM
HD KT
Chương 1: Những vấn đề lý luận về Luật TC,
4
4
NSNN và Luật NSNN
1.1.Khái quát chung về Luật TC, NSNN và Luật
3
3

NSNN
1.2. Tổng quan về Luật NSNN ở Việt Nam
1
1
Nội dung tự học: 10 tiết
1- Nghiên cứu Luật NSNN 2015 và các văn bản
hướng dẫn thi hành
Mục 1.1.4. Vai trò của NSNN trong nền kinh tế thị
trường
Mục 1.2.3. Quan hệ pháp luật NSNN:
Mục 1.2.4. Mô hình Luật NSNN ở Việt Nam
Chương 2: Chế độ pháp lý về thu NSNN
8
7
1
2.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại thu NSNN
2
2
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu NSNN
2
2
2.3. Các khoản thu thường xuyên của NSNN
4
3
1
Nội dung tự học: 15 tiết
Mục 2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đên thu NSNN
1Nghiên cứu trình độ phát triển kinh tế, đánh
giá hiệu quả đầu tư
2Nghiên cứu chức năng, nhiệm vụ của các cơ

quan thực hành thu
3Nghiên cứu các nghieepj vụ cơ bản của Kho
bạc NN; cơ quan thuế; Hải quan

2


Chương 3: Chế độ pháp lý về chi NSNN
3.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại chi NSNN
3.2. Các khoản chi thường xuyên của NSNN
Nội dung tự học: 20 tiết
1Tìm hiểu về các khoản chi thường xuyên của
NSNN về các lĩnh vực GD ĐT, Y tế.
2Tìm hiểu về các khoản chi đầu tư phát triển
cho các công trình trọng điểm quốc gia

6
2
4

6
2
4

4

4

2


2

1
1

1
1

6
1
2
2
1

5
1
2
1
1

Chương 6: Quản lý quỹ NSNN
2
6.1. Khái niệm quản lý quỹ NSNN
1
6.2. Chức năng, nhiệm vụ hệ thống Kho bạc Nhà
1
nước
Nội dung tự học: 5 tiết
1- Tìm hiểu về hệ thống Kho bạc Nhà nước ở Việt
Nam qua các thời kỳ

Mục 6.1.3. Các chủ thể tham gia quản lý quỹ NSNN ở
VN từ sau CMT8 1945 đến nay

2
1

Chương 4: Tổ chức hệ thống NSNN và phân cấp
quản lý NSNN
4.1. Tổ chức hệ thống NSNN và phân cấp quản lý
NSNN
4.2. Thu chi Ngân sách trung ương
4.3. Thu chi Ngân sách địa phương
Nội dung tự học: 5 tiết
1- Tìm hiểu về cách thức tổ chức hệ thống NSNN ở
các quốc gia phát triển
Mục 4.1.2. Phân cấp quản lý NSNN
Chương 5: Chu trình NSNN
5.1. Năm ngân sách và chu trình ngân sách
5.2. Lập dự toán NSNN
5.3. Chấp hành dự toán NSNN
5.4. Quyết toán NSNN
Nội dung tự học: 5 tiết
1- Tìm hiểu về cách thức tổ chức hệ thống NSNN ở
các quốc gia phát triển

1
1

1


i. Mô tả cách đánh giá học phần
Điều kiện dự thi: Tham dự học tập > = 75% số giờ trên lớp; Xi > 4
Mô tả phương thức tính điểm :
Z = 0,5 X + 0,5 Y trong đó :

X : là điểm tư cách dự thi kết thúc học phần
X= k1.X1+k2.X2+k3.X3
o
X1: điểm chuyên cần; giáo viên đánh giá dự trên các điều kiện: Tham dự học
tập >75% tổng thời lượng trên lớp, tinh thần, thái độ tham gia học tập .
o
X2: Trung bình cộng các bài kiểm tra giữa học kỳ;
o
X3 : Điểm tổng hợp bình quân của các nhiệm vụ giao cho sinh viên (Phần nội
dung tự tìm hiểu, thảo luận…)

3


o
k1, k2, k3 trọng số tương ứng với X1, X2, X3; k1=10%, k2=60%, k3=30%

Y : Là điểm bài thi kết thúc học phần
Thang điểm: Thang điểm chữ A+, A, B+, B, C+, C, D+, D, F
k. Giáo trình
Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật ngân sách nhà nước, Nhà xuất bản
Công an nhân dân, Hà Nội.
l. Tài liệu tham khảo
1. Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật ngân sách nhà nước, Nhà xuất bản
Công an nhân dân, Hà Nội.

1.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Pháp luật về thuế, Nhà xuất
bản Công an nhân dân, Hà Nội.
2.
Luật Ngân sách Nhà nước 2015 - Luật Số 83/2015/QH13
m. Ngày phê duyệt:
n. Cấp phê duyệt:
Trưởng khoa

Trưởng bộ môn

Người biên soạn

o. Tiến trình cập nhật đề cương
Cập nhật lần 1: Ngày 14/9/2015
Nội dung: Rà soát theo kế hoạch Nhà trường (từ T4/2014) gồm:
- Chỉnh sửa, làm rõ các mục e, i theo các mục tiêu đổi mới căn
bản;
- Mục h: Bổ sung nội dung tự học cuối mỗi chương, chuyển một
số nội dung giảng dạy sang phần tự học;
- Bổ sung các mục m, n, o
Cập nhật lần 2:

Người cập nhật:
Vũ Trụ Phi
Trưởng BM:
Đỗ thị Mai Thơm
Người cập nhật:

Trưởng BM:


Cập nhật lần 3:

Người cập nhật:

Trưởng BM:

4


MỤC LỤC
CHƯƠNG II: CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ THU NSNN......................................17
CHƯƠNG III : CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ CHI NSNN.....................................23
CHƯƠNG 4 : TỔ CHỨC HỆ THỐNG NSNN...............................................26
VÀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NSNN...................................................................26
CHƯƠNG 5 : CHU TRÌNH NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC..............................32
CHƯƠNG 6 : QUẢN LÝ QUỸ NSNN............................................................36
CHƯƠNG 6 : QUẢN LÝ QUỸ NSNN............................................................81

5


CHƯƠNG I : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀLUẬT TÀI CHÍNH, NSNN VÀ LUẬT
NSNN
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT TÀI CHÍNH, NSNN VÀ LUẬT NSNN
1.1.1. Khái quát chung về Luật tài chính
1.1.1.1. Hệ thống tài chính trong nền kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam
Tài chính được hiểu là tổng hòa các mối quan hệ kinh tế dưới hình thái tiền tệ trong việc hình
thành và sử dụng các quỹ tiền tệ trong xã hội.
Các quan hệ xã hội này tuy có cùng bản chất nhưng chúng có thể được hình thành trong

những trật tự và phạm vi khác nhau, gắn với việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ với
những mục đích sử dụng khác nhau. Do vậy, tài chính sẽ bao gồm những nhóm quan hệ tài
chính khác nhau. Giữa các nhóm quan hệ này vừa tách biệt, vừa có mối quan hệ qua lại lẫn.
Các nhóm quan hệ tài chính này được xem như là mỗi khâu tài chính. Tập hợp tất cả các khâu
tài chính hình thành nên hệ thống tài chính.
Như vậy, hệ thống tài chính là tập hợp những nhóm quan hệ tài chính (các khâu tài chính)
khác nhau được hình thành trong quá trình tạo lập, quản lý và sử dụng những quỹ, những
nguồn vốn tiền tệ nhất định.
Trong điều kiện hiện nay, hệ thống tài chính của Việt Nam bao gồm những khâu sau đây:
Ngân sách nhà nước, tín dụng, bảo hiểm, tài chính doanh nghiệp, tài chính hộ gia đình và tổ
chức xã hội.
- Khâu Ngân sách nhà nước: đây là khâu trung tâm của hệ thống tài chính. Các quan hệ tài
chính-ngân sách gắn với việc hình thành và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước.
Quỹ ngân sách nhà nước được hình thành từ các nguồn tài chính của các khâu tài chính
khác, trong đó chủ yếu là các khoản nộp mang tính chất pháp lý bắt buộc như thuế, phí, lệ
phí.
Bên cạnh đó, quỹ ngân sách nhà nước còn được hình thành từ các nguồn khác như vay trong
dân cư, vay nợ, viện trợ...
- Khâu tài chính tín dụng: Các nguồn vốn dạng này được tập trung lại dưới các hình thức khác
nhau tạo thành các quỹ tín dụng nhằm cung cấp, thỏa mãn nhu cầu về tiền tệ của các chủ thể
trong xã hội.
- Khâu tài chính Bảo hiểm: Quỹ bảo hiểm được hình thành từ mối quan hệ bảo hiểm sẽ hình
thành nên nguồn tài chính tham gia vào thị trường tài chính. Bảo hiểm trở thành một khâu của
hệ thống tài chính từ việc hình thành nên quỹ bảo hiểm và tái phân phối quỹ tiền tệ này.
- Tài chính doanh nghiệp: là khâu cơ sở của hệ thống tài chính, bao gồm những quan hệ tài
chính gắn với hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp như các quan hệ trong
việc hình thành, xác lập nguồn vốn kinh doanh, phân phối thu nhập, tích lũy trong nội bộ
doanh nghiệp và trong quan hệ với ngân sách nhà nước. Đây là khâu tài chính cơ sở gắn liền
với hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
- Khâu tài chính dân cư và các tổ chức xã hội:

+ Đối với tài chính dân cư, bao gồm hai dạng hoạt động tài chính.
Một là, hoạt động sản xuất, kinh doanh mang tính chất cá nhân. Nguồn vốn này được hình
thành từ thu nhập được tích lũy của họ hoặc từ các nguồn khác nhau trên thị trường tài chính.
Một loại quan hệ tài chính khác gắn liền với việc hình thành, sử dụng quỹ tiền tệ thỏa mãn
cho tiêu dùng của dân cư. Quỹ này được hình thành từ thu nhập thường xuyên hoặc không
thường xuyên của cá nhân. Người dân sử dụng quỹ này để tiêu dùng, đóng thuế cho nhà
nước, phần nhàn rỗi họ lại đưa vào thị trường tài chính dưới các hình thức đầu tư như góp
vốn cổ phần, gửi tiết kiệm...
+ Khâu tài chính này còn bao gồm tài chính của các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ.
Nguồn quỹ này được hình thành từ đóng góp của các thành viên hoặc từ sự đóng góp của
dân cư, hỗ trợ của nhà nước...

6


1.1.1.2. Hoạt động tài chính
+ Hoạt động tài chính của nhà nước:
Hoạt động tài chính của nhà nước là loại hoạt động tài chính công-hoạt động của tổ chức
mang quyền lực công. Hoạt động tài chính của nhà nước thể hiện trên hai phương diện:
- Nhà nước trực tiếp tiến hành các hoạt động tài chính. Thông qua các cơ quan đại diện cho
quyền lực công, nhà nước tham gia vào quá trình hình thành, phân phối và sử dụng nguồn
vốn tiền tệ là ngân sách nhà nước với mục đích đảm bảo lợi của nhà nước, lợi ích công cộng.
- Nhà nước tổ chức, hướng dẫn các hoạt động tài chính mang tính chất vi mô như hoạch định
các chính sách, phương hướng hoạt động tài chính, tiền tệ; xây dựng các thiết chế, định chế
liên quan đến hoạt động tài chính; thiết lập khung khổ pháp lý, hành lang an toàn cho hoạt
động tài chính của mọi chủ thể tham gia vào thị trường tài chính, tiền tệ nói chung.
Hoạt động tài chính của nhà nước có thể được hình dung như sau: đó là hoạt động của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền trong việc tập trung, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài
chính, mà trọng tâm là nguồn ngân sách nhà nước.
+ Hoạt động tài chính của các chủ thể khác:

Ngoài nhà nước, các chủ thể khác trong xã hội (bao gồm các cơ quan nhà nước ngoài những
cơ quan tiến hành các hoạt động tài chính công, các đoàn thể xã hội, các tổ chức kinh tế, cá
nhân...) cũng tiến hành các hoạt động tài chính ở phạm vi và mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào
tính chất và mục tiêu của họ. Nhìn chung, hoạt động tài chính của các chủ thể khác thường
diễn ra theo hai phương diện:
- Các hoạt động tài chính diễn ra giữa nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội xoay
quanh vấn đề ngân sách nhà nước. Hầu khác các chủ thể tồn tại trong xã hội đều có mối liên
hệ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đối với việc hình thành, phân phối và sử dụng quỹ tiền
tệ là ngân sách nhà nước, cụ thể thông qua các hoạt động nhận kinh phí, vốn từ ngân sách nhà
nước, nộp thuế hoặc các khoản thu khác vào ngân sách nhà nước.
- Các hoạt động tài chính của các chủ thể trong mối quan hệ với thị trường tài chính. Các
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đều có thể tham gia vào thị trường tài chính nhằm thỏa mãn
mục đích kinh doanh, đầu tư hay nhu cầu về vốn thông qua hoạt động cho vay, vay, mua bán
các loại giấy tờ có giá trên thị trường tài chính.
1.1.1.3. Luật tài chính trong hệ thống pháp luật Việt Nam
+ Khái niệm: Luật Tài chính là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ, các nguồn vốn tiền tệ gắn
liền với việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước và hoạt động của các chủ thể
kinh tế xã hội khác.
+ Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật Tài chính:
- Đối tượng điều chỉnh của Luật Tài chính:
Đối tượng điều chỉnh của Luật Tài chính hiện nay bao gồm cả những quan hệ tài chính giữa
các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, quan hệ tài chính của các tổ chức, cá nhân
trên thị trường tài chính. Những quan hệ này không nhất thiết phải có sự tham gia của nhà
nước với tư cách là bên chủ thể.
Đối tượng điều chỉnh của luật tài chính thường được phân chia theo 2 cách:
Cách 1. Căn cứ vào lĩnh vực mà các quan hệ tài chính được hình thành, gồm các quan hệ:
 Các quan hệ tài chính - ngân sách. Đây là nhóm quan hệ tài chính phát sinh gắn liền
với việc hình thành, phân phối, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước là quỹ
ngân sách nhà nước.

 Các quan hệ tài chính doanh nghiệp. Đây là nhóm quan hệ phát sinh trong hoạt động tài
chính của doanh nghiệp gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
 Các quan hệ tài chính trong lĩnh vực bảo hiểm.
 Các quan hệ tín dụng.
 Các quan hệ tài chính trong khu vực dân cư, các tổ chức xã hội.
Cách 2. Căn cứ vào hệ thống các chủ thể tham gia các hoạt động tài chính, gồm:

7


 Quan hệ tài chính giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với cơ quan nhà nước ở địa
phương trong hoạt động thu, chi phân cấp quản lý ngân sách nhà nước.
 Quan hệ tài chính giữa cơ quan tài chính, tổ chức tín dụng với nhau phát sinh trong quá
trình quản lý, sử dụng quỹ ngân sách nhà nước và các quỹ tiền tệ khác.
 Quan hệ tài chính giữa cơ quan tài chính, tổ chức tài chính với các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế. Các quan hệ này phát sinh trong việc cấp phát vốn, thu nộp thuế vào ngân
sách nhà nước.
 Các quan hệ tài chính giữa các cơ quan tài chính, tổ chức tài chính với dân cư.
 Nhóm quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp.
- Phương pháp điều chỉnh của luật tài chính
Luật tài chính sử dụng hai phương pháp điều chỉnh chủ yếu là phương pháp mệnh lệnh bắt
buộc và phương pháp bình đẳng thỏa thuận.
+ Hệ thống luật tài chính
Thông thường, hệ thống luật tài chính bao gồm phần chung và phần riêng.
- Phần chung chứa đựng các quy phạm pháp luật quy định những nguyên tắc cơ bản, hình
thức của hoạt động tài chính và phương pháp thực hiện hoạt động tài chính; xác định chủ thể
tham gia các quan hệ tài chính, thẩm quyền của các chủ thể này.
- Phần riêng: bao gồm nhóm các quy phạm pháp luật khác nhau hình thành nên các chế định
của luật tài chính. Đó là các nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh các nhóm quan hệ tài chính
cụ thể.

+ Quy phạm pháp luật tài chính:
Quy phạm pháp luật tài chính là những quy tắc xử sự trong lĩnh vực tài chính do nhà nước
định ra, có tính phổ biến, tính bắt buộc chung và được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh
cưỡng chế của nhà nước.
Căn cứ vào tính chất, quy phạm pháp luật tài chính được phân biệt thành 3 nhóm:
- Nhóm quy phạm bắt buộc: là loại quy phạm quy định những hành vi bắt buộc các chủ thể
của quan hệ pháp luật tài chính phải thực hiện, nếu không thực hiện là vi phạm pháp luật tài
chính, ví dụ hành vi thu thuế của cơ quan thuế, hành vi nộp thuế của các tổ chức, cá nhân.
- Nhóm quy phạm cấm đoán: là loại quy phạm xác định một số hành vi nhất định và cấm
các chủ thể của quan hệ pháp luật tài chính thực hiện các hành vi đó.ví dụ một số hành vi bị
ngăn cấm: lập quỹ trái phép, để ngoài sổ sách thu chi tài chính.
- Nhóm quy phạm cho phép (trao quyền): là loại quy phạm trao quyền cho các chủ thể
trong một số quan hệ tài chính nhất định có thể lựa chọn làm hoặc không làm những việc nhất
định.vd hành vi đóng góp tự nguyện cho ngân sách nhà nước.
+ Quan hệ pháp luật tài chính:
Quan hệ pháp luật tài chính là những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực tài chính
chịu sự điều chỉnh của quy phạm pháp luật tài chính.
Quan hệ pháp luật tài chính bao gồm: chủ thể, khách thể và nội dung
- Chủ thể của quan hệ pháp luật tài chính: đó là những tổ chức cá nhân tham gia vào quan hệ
pháp luật tài chính. Do tính đa dạng của các quan hệ tài chính nên các chủ thể của quan hệ tài
chính cũng rất đa dạng, bao gồm: nhà nước, pháp nhân, cá nhân.
- Khách thể của quan hệ pháp luật tài chính: các quỹ tiền tệ nhằm thỏa mãn các nhu cầu khác
nhau tương ứng với các chủ thể khác nhau trong quan hệ pháp luật tài chính.
- Nội dung của quan hệ pháp luật tài chính: bao gồm quyền và nghĩa vụ mang tính chất pháp
lý của các chủ thể được xác lập khi tham gia vào quan hệ pháp luật tài chính.
1.1.2. Sự ra đời của NSNN và thuật ngữ NSNN
Lịch sử tài chính công đã chứng minh rằng có sự khác nhau đáng kể giữa NSNN và thuật ngừ
NSNN. Nếu NSNN – với ý nghĩa là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước, ra đời từ rất
sớm cùng với sự hình thành của Nhà nước trong lịch sử thì thuật ngữ NSNN – với tính cách
là 1 khái niệm khoa học lại ra đời muộn hơn rất nhiều, khi Nhà nước đã phát triển đến một

giai đoạn nhất định mà ở đó sự phân biệt giữa tài chính công và tài chính tư đã trở nên càn
thiết như một nhu cầu bất khả tránh.

8


Trong thời kỳ đầu của lịch sử Nhà nước, quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước ( quỹ
NSNN ) do người đứng đầu Nhà nước quyết định.Ở giai đoạn này, quỹ tiền tệ tập trung lớn
nhất của Nhà nước tuy cũng được thiết lập và sử dụng cho nhu cầu của Nhà nước nhưng việc
thiết lập, quản lý và sử dụng quỹ này hầu như không được kế hoạch hóa, không được xác
định niên độ và cũng không có luật nào điều chỉnh một cách chi tiết, cụ thể. Mặt khác, ở thời
điểm đó người ta cũng chưa có sự tách biệt giữa phần tài chính chi dùng cho các hoạt động
chung của Nhà nước ( tài chính công ) với phần tài chính chi dùng cho những người đứng
đầu Nhà nước ( tài chính tư ). Các khoản thu và chi của người đứng đầu quốc gia luôn được
hiểu đồng nghĩa với việc thu, chi của bộ máy chính quyền Nhà nước, mặc dù trong nhiều
trường hợp không phải như vậy:
Sự mập mờ và thiếu minh bạch giữa lợi ích công và lợi ích tư trong việc hình
thành, quản lý và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước cùng với bản chất của
chế độ tập quyền dân chủ khiến cho tình trạng chi tiêu ngày càng gia tăng trong tình trạng
không thể kiểm soát. Gánh nặng chi tiêu của bộ máy quyền lực khổng lồ trên thực tế đều được
chia sẻ bởi dân chúng bằng gánh nặng thuế khóa nhưng những người đóng thuế là người dân
lại không thể kiểm soát được giới hạn các khoản thu chi mà Nhà nước thực hiện.
- Sự động quyền của nhà vua với tư cách là người đứng đầu bộ máy Nhà nước trong việc
quyết định các khoản thu chi của chính quyền cùng với sự mập mờ, thiếu công khai minh
bạch trong hoạt động tài chính nhà nước là đặc trưng cơ bản của nền tài chính thời quân chủ.
Xã hội càng phát triển thì sự mập mờ trong chi tiêu của NSNN cũng như sự chi tiêu ngày
càng lãng phí, xa hoa của những người đứng đầu đã làm dấy lên trong lòng công chúng khát
vọng về một nền tài chính dân chủ mà ở đó dân chúng là những người tạo lập chủ yếu nên
quỹ NSNN, phải có quyền tham gia vào việc phân phối, sử dụng quỹ đó. Ý tưởng về sự tách
bạch giữa tài chính công ( hoạt động thu, chi của Nhà nước ) và tài chính tư ( hoạt động thu,

chi của cá nhân các thành viên trong bộ máy Nhà nước ) đã bắt đầu manh nha và trở thành
mục tiêu đấu tranh của các tầng lớp xã hội tiến bộ ( điển hình là giai cấp tư sản ).
Vì vậy, khi Nhà nước tư sản ra đời, Nghị viện là cơ quan đại biểu duy nhất của người dân đã
đoạt từ tay giai cấp phong kiến thẩm quyền về tài chính. Theo đó, Nghị viện có quyền quyết
định phân bổ việc chi tiêu của NSNN trong một khoảng thời gian nhất định và NSNN chỉ để
chi dùng cho các hoạt động chung của Nhà nước. Theo quan điểm này, tất cả những khoản
thu và chi mang tính chất công đều thuộc về Nhà nước, do Nhà nước thực hiện và được gọi là
NSNN.
Ngày nay thuật ngữ NSNN được sử dụng rộng rãi nhằm đề cao ý thức chính trị của dân
chúng trong việc đóng góp thuế cho quốc gia để góp phần chia sẻ gánh nặng chi tiêu với
chính phủ; mặt khác nhằm phân biệt với ngân sách của hộ gia đình, cá nhân, các tổ chức, đoàn
thể xã hội.
Nếu như lúc đầu, thuật ngữ NSNN chỉ được hiểu một cách đơn thuần, giản dị là bản dự trù
các khoản thu và chi mang tính chất công thì về sau nó đã được quan niệm đầy đủ và rõ ràng
hơn, được coi như là công cụ phân phối của cải vật chất trong tay Nhà nước để điều tiết các
hoạt động kinh tế và duy trì bộ máy quyền lực chính trị trong xã hội.
Như vậy, NSNN với ý nghĩa là quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước ra đời ngay từ khi Nhà
nước ra đời, là một hiện tượng tất yếu khách quan thì thuật ngữ NSNN lại chỉ ra đời khi xã
hội phát triển đến một giai đoạn nhất định.
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm NSNN:
a) Khái niệm:
+)Về phương diện kinh tế : NSNN là bản dự toán các khoản thu chi tiền tệ của 1 quốc gia,
được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định để thực hiện trong thời hạn nhất định,
thường là 1 năm.
- NSNN là bản dự toán thu chi tiền tệ của 1 quốc gia do đó phải được Quốc hội – cơ quan đại
biểu cho toàn thể nhân dân quyết định trước khi thi hành. Đồng thời, Quốc hội còn là người
giám sát Chính phủ trong quá trình thi hành và có quyền phê chuẩn quyết toán ngân sách hàng
năm do Chính phủ đệ trình khi năm ngân sách kết thúc. Ở Việt Nam, dự toán NSNN hàng

9



năm được giao cho Bộ Tài chính cùng với 1 số cơ quan nhà nước có liên quan như Bộ Kê
hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ủy ban ngân sách Quốc hội... soạn thảo
nhằm xây dựng một dự toán ngân sách thăng bằng, có tính khả thi và hiệu quả nhất. Dự toán
NSNN phải được xây dựng phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của năm đó nên đòi
hỏi hai phần thu chi đều phải hết sức chi tiết, khoa học, khách quan, chính xác, trên cơ sở thu
thập và xử lý tốt các thông tin kinh tế-chính trị-xã hội trong nước và quốc tế. Trong quá trình
soạn thảo, không những phải nắm bắt để xử lý tốt các thông tin kinh tế-chính trị-xã hội đã có
hay đang có mà phải dự đoán trước cả tình hình diễn biến thời sự về kinh tế-chính trị-xã hội
trong khu vực và trên thế giới ( ví dụ vấn đề khủng hoảng kinh tế, lạm phát tiền tệ trong và
ngoài nước, chiến tranh, nội chiến hay khủng bố, vấn đề tăng giảm thu nhập hay chính sách
kinh tế xã hội của Nhà nước trong tương lai...). Các thông tin này phải được dự đoán, dự liệu
trước bằng các chỉ tiêu thu chi ngân sách cụ thể, khách quan và hoàn hảo nhất.
- NSNN chỉ có giá trị thực hiện trong thời hạn 1 năm, từ ngày 1/1 đến 31/12 hàng năm.
Khoảng thời gian này nhằm giới hạn rõ thời gian thực hiện bản dự toán NSNN và được gọi là
năm ngân sách hay tài khóa, thực chất là niên độ ngân sách. Trước đây, trong giai đoạn đầu
của lịch sử ngân sách, các Nhà nước chiếm hữu nô lệ và phong kiến thường không qui định
niên độ ngân sách và điều này dẫn đến sự tùy tiện, độc đoán của Nhà nước trong việc tổ chức
thu nộp và chi tiêu ngân sách. Điều này có lợi cho chính quyền nhưng đem lại những bất lợi
đáng kể cho dân chúng là những người đóng thuế cho chính quyền sử dụng. Ngày này, phần
lớn các quốc gia đều qui đinh niên độ ngân sách là 1 năm, tùy theo tập quán của từng quốc gia
mà khoảng thời gian này có thể trùng hoặc không trùng với năm dương lịch.
+) Về phương diện pháp lý : NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước (Luật NSNN năm 201).
NSNN được coi là 1 đạo luật đặc biệt:
+ NSNN là đạo luật được cơ quan lập pháp làm ra theo 1 trình tự riêng, không hoàn toàn
giống với trình tự lập pháp thông thường.
+ Hiệu lực của đạo luật NSNN bao giờ cũng được xác định rõ là 1 năm trong khi hiệu lực các

đạo luật thông thường là vô thời hạn.
b) Đặc điểm:
Trong đời sống xã hội, mỗi chỉ thể đều có nhu cầu chi tiêu khác nhau dựa trên khoản thu
nhập của mình nên đông thời tồn tại nhiều loại ngân sách. Ngoài những đặc điểm chung giống
với các loại ngân sách của các chủ thể khác ( phản ánh các khoản thu chi của 1 chủ thể, các
khoản chi thể hiện chương trình hoạt động của chủ thể đó trong 1 thời hạn xác định..) thì
NSNN còn có các đặc điểm riêng biệt như:
- Thứ nhất, NSNN là 1 kế hoạch tài chính khổng lồ nhất cần được Quốc hội biểu quyết
thông qua trước khi thi hành. Đặc điểm này cho ta thấy việc thiết lập NSNN không chỉ đơn
thuần là vấn đề kĩ thuật nghiệp vụ kinh tế ( lập dự toán các khoản thu và chi định thực hiên
trong 1 năm ) mà còn là vấn đề mang tính kĩ thuật pháp lý ( nghĩ là phải trải qua giai đoạn
xem xét, biểu quyết thông qua tại Quốc hội giống như việc ban hành 1 đạo luật để làm phát
sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định cho các chủ thể tham gia vào hoạt động ngân
sách ). Do vậy, NSNN khác với các loại ngân sách thông thường ( NS gia đình, NS các tổ
chức kinh tế, ..) ở chỗ NSNN vừa phản ánh các hành vi kinh tế ( lập dự trù các khoản thu chi
sẽ thực hiên trong tương lai), vừa thể hiện hành vi pháp lý của các chủ thể có thẩm quyền ( cơ
quan hành pháp có trách nhiệm lập dự toán, cơ quan lập pháp có thẩm quyền quyết định bản
dự toán đó ); trong khi dó các loại ngân sách của các chủ thể khác chỉ phản ánh các hành vi
kinh tế thuần túy như lập dự trù kế hoạch thu chi mà không cần phải đệ trình lên một cơ quan
lập pháp nào trước khi đem ra thực hiên trên thực tế.
- Thứ hai, NSNN không chỉ là 1 bản kế hoạch tài chính thuần túy mà còn là 1 đạo luật đặc
biệt. Theo đó, sau khi bản dự toán NSNN được cơ quan hành pháp lập ra sẽ được chuyển sang
cơ quan lập pháp xem xét, quyết định và ban hành dưới dạng 1 đạo luật. Quá trình “luật hóa”
bản dự toán NSNN thể hiện sự khác biệt về phương diện pháp lý giữa NSNN với các loại

10


ngân sách thông thường. NSNN có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh
tế, ổn định chính trị - xã hội của 1 quốc gia nên phải đảm bảo NSNN có giá trị pháp lý như 1

đạo luật. Việc chuyển hóa này giúp cho Quốc hội kiểm soát được Chính phủ trong quá trình
thu chi ngân sách nhằm đảm bảo quyền lợi cho toàn thể nhân dân và làm cho bản kế hoạch tài
chính này được thực hiện dễ dàng hơn vì nó được bảo đảm thực hiện như 1 đạo luật.
- Thứ ba, NSNN là kế hoạch tài chính của toàn thể quốc gia, được trao cho Chính phủ
thực hiện nhưng phải đặt dưới sự giám sát trực tiếp của Quốc hội. Điều này nhằm kiểm
soát nguy cơ lạm quyền của cơ quan hành pháp trong quá trình thực thi NSNN đông thời đề
cao tính dân chủ, công khai , minh bạch trong quá hoạt động tài chính Nhà nước, góp phần
quản trị tốt nền tài chính công trong đó nhân dân đóng vai trò quyết định. Đây cũng là điểm
khác biệt giữa NSNN với các loại ngân sách thông thường, đó là việc thiết lập và thi hành
NSNN rất cần có sự tham gia kiểm soát của dân chúng với mục đích nhằm bảo vệ lợi ích
chung trong khi đó đối với các loại ngân sách khác thì chủ thế đó tự quyết định và tự chịu
trách nhiệm trong quá trình xây dựng và thực hiện ngân sách của mình; trong 1 số trường hợp
cần thiết, việc thực hiện ngân sách việc thực hiện ngân sách của các chủ thể này cũng chỉ chịu
sự kiểm tra , giám sát của 1 số cơ quan hành pháp trong phạm vi nhất định theo qiu định của
pháp luật.
- Thứ tư, NSNN được thiết lập và thực thi hoàn toàn vì mục tiêu mưu cầu lợi ích chung
cho toàn quốc gia, không phân biệt người thụ hưởng các loại ích đó là ai, thuộc thành
phần kinh tế nào hay đẳng cấp xã hội nào. Lợi ích chung là yếu tố ảnh hưởng mang tính
quyết định đến việc quyết định các khoản thu chi của NSNN. Vì mục tiêu thỏa mãn lợi ích
chung của toàn quốc gia, các khoản chi NSNN được thực hiện như trợ cấp cho nhân dân vùng
gặp thiên tai, địch họa; trợ giá cho các doanh nghiệp trong nước. Đây cũng là điểm khác biệt
của NSNN với các loại ngân sách thông thường vì các loại ngân sách thông thường liên quan
trực tiếp đến lợi ích riêng của các chủ thể đó, được thiết lập và thực hiện vì mục tiêu đem lai
lợi ích cho các chủ thể đó. Cụ thể, nếu 1 khoản chi nào đó không đem lại lợi ích kinh tế cụ thể
cho cá nhân thì họ sẽ không thực hiện trong khi chính phủ vì mục tiêu mưu cầu lợi ích chung
cho toàn quốc gia nên có thể phải thực hiện những khoản chi không đem lại lợi ích cho mình.
- Thứ năm, NSNN luôn phản ánh mối tương quan giữa quyền lập pháp và quyền hành
pháp trong quá trình xây dựng và thực hiện ngân sách. Thông thường, mỗi tương quan này
nghiêng về cơ quan lập pháp vì vai trò của cơ quan lập pháp trong lĩnh vực NSNN được ghi
nhận trong Hiến pháp và đạo luật NSNN như 1 nguyên tắc cơ bản của nền tài chính công hiện

đại ở các quốc gia. Tuy nhiên trong thực tiễn có thể có sự giảm sút về vai trò của cơ quan lập
pháp, khi đó nếu cơ quan hành pháp không làm tốt nhiệm vụ thừa hành của cơ quan lập pháp
có thể khiến cho việc quản trị nền tài chính công trở nên kém dân chủ và thiếu tính minh
bạch. Đây cũng là 1 điểm khác biệt của NSNN với các loại ngân sách thông thường.
1.1.4. Nguyên tắc NSNN:
a) Nguyên tắc ngân sách nhất niên:
Nguyên tắc này ra đời đầu tiên ở Anh vào cuối thế kỉ 17 khi Quốc hội Anh ngày càng trở
nên vững mạnh cùng với sự suy yếu của chế độ vương quyền. Nguyên tắc này ra đời xuất
phát từ 2 lý do:
Một là, để cho Quốc hội Anh dễ bề kiểm soát nhà vua trong việc thu thuế và
chi tiêu các khoản tiền của quốc gia. Quốc hội đòi hỏi nhà vua hàng năm phải đệ trình lên 1
bản dự toán các khoản thu chi mình sẽ thực hiện để Quốc hội phê chuẩn. Qua đó, góp phần
củng cố nền dân chủ xã hội, nâng cao sự ảnh hưởng của mình đối với chế độ quân chủ.
Hai là, để cho việc thực hiện các khoản thu chi được hiệu quả và giúp cho
Quốc hội kiểm soát kịp thời đối với mọi hành vi của nhà vua trong việc chi tiêu, tránh sự lãng
phí hay bất công, Quốc hội đòi hỏi nhà vua chỉ được phép thực hiện kế hoạch thu chi của
mình trong thời hạn 1 năm, sau đó muốn thu chi tiếp thì phải được Quốc hội cho phép bằng
cách phê chuẩn cho năm tiếp theo.
Trên thực tế, nguyên tắc này được hình thành từ Anh nhưng đã được thừa nhận tại các nước
có nền dân chủ phát triển sớm như Đức, Pháp..và ngày nay vẫn được coi là 1 trong những

11


nguyên tắc cơ bản của nền tài chính công hiện đại ở các nước trên thế giới. Việc thiết lập
được nguyên tắc này được xem là 1 thắng lợi lớn của Quốc hội Anh nói riêng và nhân dân thế
giới nói chung trong cuộc đấu tranh quyền lực với chế độ vương quyền. Đông thời nó mở ra
thời ký mới cho nên tài chính công ở nhiều quốc gia khác – nên tài chính công mang màu sắc
dân chủ, trong đó nhân dân có quyền được tham gia vào việc quản trị nền tài chính của đất
nước thông qua người đại diện của mình là quốc hội hay nghị viện.

Xét về phương diện nội dung, nguyên tắc này có 2 khía cạnh cơ bản:
Mỗi năm, Quốc hội ( với tư cách là cơ quan nắm quyền lập pháp ) sẽ biểu quyết ngân
sách 1 lần theo hạn kỵ do luật định.
Bản dự toán NSNN sau khi được Quốc hội quyết định chỉ có giá trị hiệu lực thi hành
trong 1 năm và chính phủ - với tư cách là cơ quan nắm quyền hành pháp cũng chỉ được phép
thi hành trong năm đó.
Ở Việt Nam, nguyên tắc này được quy định Luật NSNN 2015. Hai điều này quy định các
khoản thu chi của NSNN được thực hiện trong 1 năm và năm ngân sách bắt đầu từ ngày 01
tháng 01 đến ngày 31 tháng 12 năm dương lịch.
b) Nguyên tắc ngân sách đơn nhất:
Nguyên tắc ngân sách đơn nhất, hiểu thông thường là mọi khoản thu chi tiền tệ của quốc
gia trong 1 năm chỉ được phép trình bày trong 1 văn kiện duy nhất nhất, đó là bản dự toán
NSNN sẽ được Chính phủ trình Quốc hội quyết định để thực hiện.
Nguyên tắc này cũng được xây dựng đầu tiên ở một số nước có nền dân chủ phát triển sớm
như Anh, Đức, Pháp..và ngày nay vẫn tiếp tục được thừa nhận ở nhiều nước trên thế giới. Tuy
nhiên, do sự chuyển biến của nền tài chính công trên thế giới nên nội dung của nó cũng đã có
những biến chuyển mà ví dụ điển hình là tình trạng đa ngân sách ở một số quốc gia. ( Vào
năm 1993, Chính phủ Hoa Kỳ đã tạo ra 1 biệt lệ cho nguyên tắc này bằng cách áp dụng chính
sách phân biệt giữa “ngân sách thường” và “ngân sách khẩn cấp”. Tuy nhiên, thực chất đây
cũng chỉ là sự phân hóa giữa các khoản chi tiêu thông thường với các khoản chi tiêu khẩn cấp
của Chính phủ nhằm giúp cho Chình phủ có khả năng điều hành ngân sách tốt hơn còn trên
thực tế 2 khoản này vẫn được trình bày trong 1 tài liệu thống nhất và duy nhất. Hiện tượng
này cũng xuất hiện ở Đức năm 1927. Gần nhất là năm 1991 ở Nga, khi Đạo luật về ngân sách
Liên bang Nga ban hành năm 1991 - Điều 25 cho phép thiết lập “ngân sách bất thường” hay
“ngân sách đặc biệt” trên lãnh thổ Cộng hòa Liên bang Nga để thi hành trong tình trạng đặc
biệt ).
Sở dĩ cần phải thiết lập nguyên tắc này vì nếu các khoản thu chi được trình bày trong nhiều
văn bản khác nhau ( hệ thống đa ngân sách ) thì không những gây khó khăn cho việc thiết lập
một ngân sách thăng bằng và hiệu quả mà còn khiến cho Quốc hội khó lòng kiểm soát, lựa
chọn được những khoản thu chi nào là cần thiết hay quan trọng để phê chuẩn cho phù hợp với

nhu cầu và đòi hỏi của nền kinh tế - xã hội. Hơn nữa, tình trạng đa ngân sách khó cho ta theo
dõi kết quả thực sự của các nghiệp vụ tài chính vì nó nằm rải rác ở nhiều tài liệu khác nhau.
Ở nước ta, pháp luật hiện hành chưa có điều luật nào ghi nhận một cách rõ ràng, chính thức
về nguyên tắc này khiến cho việc thực hiện nó trong thực tế có phần lỏng lẻo. Sự xa rời
nguyên tắc này ở Việt Nam được thể hiện khá rõ ràng ở việc phân hóa các nguồn thu và
nhiệm vụ chi để đáp ứng nhu cầu gia tăng các nhiệm vụ của Chính phủ trong thời kỳ mới. Các
nguồn thu và nhiệm vụ chi này có xu hướng được thiết kế ở nhiều tài liệu khác nhau, thậm chí
chúng còn được bổ sung, sửa đổi thường xuyên trong quá trình thực thi NSNN do những biến
cố bất thường về kinh tế, xã hội, an ninh…Luật NSNN hiện hành cho phép Quốc hội và
HĐND các cấp được quyền quyết định điều chỉnh dự toán NSNN các cấp trong trường hợp
cần thiết nhằm đảm bảo tính khả thi cho dự toán NSNN trong quá trình thực hiện (Luật
NSNN 2015) và đây có thể coi là sự áp dụng linh hoạt nguyên tắc ngân sách đơn nhất ở Việt
Nam.
c) Nguyên tắc ngân sách toàn diện:
Cùng với 2 nguyên tắc trên, nguyên tắc này cũng được đề cập từ thế kỉ 17, 18 ở nước Anh
và 1 số quốc gia châu Âu khác. Nội dung cơ bản của nó bao gồm:

12


Mọi khoản thu chi đều phải ghi và thể hiện rõ ràng trong bản dự toán NSNN hàng năm
đã được Quốc hội quyết định, không được phép để ngoài dự toán ngân sách bất kì khoản thu
chi nào dù là nhỏ nhất.
Các khoản thu và chi không được phép bù trừ cho nhau mà phải thể hiện rõ ràng từng
khoản thu và mỗi khoản chi trong mục lục NSNN đã được phê duyệt; không được phép dùng
riêng 1 khoản thu bù đắp cho 1 khoản thi cụ thể nào mà mọi khoản thu đều được dùng để tài
trợ cho mọi khoản chi. Khi áp dụng nguyên tắc này phải tuân thủ nguyên tắc “Các khoản đi
vay để bù đắp bội chi ngân sách không được sử dụng để chi tiêu dùng mà chỉ được sử dụng để
chi cho đầu tư phát triển”.
Việc thực hiên nguyên tắc này giúp cho bản dự toán NSNN được thiết lập rõ ràng, minh

bạch, cụ thể, đầy đủ và dễ kiểm soát, tránh tình trạng gian lận hay biển thủ công quỹ trong quá
trình thực hiện dự toán NSNN hàng năm.
Tại Việt Nam, nguyên tắc này được thể hiện tại Luật NSNN năm 2015, hơn nữa tại luật
NSNN 2015 cũng quy định: “Các khoản thu, chi của NSNN đều phải được hạch toán, kế toán,
quyết toán đầy đủ, kịp thời, đúng chế độ”. Bằng cách quy định như vậy, các nhà làm luật
muốn rằng mọi khoản thu chi của NSNN các cấp, bất luận là lớn hay nhỏ đề phải được ghi
chép đầy đủ vào các tài liệu kế toán ngân sách theo chế độ hiện hành nhằm đảm bảo cho các
cơ quan có thẩm quyền dễ kiểm soát trong quá trình thực hiện. Về lý thuyết, việc thực hiện
nguyên tắc này rất tốt cho việc quản trị tài chính công vì nó không cho phép bất kì khoản thu
chi nào được để ngoài NSNN và hơn thế nữa, giữa các khoản thu chi của các đơn vị dự toán
không được phép bù trừ cho nhau. Tuy nhiên, trên thực tế nó gặp 1 số bất cập dẫn đến phát
sinh ngoại lệ của việc thực hiện nguyên tắc này thông qua dẫn chứng về Trường canh nông
GRIGNON của Pháp, với giả định hàng năm trường có 1 số nguồn thu về hoa lợi nông sản
( ví dụ trái cây và rau sạch ) từ các vườn thí nghiệm của trường. Nêu tuân thủ nguyên tắc toàn
diện thì trường phảo bán toàn bộ số nông sản thu được và nộp vào NSNN; mặt khác sẽ được
NSNN cấp cho 1 khoản kinh phí để hoạt động, trong đó có nhu cầu mua trái cây và rau sạch
phục vụ cho bữa ăn của sinh viên trong trường. Rõ ràng quy trình này rất phức tạp và không
cần thiết. Thay vì bắt trường phải làm như vậy, pháp luật hoàn toàn có thể cháp nhận giải
pháp cho phép trường này được sử dụng ngay số nông sản mình thu được để phục vụ cho bữa
ăn của sinh viên trong trường theo nguyên tắc tự trang trải chi phí mà không cần làm thủ tuch
xin phép cơ quan nào cả.
d) Nguyên tắc ngân sách cân bằng:
Nguyên tắc này cũng được xuất hiện khá sớm trong lịch sử nền tài chính công ở nhiều quốc
gia trên thế giới. Quan niệm cổ điển về sự cân bằng của NSNN cho rằng, tất cả các khoản chi
trong tài khoản ngân sách đều phải cân bằng với các khoản thu có trong tài khoản ngân sách
( nói cách khác tổng số thu phải bằng tổng số chi trong năm ngân sách ). Theo quan điểm này,
sự cân bằng của ngân sách gần như được đảm bảo 1 cách hoàn hảo vì trên thực tế tổng số thu
và tổng số chi của NSNN bao giờ cũng cân bằng ngay từ khi lập kế hoạch dự toán. Tuy nhiên,
điều đó lại không khách quan và chưa chính xác vì trong nhiều trường hợp, các khoản thu có
tính chất hoa lợi ( điển hình là thuế ) lại không đủ để trang trải những khoản chi có tính chất

phí tổn ( chi về kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng…) mặc dù xét tổng thể thì số thu
vẫn bằng số chi.
Do vậy, các nhà tài chính học đương đại đã đưa ra quan điểm mới về sự cân bằng của
NSNN thực chất là sự cân bằng giữa tổng thu hoa lợi ( chủ yếu là thuế ) với tổng chi có tính
chất phí tổn.
Nếu tổng thu hoa lợi > tổng chi có tính chất phí tổn  NS thặng dư
Nếu tổng thu hoa lợi < tổng chi có tính chất phí tổn  NS thâm hụt
Quan điểm này được thừa nhận ở nhiều quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam được ghi nhận
tại Luật NSNN 2015: “NSNN được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu về thuế, phí, lệ phí
phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao vào chi đầu tư phát
triển; trường hợp bội chi thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng
thu chi ngân sách”.

13


1.1.5. Vai trò của NSNN trong nền kinh tế thị trường:
a) Công cụ huy động nguồn tài chính để đảm bảo các nhu cầu chi tiêu của nhà nước:
Đây là vai trò lịch sử của NSNN, mà trong cơ chế nào và trong thời đại nào NSNN cũng
phải thực hiện. Vai trò này của NSNN được xác định trên cơ sở bản chất kinh tế của NSNN.
Sự hoạt động của nhà nước trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội luôn đòi hỏi phải có
các nguồn tài chính để chi tiêu cho những mục đích xác định. Các nhu cầu chi tiêu của nhà
nước phải được thỏa mãn từ các nguồn thu bằng hình thức thuế và thu ngoài thuế. Việc huy
động nguồn thu vào tay nhà nước để đảm bảo các yêu cầu chi tiêu cần thiết phải chú ý đến ba
vấn đề:
Mức động viên vào ngân sách nhà nước đối với các thành viên trong xã hội qua thuế và
các khoản thu khác (có liên quan) phải hợp lý. Mức động viên cao hay thấp đều có tác dụng
tiêu cực.
Tỉ lệ động viên vào ngân sách nhà nước đối với tổng sản phẩm quốc nội (GDP ) vừa
đảm bảo hợp lý với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, vừa đảm bảo cho đơn vị cơ sở có điều

kiện tích tụ vốn để tái sản xuất mở rộng.
Các công cụ kinh tế được sử dụng tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước và thực hiện
các khoản chi tiêu của ngân sách nhà nước.
b) Công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội của nhà nước:
Khi đề cập đến các công cụ tài chính trong quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội,
nhà nước không thể không sử dụng một công cụ rất quan trọng, đó là NSNN. Bởi lẽ , phạm vi
phát huy vai trò của NSNN rất rộng và trên một mức độ lớn, nó tương đồng với phạm vi phát
huy chức năng và nhiệm vụ của nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Hay
nói cách khác, do cơ chế thị trường cần thiết phải có sự điều chỉnh vĩ mô từ phía nhà nước.
Song, nhà nước cũng chỉ có thể thực hiện điều chỉnh thành công khi có nguồn tài chính đảm
bảo, tức là khi sử dụng triệt để và có hiệu quả công cụ NSNN . Vai trò điều tiết vĩ mô nền
kinh tế - xã hội của ngân sách nhà nước có thể được khái quát hóa trong các lĩnh vực kinh tế,
xã hội và thị trường như sau :
Về mặt kinh tế:
+ Ngân sách nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc định hướng hình thành cơ cấu kinh
tế mới , kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền.
+ Ngân sách nhà nước cung cấp nguồn kinh phí để nhà nước đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng,
hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt, để trên cơ sở đó tạo môi trường và
điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác.
+ Việc hình thành các doanh nghiệp nhà nước cũng là một trong những biện pháp căn bản để
chống độc quyền và giữ cho thị trường khỏi rơi vào tình trạng cạnh tranh không hoàn hảo.
+ Hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp trong những trường hợp cần thiết đảm bảo
cho sự ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị chuyển đổi sang cơ cấu mới, cao hơn.
+ Thông qua các khoản thuế và chính sách thuế sẽ đảm bảo thực hiện vai trò định hướng đầu
tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh.
+ Các nguồn vay nợ từ nước ngoài và trong nước sẽ tạo thêm nguồn vốn cho nền kinh tế. Tuy
nhiên, hiệu quả sử dụng các nguồn vốn vay nợ của nhà nước cũng là một vấn đề cần phải xem
xét thận trọng khi quyết định thực hiện các biện pháp huy động tiền vay.
- Về mặt xã hội

+ Đầu tư của ngân sách để thực hiện các chính sách xã hội : chi Giáo dục - đào tạo, y tế, kế
hoạch hóa gia đình, văn hóa, thể thao, truyền thanh, chi bảo đảm xã hội, sắp xếp lao động và
việc làm, trợ giá mặt hàng ...
+ Thông qua thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm điều tiết thu nhập để
phân phối lại cho các đối tượng có thu nhập thấp.
+ Thông qua thuế gián thu nhằm hướng dẫn tiêu dùng hợp lý, tiết kiệm. Tuy nhiên, vấn đề sử
dụng công cụ NSNN để điều chỉnh các vấn đề xã hội không đơn giản, đòi hỏi phải được
nghiên cứu đầy đủ và phải có sự thống nhất giữa chính sách và biện pháp. Chẳng hạn : Khi trợ

14


giá điện, xăng dầu, công tác truyền hình . . . thì những đối tượng được hưởng không phải là
người nghèo, mà chính là những người có thu nhập trung bình hoặc cao.
- Về mặt thị truờng:
NSNN có vai trò quan trọng đối với việc thực hiện các chính sách về ổn định giá cả, thị
trường và chống lạm phát. Bằng công cụ thuế, phí, lệ phí,vay và chính sách chi NSNN có thể
điều chỉnh được giá cả, thị trường một cách chủ động.
+ Một chính sách ngân sách thắt chặt hay nới rộng đều có thể tác động mạnh mẽ đến cung cầu xã hội.
+ Việc huy động của NSNN dưới các hình thức thuế, phí, lệ phí,vay và kể cả bảo hiểm xã hội
trên GDP và GNP chiếm tỉ trọng cao thì sự cung ứng vốn đầu tư dài hạn, vốn tiền tệ ngắn hạn
của các nhà đầu tư và đầu tư của dân sẽ giảm, vốn tự đầu tư sẽ khan hiếm hơn. Mặt khác, nó
sẽ làm cho cầu về hàng hóa, dịch vụ của dân cư giảm xuống, nhưng NSNN lại có điều kiện để
tăng cầu với quy mô lớn và chi cho đầu tư lớn sẽ kích thích tăng cung.
+ Ngược lại, nếu NSNN huy động trên GDP và GNP chiếm tỉ trọng thấp thì nguồn tự đầu tư
tăng lên, thúc đẩy tăng cung, đồng thời kích thích tăng cầu về hàng hóa, dịch vụ, nhưng ngân
sách lại không có điều kiện để tăng cầu và chi cho đầu tư.
+ Trên thị trường tài chính, nhà nước vay vốn với lãi suất cao sẽ có tác động tăng cung ứng
vốn từ phía các nhà đầu tư và tiết kiệm tiêu dùng để dành cho tương lai, đồng thời làm giảm
lượng cầu về vốn đầu tư của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Ngược lại, khi lãi

suất các khoản vay của nhà nước giảm xuống dưới mức lợi tức bình quân toàn xã hội, các nhà
đầu tư sẽ tìm môi trường đầu tư vào sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ mà không muốn
cho nhà nước vay. Mặt khác, lãi suất các khoản vay của nhà nước có vị trí quan trọng trên thị
trường chứng khoán, có thể tham gia điều tiết quan hệ cung cầu trên thị trường chứng khoán.
Ở đây cần nhấn mạnh đến dự trữ nhà nước. Trong cơ chế thị trường, nhà nước không thể bắt
buộc các doanh nghiệp bán hàng theo giá cả quy định, mà ngược lại, giá cả là do thị trường
quyết định, phụ thuộc vào quan hệ cung - cầu và các yếu tố khác. Trong quá trình biến đổi của
mình, sẽ có lúc giá cả lên cao, gây ra những cơn sốt nhất thời và có lúc giá cả lại xuống quá
thấp. Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và kích thích sản xuất phát triển, nhà nước cần
phải theo dõi sự biến động của giá cả trên thị trường và phải có nguồn dự trữ về hàng hóa và
tài chính để điều chỉnh kịp thời. Ngưồn dự trữ này được hình thành từ kinh phí cấp phát của
ngân sách nhà nước. Do đó, sự thành công của nhà nước trong điều chỉnh giá cả và thị trường
thông qua công cụ dự trữ nhà nước phụ thuộc vào kinh phí cấp phát của ngân sách nhà nước
cho mục đích này.
+ Chống lạm phát là một nội dung quan trọng trong quá trình điều chỉnh thị trường. Nguyên
nhân gây ra và thúc đẩy lạm phát có nhiều và xuất phát từ nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực
thu, chi tài chính của Nhà nước.
+ Khi đồng vốn ngân sách được sử dụng hợp lý và có hiệu quả thì tác dụng tích cực của nó rất
lớn, ngược lại sẽ gây ra bất ổn định trên thị trường, thúc đẩy lạm phát tăng lên.
+ Phát hành thêm tìên để bù đắp thâm hụt ngân sách là nguyên nhân trực tiếp của tình trạng
lạm phát gia tăng.
+ Mặt khác, ngân sách nhà nước có cân bằng hay không sẽ tác động sâu sắc đến sự cân bằng
của cán cân thanh toán quốc tế, bởi vì:
Cân bằng của ngân sách tác động trực tiếp đến sự cân bằng của cán cân thương mại.
Cân bằng của ngân sách thực hiện được hay không nói lên khả năng trả nợ đến hạn các
khoản vay nước ngoài có thực hiện được hay không.
1.2. TỔNG QUAN VỀ LUẬT NSNN Ở VIỆT NAM
1.2.1. Sự ra đời của Luật NSNN ở Việt Nam:
Trên thế giới khi các Nhà nước tư sản ra đời và cùng với sự ra đời của thuật ngữ NSNN thì
luật NSNN cũng được hình thành để điều chỉnh quá trình phân phối, sử dụng, tạo lập quỹ

NSNN.

15


Ở Việt Nam trong thời kỳ phong kiến mặc dù có NSNN nhưng chưa có sự tách biệt giữa tài
chính công và tài chính tư, vì vậy chưa có thuật ngữ NSNN. Đến năm 1858, khi thực dân
Pháp xâm lược Việt Nam, Pháp đã áp dụng nguyên văn luật NSNN của Pháp vào Việt Nam.
Khi Cách mạng Tháng Tám thành công, miền Bắc tiến lên xây dựng XHCN, nền tài chính
công mới dần dần hình thành và điều chỉnh nó chủ yếu là một số điều lệ học tập từ Liên Xô
cũ. Tới tận năm 1996, Luật NSNN đã được Quốc hội nước CHXHCN Việt nam khoá IX, kỳ
họp lần thứ 9 thông qua ngày 20 tháng 3 năm 1996 lần đầu tiên và đã được Quốc hội nước
CHXHCN Việt Nam khoá XI, kỳ họp lần thứ 2 sửa đổi ngày 16 tháng 2 năm 2002. Luật này
được sửa đổi, bổ sung năm 2015 (Luật số 83/2015/QH13)
1.2.2. Phạm vi điều chỉnh:
Luật NSNN sẽ có nhiệm vụ điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hoạt
động NSNN. Tổng quát có thể phân thành 4 nhóm như sau:
Nhóm 1: bao gồm các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình lập, phê chuẩn, chấp
hành và quyết toán NSNN. Nhóm quan hệ xã hội này phát sinh giữa các cơ quan nhà nước có
chức năng thi hành công vụ trong việc lập, phê chuẩn, chấp hành và quyết toán NSNN với
nhau hoặc giữa các cơ quan này đối với các đơn vị dự toán NSNN.
Nhóm 2: bao gồm các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình phân cấp quản lý
NSNN. Những quan hệ này chỉ phát sinh giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tham gia
vào hoạt động quản lý và điều hành NSNN như Quốc hội, Chính phủ, HĐND và UBND các
cấp chứ không có sự tham gia của các tổ chức, cá nhân khác.
- Nhóm 3: bao gồm các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tạo lập quỹ NSNN (hay
quá trình thu nộp ngân sách). Những quan hệ xã hội này phát sinh giữa các chủ thể là cơ quan
nhà nước có chức năng thi hành công vụ trong lĩnh vực thu nộp ngân sách như cơ quan tài
chính, hải quan, thuế, kho bạc nhà nước…với bên kia là các tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ hay
có quyền đóng góp một khoản tiền nhất định cho NSNN để chia sẻ gánh nặng chi tiêu với

NSNN.
- Nhóm 4: bao gồm các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình sử dụng quỹ NSNN (hay
quá trình chi tiêu NSNN). Nhóm quan hệ xã hội này phát sinh giữa các chủ thể là cơ quan nhà
nước có chức năng thi hành cộng vụ trong việc chấp hành dự toán chi NSNN hàng năm như
cơ quan tài chính, kho bạc nhà nước…với bên kia là các đơn vị dự toán NSNN có quyền được
tiếp nhận và sử dụng kinh phí NSNN cấp hàng năm.
1.2.3. Quan hệ pháp luật NSNN:
Quan hệ pháp luật NSNN là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tạo lập, phân
phối và sử dụng quĩ NSNN và các quĩ tiền tệ khác của nhà nước được các qui phạm pháp luật
NSNN điều chỉnh. Quan hệ pháp luật NSNN được cấu thành bởi các yếu tố sau:
- Chủ thể:
Nhà nước : tham gia với 2 tư cách:
+ Chủ thể có quyền lực được nhân dân trao cho.
+ Chủ thể thường: chi mua sắm, đấu thầu.
Các tổ chức kinh tế ( trong và ngòai nước):
+ Chủ thể đóng thuế.
+ Chủ thể thụ hưởng: nhận tiền góp vốn của nhà nước.
Các tổ chức phi kinh doanh
+ Đảng cộng sản, công đòan, Đòan thanh niên: được cấp kinh phí
+ Các tổ chức xã hội nghề nghiệp ( chỉ khi được nhà nước giao nhiệm vụ và cấp kinh phí).
Các cá nhân.
- Khách thể:

16


Khách thể của quan hệ pháp luật ngân sách nhà nước là tiền và các giấy tờ có giá trị có thể
chuyển đổi thành tiền nhằm thỏa mãn các nhu cầu khác nhau của các chủ thể tham gia vào
quan hệ pháp luật ngân sách nhà nước.
- Nội dung:

Nội dung của quan hệ pháp luật ngân sách nhà nước là tổng hợp quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật ngân sách nhà nước do các qui phạm pháp luật ngân
sách nhà nước qui định hay thừa nhận và được đảm bảo thực hiện bởi các biện pháp cưỡng
chế của nhà nước.
1.2.4. Mô hình Luật NSNN ở Việt Nam:
Trên thế giới, pháp luật NSNN ở các quốc gia có tên gọi khác nhau. Ví dụ ở Pháp và Nhật
gọi là “Luật Tài chính”; ở Đức gọi là “Luật về các nguyên tắc ngân sách liên bang và ngân
sách bang”; ở Nga gọi là “Luật về bộ máy ngân sách và quá trình ngân sách”; ở Trung Quốc
gọi là “Luật NSNN”; ở Ba lan gọi là “Luật ngân sách Ba Lan”; ở Thái Lan gọi là “ Luật về
thủ tục ngân sách phật niên 2502”…Tuy nhiên, giữa chúng và Luật NSNN ở Việt Nam có
những điểm tương đồng về các chế định như sau:
Chế định về lập, chấp hành và quyết toán NSNN. Chế định này có nhiệm vụ
quy định về cách thức soạn thảo và thông qua một bản dự toán NSNN tại Quốc hội; phương
thức chấp hành bản dự toán NSNN đã được Quốc hội thông qua; thể thức ghi chép sổ kế toán
ngân sách và lập quyết toán ngân sách để trình Quốc hội phê chuẩn.
Chế định về phân cấp quản lý NSNN. Chế định này có nhiệm vụ quy định về
phạm vi quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong hoạt động ngân sách; quy
định về nguồn thu, nhiệm vụ chi cụ thể của từng cấp ngân sách. Nói cách khác là việc xác
định sự phân quyền giữa các cơ quan nhà nước trong hoạt động ngân sách đồng thời xác định
sự phân phối thu chi giữa các cấp ngân sách.
Chế định về thu nộp NSNN. Chế định này có nhiệm vụ quy định về danh
mục các khoản thu; chủ thể có quyền hạn và trách nhiệm thực hiện các khoản thu; mức độ hay
tỷ lệ mỗi khoản thu; cách thức thực hiện các khoản thu cũng như dự liệu hệ thống chế tài sẽ
áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm trong quá trình thu NSNN.
Chế định về chi tiêu NSNN. Chế định này có nhiệm vụ quy định về danh
mục các khoản chi; chủ thể cấp phát kinh phí ngân sách và chủ thể được quyền tiếp nhận, sử
dụng các khoản kinh phí ngân sách; mức độ, tỷ lệ và cách thức thực hiện các khoản chi ngân
sách cũng như các chế tài sẽ áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp
luật về chi NSNN.


CHƯƠNG II: CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ THU NSNN
2.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại thu NSNN:
a) Khái niệm:
Sự tồn tại của Nhà nước chính là tiền đề quyết định tính tất yếu của các khoản thu NSNN.
Bản thân Nhà nước là một tổ chức quyền lực với nhiều hệ thống các cơ quan chức năng,
nhiệm vụ tổ chức và quản lý xã hội nhưng lại không trực tiếp sản xuất ra của cái vật chất cho
xã hội. Để duy trì hoạt động của các cơ quan này cũng như thực hiện các chức năng nhiệm vụ
của Nhà nước, đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của xã hội, Nhà nước cần phải có nguồn tài chính
nhất định. Thu NSNN chính là công cụ tập trung vào tay Nhà nước lượng tiền cần thiết phục
vụ cho việc thực hiện các chức năng đó. Như vậy, thu NSNN tạo ra tiền đề kinh tế bảo đảm
cho sự vận hành các chức năng của Nhà nước. Thông qua hoạt động thu NSNN, Nhà nước có

17


thể tập trung, nắm giữ được những nguồn vốn tiền tệ cần thiết đáp ứng nhu cầu chi tiêu của
mình.
Vậy, thu NSNN là hoạt động của nhà nước nhằm tạo lập quỹ NSNN theo những trình tự và
thủ tục pháp luật quy định trên cơ sở các khoản thu đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định để thực hiện các chức năng nhiệm vụ của nhà nước.
Một số điểm lưu ý từ định nghĩa về thu NSNN:
- Thu ngân sách là một quá trình bao gồm nhiều hành vi, hành động kế tiếp nhau của nhà
nước. Các hành vi, hành động khái quát lại gồm 3 nhóm chính:
Nhóm 1: Nhà nước đề ra chủ trương, phương hướng, mục tiêu về thu NSNN cho từng khoảng
thời gian nhất định nào đó. Trong đó đưa ra một số chỉ tiêu cụ thể: Tổng thu NSNN, tỷ lệ thu
NSNN (% GDP).
Nhóm 2: Nhà nước đề ra chính sách, luật lệ, chế độ về thu NSNN.
Nhóm 3: Tổ chức cơ chế hành thu NSNN (thực hiện thu). Có nhiều cơ chế thu tương ứng với
các hành động thu.
- Thu NSNN được thực hiện bằng nhiều quyền lực khác nhau của nhà nước.

+ Quyền lực chính trị: Quyền cai trị xã hội mà luật pháp cho phép.
Biểu hiện của việc nhà nước sử dụng quyền lực chính trị là các chế độ thu, công cụ thu ngân
sách bắt buộc.
+ Quyền lực kinh tế: Nhà nước là một chủ thể kinh tế lớn của xã hội. Nhà nước nắm giữ các
tài sản quan trọng của quốc gia (tài nguyên thiên nhiên, rừng, biển, đất đai…) và một lượng
của cải lớn đã được tích luỹ (nhờ quyền lực chính trị). Với tư cách này, nhà nước có thể cho
thuê, mướn tài sản hoặc dùng các nguồn lực kinh tế để đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh
doanh, từ đó mang lại khoản thu cho NSNN trên cơ sở dựa vào sức mạnh kinh tế.
+ Sức mạnh khoa học kỹ thuật: Nhà nước sở hữu và nắm trong tay các thành tựu khoa học kỹ
thuật, nhờ đó mang lại những khoản thu lớn.
- Thu NSNN là động viên, phân phối một bộ phận nguồn lực của xã hội về tay nhà nước và bộ
phận nguồn lực này được biểu hiện dưới dạng tiền tệ.
b) Đặc điểm:
- Thu NSNN phải được thực hiện dựa trên cơ sở pháp luật. Để thực hiện hoạt động thu
NSNN, Nhà nước phải ban hành các văn bản pháp luật quy định về hình thức thu cũng như
nội dung thu. Các văn bản pháp luật này sẽ một mặt tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho hoạt
động thu ngân sách của Nhà nước; mặt khác, giới hạn quyền thu của Nhà nước. Trong quá
trình thu ngân sách, bản thân Nhà nước cũng phải tuân thủ các quy định pháp luật về thu
NSNN tức là Nhà nước chỉ được phép thu các khoản thu đã được luật hóa và chỉ thực hiện
quyền thu đó trong khuôn khổ pháp luật, không được tự ý đặt ra các khoản thu trái pháp luật.
- Hoạt động thu NSNN nhằm huy động một bộ phận giá trị sản phẩm xã hội, vì vậy hoạt động
này phải gắn chặt với thực trạng kinh tế của đất nước, mức độ phát triển của nền kinh tế.
Ngoài ra có một số nhân tố khác có thể ảnh hưởng đến mức độ tập trung các nguồn thu ngân
sách đó là: tiềm năng và thực tế khai thác tài nguyên thiên nhiên, chính sách chi tiêu của
Chính phủ, quan hệ đối ngoại của Nhà nước và bộ máy tổ chức thu..
- NSNN được thực hiện thông qua 2 cơ chế chủ yếu đó là thu bắt buộc và thu tự nguyện trong
đó cơ chế bắt buộc là chủ yếu. Thông thường cơ chế bắt buộc được áp dụng trong trường hợp
Nhà nước tập trung các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí còn cơ chế tự nguyện được Nhà nước áp
dụng trong trường hợp cần huy động các khoản tiền viện trợ của nước ngoài, các tổ chức quốc
tế hay các khoản đóng góp tự nguyện của công chúng cho Nhà nước.

- Chủ thể tham gia vào hoạt động thu NSNN gồm 2 nhóm:

18


+ Nhóm 1: Chủ thể đại diện cho Nhà nước trong việc thực hiện quyền thu. Nhóm này bao
gồm các cơ quan Nhà nước như cơ quan tài chính, thuế, hải quan, kho bạc nhà nước…Đây là
các chủ thể chịu trách nhiệm quản lý, đôn đốc, tổ chức việc thu, nộp và trực tiếp đứng ra tập
trung các khoản thu, nộp vào NSNN.
+ Nhóm 2: Chủ thể đóng góp khoản thu ngân sách theo nghĩa vụ hoặc trên tinh thần tự
nguyện. Nhóm này bao gồm các tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ nộp các khoản bắt buộc vào
NSNN hoặc tự nguyện đóng góp tiền cho ngân sách.
c) Phân loại thu NSNN:
Việc phân loại các khoản thu NSNN có ý nghĩa quan trọng trong quá trình quản lý, phân
tích, đánh giá NSNN. Thông qua việc phân loại các khoản thu NSNN, kết quả của từng loại
thu được theo dõi, xác định một cách dễ dàng. Dựa trên cơ sở tổng số thu NSNN và ảnh
hưởng của từng khoản thu đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, các nhà quản lý có thể phân
tích sự tác động của từng nguồn thu tới các hoạt động kinh tế, xã hội để từ đó có chính sách
điều chỉnh cho phù hợp.
- Căn cứ vào nội dung kinh tế:
+ Khoản thu mang tính chất thuế: thuế, phí, lệ phí.
+ Khoản thi không mang tính chất thuế: thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước, thu từ viện
trợ của các Chính phủ nước ngoài, các tổ chức quốc tế và thu từ đóng góp của các tổ chức, cá
nhân.
- Căn cứ nội dung pháp lý:
+ Khoản thu mang tính bắt buộc: thuế, phí, lệ phí.
+ Khoản thu mang tính tự nguyện: thu từ viện trợ, tặng cho, đóng góp của các tổ chức, cá
nhân.
- Căn cứ mức độ định kỳ qua đó hoạt động thu được tiến hành:
+ Khoản thu thường xuyên: thuế, lệ phí

+ Khoản thu không mang tính thường xuyên: các khoản viện trợ, các khoản đóng góp tự
nguyện của dân chúng, các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước..
- Căn cứ vào vị trí địa lý nơi phát sinh khoản thu:
+ Thu trong nước: thu từ hoạt động sản xuất và kinh doanh dịch vụ tại các khu vực kinh tế,
thu từ hoạt động bán và cho thuê tài sản của Nhà nước…
+ Thu ngoài nước: thu từ trợ giúp của nước ngoài ( các khoản viện trợ từ chính phủ nước
ngoài và các tổ chức quốc tế ) và thu hồi nợ từ chính phủ nước ngoài…
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu NSNN:
- Trình độ phát triển của nền kinh tế: Trình độ phát triển kinh tế càng cao, số thu NSNN
càng lớn và ngược lại. Bởi lẽ, có hoạt động kinh tế thì mới tạo cơ sở để nhà nước tạo lập quỹ
NSNN và nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, đa dạng sẽ nảy sinh nhiều nguồn thu mới với số
lượng nhiều. Hơn nữa, kinh tế phát triển bền vững số thu NSNN càng ổn định.
Nhận thức được vấn đề này cho thấy muốn có số thu NSNN nhiều, nhà nước cần có chính
sách khuyến khích nền kinh tế phát triển.
- Hiệu quả đầu tư: Hiệu quả đầu tư là một trong số những nhân tố quan trọng hàng đầu ảnh
hưởng trực tiếp đến số thu NSNN. Trong nền kinh tế có hiệu quả đầu tư cao, lượng của cải tạo
ra nhiều hơn tạo điều kiện mở rộng nguồn thu ngân sách. Hiệu quả đầu tư cao cũng tạo điều
kiện thuận lợi hơn để nhà nước tăng tỷ lệ điều tiết vào NSNN.
- Quan hệ quốc tế của nhà nước: Quan hệ quốc tế của nhà nước ảnh hưởng đến hoạt động
ngoại thương, vay vốn nước ngoài,…
- Mức độ chi tiêu của nhà nước: phụ thuộc vào nhiệm vụ kinh tế - xã hội mà Nhà nước đảm
nhận trong từng thời kỳ; thông thường nhà nước có nhu cầu chi tiêu nhiều sẽ có nhu cầu thu
nhiều.
- Quy mô tổ chức của bộ máy Nhà nước và hiệu quả hoạt động bộ máy.

19


- Hiệu lực và hiệu quả của cơ quan hành thu: Khi tổ chức bộ máy hành thu gọn, nhẹ, làm
việc có hiệu quả thì chi phí cho công tác hành thu ít, số thu thực tế sẽ tăng.

- Nguồn tài nguyên thiên nhiên như dầu mỏ, kim loại quý,…
- Các nhân tố bất thường như giá cả, lãi suất, biến động về kinh tế chính trị, xã hội như chiến
tranh, thảm hoạ thiên nhiên cũng ảnh hưởng lớn đến số thu của NSNN.
2.3. Các khoản thu thường xuyên của NSNN:
2.3.1. Thuế:
2.3.1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại:
a) Khái niệm:
Sự ra đời của thuế là 1 tất yếu khách quan gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của
Nhà nước. Mỗi Nhà nước ở mỗi giai đoạn lịch sử có bản chất, chức năng và nhiệm vụ cụ thể
không giống nhau nhưng lại có chung những nhiệm vụ như phát triển kinh tế, xã hội, an ninh
quốc phòng… nhằm đảm bảo lợi ích chung của đất nước. Vì vậy, Nhà nước đã sử dụng quyền
lực của mình, trước hết là quyền lực chính trị, để quy định các khoản đóng góp bắt buộc cho
Nhà nước đối với các thể nhân và pháp nhân trong xã hội nhằm đảm bảo điều kiện vật chất
duy trì sự tồn tại và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, một trong số đó là
thuế.
Thuế có thể thu bằng tiền, bằng hiện vật hoặc bằng ngày công lao động. Với sự mở rộng
không ngừng chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước và sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế hàng
hóa – tiền tệ; hệ thống thuế của các quốc gia đã không ngừng phát triển và thuế thu bằng tiền
trở thành hình thức thu phổ biến.
Như vậy có thể khẳng định Nhà nước và thuế là 2 phạm trù gắn bó hữu cơ với nhau. Nhà
nước tồn tại tất yếu phải có thuế để đảm bảo điều kiện vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của
mình, đồng thời sự phát triển hệ thống thuế của các quốc gia luôn gắn liền với sự phát triển
của chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước và sự phát triển của kinh tế hàng hóa – tiền tệ.
Xét về nội dung vật chất, thuế là một bộ phận của cải xã hội được tập trung vào quỹ NSNN,
mà thực chất là một bộ phận của cải từ khu vực tư được chuyển vào khu vực công nhằm trang
trải các chi phí duy trì sự tồn tại, hoạt động của bộ máy Nhà nước và các chi phí công cộng
đem lại lợi ích chung cho cộng đồng.
Về bản chất kinh tế xã hội, thuế thuộc phạm trù phân phối của cái xã hội chứa đựng các
quan hệ kinh tế xã hội giữa Nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội. Các quan hệ kinh tế
này làm nảy sinh một cách khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt là các thể nhân và pháp

nhân phải chuyển giao bắt buộc một phần của cải của mình cho Nhà nước theo đúng quy định
do chính Nhà nước ban hành mà không gắn với bất kỳ sự ràng buộc nào về sự hoàn trả số
thuế đã nộp theo luật định hoặc cung cấp trực tiếp hàng hóa, dịch vụ cho người nộp thuế từ
phía Nhà nước.
Như vậy có thể hiểu, thuế là một hình thức động viên bắt buộc của Nhà nước theo luật
định, thuộc phạm trù phân phối, nhằm tập trung một bộ phận thu nhập của các thể nhân
và pháp nhân vào NSNN để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước và phục vụ cho lợi
ích công cộng.
b) Đặc điểm:
* Thuế là một biện pháp tài chính của Nhà nước mang tính bắt buộc, tính quyền lực và
pháp lý cao:
- Thuế là biện pháp tài chính vì nó là công cụ giúp Nhà nước huy động nguồn lực tài chính
phục vụ cho các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
- Thuế là biện pháp tài chính mang tính pháp lý cao:

20


+ Đặc điểm này được thể chế hoá trong Hiến pháp của mọi quốc gia. Trong Hiến pháp của
Việt Nam năm 1992, tại chương V điều 80 có ghi “ Mọi công dân có nghĩa vụ đóng thuế và
lao động công ích theo quy định của pháp luật”.
+ Bên cạnh đó, các quy định về thuế đều được ban hành dưới dạng Luật hoặc Pháp lệnh do đó
nó mang tính pháp lý cao.
- Thuế là biện pháp tài chính mang tính quyền lực vì: Các quy định về thuế được cơ quan
quyền lực cao nhất của Nhà nước ( ở Việt nam đó là Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc
hội ) ban hành.
- Việc đóng thuế cho Nhà nước được coi là một trong những nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi
công dân. Mọi công dân có nghĩa vụ đóng thuế theo những luật thuế được cơ quan quyền lực
tối cao quy định, và nếu không chấp hành sẽ bị cưỡng chế theo những hình thức nhất định.
Thuế là hình thức động viên bắt buộc vì:

+ Việc thu thuế chính là việc huy động một phần thu nhập của các pháp nhân, các thể nhân do
vậy nếu không buộc các pháp nhân, các thể nhân nộp thuế thì sẽ không tập trung được nguồn
thu vào ngân sách Nhà nước.
+ Hàng năm Quốc hội đều thông qua kế hoạch thu chi NSNN (dự toán thu chi NSNN), để đáp
ứng các khoản chi mang tính kế hoạch thì phải có các khoản thu đủ và đúng hạn.
- Thuế là khoản thu bắt buộc nhưng phi hình sự: Các hoạt động thu nhập của các thể nhân, các
pháp nhân là các hoạt động không gây cản trở cho sự phát triển của xã hội nên không vi phạm
pháp luật. Do vậy việc thu thuế của Nhà nước đối với các pháp nhân, các thể nhân đó không
mang tính chất hình phạt.
+ Phân biệt thuế với các hình thức phạt bằng tiền:

Giống nhau: Đều là các hình thức động viên một phần thu nhập của các pháp nhân,
các thể nhân vào ngân sách Nhà nước.


Khác nhau:

Thuế được thực hiện khi có phát sinh thu nhập, có sự dịch chuyển của hàng hoá, có sự vận
động của tài sản.
Việc phạt bằng tiền không thường xuyên, chỉ xuất hiện khi có hành vi phạm pháp của các
thể nhân và pháp nhân nhưng chưa đến mức phải truy tố. Khoản tiền phạt không cố định mà
tuỳ theo hành vi phạm pháp để phạt.
+ Phân biệt thuế với các hình thức khác như: Phí, lệ phí, biện pháp trưng thu, trái phiếu chính
phủ. So sánh giữa thuế, phí và lệ phí:


Giống nhau: Phí, lệ phí và thuế có những điểm giống nhau cơ bản sau:

Phí, lệ phí và thuế đều là nguồn thu chủ yếu thường xuyên của NSNN. Ba khoản thu này
chiếm tuyệt đại bộ phận trong tổng thu NSNN.

Phí, lệ phí, thuế đều gắn với quyền lực của Nhà nước, mang tính chất pháp lý cao . Đặc biệt,
thuế và lệ phí luôn gắn liền với BMNN, chỉ có BMNN mới được thu thuế và lệ phí .
Phí, lệ phí, thuế đều là những công cụ phục vụ tốt cho công tác quản lý điều hành xã hội của
Nhà nước, góp phần thực hiện công bằng xã hội.


Khác nhau:

21


- Về tính pháp lý:
+ Thuế là khoản thu mang tính pháp lý cao hơn. Thuế được ban hành dưới hình thức luật,
pháp lệnh và có diện điều chỉnh rộng.
+ Phí, lệ phí có mức độ pháp lý thấp hơn. Các chế độ thu phí và lệ phí do cơ quan hành pháp
ban hành dưới hình thức Nghị định hoặc Quyết định; đồng thời diện điều chỉnh hẹp hơn thuế,
chỉ liên quan đến các tổ chức, cá nhân có hưởng thụ lợi ích công cộng hay hành chính pháp
lý.
- Về tính chất động viên:
+ Thuế là các khoản thu mang tính chất không hoàn trả trực tiếp.
+ Phí, lệ phí mang tính chất hoàn trả trực tiếp.
Thu phí: Làm tăng thu nhập cho Nhà nước.
Người nộp phí, lệ phí được hưởng lợi ích từ hàng hoá, dịch vụ công cộng do Nhà nước cung
cấp.
+ Mục tiêu phí: Bù đắp một phần hay toàn bộ chi phí.
+ Mục tiêu lệ phí: Mang tính chất quản lý Nhà nước là chủ yếu chứ không phải mục tiêu bù
đắp chi phí là chính vì đằng sau các dịch vụ đó Nhà nước đã phải bỏ ra rất nhiều chi phí.
- Về mục đích sử dụng:
Thuế, lệ phí: Sử dụng cho nhu cầu chi tiêu thường xuyên nói chung của Nhà nước.
Phí: Mục đích của loại phí nào được dùng để đặt tên cho loại phí đó.

* Thuế là hình thức động viên tài chính luôn chứa đựng các yếu tố kinh tế - xã hội:
Tuy là một biện pháp tài chính của Nhà nước mang tính chất bắt buộc, song sự bắt buộc đó
luôn luôn được xác lập trên nền tảng của các vấn đề kinh tế xã hội của người thực hiện nghĩa
vụ đóng thuế.
Việc xác lập một hệ thống thuế với các sắc thuế khác nhau trước hết bắt nguồn từ nhu cầu
chi tiêu của Nhà nước, song trong thực tế mức động viên qua thuế bao giờ cũng chịu sự ràng
buộc của các yếu tố kinh tế - xã hội của một quốc gia trong từng giai đoạn cụ thể.
- Yếu tố kinh tế ràng buộc đến chính sách thuế bao gồm:
+ Tỷ lệ phát triển kinh tế (r)
+ Năng suất của đầu tư vốn (ICOR), k
+ Mức chi tiêu của chính phủ (Cg)
+ Tiết kiệm của khu vực tư nhân (Sp)
+ Mức đầu tư của nước ngoài có thể huy động được (If)
Mối quan hệ rằng buộc giữa thuế (T) với các yếu tố kinh tế được biểu hiện bằng công thức
logic sau:

T = r /k + Cg + Sp + If
- Yếu tố xã hội rằng buộc đến chính sách thuế là phong tục tập quán của quốc gia, kết cấu giai
cấp cũng như đời sống xã hội của mọi thành viên của một quốc gia.
Ngoài ra, khi ban hành những chính sách thuế còn phải tính đến yếu tố mở cửa hội nhập với
các quốc gia trên thế giới.

22


* Thuế là một khoản đóng góp không mang tính hoàn trả trực tiếp:
- Mọi khoản đóng góp của công dân thông qua thuế không được hoàn trả bằng đúng khoản
thu mà Nhà nước đã thu từ công dân đó. Nó sẽ được hoàn trả lại cho người nộp thuế thông
qua cơ chế đầu tư của ngân sách Nhà nước cho việc sản xuất hàng hoá và cung ứng hàng hoá
công cộng.

- Khoản thu từ thuế đối với mỗi thể nhân, pháp nhân không căn cứ vào mức độ sử dụng hàng
hoá công cộng của mỗi pháp nhân, thể nhân nhiều hay ít mà nó căn cứ vào khả năng và trách
nhiệm nộp thuế của các pháp nhân, thể nhân đó.
2.3.2. Phí, lệ phí
- Phí là khoản thu nộp bắt buộc mà các đối tượng phải nộp khi họ muốn thụ hưởng các dịch
vụ từ các công trình công cộng đem lại hoặc từ các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước cung cấp.
Khoản phí này dùng để xây dựng, duy trì, bảo dưỡng chính các công trình đó cũng như duy trì
hoạt động của các cơ quan cung cấp dịch vụ.
Các dịch vụ thu phí theo quy định của pháp luật có thể do Nhà nước đầu tư cung cấp như:
Phí giao thông, phí thuỷ lợi, học phí trường công, viện phí bệnh viện Nhà nước...
Hoặc do khu vực tư nhân đầu tư cung cấp như: Phí cắt tóc, gội đầu, phí sửa chữa đồ dùng cá
nhân, học phí trường tư...
Nếu phí thu từ các dịch vụ do nhà nước đầu tư là các khoản thu thuộc NSNN.
Nếu phí thu được từ các dịch vụ không do Nhà nước đầu tư hoặc do Nhà nước đầu tư nhưng
đã chuyển giao cho tổ chức, cá nhân thực hiện theo nguyên tắc hạch toán và tự chủ tài chính
là khoản thu không thuộc NSNN.
- Lệ phí là khoản thu nộp bắt buộc mà các cá nhân và tổ chức phải nộp khi họ muốn được
hưởng các dịch vụ từ các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước. Mức thu lệ phí được ấn định
trước bằng một số tiền nhất định.
2.3.3. Thu từ các hoạt động kinh tế của nhà nước
Là những khoản thu có được từ những hoạt động kinh tế của Nhà nước thông qua các DN
Nhà nước, thông qu việc bán, cho thuê tài sản của Nhà nước, thông qua việc chia lợi tức từ
hoạt động góp vốn liên doanh, liên kết của Nhà nước.
2.3.4. Thu từ vay và viện trợ
- Thu từ viện trợ: là khoản thu có được từ viện trợ không hoàn lại của Chính phủ và các tổ
chức phi Chính phủ, từ viện trợ cho Việt Nam.
- Khoản vay nợ:
+ Vay trong nước thông qua việc phát hành trái phiếu để huy động vốn của người dân.
+ Vay nước ngoài thông qua hợp đồng tín dụng giữa các Chính phủ hoặc phát hành trái phiếu
quốc tế để vay trực tiếp các nhà đầu nước ngoài.

CHƯƠNG III : CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ CHI NSNN
3.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CHI NSNN
a) Khái niệm:

23


Chi NSNN là phân phối và sử dụng quỹ NSNN theo dự toán ngân sách đã được cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt nhằm duy trì sự hoạt động của bộ máy Nhà nước và bảo
đảm Nhà nước thực hiện được các chức năng, nhiệm vụ của mình.
- Các khoản chi ngân sách đều phải chi đúng mục đích, đúng chế độ, đúng tiêu chuẩn.
- Các khoản chi NSNN đều phải có đủ hồ sơ và được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chuẩn
chi.
b) Đặc điểm:
- Chi NSNN chỉ được tiến hành trên cơ sở pháp luật và theo kế hoạch chi ngân sách cũng như
phân bổ ngân sách do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định.
- Chi ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với những nhiệm vụ kinh tế chính trị, xã hội mà chính
phủ phải đảm nhận trước mỗi quốc gia. Mức độ, phạm vi chi tiêu ngân sách Nhà nước phụ
thuộc vào tính chất nhiệm vụ của chính phủ trong mỗi thời kỳ.
- Tính hiệu quả của các khoản chi ngân sách Nhà nước được thể hiện ở tầm vĩ mô và mang
tính toàn diện cả về hiệu quả kinh tế trực tiếp, hiệu quả về mặt xã hội và chính trị, ngoại giao.
- Xét về mặt tính chất, phần lớn các khoản chi ngân sách Nhà nước đều là các khoản cấp phát
không hoàn trả trực tiếp mà mang tính bao cấp.
3.2. CÁC KHOẢN CHI THƯỜNG XUYÊN:
3.2.1. Chi quản lý hành chính
Khoản chi này dùng để duy trì hoạt động của bộ máy cơ quan quyền lực và các cơ quan
quản lý Nhà nước các cấp. Nó bao gồm: tiền lương, phụ cấp cho cán bộ công chức, chi mua
sắm trang thiết bị văn phòng phục vụ cho hoạt động quản lý, chi sửa chữa nhỏ trụ sở, chi hỗ
trợ hoạt động cho các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội.
3.2.2. Chi sự nghiệp kinh tế

Khoản chi này không nhằm mục đích SXKD, hướng tới mục tiêu lợi nhuận mà nó phục vụ
cho sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. Nó dùng để chi cho các hoạt động sau đây: chi
định canh, định cư cho các bản làng dân tộc thiểu số; chi đưa dân đi, đón dân đi các vùng kinh
tế mới; chi điều tra cơ bản dân số, tài nguyên; chi đo đạc bản đồ địa chính; chi cho các viện
nghiên cứu, các vườn ươm giống cây con, giữ giốn cấp quốc gia; chi cho việc bảo quản các
kho dự trữ quốc gia.
3.2.3. Chi sự nghiệp xã hội
a) Chi cho GD - ĐT:
Dùng để chi cho các chương trình xóa nạn mù chữ, phổ cập giáo dục; chi hỗ trợ mua sắm
trang thiết bị trường học, trả lương cho giáo viên, học bổng cho sinh viên; bảo đảm kinh phí
hoạt động cho các trường tiểu học; hỗ trợ xuất bản sách báo thiếu nhi.
b) Chi cho sự nghiệp y tế:
Chi cho các chương trình quốc gia về tiêm chủng mở rộng; khám chữa bệnh miễn phí cho
trẻ em dưới 6 tuổi; chi cho các chương trình quốc gia về xét nghiệm HIV, ma túy; chi mua
sắm trang thiết bị cho các bệnh viện vùng núi, vùng sâu, hải đảo; chi đầu tư trang thiết bị cho
các bệnh viện trọng điểm.
c) Chi cho khoa học – công nghệ:

24


Khoản chi này dùng để chi trả lương cho các cán bộ nghiên cứu, chi đầu tư cho các công
trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ, cấp Nhà nước; chi cho việc thưởng các văn bằng sáng chế,
phát minh về khoa học – công nghệ.
d) Chi phát thanh truyền hình và văn hóa thông tin:
Khoản chi này dùng để chi cho việc phát sóng các kênh chính của Đài Truyền hình Việt
Nam và Đài tiếng nói Việt Na; chi cho việc duy tu, bảo dưỡng các di tích lịch sử, văn hóa; chi
cho việc in ấn sách báo tuyên truyền thông tin cổ động.
e) Chi cho thể dục – thể thao:
Khoản chi này dùng để chi lương và chế độ cho các huấn luyện viên, vận động viên; chi hỗ

trợ cho các phong trào thể dục thể thao của đất nước.
f) Chi dân số kế hoạch hóa gia đình:
Chi cho các hoạt động tuyên truyền, phổ biến việc kế hoạch hóa gia đình nhằm hạn chế bớt
tốc độ sinh của Việt Nam.
g) Chi lương hưu và bảo đảm XH:
Để trả lương hưu cho các cán bộ công chức; chi hỗ trợ cho các gia đình có công với cách
mạng, gia đình thương, bệnh binh; chi cho các trại trẻ mồ côi và viện dưỡng lão.
3.2.4. Chi cho quốc phòng
Khoản chi này có tính chất tuyệt mật cả về nội dung chi, số tiền chi; thông thường nó dùng
để chi trả lương cho sỹ quan; chi chế độ cho quân nhân; xây dựng doanh trại, mua sắm quân
trang, quân dụng.
3.2.5. Chi khác
- Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính.
- Chi trả nợ gốc các khoản vay trong nước, chi cho đầu tư phát triển như: Vay tín phiếu, trái
phiếu phát hành qua hệ thống ngân hàng và qua KBNN.
- Chi trả nợ gốc các khoản vay ngoài nước để đầu tư phát triển như: Chi cho các tổ chức tài
chính, tiền tệ quốc tế, cho các Chính phủ và các tổ chức tài chính - tín dụng nước ngoài, cho
thương nhân nước ngoài.
- Chi để thực hiện đóng và tham gia góp vốn với các tổ chức như: Ngân hàng thế giới, Ngân
hàng phát triển Châu á, quỹ tiền tệ quốc tế, quỹ ASEAN.
3.3. CHI ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN:
- Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả năng thu hồi
vốn.
- Đầu tư và hỗ trợ vốn cho các DNNN,góp vốn cổ phần liên doanh vào các doanh nghiệp
thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước.
- Chi cho quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và quỹ hỗ trợ phát triển.
- Chi dự trữ Nhà nước.
Trong đó:
- Chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả năng thu
hồi vốn:


25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×