Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Một vài suy nghĩ về tư tưởng triết học việt nam trong nền văn hoá dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.75 KB, 16 trang )

A.

Mở đầu

Nền văn hoá lâu đời ở Việt Nam đã hình thành,lưu giữ và tiếp biến nhiều tư tưởng
phản ánh tiến trình dựng nước, giữ nước và những khả năng sang tạo của nhiều thế hệ
người Việt Nam trong lịch sử dân tộc. Những t tưởng ấy rất phong phú, đa dạng và phức
tạp. Chúng trở thành nội dung, đối tượng của nhiều ngành khoa học khác nhau như: sử
học, văn học, kinh tế học, chính trị học, luật học, xã hội học, khoa học quân sự, khoa học
ngoại giao.. .trong đó có triết học. Thế nhưng lịch sử triết học Việt Nam với tư cách là một
bộ môn khoa học chỉ mới ra đời cách đây không lâu ở Việt Nam. Bởi vậy, đòi hỏi các nhà
lý luận tiếp tục làm rõ những vấn đề lien quan đến lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam - tư
tưởng triết học đã từng định hướng sự phát triển, bao quát một cách rộng rãi, chi phối suy
nghĩ và hành động của con người Việt Nam trong từng mốc phát triển lịch sử của nó. Đó
là các vấn đề như: Ở Viêt Nam có triết học hay không? Nguồn gốc hình thành, đối tượng,
phạm vi, đặc điểm của tư tưởng triết học Việt Nam la gì?
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi quyết định chọn chủ đề “ Một vài suy nghĩ
về tư tưởng triết học Việt Nam trong nền văn hoá dân tộc” làm đề tài tiểu luận của mình.

B.

Nội dung

I. Khái quát chung về mếỉ quan hệ giữa văn hoá, triết lý và triết học trong tiến
trình phát triển tư tưởng của dân tộc
Văn hoá là nguồn nuôi dưỡng các triết lý, các tư tưởng và hệ thống triết học, là điều
kiện tất yếu cho sự tồn tại và phát triển các hệ thống triết học. Các triết lý, các hệ thống
triết học lại là những bộ phận cốt lõi nhất trong nền văn hoá của một dân tộc.
Xét trên nhiều khía cạnh, triết lý luôn ở tầm thấp hơn so với các hệ thống triết học, song
nó chính là chất liệu của các hệ thống triết học bác học.Có thể khẳng định rằng văn hoá,
các triết lý và các hệ thống triết học chính là ba tầng bậc khác nhau của văn hoá theo nghĩa


rộng.
1


Văn hoá là nguồn nuôi dưỡng các triết lý, các tư tưởng và hệ thống triết học, là điều
kiện tất yếu cho sự tồn tại và phát triển các hệ thống triết học. Các triết lý, các hệ thống
triết học lại là những bộ phận cốt lõi nhất trong nền văn hoá của một dân tộc. Xét trên
nhiều khía cạnh, triết lý luôn ở tầm thấp hơn so với các hệ thống ứiết học, song nó chính là
chất liệu của các hệ thống triết học bác học. Theo tác giả, văn hoá, các triết lý và các hệ
thống triết học chính là ba tầng bậc khác nhau của văn hoá theo nghĩa rộng.
Các thành tố văn hoá trong hệ thống chỉnh thể bao hàm và gắn kết lẫn nhau tạo nên
những cái chung, những triết ỉỷ mang tỉnh thể giới quan, trong đó tích trữ những kinh
nghiệm xã hội đã tích luỹ được. Chứng không phải là những phạm trù triết học dù chứng
phản ánh hiện thực, thể hiện thành những quy tắc, chuẩn mực của hoạt động, thành những
triết lý, thành các cái chung văn hoá. Các triết lý có thể hoạt động và phát triển cả ở bên
ngoài các hệ thống triết học, nhưng chứng lại vốn có trong các nền văn hoá mà ở đó, chưa
có những hình thức phát triển của các hệ thống triết học.
Trong các triết lý mang tính thế giới quan có thể có những phương án sống và hoạt
động riêng, đặc trưng cho những kiểu văn hoá khác nhau và ăn sâu trong ý thức con
người. Đồng thời chứng cũng gắn liền với những nội dung, phương thức, chương trình
hành động của quá khứ lẫn tương lai, thể hiện những đặc điểm của phương thức giao tiếp
và hoạt động của con người, của việc bảo tồn, chuyển tải kinh nghiệm xã hội và thang bậc
giá trị. Chứng mang đặc trưng dân tộc và chủng tộc trong mỗi nền văn hoá, xác định đặc
điểm của các nền văn hoá khác nhau. Ý nghĩa của những triết lý trong văn hoá sẽ được các
cá nhân nhận thức và chứng sẽ xác định tầm quan niệm về thế giới, hành động và cách xử
thế của các cá nhân. Ý nghĩa của những triết lý ở tầm nhóm và cá nhân sẽ được hiệu chỉnh
cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của họ.
Văn hoá là nguồn nuôi dưỡng các hệ thống triết học, các tư tưởng triết học; là điều
kiện, chất liệu và nguồn gốc cho sự phát triển của triết học. Một dân tộc có thể không có
hệ thống triết học riêng nhưng không thể không có văn hoá riêng của mình. Không có văn

hoá riêng của mình, dân tộc sẽ không thể tồn tại được. Vãn hoá là điều kiện cần thiết, tất
yếu của sự tồn tại của mỗi dân tộc cả về phương diện đời sống vật chất lẫn đời sống tinh

2


thần. Theo nghĩa đó, văn hoá cũng là điều kiện tất yếu cho sự tồn tại và phát triển của các
hệ thống triết học.
Trong mỗi một nền văn hoá dân tộc bao giờ cũng bao hàm những triết lý về con
người, cuộc sống, xã hội và thế giới nói chung. Nhưng đó chưa phải là hệ thống triết học.
Những cái chung, những triết lý đó có thể rời rạc, tản mạn, không liên kết chặt chẽ, lôgíc
được với nhau, mặc dù chứng có thể là những triết lý sâu sắc. Chứng thể hiện sự suy tư,
đúc kết kinh nghiệm, tri thức của con người về những mặt, những sự kiện, hiện tượng
riêng lẻ trong đời sống. Chứng có thể được thể hiện bằng ca dao, tục ngữ, văn học, nghệ
thuật, kiến trúc, cách hành xử trong cuộc đời. Đối với người Việt Nam, “Bầu ơi thương
lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” từ lâu đã là một triết lý sống, một
cách hành xử trong quan hệ giữa người với người. Nhưng đó chưa phải là triết học, càng
chưa phải là một hệ thống triết học.
Khác với các hệ thống triết học bác học do các nhà tư tưởng, các
nhà khoa học hoàn toàn xác định tạo ra, các triết lý, thường là
vô danh, xuất hiện và tồn tại trong các hình thức khác nhau: ca
dao, tục ngữ, trong cuộc sống thường ngày, trong kiến trúc, V.V..
Không thể xác định được chính xác thời gian ra đời của một cái
chung, một triết lý cụ thể nào đó. Nhưng có thể xác định được tác
giả và thời gian xuất hiện của một hệ thống triết học cụ thể.
Những triết lý, những cái chung phong phú và đa dạng đó tồn tại
lâu đời trong cuộc sống của mỗi cộng đồng dân tộc, nhưng chúng
chỉ có thể tồn tại bên cạnh nhau, phản ánh các mặt, các quá trình
cụ thể của đời sống xã hội mà không thể tạo thành một hệ thống
triết học có kết cấu lôgíc bên trong, như một lý thuyết hay hệ

thống lí luận triết học. Chứng không thể có tính khái quát cao và
tính hệ thống chặt chẽ như các hệ thống triết học bác học.

Các triết lý đó nằm ngay trong văn hoá dân tộc, chúng không tách rời mà gắn chặt
với văn hoá theo cả nghĩa rộng lẫn nghĩa hẹp, trong cả văn hoá vật chất lẫn văn hoá t inh
thần. Chúng hoà vào văn hoá dân tộc và là một yếu tố cấu thành căn bản có ý nghĩa quyết
định chiều sâu của văn hoá dân tộc. Ở một góc độ nhất định, có thể nói, các triết lý ấy
chính là lớp trầm tích cô đọng của văn hoá dân tộc. Tuy không phải là toàn bộ nền văn
hoá, nhưng chúng là yếu tố cốt lõi tạo nên chất lượng của nền văn hoá, làm cho văn hoá
phong phú và sâu sắc hơn.
Mặt khác, chính văn hoá dân tộc là nguồn sữa bất tận nuôi dưỡng và phát ứiển các
triết lý. Quy mô, cường độ và năng lực lao động của một dân tộc càng lớn, nền văn hoá
3


càng phát triển thì càng làm cho các triết lý của họ phong phú, sâu sắc, đa dạng, toàn diện,
thể hiện đời sống con người và xã hội đầy đủ hơn. Sự phát triển của văn hoá dân tộc cung
cấp chất liệu cho sự xuất hiện, tồn tại và phát triển các triết lý. Theo chiều ngược lại, các
triết lý lại có tác dụng định hướng và thúc đẩy các hoạt động, hành vi và giao tiếp của con
người, theo hướng có văn hoá, sáng tạo, mở rộng và phát triển văn hoá. Các triết lý là
những khuôn mẫu, định hướng và do vậy, là cơ sở trực tiếp cho sự phát triển tiếp theo của
văn hoá.
Chính vì vậy, các triết lý là bộ phận cấu thành cốt lõi và quan trọng của văn hoá.
Hơn nữa, trong mỗi nền văn hoá dân tộc, các triết lý thường gần gũi, gắn bó trực tiếp với
đời sống thường ngày của con người, nó được truyền tải thông qua giáo dục nhà trường,
giáo dục gia đình; được con người tiếp thu qua kinh nghiệm, học hỏi ở bạn bè... Mặt khác,
các triết lý mới đạt tầm kinh nghiệm chứ chưa phải ở tầm trình độ lý luận. Do vậy, chứng
dễ hiểu, dễ vận dụng, sát hợp với tâm thức, bản sắc, tính cách của cộng đồng và dễ đi sâu
vào con người, dễ tiếp thu và định hướng hoạt động, giao tiếp của con người nhẹ nhàng
hơn so với các nguyên lý lý luận trong các hệ thống triết học.

Một chiều cạnh khác trong mối quan hệ văn hoá và triết học liên quan đến các
triết lý trong nền văn hoá dân tộc là vai trò của các triết lý đối với các hệ thống triết
học bác học. Chỉ một số dân tộc có các hệ thống triết học bác học. Các hệ thống triết
học luôn ở tầm lý luận cao so với các triết lý trong nền văn hoá dân tộc. Chúng cũng
4

là một bộ phận cấu thành quan trọng của văn hoá dân tộc. Có thể nói, các học thuyết triết
học bác học là sự kết tinh cao độ ở tầm lý luận các triết lý trong văn hóa dân tộc, thể hiện
thế giới quan và nhân sinh quan của dân tộc ở thời đại đó được khúc xạ qua lăng kính của
các nhà triết học cụ thể. Các triết lý trong nền văn hoá dân tộc chính là những chất liệu
trực tiếp để tạo nên kết cấu cho mọi yếu tố của các hệ thống triết học bác học. Một mặt,
các triết lý có thể tham gia ít nhiều bằng nội dung kiến thức, bằng cách tư duy, suy luận...
vào hệ thống triết học dưới dạng nguyên mẫu. Mặt khác, nhiều triết lý tham gia vào học
thuyết triết học bác học một cách gián tiếp thông qua việc tác động vào tư duy, ý thức của
nhà triết học trong quá trình học tập, qua kinh nghiệm cuộc sống, qua tiếp thu kinh

4


nghiệm của người khác ngay từ khi hệ thống đó bắt đầu hình thành, phát triển và được
diễn đạt thành lý luận có hệ thống.
Văn hoá dân tộc là môi trường sống, nguồn nuôi dưỡng các hệ thống triết học bác
học. Các hệ thống triết học bác học là sản phẩm trước hết của nền văn hoá dân tộc, chứng
được tích tụ, chưng cất và thăng hoa qua tài năng nhận thức, suy tư và bản lĩnh của các
triết gia. Không chỉ chất liệu của các hệ thống triết học bác học được tích tụ và trầm lắng,
tinh luyện từ văn hoá mà cả năng lực nhận thức, suy tư và bản lĩnh cùng những phẩm chất
khác của các triết gia sáng tạo nên các hệ thống triết học bác học cũng đều được nẩy mầm,
nuôi dưỡng trong nền văn hoá dân tộc.
Triết học muốn đạt đến đỉnh cao lý luận thì phải tổng kết và khái quát được sự phát
triển của toàn bộ các lĩnh vực văn hoá. Điều đó đòi hỏi các nhà triết học phải có nhãn quan

văn hoá rộng lớn, sự hiểu biết rộng và sâu sắc các lĩnh vực khác nhau của đời sống văn
hoá dân tộc. Triết học càng đứng ở đỉnh cao lý luận, phạm vi và mức độ khái quát, tổng
kết càng sâu sắc sẽ càng có tác động định hướng lớn cho nhiều lĩnh vực khác nhau của văn
hoá. Sự tác động định hướng này có thể thông qua con đường trực tiếp bằng cách tiếp
nhận các tri thức lý luận triết học, có thể bằng con đường gián tiếp, thông qua việc tiếp
nhận các triết lý nằm trong chính hệ thống triết học hoặc được triết học cải biến, chỉnh
sửa, chính xác hoá trong quá trình phát sinh và tồn tại. Mỗi con người sống, hoạt động và
giao tiếp luôn được chỉ đạo bởi một số lý luận triết học và triết lý xác định.
Như vậy, văn hóa, triết lý và triết học của mỗi dân tộc có mối quan hệ mật thiết với
nhau tạo thành tư tưởng đăch trưng cho dân tộc đó. vấn đề đặt ra đối với nước ta là: Việt
Nam có một nền văn hoá rất lâu đời, một nền triết lý (chủ yếu là triết lý dân gian) rất sâu
sắc và đặc sắc. Vậy, nước ta có tư tưởng triết học hay không?
Trả lời câu hỏi đó về cơ bản có hai quan điểm khác nhau:
Thứ nhất, Việt Nam không có triết học.
Ở quan điểm này, các nhà lý luận cho rằng, Việt Nam không có các nhà ứiết học,
không có các trường phái triết học cũng như không có các tác phẩm triết học. vấn đề cơ
bản của triết học, duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình.... chưa được đặt ra và giải
5


quyết. Nếu có những tư tưởng triết học nào đó, thì nó cũng hoà lẫn trong văn, sử hoặc tôn
giáo. Thậm chí có quan điểm còn cho rằng, người Việt Nam chỉ biết tiếp thu, sao chép
những tư tưởng từ bên ngoài và sử dụng cho phù hợp với thực tế đất nước, chứ không có
sáng tạo gì thêm.
Thứ hai, Việt Nam có triết học.
Chúng tôi đồng ý với quan điểm này. Mặc dù, ở Việt Nam không có các triết gia lỗi
lạc, không có các trường phái triết học tiêu biểu, vấn đề cơ bản của triết học, duy vật, duy
tâm, khả tri, bất khả tri hay biện chứng và siêu hình... cũng chưa được đặt ra một cách rõ
ràng và sáng tỏ. Song, khi đặt vấn đề rằng, phải có các triết gia, phải đưa ra và giải quyết
vấn đề cơ bản của triết học.... mới xét tới một dân tộc nào đó có triết học hay không, thì e

rằng đó là cách xem xét không biện chứng. Bởi vì, khi xét nguồn gốc nhận thức và nguồn
gốc xã hội về sự ra đời của triết học, cũng như xem xét các chức năng cơ bản của triết
học, như chức năng thế giới quan, chức năng phương pháp luận, chức năng nhân sinh
quan của triết học thì Việt Nam hoàn toàn có triết học. vấn đề đặt ra ở đây là, sự xuất hiện,
tồn tại và phát triển của triết học Việt Nam thông qua những hình thức đặc thù như thế
nào?
Trước khi xuất hiện triết học Mác - Lênin, ở Việt Nam đã có truyền thống văn, sử,
tôn giáo bất phân. Nởi vậy, ở Việt Nam không có triết học với tư cách là một bộ môn khoa
học độc lập hiểu theo nghĩa hiện đại, mà chỉ có những tư tưởng hay học thuyết triết học
nằm trong các cuốn sách về văn, sử hay tôn giáo. Nếu xét ở góc độ những vấn đề cơ bản
của triết học trên lập trường của triết học hiện nay thì quả thật ở Việt Nam, khía cạnh này
rất mờ nhạt. Nếu theo tiêu chí của một nền triết học là phải có triết gia, triết thuyết và
trường phái thì Việt Nam không có một nền triết học nào. Suốt mấy thập kỷ qua, quan
niệm này chiếm ưu thế trong đánh giá hoạt động văn hóa tinh thần của đất nước. Tuy
nhiên, một số học giả, một số nhà nghiên cứu vẫn khẳng định rằng, dân tộc Việt Nam có
một nền văn hiến riêng, trong đó chứa đựng một sắc thái tư tưởng không giống với các
nền triết học và văn minh lớn lân cận. Sự nghiên cứu tư tưởng dân tộc khiến việc khẳng
định Việt Nam có tư tưởng triết học dần dần trở nên tự tin hơn. Đến nay, có xu hướng
6


cũng cho rằng, chúng ta không chỉ có những tư tưởng triết học, mà còn có cả những học
thuyết triết học theo đúng nghĩa của nó.
II. Nguồn gốc, đổi tương và đặc điểm của tư tưởng triết học Việt Nam
2.1.

Nguồn gốc hình thành tư tưởng triết học Việt Nam

Như chứng ta đã biết, triết học ra đời với hai nguồn gốc: nguồn gốc nhận thức và
nguồn gốc xã hội.


2.1.1.

về nguồn gốc nhận thức

Triết học với tiêu chí như là một hệ thống những tri thức chung nhất của con người
về tự nhiên, xã hội và tư duy chỉ ra đời khi nhận thức của con người đạt tới một giới hạn
nhất định. Đó là ở trình độ nhận thức lý luận. Điều đó cũng có nghĩa là khi ngôn ngữ đã
phát triển tới giai đoạn có chữ viết.
Ở Việt Nam, theo các nhà khoa học, cách nay bốn nghìn năm, vào thời kỳ Tiền Đông
Sơn, thông qua các mối quan hệ với tự nhiên và xã hội, mà trước hết là hoạt động sản
xuất, nhận thức của cư dân người Việt đã đạt đến trình độ tư duy trừu tượng. Những nhận
thức này được biểu hiện thông qua kỹ thuật chế tác công cụ lao động bằng đá và bằng kim
loại. "Do đó, chúng ta phải đánh giá cao hoạt động tư duy trừu tượng của cư dân Tiền
Đông Sơn, mà trong một chừng mực nào đó, có thể gọi là tư duy khoa học của họ. Chính
thứ tư duy chính xác đó được phát triển nhờ hoạt động sản xuất, nhưng nó lại có tác động
ngược lại một cách tích cực với kỹ thuật sản xuất". Theo suy đoán, từ thời kỳ Đông Sơn
về sau, đã hình thành các huyền thoại, hơn nữa có quan điểm còn cho rằng thời kỳ này
cũng bắt đầu xuất hiện một hệ thống thần thoại khá ổn định.
Như vậy, ở thời kỳ Đông Sơn, nước ta đã hình thành và phát triển những mầm mống
của triết học, "tiền triết học" hay nói như Nguyễn Đăng Thục là "ngụ ý triết học", "là triết
học bình dân". Những mầm mống của triết học ấy chính là nguồn vật liệu phong phú mà
con người Việt Nam trực tiếp tích luỹ được từ hoạt động thực tiễn của mình để sau đó, khi
có chữ viết, cùng với việc kế thừa có phê phán và chọn lọc những tư tưởng triết học Trung
7


Quốc và triết học Ấn Độ, cũng như triết học phương Tây về sau, nền triết học Việt Nam
đã tồn tại và phát triển, gắn với thực tiễn khắc nghiệt dựng nước và giữ nước của dân tộc
và do đó, đã tạo nên những sắc thái riêng của mình.

Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng, nền sản xuất nước ta cho tới
nay vẫn là một nền sản xuất nhỏ, có nguồn gốc xa xưa từ chế độ
công xã nông thôn kéo dài hàng ngàn năm và sự ảnh hưởng tiêu cực
của nó tới nhận thức của dân tộc ta là không nhỏ. Những tư tưởng
bảo thủ, trì trệ, thói quen cục bộ, địa phương, tư tưởng đẳng
cấp, địa vị, vô chính phủ, mê tín dị đoan cùng những phong tục,
tập quán lạc hậu khác chính là vật cản đối với nhận thức lý luận.
Đứng như C.Mác đã chỉ rõ: "Những công xã ấy đã hạn chế lý trí của
con người trong những khuôn khổ chật hẹp nhất, làm cho nó trở
thành một công cụ ngoan ngoãn của mê tín, trói buộc nó bằng những
xiềng xích nô lệ của cái quy tắc cổ truyền, tước đoạt nó mọi sự
vĩ đại, mọi tính chủ động lịch sử”.

8


2.1.2.

về nguồn gốc xã hội
Gắn liền với nguồn gốc nhận thức là nguồn gốc xã hội. Triết học chỉ xuất hiện khi xã

hội phân chia thành giai cấp, cũng như có sự xuất hiện đội ngũ trí thức. Tuy nhiên, với
quan điểm lịch sử - cụ thể, nguồn gốc xã hội của triết học Việt Nam lại có những nét đặc
thù của nó. Quá trình ra đời của triết học Việt Nam không gắn với sự xuất hiện giai cấp và
đấu tranh giai cấp ở trong nước một cách rõ nét, mà chủ yếu là gắn với công cuộc chống
ngoại xâm để giành và giữ độc lập dân tộc.
Thời kỳ Bắc thuộc bắt đầu bằng sự xâm lược của nhà Hán năm 110 trước công
nguyên cho tới khi Ngô Quyền giành được độc lập vào năm 939. Trong thời gian này, kẻ
thù đã tìm mọi cách để Hán hoá dân tộc ta, về tư tưởng là truyền bá Nho giáo. Những âm
mưu thâm độc này đều bị nhân dân ta kiên quyết chống lại để bảo vệ nền văn hiến của

mình. Cùng với Nho giáo còn có Phật giáo và Đạo giáo cũng được truyền vào nước ta. Sự
tương tác của tam giáo này trên cơ sở những tư tưởng 'triết học của dân tộc Việt Nam,
xuất phát từ thực tiễn quật cường của đất nước, đã từng bước tạo nên tư tưởng triết học
Việt Nam. "Cái quý giá” trong di sản ấy là trình độ nhận thức vững chắc về tự nhiên và xã
hội, về cuộc sống đấu tranh chống thiên tai địch hoạ và mỗi tâm lý có bản sắc riêng thể
hiện trong phong tục, nếp sống và sự ứng xử giữa mọi người. Chủ nghĩa yêu nước, tinh
thần chiến đấu dũng cảm để bảo vệ Tổ quốc và lật đổ ách thống trị của ngoại bang nhất
giải phóng dân tộc như một ngọn lửa cháy trong di sản ấy".
Thời kỳ xây dựng quốc gia độc lập thịnh vượng (thế kỷ X đến thế kỷ XV) là thời kỳ
mà dân tộc ta đã giành được độc lập, tự chủ bằng xương máu của mình. Những thắng lợi
vĩ đại của công cuộc dựng nước và giữ nước ấy được phản ánh sinh động và rực rỡ trong
đời sống ý thức của dân tộc, trong đó tư tưởng triết học về dân, về con người, về dân tộc...
hay nói chung hơn, những tư tưởng triết học về xã hội, về thực tiễn giữ vai trò là trung
tâm của nó và xuyên suốt về sau.
Triết học Việt Nam tiếp tục được kế thừa, bổ sưng và phát triển gắn liền với hoạt
động thực tiễn dựng nước và giữ nước của dân tộc và đỉnh cao của sự phát triển ấy được
toả sáng rực rỡ trong tư tưởng triết học của Chủ tịch Hồ Chí Minh. "Chính những tư tưởng
9


triết học của Hồ Chí Minh là kim chỉ nam chỉ đạo hệ thống những luận điểm cách mạng
nổi tiếng của Người. Nó quyết định tính đúng đắn của đường lối chiến lược, sách lược của
cách mạng Việt Nam do Hồ Chí Minh và Đảng ta đã vạch ra, là một trong những nhân tố
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam".
Như vậy, xét về nguồn gốc ra đời, triết học Việt Nam hoàn toàn có cơ sở nhận thức
và xã hội của nó. Việc tiếp tục tìm hiểu khái quát để làm rõ những nội dung phong phú,
sâu sắc, trong tính chỉnh thể của nó, thiết nghĩ, đó là trách nhiệm cấp bách của các nhà lý
luận.
2.2. Đổi tương của tư tưởng triết học Việt Nam
Giới nghiên cứu đều thấy rằng, triết học phương Tây thường gắn với những thành

tựu của khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên. Còn triết học phương Đông thường gắn
với tôn giáo (Ấn Độ), với chính trị -xã hội, đạo đức (Trung Quốc), những tư tưởng triết
học Việt Nam thì gắn liền với công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Nói Việt Nam có
tư tưởng triết học vì Việt Nam được xem là một trong những cái nôi của nền văn minh
nhân loại, ngoài ra còn dựa trên một số căn cứ sau:
Thứ nhất, Việt Nam có một khả năng tư duy khái quát phát triển rất sớm, biết rút ra
những cái chung từ việc quan sát các hiện tượng tự nhiên, xã hội và con người, nghĩa là
biết tìm ra quy luật chung. Thêm nữa, Việt Nam biết lấy quá khứ để soi vào hiện tại, căn
cứ vào hiện tại để định hướng cho tương lai; biết xem xét sự vật, hiện tượng trong sự vận
động phát triển...
Thứ hai, Việt Nam có nhiều chiến công oanh liệt trong sự nghiệp đấu tranh dựng
nước và giữ nước, sau mỗi chiến công ấy đều có sự tổng kết để nâng lên thành lý luận.
Chẳng hạn, tổng kết từ thời đại nọ sang thời đại kia, tổng kết từ thời loạn lạc, chiến
10

tranh sang hoà òinh, tổng kết sau khi khắc phục những thiên tai... Đó là những khái quát ít
nhiều có tính triết học.

1
0


Thứ ba, Việt Nam có sự giao lưu, tiếp biến với nhiều nền văn hóa thế giới: tiếp biến
với nền văn hóa vĩ đại của Trung Hoa khi phong kiến phương Bắc vào xâm chiếm Việt
Nam; tiếp biến với văn hóa Ấn Độ đồ sộ một phần do đạo Phật từ Ấn Độ du nhập sang,
hoặc tiếp nhận đạo Kitô giáo qua cuộc xâm lược của thực dân phương Tây.
Những tư tưởng triết học trên đây đó được Việt Nam tiếp nhận một cách có chọn lọc,
sau đó bản địa hóa. Như vậy, đối tượng của lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam là:
-


Nghiên cứu sự phát triển tư tưởng triết học bản địa qua hoạt động sống của con
người: sản xuất, đấu tranh xã hội, đấu tranh với tự nhiên.

-

Nghiờn cứu quá trình nội địa hóa những tư tưởng triết học bên ngoài qua sự giao
lưu, tiếp biến với văn hóa phương Tây và văn hóa phương Đông.

2.3.

2.3.1.

Đặc điểm của tư tưởng triết học Việt Nam


o





Những tư tưởng khác nhau về tư tưởng triết học Việt Nam
Có quan điểm cho rằng tư tưởng triết học Việt Nam là bản sao chép rời rạc, là sự thu

nhỏ của triết học Ấn Độ và Trung Quốc. Theo họ, dân tộc Việt Nam có tính thực dụng
cao, chỉ biết tiếp thu, chế biến các hệ thống tư tưởng, tôn giáo cho phù hợp với mình, chứ
không có sự sáng tạo. Đó là sự thực của lịch sử tư tưởng chính thống Đại Việt. Rồi ngay
cả tín ngưỡng, tâm linh của người Việt cũng nhẹ nhàng mà không sâu. Rằng, người Việt
đại thể là thông minh, nhưng không mấy ai có trí tuệ


lỗi lạc phi

thường, có chăng thì chỉ giàu khả năng nghệ thuật hơn khoa học, giàu trực

giác hơn

luận lý, óc sáng tạo ít, nhưng bắt chước, thích ứng, dung hòa thì tài,

V.V..

Tựu trung lại,

quan điểm này phủ nhận tư tưởng triết học bản địa.
Quan điểm khác cho rằng, ở Việt Nam chỉ có lịch sử tư tưởng nói chưng, chứ không
có lịch sử tư tưởng triết học. Neu có tư tưởng triết học thì chỉ là những triết lý, chứ không
gọi là tư tưởng triết học. Xu hướng này tuyệt đối hóa tính hệ thống của triết học. Trên thực
tế, nhiều nhà tư tưởng của thế giới cổ đại cũng chỉ đưa ra các câu châm ngôn, các triết lý
nhân sinh, khái quát một số hiện tượng nào đó của tự nhiên chứ không phải ai cũng xây
1
1


dựng được các hệ thống tư tưởng, quan điểm hoàn chỉnh như các nhà triết học nổi danh
hàng đầu, tiêu biểu như Platôn, Arítxtốt...
Trên thế giới, những quốc gia có nền triết học phát triển thì việc tìm ra những đặc thù
của nó là cần thiết. Ngay cả khi nó tồn tại dưới dạng triết học thì cũng phải nói lên sự khác
nhau giữa dân tộc này với dân tộc khác, và dân tộc nào cũng có cái gọi là tư tưởng triết
học. Như vậy, việc nghiên cứu tư tưởng triết học Việt Nam là rất cần thiết.

2.3.2.



Môi số đãc điểm lư tưởng triết hoc Viêt Nam



o





Thứ nhất, tư tưởng triết học Việt Nam gắn với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước.
Như chứng ta đã khẳng định, nếu như triết học phương Tây thường gắn với những
thành tựu của khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên, triết học Ấn Độ thường gắn với tôn
giáo, triết học Trung Quốc gắn với chính trị -xã hội, đạo đức thì những tư tưởng triết học
Việt Nam gắn liền với công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Do ảnh hưởng của phương
thức sản xuất châu Á, nên ở Việt Nam không có sự phát triển của khoa học tự nhiên,
không có sự phát triển thương mại (sĩ - nông - công - thương), không có tiền đề ra đời của
chủ nghĩa tư bản. Điều đó làm cho chế độ phong kiến kéo dài. Cuối cùng, thế giới quan
triết học, tư tưởng triết học Việt Nam luụn cú tớnh chất phong kiến.
Tư tưởng chủ đạo của triết học Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước, những vấn đề về
chính trị, xã hội bao gồm hệ thống những quan điểm lý luận về dựng nước, đánh giặc giữ
nước, dân giàu nước mạnh. Phạm trù "nước", xét trên bình diện triết học, là những
12

1
2



cộng đồng người, là dân tộc, quốc gia. Do đó, yêu nước trong tư tưởng triết học chính là ý
thức trách nhiệm với giống nòi, với cộng đồng dân tộc được khái quát thành lý luận. Tính
đặc thù của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là tinh thần đoàn kết, tinh thần bảo vệ bờ cõi
lãnh thổ, bản sắc văn hoá dân tộc. Nó cũng chính là chiếc lăng kính, bộ lọc để các hệ tư
tưởng du nhập tè bên ngoài đi qua. Nghiên cứu đặc điểm Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo ở
Việt Nam sẽ thấy rõ điều đó.
Trong quá trình giao lưu với văn hoá Trung Quốc, Ấn Độ và phương Tây, tư duy
triết học Việt Nam có nền tảng tư duy bản địa mạnh vẫn giữ vai trò chủ thể để tiếp biến
văn hoá ngoại lai. Chẳng hạn, Phật giáo Ấn Độ có tính vô vi xuất thế, còn Phật giáo Việt
Nam lại hữu vi nhập thế, nghĩa là nhà chùa có ruộng có vườn, nhập thế cùng thế gian làm
việc. Phật giáo trước khi vào Việt Nam thì vô ngã, nghĩa là không có cá nhân, không có
cái tôi. Nhưng, khi vào Việt Nam, nó biến hiện thành sức mạnh cá nhân và phải được
nhập vào sức mạnh cộng đồng.
Đạo giáo ở Trung Quốc gắn với tầng lớp quan lại, trí thức thất thế, từ bỏ chốn quan
trường, xa lánh chính trị, trở về sống gần gũi với thiên nhiên, về "cái bồng lai thiên cảnh".
Nhưng, khi vào đến Việt Nam thì con người lại gắn với trời đất, thần thánh đạo giáo để
giáo dục đạo đức xã hội, ổn định gia đình, gắn gia đình với cộng đồng.
Tư tưởng chủ đạo của Nho giáo vốn là đức trị, nhân trị, lễ trị. Do đó, có sự bất bình
đẳng về giai cấp, thế hệ, giới tính. Nhưng, khi vào Việt Nam, những chuẩn mực đó đó
nhoà vào thiết chế cộng đồng làng xã. Người Việt ứng xử theo kiểu: "phép vua thua lệ
làng", tính đẳng cấp có, nhưng không khắt khe. Văn hoá Nho là một loại văn hoá mạnh,
đồ sộ và choáng ngợp; do đó, trong nhiều thời kỳ, nó áp đặt văn hoá cho các dân tộc khác.
Tuy nhiên, Nho giáo sang Việt Nam lại biến đổi. Do tính bản địa mạnh nên tư duy người
Việt không bị đồng hoá. Bằng chứng là nhà Minh đô hộ nước ta 20 năm, và trong từng ấy
năm chúng tìm nhiều cách để áp đặt văn hoá Hán (như đốt sách vở, di tích...), nhưng khi
chiến thắng quân Minh, người Việt đó tự giải phóng khỏi sự áp đặt ấy và tự xây dựng mô
hình văn hoá của mình.
1
3



Triết học Việt Nam coi trọng những vấn đề về xã hội và nhân sinh, coi nhẹ những
vấn đề về tự nhiên, tức là chú trọng xây dựng các vấn đề lý lẽ trong chính trị - xã hội và
luân lý, giáo dục đạo làm người.
Thứ hai, tư tưởng triết học Việt Nam có khuynh hướng trội là đi từ nhân sinh quan
đến thế giới quan.
Trong khi triết học phương Tây đi từ thế giới quan đến nhân sinh quan thì ở Việt
Nam, vấn đề trung tâm, hang đầu là vấn đề con người, đạo lý làm người, tức nhân sinh
quan; sau đó các nhà tư tưởng mới đi tìm cách lý giải, đặt cơ sở cho những vấn đề tạo nên
thế giới quan. Điều này bị quy định bời phương thức sản xuất châu Á.
Thứ ba, tư tưởng triết học Việt Nam không có tính hệ thống cao.
Vì đi từ nhân sinh quan đến thế giới quan nên tư tưởng triết học Việt Nam phát triển
từ những ý niệm thô sơ, chất phác về nhân sinh lên trình độ lý luận về nhân sinh và vũ trụ;
bởi vậy dường như nó có vẻ thiếu tính hệ thống chặt chẽ, thường là cải biến nội dung các
khái niệm trong các học thuyết du nhập từ bên ngoài.
Hệ thống khái niệm, phạm trự triết học trong tư tưởng triết học Việt Nam cùng loại
với triết học Trung Quốc, Ấn Độ (triết học Phương Đông), tuy nhiên vẫn có sự dị biệt. Vì
vậy, trong quá trình nghiên cứu phải làm rõ sự dị biệt đó.
Thứ tư, Trong tư tưởng triết học Việt Nam việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học
rất mờ nhạt, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và duy tâm dường như không rõ rang.
Vì đi từ nhân sinh quan đến thế giới quan nên vấn đề cơ bản của triết học rất mờ
nhạt: quan hệ giữa vật chất và ý thức, tư duy và tồn tại, tinh thần và giới tự nhiên không
trải ra trên mọi vấn đề. Tư tưởng triết học Việt Nam không phân chia thành trường phái,
hoặc không thể phân chia theo các vấn đề: bản thể luận, nhận thức luận, nhân loại luận.
Hình thái đấu tranh giữa duy vật và duy tâm không phân tuyến, không trực diện,
không rõ ràng mà thường thể hiện qua hình thái đấu tranh giữa khách quan và chủ quan,
1
4



giữa vô thần và hữu thần, dân chủ và chuyên chế, độc lập và lệ thuộc. Trong đó, lực lượng
tiến bộ thường đại diện cho các khuynh hướng khách quan, vô thần, dân chủ, độc lập; còn
lực lượng bảo thủ thì đại diện cho các khuynh hướng chủ quan, hữu thần, chuyên chế, lệ
thuộc. Vì vậy, trong tư tưởng triết học Việt Nam vẫn có tính đảng.
Thứ năm, tư tưởng triết học Việt Nam trên bình diện bác học hơi nghiêng về hướng
nội, duy tâm, lấy trạng thái tinh thần để giải thích hiện tượng bên ngoài: "Người buồn
cảnh có vui đâu bao giờ". Còn trên bình diện dân gian, nó lại mang màu sắc duy vật chất
phác.
Các nhà tư tưởng Việt Nam thường xuất phát từ những định đề có sẵn hơn là từ sự
phát triển khách quan để khái quát thành lý luận. Mặc dù đã có nhiều lần tổng kết lịch sử,
nhưng vẫn chủ yếu xuất phát từ những định đề có sẵn; do đó, thường phạm vào những sai
lầm, như rập khuôn, giáo điều, chủ quan, kinh nghiệm, cảm tính.
Suy nghĩ của người Việt thường gắn liền với một tín ngưỡng, một tôn giáo đa thần
với các thần sông, thần núi, V.V.; từ đó, đi tới thần thánh hoá các nhân vật lịch sử, những

người có công với làng, với nước.
Thứ sáu, phương pháp biện chứng trong tư duy triết học Việt Nam hơi nghiêng về
thống nhất khác với phương Tây nghiêng về đấu tranh; quan niệm về vận động, phát triển
của tư duy triết học Việt Nam là hình dung theo vòng tròn còn trong triết học phương Tây
thì vận động, phát triển theo đường xoáy trôn ốc.

C.

Kết luân

Tóm lại, việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam được nhiều học giả
quan tâm. Vì vậy, ở nước ta, xung quanh lĩnh vực này đã có không ít các cuộc hội thảo,
các công trình ở mức độ khác nhau đề cập đến, đặc biệt là vấn đề lý luận và phương pháp
luận mà cho đến nay, vẫn còn là những vấn đề tranh luận.

về mặt lý luận, đó là việc có hay không có tư tưởng triết học Việt Nam? Nếu có thì ở
mức độ nào, và các tư tưởng đó có được trình bày như một học thuyết, một hệ thống triết
1
5


học hay không? Hầu hết các ý kiến đều thống nhất rằng, nước ta không có các học thuyết
triết học được trình bày một cách có hệ thống, nhưng tư tưởng triết học thì chắc chắn là
có. Việc khẳng định có tư tưởng triết học trong lịch sử tư tưởng nước ta, trước hết, dựa
trên quan niệm duy vật về cho lịch sử cho rằng ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội,
sự phản ánh đó, trong những hoàn cảnh đặc biệt, đã trở thành những phản tư triết học
trước tồn tại xã hội với nhiều sự kiện quan trọng.
Vấn đề phương pháp luận chỉ được đề cập tới sau việc khẳng định nói trên; tức là,
khi các nhà nghiên cứu khẳng định có tư tưởng triết học thì đương nhiên, khẳng định cả
hình thức, đối tượng của các tư tưởng đó. Phương pháp luận của việc nghiên cứu lịch sử
tư tưởng triết học Việt Nam cần cụ thể hoá, chính xác hoá đối tượng nghiên cứu và cách
tiếp cận đối tượng đó.
Các vấn đề nguồn gốc, đối tượng và đặc điểm của tư tưởng triết học Việt Nam nêu
trên chỉ là những nghiên cứu ban đầu đòi hỏi cần phải tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và làm
rõ.

1
6



×