Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tiểu luận về nhãn hiệu Sở hữu trí tuệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.7 KB, 28 trang )

Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

CHƯƠNG I:
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐỀ TÀI
I. Lý do lựa chọn đề tài
Nhãn hiệu, cùng với sáng chế, quyền tác giả và những đối tượng khác của quyền SHTT
đang ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm trên bình diện quốc gia lẫn quốc tế. Trên
thực tế, “nhãn hiệu” đã được sử dụng từ khá sớm trong lịch sử phát triển của xã hội loài
người, cụ thể là từ thời kỳ Đồ Đá. Quan điểm liên quan đến lịch sử hình thành và phát
triển của nhãn hiệu nổi bật và nhận được sự ủng hộ của nhiều học giả trên thế giới đã chỉ
ra rằng những hình thức sơ khai của nhãn hiệu được sử dụng trên gia súc, cụ thể là những
người nông dân vào thời kỳ này đã biết sử dụng sắt nung nóng để đánh dấu lên những
con vật thuộc sở hữu của mình. Thực tế này đã được khắc họa lại trên các họa tiết, các
nét vẻ trên các vách đá hay trên tường ở Ai Cập cổ đại. một hình thức “đánh dấu” khác
cũng được sử dụng trên vật nuôi là hình thức cắt tai xuất hiện ở Madagascar. Mặc dù vậy,
phải đến những năm 1800, pháp luật về nhãn hiệu mới thật sự được ban hành lần đầu tiên
ở Anh Quốc và những vụ việc đầu tiên liên quan đến tranh chấp về nhãn hiệu được giải
quyết tại các Tòa án. Sau đó, vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nói riêng và quyền SHTT nói
chung đã được thể chế hóa một cách mạnh mẽ trong nhiều điều ước quốc tế cũng như
trong pháp luật quốc gia. Những sự cố gắng đó hiển nhiên đã thể hiện được bước tiến bộ
vượt bậc trong việc bảo hộ nhãn hiệu ở từng quốc gia cũng như trên phạm vi toàn cầu.
Tuy nhiên, vẫn tồn tại một khía cạnh pháp lý quan trọng của pháp luật về nhãn hiệu chưa
được đề cập trong một thời gian khá dài, đó là vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng – những
nhãn hiệu được biết đến và sử dụng rộng rãi trên toàn cầu hoặc ít nhất là trong một quốc
gia hay một khu vực địa lý nhất định.
Rõ ràng là sự thiếu vắng của các quy định pháp luật trong lĩnh vực này đã mang lại
những khó khăn nhất định cho thực tiễn sử dụng và bảo hộ đối với nhiều nhãn hiệu nổi
tiếng. Trong nhiều năm qua đã có không ít những tranh chấp thương mại quốc tế phát
sinh liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng. Việc giải quyết những tranh chấp này chủ yếu
được thực hiện dựa trên án lệ ở các nước theo truyền thống Thông luật hay dựa trên các
quy định pháp luật liên quan ở các nước theo truyền thống Dân luật. Điều này vô hình


chung đã mang lại nhiều thách thức cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính
đáng của chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng, đồng thời cản trở quá trình hoàn thiện pháp luật
về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và nhãn hiệu nổi tiếng nói riêng cũng như tăng
cường và đảm bảo tính thống nhất, tính hiệu quả và sự khả thi của hệ thống pháp luật.
Chính vì vậy, việc xây dựng một thiết chế pháp lý mang tính toàn cầu bảo hộ nhãn hiệu
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 1


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

nổi tiếng là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của sự phát triển hệ thống pháp
luật về nhãn hiệu trong môi trường pháp lý quốc gia cũng như quốc tế.
Học thuyết pháp lý quốc tế liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng lần đầu tiên được thể chế
hóa trong Công ước Paris vào năm 1925. Ngày nay, học thuyết này trở nên đặc biệt quan
trọng trong một thế giới mà các hoạt động tiếp thị và quảng bá thương mại toàn cầu
không ngừng gia tăng. Việc tạo ra một thương hiệu toàn cầu ngày càng trở nên dễ dàng
hơn rất nhiếu thông qua các kênh thông tin mới, tiết kiệm và có thể tiếp cận từ xa. Trong
khi các biên giới và ranh giới chính trị giữa các quốc gia có vẻ như đang gây ra không ít
những trở ngại cho sự tự do đi lại của các cá nhân trên toàn cầu thì chúng cũng không thể
nào ngăn cản được dòng chảy tự do của thông tin. Như vậy, một nhãn hiệu có thể được
đồng thời chuyển tải đến bất kỳ nơi nào để đến với người tiêu dùng cũng như toàn thể
công chúng qua nhiều kênh thông tin hiệu quả và nhanh chóng. Bằng cách đó, một nhãn
hiệu có thể nhanh chóng được biết đến rộng rãi trên nhiều thị trường trên thế giới bất
chấp những hạn chế đối với sự di chuyển của cá nhân. Có thể thấy rằng nhãn hiệu nổi
tiếng đã được công nhận như là một trong những hình thức quan trọng nhất của hệ thống
nhãn hiệu như đã được ghi nhận trong hệ thống pháp luật quốc gia lẫn trong các Điều ước
quốc tế. Cơ chế pháp lý bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng tiếp tục được củng cố và phát triển
theo thời gian nhờ vào sự nhận thức về tầm quan trọng của nhãn hiệu nổi tiếng không

ngừng gia tăng trên toàn cầu cũng như sự phát triển của vai trò của nhãn hiệu nổi tiếng
trong hệ thống thương mại quốc tế. Mặc dù vậy, những vấn đề pháp lý này vẫn còn là
những khái niệm khá mới mẻ ở nhiều quốc gia, đặc biệt là ở những quốc gia đang và kém
phát triển, trong đó có Việt Nam.
Với xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, nhiều nhà đầu tư nước ngoài sẽ gia
nhập vào thị trường nội địa của Việt Nam. Họ sẽ mang theo nhiều nhãn hiệu nước ngoài,
trong đó bao gồm nhãn hiệu nổi tiếng, không chỉ vào thị trường nội địa mà còn vào trong
hệ thống pháp luật quốc gia. Ngày nay, chúng ta có thể nhìn thấy nhiều nhãn hiệu nổi
tiếng toàn cầu xuất hiện trong các siêu thị của Việt Nam như SONY, TOYOTA, COCACOLA, MICROSOFT, NOKIA… Những nhãn hiệu này không chỉ đại diện cho tài sản
của doanh nghiệp nước ngoài mà còn trở thành yếu tố quan trọng trong toàn bộ nền kinh
tế quốc gia nơi chúng được đầu tư. Chẳng hạn, giá trị thương mại của nhãn hiệu COCACOLA được tính toán vào khoảng 33,4 tỉ Đô là Mỹ năm 1993 và lên đến hơn 70,0 tỉ Đô
là Mỹ vào năm 2010 (trở thành thương hiệu có giá trị cao nhất toàn cầu trong năm). Điều
này chứng tỏ rằng giá trị kinh tế của quyền SHTT, và đặc biệt là nhãn hiệu, đang đóng
một vai trò quan trọng trong sự phát triển của mỗi doanh nghiệp cũng như của nền kinh tế
thế giới. trong khi đó, nhìn lại thực tế ở Việt Nam, có thể thấy rằng cơ chế bảo hộ và thực
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 2


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

thi quyền SHTT vẫn còn là một bức tranh mờ nhạt. Mặc dù Nhà nước đã có nhiều nỗ lực
trong việc ban hành nhiều văn bản luật và những quy định mới, song hiện tượng xâm
phạm hay vi phạm quyền SHTT vẫn tiếp tục là những thách thức to lớn đối với các cơ
quan có thẩm quyền và đối với các chủ thể quyềnSHTT. Pháp luật về nhãn hiệu có vẻ là
lĩnh vực chịu thách thức nhiều hơn cả bởi vì ngày càng có nhiều tranh chấp và khiếu nại
được đưa ra trước cơ quan có thẩm quyền liên quan đến hành vi xâm phạm nhãn hiệu.
Ở Việt Nam, hầu hết mọi người không có nhiều kiến thức và thông tin liên quan đến nhãn
hiệu nổi tiếng.


Chẳng hạn, nhãn hiệu HONDA thường được sử dụng
một cách thôngdụng để chỉ tất cả các phương tiện xe gắn máy mà không có sự phân biệt
nào đối với các nhãn hiệu mà chúng mang, dù rằng các nhãn hiệu đó không phải là
HONDA và cũng không giống nhau. Điều này có vẻ như là một thực tế phổ biến và nó
tồn tại trong một thời gian khá dài.
Và với tình huống xảy ra như thế, chúng ta buộc phải trả lời một số câu hỏi quan trọng, ví
dụ:
(1) Có bất kỳ sự xâm phạm nào đối với quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu trong ví dụ liên
quan đến nhãn hiệu HONDA này?
(2) Liệu chủ sở hữu nhãn hiệu HONDA có quyền khiếu nại yêu cầu bảo vệ quyền lợi
của họ liên quan đến nhãn hiệu này không?
(3) Làm thế nào để họ có thể bảo vệ được các quyền lợi chính đáng của mình tại Việt
Nam?
Những câu hỏi này không đơn giản và câu trả lời có được tùy thuộc vào các tình huống
pháp lý cụ thể. Chẳng hạn, chúng ta có thể sẽ đặt ra vấn đề rằng liệu HONDA có phải là
nhãn hiệu nổi tiếng, rằng có văn bản pháp luật nào liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng ở
Việt Nam không, và nếu có, thì pháp luật đặt ra những yêu cầu cụ thể nào trong từng
trường hợp?
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 3


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

Cần lưu ý rằng trên thực tế có một vài sự phân loại không chính thức đối với nhãn hiệu
được bảo hộ ở Việt Nam dựa trên các quyết định cụ thể của cơ quan có thẩm quyền, và
đồng thời cũng có những quy định riêng biệt trong Luật SHTT năm 2005 liên quan đến
nhãn hiệu nổi tiếng. Tuy vậy, những chuẩn mực pháp lý chung dùng để đánh giá và công

nhận nhãn hiệu nổi tiếng vẫn chưa được xác định một cách thống nhất và chính xác. Hầu
hết mọi người trên thực tế sẽ không thể trả lời được câu hỏi “nhãn hiệu nổi tiếng là gì?”.
Họ thường có thể sẽ nhầm lẫn giữa sự nhận biết của cộng đồng đối với nhãn hiệu với giá
trị thương mại cao của chúng. Một vài người có thể cho rằng một nhãn hiệu sẽ được coi
là nổi tiếng ở nơi nào mà có nhiều người có thể nhận biết về nó. Trong khi một số khác
có thể sẽ không quan tâm đến lý do tại sao một nhãn hiệu được coi là nổi tiếng. Họ sẽ chỉ
đơn giản đưa ra câu trả lời theo chủ ý cá nhân của họ. Do vậy, hiện nay khó có thể tìm ra
được một khái niệm chung về “nhãn hiệu nổi tiếng” ở Việt Nam. Tác giả sẽ quay trở lại
những vấn đề pháp lý liên quan đến nhãn hiệu HONDA sau khi đã nghiên cứu và giải
quyết một số vấn đề lý luận cơ bản và những phân tích so sánh ở các phần sau của đề tài.
Cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam đã cố gắng tạo ra một hệ thống
những quy định chung về quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) trong BLDS 1995 và quyền sở
hữu công nghiệp (SHCN) trong Nghị định số 63/CP năm 1996, như là những nền tảng
pháp lý đầu tiên của pháp luật Việt Nam liên quan đến mảng SHTT. Chúng cũng có thể
được coi là nguồn cơ bản của pháp luật nhãn hiệu Việt Nam ở giai đoạn này. BLDS 1995
sau đó đã được bổ sung, sửa đổi năm 2005 và được thay thế bởi BLDS 2005. Tiếp theo
đó, cuối năm 2005, Việt Nam đã tiếp tục ban hành một văn bản pháp luật duy nhất và
thống nhất điều chỉnh các vấn đề liên quan đến quyền SHTT. Ngoài ra, những quy định
của pháp luật về nhãn hiệu có thể được tìm thấy ở các văn bản pháp lý khác được ban
hành bởi các cơ quan có thẩm quyền như Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Bộ
Công thương, Bộ Tư pháp…
Năm 2006, đã có khá nhiều sự kiện trọng đại xảy ra có tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế
đất nước cũng như quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Trong đó, sự
kiện quan trọng nhất có thể kể đến là quá trình đàm phán gia nhập vào Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO) của Việt Nam đã thành công tốt đẹp, Việt Nam đã trở thành thành
viên chính thức thứ 150 của Tổ chức này. Đây chính là một bước ngoặc lớn trong quá
trình phát triển của lịch sử dân tộc. Bên cạnh đó, một số sự kiện khác cũng đã diễn ra và
có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hệ thống pháp luật về Sở hữu trí tuệ của nước ta, đó là sự
kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Nghị định thư Madrid vào ngày
11/04/2006 và ngày 11/07/2006 thì Nghị định thư đã phát sinh hiệu lực trên lãnh thổ Việt

Nam; đó là sự bắt đầu hiệu lực của một đạo luật đầu tiên về Sở hữu trí tuệ của Việt Nam
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 4


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

vào ngày 01/06/2006. Tuy nhiên, những cố gắng kể trên nhìn chung chỉ thể hiện ở bề nổi
và mang tính vĩ mô nhiều hơn chứ chưa đi vào giải quyết một cách kịp thời và hiệu quả
những nhu cầu thực tiễn mà xã hội đang đặt ra, đặc biệt là đối với việc bảo hộ nhãn hiệu
nổi tiếng. Mặc dù đã có khá nhiều các quy định pháp luật cụ thể được ban hành, song cơ
chế đảm bảo thực thi các quy định đó còn khá hạn chế, hiệu quả của quá trình áp dụng
pháp luật chưa cao.
II. Mục tiêu nghiên cứu
Như đã đề cập ở trên, nhãn hiệu nổi tiếng và những vấn đề pháp lý liên quan đến việc bảo
hộ nhãn hiệu nổi tiếng chưa được giải quyết một cách thỏa đáng ở Việt Nam. Vì vậy, đề
tài này hướng đến hai mục đích chính. Thứ nhất, đề tài sẽ là một đóng góp đáng kể vào
hệ thống lý luận về nhãn hiệu nổi tiếng không những trên phương di ện toàn cầu mà,
quan trọng hơn, còn tập trung vào hoàn cảnh thực tế của Việt Nam. Điều này nhằm giúp
những chủ thể liên quan có thể nhận biết được nhãn hiệu nổi tiếng trong thị trường để có
thể phân biệt chúng với các nhãn hiệu thông thường khác. Thứ hai, thông qua sự phân
tích và đánh giá cơ chế pháp lý về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng trong bối cảnh pháp lý quốc
tế nói chung và trong những hệ thống pháp luật quốc gia cụ thể để rút ra những cách thức
phù hợp nhằm củng cố và tăng cường hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu
nổi tiếng.
Để có thể đạt được những mục đích nêu trên, đề tài sẽ phải giải quyết được những nhiệm
vụ cụ thể sau đây:
Một là, đề tài phải giới thiệu được một cách khái quát những kiến thức lý luận cơ bản về
nhãn hiệu nói chung và nhãn hiệu nổi tiếng nói riêng. Điều này sẽ giúp mang lại câu trả

lời cơ bản nhất cho câu hỏi thế nảo là nhãn hiệu nổi tiếng trong bối cảnh toàn cầu.
Hai là, đề tài sẽ phải thực hiện được một sự so sánh khá đầy đủ và cơ bản giữa hai hệ
thống pháp luật của EU và Việt Nam về vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng.
Ba là, đề tài phải phân tích được tình huống thực tế của Việt Nam liên quan đến bảo hộ
nhãn hiệu, đặc biệt tập trung vào nhãn hiệu nổi tiếng, và đánh giá hiệu quả của hệ thống
pháp luật hiện hành cũng như những thách thức đặt ra cho Việt Nam trong quá trình hội
nhập vào hệ thống thương mại toàn cầu.
Cuối cùng, từ những phân tích nói trên, đề tài sẽ đề xuất những giải pháp hợp lý và khoa
học nhằm củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu nổi
tiếng.
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 5


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

III. Phạm vi nghiên cứu
Cần khẳng định rằng đề tài tập trung chủ yếu vào kiền thức lý luận và những vấn đề thực
tiễn liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng và cơ chế pháp lý bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng như
là một phần riêng biệt trong hệ thống pháp luật về nhãn hiệu. Theo đó, đề tài bắt đầu
bằng cái nhìn tổng thể về khái niệm nhãn hiệu nổi tiếng ở góc độ lý luận và đi vào phân
tích các thiết chế pháp lý quốc tế quan trọng có liên quan đến việc bảo hộ nhãn hiệu nổi
tiếng như Công ước Paris, Hiệp định TRIPs… Quá trình này bao gồm cả sự phân tích và
so sánh những vấn đề pháp lý cụ thể liên quan đến khái niệm và cơ chế bảo hộ nhãn hiệu
nổi tiếng cũng như hệ thống thực thi của nó trong hệ thống pháp luật quốc tế và một số
quốc gia. Nhìn chung đề tài đề cập chủ yếu nhãn hiệu nổi tiếng, và trong một chừng mực
nhất định có liên hệ đến nhãn hiệu rất nổi tiếng (famous trademarks) và nhãn hiệu có
danh tiếng (trademarks with a reputation). Tuy nhiên, những khía cạnh khác của quyền
SHTT nói chung cũng được tham chiếu đến nhằm mục đích so sánh hoặc làm rõ thêm

những vấn đề lý luận liên quan đến nội dung của đề tài.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài thống nhất và phù hợp với mục tiêu nghiên cứu đã được
xác định để đảm bảo rằng những nhiệm vụ chính của đề tài được giải quyết một cách
thỏa đáng.
Do sự hạn chế về thời gian nghiên cứu và phạm vi rộng lớn của vấn đề nghiên cứu, đề tài
sẽ chỉ tập trung nghiên cứu và so sánh đối với hệ thống pháp luật của EU và Việt Nam.
Theo đó, đối với hệ thống pháp luật EU, Luận án sẽ chỉ dừng lại ở việc tiếp cận và phân
tích các quy định của pháp luật Liên minh cũng như các bản án và quyết định của Tòa án
Công lý châu Âu liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng và nhãn hiệu có danh tiếng. Luận án
cũng đồng thời tham chiếu một cách hạn chế đến một số hệ thống pháp luật quốc gia như
Vương quốc Anh, Đức và Pháp và một số quốc gia khác. Ngoài ra, hệ thống pháp luật
Hoa kỳ cũng được đề cập một cách hạn chế trong những bối cảnh phù hợp.
IV. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp pháp lý truyền thống
Phù hợp với mục tiêu nghiên cứu chính của đề tài, tác giả vận dụng phương pháp pháp lý
truyền thống trong việc tiếp cận và nghiên cứu các quy định liên quan đến việc bảo hộ
nhãn hiệu nổi tiếng được ghi nhận trong các điều ước quốc tế và các văn bản pháp luật
quốc gia bao gồm Công ước Paris, Hiệp định TRIPs, Chỉ thị về thống nhất pháp luật nhãn
hiệu của EU, Quy chế về Nhãn hiệu cộng đồng của EU, Luật SHTT Việt Nam cũng như
pháp luật nhãn hiệu của một số quốc gia châu Âu cụ thể.
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 6


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

Ngoài ra, các án lệ cũng là một loại nguồn quan trọng được sử dụng trong Luận án nhằm
giải thích các quy định của pháp luật về nhãn hiệu nổi tiếng cũng như làm rõ cách thức
mà pháp luật được áp dụng trong từng trường hợp cụ thể. Chẳng hạn, ở khía cạnh pháp

luật EU, thông qua việc nghiên cứu các vụ việc cụ thể như vụ General Motors hay vụ
Davidoff đề tài sẽ giúp người đọc hiểu được cách thức mà quy định tại Điều 4 và Điều 5
của Chỉ thị về thống nhất pháp luật nhãn hiệu của EU được giải thích và áp dụng. Ở khía
cạnh của pháp lu ật Việt Nam, mặc dù không có nhiều vụ việc liên quan đến bảo hộ nhãn
hiệu nổi tiếng trên thực tế, nhưng tác giả cũng đã cố gắng giới thiệu và phân tích một số
vụ việc điển hình như vụ McDonald’s hay vụ Shangri-La để làm sáng tỏ cách thức mà
cơ chế bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng được giải thích và vận hành ở Việt Nam.
Như vậy, phương pháp giáo điều pháp lý hay phương pháp pháp lý truyền thống được ưu
tiên sử dụng xuyên suốt toàn bộ nội dung của đề tài. Những phân tích và đánh giá thông
qua việc sử dụng phương pháp này để nghiên cứu và làm sáng tỏ các quy định của pháp
luật.
Phương pháp pháp lý so sánh
Tùy thuộc vào phạm vi tiếp cận cụ thể của từng chương, phương pháp này được sử dụng
ở mức độ khác nhau ở những phần khác nhau. Phương pháp pháp lý so sánh đóng vai trò
quan trọng nhất trong nội dung chương tập trung chủ yếu vào việc so sánh giữa hệ thống
pháp luật của EU và Việt Nam liên quan đến vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. Sau khi
đã nghiên cứu cẩn thận hệ thống pháp luật của EU và Việt Nam sẽ tiếp tục một cách hệ
thống bằng việc so sánh các nội dung cụ thể được quy định bởi hai hệ thống pháp luật để
phân tích và lý giải những khác biệt và tương đồng, những thành tựu và hạn chế của từng
hệ thống. Sự so sánh được thực hiện dựa trên những vấn đề pháp lý quan trọng liên quan
đến cơ chế bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng như cách thức xác định nhãn hiệu nổi tiếng, các
căn cứ pháp lý của việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng, phạm vi bảo hộ đối với nhãn hiệu nổi
tiếng cũng như sự thực thi của cơ chế pháp lý về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. Những phân
tích so sánh được thực hiện ở chương này sẽ trở thành nền tảng lý luận quan trọng cho
những đề xuất, kiến nghị cho Việt Nam trong chương tiếp theo (chương 5).
Phương pháp pháp lý lịch sử
Trong đề tài, phương pháp pháp lý lịch sử được sử dụng trong từng phần cụ thể ở từng
chương nhất định tùy thuộc vào nội dung của các vấn đề được giải quyết. Trước hết, cần
thiết phải thực hiện một nghiên cứu khái quát về quá trình phát triển mang tính lịch sử
của hệ thống pháp luật của EU và Việt Nam để cung cấp một cái nhìn tổng thể và một

bức tranh sơ lược về bối cảnh của hai hệ thống này, để tìm hiểu những nền tảng lý luận
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 7


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

cơ bản làm cơ sở cho việc giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan đến đối tượng nghiên
cứu của đề tài. Ở cấp độ cụ thể hơn, phương pháp pháp lý lịch sử được vận dụng trong
quá trình phân tích các nội dung cụ thể được trình bày trong các chương. Chẳng hạn, sự
xem xét dưới góc độ lịch sử đối với sự ra đời và phát triển của học thuyết về nhãn hiệu
nổi tiếng thông qua các quy định của các điều ước quốc tế và pháp luật các quốc gia được
trình bày hay sự tìm hiểu ở khía cạnh lịch sử của học thuyết về sự lu mờ nhãn hiệu đóng
vai trò quan trọng trong việc tìm hiểu và lý giải cơ chế pháp lý hiện tại về bảo hộ nhãn
hiệu nổi tiếng ở cấp độ quốc gia lẫn quốc tế.
Phương pháp pháp lý kinh tế
Phương pháp pháp lý kinh tế được sử dụng một cách phù hợp trong đề tài để làm rõ
những vấn đề liên quan đến giá trị kinh tế, thương mại của những vấn đề pháp lý đang
được xem xét. Cụ thể, phương pháp pháp lý kinh tế phải được xem xét đến khi giải quyết
các vấn đề cụ thể liên quan đến sự cần thiết phải mở rộng phạm vi bảo hộ đối với nhãn
hiệu nổi tiếng, hoặc khi xem xét, đánh giá giá trị thương mại của nhãn hiệu, hoặc để xác
định các hành vi xâm phạm nhãn hiệu trong các vụ kiện dựa trên thiệt hại về kinh tế.
Phương pháp pháp lý xã hội
Phương pháp pháp lý xã hội có vẻ ít quan trọng hơn so với các phương pháp nghiên cứu
khác. Tuy nhiên, pháp luật luôn tồn tại trong mối liên hệ chặt chẽ với các yếu tố xã hội
khác và dĩ nhiên sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ bởi các yếu tố đó. Do vậy, khi nghiên cứu và
giải quyết các vấn đề pháp lý cụ thể, cách thức thông thường được thực hiện là đặt chúng
trong các mối liên hệ xã hội nhất định để đánh giá sự tương tác giữa chúng với các yếu tố
khác.

Cần thừa nhận rằng có nhiều sự khác biệt giữa các cộng đồng khác nhau trong việc đánh
giá một vấn đề pháp lý cụ thể do những điều kiện xã hội khác nhau tác động lên chúng.
Vì thế, nội dung của đề tài được giới hạn và xác định trong mối liên hệ biện chứng giữa
pháp luật và xã hội.
CHƯƠNG II:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÃN HIỆU
I. Khái niệm:
1. Tổng quan về nhãn hiệu:

Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 8


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

Nhãn hiệu nổi tiếng trước tiên vẫn phải được xác định là nhãn hiệu như tất cả các nhãn
hiệu khác. Do vậy, trước khi tiếp cận nghiên cứu những vấn đề liên quan đến nhãn hiệu
nổi tiếng, cần thiết phải có cái nhìn chung về pháp luật nhãn hiệu và phải đặt nhãn hiệu
nổi tiếng trong toàn bộ hệ thống pháp luật nhãn hiệu nói chung. Ở phần này, tác giả tập
trung giới thiệu một bức tranh tổng quát về nhãn hiệu và pháp luật nhãn hiệu với tư cách
là nền tảng lý luận cơ bản của cơ chế pháp lý về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng.
1.1 Khái niệm nhãn hiệu:

Nhãn hiệu là một yếu tố đặc trưng gắn liền giữa
thị trường thương mại và lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Nó đã được sử dụng trong một
thời gian dài bởi các nhà sản xuất cũng như các thương nhân để xác định nguồn gốc xuất
xứ của hàng hóa hay dịch vụ của họ và phân biệt những hàng hóa, dịch vụ đó với các
hàng hóa, dịch vụ được sản xuất hay bán bởi các chủ thể khác. Chức năng phân biệt
nguồn gốc của hàng hóa hay dịch vụ luôn được xem là yếu tố quan trọng nhất của nhãn

hiệu. Vì vậy nó luôn đóng vai trò trung tâm và được đề cập đến rất nhiều trong pháp luật
về nhãn hiệu của hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Nhãn hiệu có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau:
- Theo Davis Bainbridge, nhãn hiệu thông thường được định nghĩa bởi tòa án là nhãn
mác, dấu hiệu hay biểu tượng, mà chức năng đầu tiên và cơ bản của chúng là để “xác
định nguồn gốc hay quyền sở hữu đối với hàng hóa mang nó được gắn vào”;
- Theo một định nghĩa được sử dụng trên trang web chính thức của Văn phòng Nhãn
hiệu và Sáng chế Hoa Kỳ (USPTO), nhãn hiệu hàng hóa là bất kỳ từ ngữ, tên gọi, một
biểu tượng hay hình vẽ hay bất kỳ sự kết hợp nào của chúng được sử dụng, hoặc sẽ được
sử dụng trong thương mại để xác định nguồn gốc hàng hóa và phân biệt những hàng hóa
đó với hàng hóa của các nhà sản xuất hoặc nhà phân phối khác. Nói cách khác, nhãn
hiệu có thể được hiểu như tên thương mại;

Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 9


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

- Theo pháp luật nhãn hiệu EU, khái niệm nhãn hiệu được sử dụng thống nhất cho cả
hàng hóa và dịch vụ. Theo đó, “nhãn hiệu có thể bao gồm bất kỳ dấu hiệu nào có thể
được trình bày một cách vật chất và riêng biệt dưới dạng từ ngữ, bao gồm tên riêng, các
thiết kế, chữ cái, con số, hình dáng hay bao bì hàng hóa, có khả năng phân biệt hàng hóa
hay dịch vụ của một chủ thể này với hàng hóa hay dịch vụ của các chủ thể khác”;
- Theo quan điểm của Việt Nam, nhãn hiệu được định nghĩa một cách khái quát tại Điều
4 (16) của Luật SHTT năm 2005 (bổ sung, sửa đổi năm 2009) là “dấu hiệu để phân biệt
hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau”;
- Ở góc độ chung nhất, nhãn hiệu có thể được hiểu là bất kỳ dấu hiệu nào có thể nhận
biết được bao gồm từ ngữ, tên gọi, chữ cái, con số, biểu tượng, thiết kế, hình vẽ hay bất

kỳ sự kết hợp nào của chúng, và kiểu dáng hay bao bì hàng hóa được sử dụng hoặc sẽ
được sử dụng trong thương mại để xác định và phân biệt hàng hóa hay dịch vụ của chủ
thể này với hàng hóa hay dịch vụ của các chủ thể khác.
1.2 Đặc điểm của nhãn hiệu:
- Tính phân biệt: Việc đăng ký đối với một nhãn hiệu sẽ bị từ chối và theo đó quyền sở
hữu trí tuệ liên quan đến nhãn hiệu cũng sẽ không được bảo vệ nếu nhãn hiệu không có
tính phân biệt hoặc trong một số trường hợp tính phân biệt đó không được thể hiện một
cách rõ ràng.
- Tính đa dạng: các dấu hiệu được xem xét như là nhãn hiệu luôn tồn tại dưới nhiều
hình thức khác nhau, như là những từ ngữ, tên gọi (bao gồm cả tên riêng), biểu tượng,
hình ảnh, âm thanh hay bất kỳ sự kết hợp nào của các yếu tố này, hình dạng của hàng hóa
(nhãn hiệu không gian ba chiều), màu sắc hay sự kết hợp các màu sắc và bất kỳ một cái
gì khác có thể được sử dụng để xác định những hàng hóa hay dịch vụ được bán hay được
cung cấp trên thị trường.
- Tính giá trị: Nhãn hiệu là một dạng tài sản rất quan trọng của chính doanh nghiệp. Giá
trị thương mại của nhãn hiệu có thể được xác định khi chính bản thân các nhãn hiệu có
thể được đưa vào lưu thông chuyển nhượng trên thị trườngnhãn hiệu mà còn là một dạng
tài sản rất quan trọng của chính doanh nghiệp. Giá trị thương m ại của nhãn hiệu có thể
được xác định khi chính bản thân các nhãn hiệu có thể được đưa vào lưu thông chuyển
nhượng trên thị trường.
- Giới hạn lãnh thổ trong việc bảo hộ: Theo nguyên tắc giới hạn của lãnh thổ quốc gia,
một nhãn hiệu thông thường phải được đăng ký bảo hộ ở một quốc gia hay một vùng lãnh
thổ nhất định. Khi đó nó sẽ được bảo hộ bởi pháp luật của quốc gia hay vùng lãnh thổ đó.
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 10


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn


1.3 Chức năng của nhãn hiệu:
Các chức năng cơ bản đó bao gồm:
- Xác định nguồn gốc tự nhiên của hàng hóa và dịch vụ mang nhãn hiệu;
- Là sự đảm bảo cho nguồn gốc của hàng hóa và dịch vụ;
- Đảm bảo cho chất lượng của hàng hóa và dịch vụ;
- Được sử dụng như biểu tượng của chủ sở hữu nhãn hiệu;
- Được sử dụng như biểu tượng để quảng bá sản phẩm;
- Đôi khi được sử dụng như là đại diện cho phương châm sống của người tiêu dùng.
2. Phân biệt “thương hiệu” và “nhãn hiệu”:
Thời gian qua, mặc dù đã có rất nhiều những trao đổi và tranh luận trên các diễn đàn khác
nhau về thuật ngữ thương hiệu, nhưng xem ra dường như vẫn chưa có được một cách
hiểu thống nhất về thuật ngữ này. Nhiều người vẫn cho rằng việc sử dụng thuật ngữ
thương hiệu chỉ là cách nói "dân dã", còn chính thức phải gọi là nhãn hiệu hàng hoá. Có ý
kiến cho rằng, chỉ nên sử dụng những thuật ngữ đã được chuẩn hoá (trong trường hợp
này là nhãn hiệu hàng hoá, vì nó hiện diện trong các văn bản pháp luật của Việt Nam).
Theo chúng tôi, cách hiểu như vậy cũng chưa hẳn là hoàn toàn đúng. Thực tế thì "thương
hiệu" đang được dùng rất rộng rãi và khi dùng thuật ngữ này, những người dùng cũng
hoàn toàn không có ý định để thay thế cho thuật ngữ "nhãn hiệu hàng hoá" vốn đã và
đang hiện diện trong các văn bản pháp lý. Và như thế, có thể hiểu rằng đang tồn tại đồng
thời cả thuật ngữ nhãn hiệu hàng hoá và thương hiệu.
Theo nhóm tác giả, thương hiệu là tập hợp các dấu hiệu để phân biệt hàng hóa, dịch vụ
của cơ sở này với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của cơ sở khác; là hình tượng về một cơ sở
sản xuất, kinh doanh hoặc về một loại hàng hóa, dịch vụ trong tâm trí khách hàng. Các
dấu hiệu trong thương hiệu có thể là các chữ cái, con số, hình vẽ, hình tượng, sự thể hiện
của màu sắc, âm thanh… hoặc sự kết hợp của các yếu tố đó; dấu hiệu cũng có thể là sự cá
biệt, đặc sắc của bao bì và đách đóng gói hàng hoá. Song, vấn đề quan trọng mà những
người sử dụng thuật ngữ thương hiệu muốn đề cập đến chính là hình tượng của sản phẩm
và doanh nghiệp trong tâm trí khách hàng. Có được những dấu hiệu để phân biệt sản
phẩm không khó, nhưng đưa hình ảnh của sản phẩm đó đến với người tiêu dùng và cố
định hình ảnh đó trong tâm trí của họ là công việc khó khăn gấp bội.

Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 11


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

Trở lại với vấn đề sự khác biệt giữa thương hiệu và nhãn hiệu hàng hóa, có thể hình dung
như sau:
Thứ nhất: Nếu chỉ xét đơn thuần về khía cạnh vật chất, nghĩa là nhìn nhận dựa vào tên
gọi, logo thì nhãn hiệu hàng hóa và thương hiệu rất khó phân biệt, nếu không muốn nói là
một. Tất nhiên, ở đây cũng có thể tìm ra sự khác biệt, đó là khi nói đến thương hiệu
người ta thường nói đến cả khẩu hiệu, nhạc hiệu mà điều này gần như không được đề cập
đến trong nhãn hiệu hàng hoá. Nghĩa là, chúng ta có thể chỉ nghe nói đến "Nâng niu bàn
chân Việt" là đã nghĩ ngay đến Biti's.
Thứ hai:Thuật ngữ thương liệu và nhãn hiệu là hai thuật ngữ được dùng trong những
ngữ cảnh khác nhau. Ở góc độ pháp lý, sử dụng thuật ngữ nhãn hiệu hàng hóa là đúng
như trong các quy định của luật pháp Việt Nam, nhưng ở góc độ quản trị doanh nghiệp và
marketing thì người ta thường dùng thuật ngữ thương hiệu. Trong tiếng Anh, 2 thuật ngữ
Brand và Trademark cũng tồn tại song song và người ta cũng dùng trong những ngữ cảnh
tương ứng như vậy. Thực tế, trong các tài liệu của nước ngoài, chúng ta thường gặp các
cụm từ "Building Brand", "Brand Strategy"; "Brand Image"; "Brand Vision"; "Brand
Manager"… mà hiểu theo cách của chúng tôi là "Xây dựng thương hiệu"; "Chiến lược
thương hiệu"; "Hình ảnh thương hiệu"; "Tầm nhìn thương hiệu"; "Quản trị thương hiệu".
Trong khi đó thuật ngữ "Trademark" lại chỉ gặp khi nói về vấn đề đăng ký bảo hộ hoặc
trong các văn bản pháp lý (chẳng hạn registered trademarks), mà không gặp các cụm từ
tương ứng là "Building trademark"; "Trademark Manager"; "Trademark Vision". Đến
đây lại gặp phải một khúc mắc về dịch thuật? Đó là, Brand trong nguyên nghĩa từ tiếng
Anh là nhãn hiệu, dấu hiệu; còn Trademar có thể được dịch là dấu hiệu thương mại? Tuy
nhiên, với quan điểm của mình, các nội dung được trình bày trong bài viết này hướng vào

thuật ngữ Brand, mà vẫn theo chúng tôi, hiện nay tại Việt Nam đang được nhiều người
hiểu là thương hiệu. Như vậy thì sự tranh cãi về thuật ngữ thương hiệu và nhãn hiệu vẫn
chưa ngã ngũ, mà chủ yếu là do cách tiếp cận từ những góc độ khác nhau của vấn đề.
Thứ ba: Cũng có thể phân biệt thương hiệu và nhãn hiệu hàng hoá trên một số khía cạnh
cụ thể như sau:
- Nói đến thương hiệu không chỉ là nói đến các dấu hiệu như trong nhãn hiệu hàng
hoá mà quan trọng hơn là nói đến hình tượng về hàng hoá trong tâm trí người tiêu dùng.
Nó thật sự trừu tượng và vì thế đã có người gọi thương hiệu là phần hồn còn nhãn hiệu
hàng hoá là phần xác.
- Nhãn hiệu được tạo ra chỉ trong thời gian đôi khi là rất ngắn, trong khi để tạo dựng
được một thương hiệu (tạo dựng hình ảnh về hàng hoá, dịch vụ trong tâm trí người tiêu
dùng) đôi khi là cả cuộc đời của doanh nhân.

Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 12


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

- Thương hiệu nổi tiếng sẽ tồn tại mãi theo thời gian nhưng nhãn hiệu hàng hoá thì
chỉ có giá trị pháp lý trong thời gian nhất định (thời hạn bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa
thường là 10 năm và có thể được kéo dài bằng việc gia hạn).
- Nhãn hiệu hàng hoá được các cơ quan quản lý Nhà nước công nhận và bảo hộ còn
thương hiệu là kết quả phấn đấu lâu dài của doanh nghiệp và người tiêu dùng chính là
người công nhận.
CHƯƠNG III:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ LIÊN QUAN ĐẾN NHÃN HIỆU
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp vẫn còn băn khoăn do chưa nắm bắt đầy đủ những vấn đề
liên quan đến đăng ký nhãn hiệu và làm sao để bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp

của mình một cách tốt nhất.
I. Đăng ký nhãn hiệu hàng hóa:
1. Đăng ký nhãn hiệu hàng hóa tại Việt Nam:
Đăng ký nhãn hiệu hàng hoá tại Việt Nam, Nhãn hiệu, thương hiệu là dấu hiệu dùng để
phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau.
Nhãn hiệu có thể được thể hiện bằng chữ, bằng hình, logo, slogan hoặc kết hợp của các
yếu tố nêu trên.
Để được đăng ký nhãn hiệu, thương hiệu tại Việt Nam, nhãn hiệu, thương hiệu phải đáp
ứng tiêu chuẩn bảo hộ theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ. Cụ thể, nhãn hiệu,
thương hiệu p đăng ký phải có tính chất phân biệt, không được tương tự gây nhầm lẫn với
một nhãn hiệu của một chủ thể đã đăng ký nhãn hiệu trước đó. Nhãn hiệu không được là
những yếu tố loại trừ như là hình quốc kỳ, quốc ca, là những yếu tố dễ nhận biết, phổ
biến như chữ số, chữ cái, những hình ảnh đơnn giản, hiển nhiên, những từ ngữ mang tính
chất mô tả hàng hóa, dịch vụ.
Khi chủ thể đăng ký và được cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu, thương hiệu, chủ thể có
quyền độc quyền gắn nhãn hiệu, thương hiệu trên sản phẩm và dịch vụ của mình, có
quyền cho người khác sử dụng thông qua hợp đồng li-xăng nhãn hiệu, có quyền chuyển
nhượng quyền sở hữu nhãn hiệu, có quyền ngăn chặn bất kỳ bên thứ 3 nào có hành vi vi
phạm.
Để tiết kiệm thời gian và chi phí đăng ký nhãn hiệu, trước khi đăng ký, chủ sở hữu nên
nhờ sự trợ giúp của các tổ chức sở hữu trí tuệ tiến hành tra cứu khả năng đăng ký nhãn
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 13


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

hiệu, thương hiệu. Kết quả tra cứu sẽ có trong 7 ngày làm việc và tài liệu cần cung cấp là
mẫu nhãn hiệu, hàng hóa dịch vụ người dùng cần đăng ký.

Khi đã nhận được kết quả tra cứu, nếu kết luận nhãn hiệu có khả năng đăng ký, chủ thể
nên tiến hành đăng ký nhãn hiệu ngay lập tức để có ngày ưu tiên nộp đơn sớm nhất.
Tài liệu đăng ký gồm:
-

Mẫu nhãn hiệu (09 mẫu)

-

Sản phẩm và dịch vụ cần đăng ký (liệt kê).

-

Giấy ủy quyền cho tổ chức dịch vụ sở hữu trí tuệ.

Thời hạn thẩm định đơn:
Cục Sở Hữu Trí Tuệ sẽ nhận đơn đăng ký và đóng dấu xác nhận ngày nộp đơn, số đơn.
Sau đó, nhãn hiệu sẽ được thẩm định qua 2 giai đoạn:
Giai đoạn thẩm định hình thức: Trong vòng 1 tháng kể từ ngày nộp đơn, thẩm định về
hình thức đơn như bản mô tả đơn, nhóm sản phẩm và dịch vụ đã phân chính xác theo
thỏa ước Nice chưa? Nếu đơn đáp ứng, Cục SHTT sẽ cấp Quyết định chấp nhận đơn hợp
lệ và đơn sẽ được công bố trên công báo sở hữu công nghiệp (bản giấy và bản điện tử).
Giai đoạn thẩm định nội dung: Trong vòng 9 tháng kể từ ngày công bố đơn, thẩm định
xem nhãn hiệu có đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ không, có tương tự gây nhầm lẫn với nhãn
hiệu của bên thứ 3 đã đăng ký trước đó hay không? Nếu đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ, nhãn
hiệu sẽ được cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu và sẽ được đăng công báo sở hữu
công nghiệp (bản giấy và bản điện tử).
Về thời hạn thẩm định, theo quy định của Luật là 1 năm, tuy nhiên, thời gian có thể bị
kéo dài do nhiều lý do như nhãn hiệu bị từ chối do phân nhóm chưa chính xác, do chậm
chễ của các thẩm định viên…

Nhãn hiệu khi được cấp văn bằng bảo hộ có hiệu lực trong vòng 10 năm kể từ ngày nộp
đơn. Trước 6 tháng đến ngày hết hạn, chủ sở hữu phải tiến hành gia hạn để duy trì hiệu
lực.
Chủ sở hữu nhãn hiệu cũng có nghĩa vụ phải sử dụng nhãn hiệu trong vòng 5 năm kể từ
ngày cấp văn bằng bảo hộ. Nếu không sử dụng, nhãn hiệu có thể bị bên thứ 3 yêu cầu hủy
bỏ hiệu lực với lý do nhãn hiệu không được sử dụng trong 5 năm liên tiếp.
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 14


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

2. Đăng ký nhãn hiệu hàng hóa tại nước ngoài:
Nhãn hiệu khi đăng ký thì chỉ được bảo hộ trong phạm vi lãnh thổ nơi nó đăng ký. Do đó,
nếu muốn xuất khẩu hàng hoá hoặc hướng tới thị trường nước ngoài thì doanh nghiệp cần
phải tiến hành đăng ký bảo hộ cho nhãn hiệu mình tại quốc gia đó. Do không hiểu được
vấn đề trên nên nhiều doanh nghiệp trước đây chỉ nghĩ đơn giản mình chỉ cần đăng ký tại
Việt Nam, đến khi bị “mất” nhãn hiệu tại nước ngoài mới giật mình.
Đăng ký nhãn hiệu tại nước ngoài có thể được tiến hành bằng cách đăng ký trực tiếp tại
nước đó; hoặc đăng ký quốc tế theo Thoả ước Madrid hoặc Nghị định thư Madrid. Việc
đăng ký nhãn hiệu có thể được tiến hành bởi chính tổ chức, cá nhân có nhãn hiệu cần
đăng ký hoặc có thể thông qua một đại diện sở hữu trí tuệ. Thông thường, các công ty lớn
thường tìm đến những công ty luật danh tiếng hoặc một đại diện sở hữu trí tuệ chuyên
nghiệp để có được sự tư vấn và giúp đỡ tốt nhất.

II. Những vấn đề liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi
nhãn hiệu đã được đăng ký hoặc trong đang trong quá trình đăng ký:
Giờ đây, khi nhận thức về quyền sở hữu trí tuệ dần được nâng cao thì người ta quan tâm
nhiều đến các biện pháp pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng liên quan đến “tài

sản vô hình” của doanh nghiệp. Có thể liệt kê một vài các biện pháp như sau:
1. Phản đối cấp giấy chứng nhận đối với các đơn nộp sau:
Khi đã nộp đơn đăng ký tại Cục Sở hữu trí tuệ, người đăng ký nhãn hiệu có quyền phản
đối việc cấp giấy chứng nhận đối với các đơn đăng ký nhãn hiệu nộp sau đó nếu nhãn
hiệu đăng ký sau trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã đăng ký trước đó
của mình.
Điểm e, khoản 2, Điều 74 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005: “Dấu hiệu không phải là nhãn
hiệu liên kết trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã được đăng ký
cho hàng hoá, dịch vụ trùng hoặc tương tự trên cơ sở đơn đăng ký có ngày nộp đơn hoặc
ngày ưu tiên sớm hơn trong trường hợp đơn đăng ký được hưởng quyền ưu tiên, kể cả
đơn đăng ký nhãn hiệu được nộp theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thành viên”.
2. Xin hủy hiệu lực của văn bằng bảo hộ:

Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 15


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

Khi bị người khác đăng ký trước nhãn hiệu, có thể xin huỷ nhãn hiệu đó trên cơ sở 5
năm không sử dụng.
Điểm d, khoản 2, Điều 95 Luật Sở hữu trí tuệ: “1. Văn bằng bảo hộ bị chấm dứt hiệu
lực trong các trường hợp sau đây:Nhãn hiệu không được chủ sở hữu hoặc người được
chủ sở hữu cho phép sử dụng trong thời hạn năm năm liên tục trước ngày có yêu cầu
chấm dứt hiệu lực mà không có lý do chính đáng, trừ trường hợp việc sử dụng được bắt
đầu hoặc bắt đầu lại trước ít nhất ba tháng tính đến ngày có yêu cầu chấm dứt hiệu
lực”.
3. Yêu cầu xử lý hành chính hành vi vi phạm hoặc khởi kiện ra Tòa:

Nếu phát hiện trên thị trường có hàng hoá có dấu hiệu vi phạm quyền sở hữu trí tuệ liên
quan đến nhãn hiệu, chủ sở hữu nhãn hiệu còn có thể yêu cầu các cơ quan chức năng như
quản lý thị trường, công an kinh tế ... tiến hành tịch thu, tiêu huỷ và phạt vi phạm hành
chính đối với hành vi vi phạm hoặc có thể khởi kiện ra toà.
Ngoài các biện pháp trên, doanh nghiệp có quyền yêu cầu cơ quan hải quan kiểm soát và
giám sát hàng hoá xuất nhập khẩu để phát hiện và xử lý các lô hàng có dấu hiệu vi phạm
quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu.
III. Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng:
Một hệ quả tất yếu đối với các nhãn hiệu nổi tiếng là sự thu hút khách hàng lớn hơn, thị
phần cũng nhiều hơn so với các nhãn hiệu không nổi tiếng khác, vì vậy, sự xâm phạm dù
vô tình hay hữu ý cũng nhiều và khốc liệt hơn. Do đó, vấn dể bảo hộ hữu hiệu nhãn hiêu
nổi tiếng và tạo cho chúng sự bảo hộ đặc biệt hơn đã trở thành mối quan tâm cũng như
đồng thuận của các quốc gia từ cuối thế kỷ XIX. Việt Nam là quốc gia đang từng bước đi
vào nền kinh tế thị trường và là thành viên của công ước Paris về bảo hộ sở hữu công
nghiệp và đang thực hiện các quy định của hiệp định TRIPS nên có trách nhiệm phải thực
hiện các cam kết về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng quy định trong các điều ước quốc tế này.
Ta có thể thấy rằng, các dấu hiệu muốn trở thành nhãn hiệu và được pháp luật bảo vệ
phải đáp ứng được các tiêu chuẩn bảo hộ. Các nước khác nhau quy định tiêu chuẩn bảo
hộ khác nhau. Dù khác nhau về chi tiết nhưng các tiêu chuẩn bảo hộ có thể được chia
thành hai loại. Tiêu chuẩn bảo hộ thứ nhất liên quan đến chức năng cơ bảo của nhãn hiệu
nhằm phân biệt hàng hoá, dịch vụ của nhà sản xuất này với hàng hoá, dịch vụ của nhà sản
xuất khác. Tiêu chuẩn thứ hai liên quan đến tính ảnh hưởng của nhãn hiệu. Những nhãn
hiệu có tính lừa dối công chúng, hoặc xâm phạm đạo đức, trật tự công cộng sẽ bị coi là
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 16


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn


những dấu hiệu loại trừ, những dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu. Điều 6
(quinquies) của Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp quy định nhãn hiệu
được bảo hộ theo Điều 6 (quinquies) A có thể bị từ chối nếu không có bất kì một đặc tính
phân biệt nào hoặc trái với đạo đức hoặc trật tự công cộng và cụ thể là có tính lừa dối
công chúng.
Tuy cả trong Bộ luật Dân sự 2005 cũng như nghị định hướng dẫn không có những quy
định cụ thể về nhãn hiệu nổi tiếng nhưng có dành cho những nhãn hiệu loại này một sự
bảo hộ bước đầu: không chấp nhận bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá có các dấu hiệu trùng hoặc
tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá của người khác được coi là nổi
tiếng. Trong thực tiễn, Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam (trước đây là cục Sở hữu Công
nghiệp) đã áp dụng điều khoản trên để từ chối bảo hộ các nhãn hiệu trùng hoặc tương tự
tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu nổi tiếng (cả trong trường hợp những nhãn hiệu này
chưa đăng kí bảo hộ tại Việt Nam). Năm 1992, Cục Sở hữu Công nghiệp đã bác bỏ đơn
đăng kí nhãn hiệu hàng hoá “McDonald’s” cho một công ty Australia cho các sản phẩm
đồ ăn nhanh, dịch vụ ăn uống và các nhóm sản phẩm khác. Sự ra đời của bộ luật chuyên
ngành Sở hữu trí tuệ năm 2005 đánh dấu bước tiến vô cùng quan trọng của Việt Nam
trong vấn đề bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp nói chung và bảo hộ nhãn hiệu nổi
tiếng nói riêng. Luật mới đưa ra một khái niệm nhãn hiệu nổi tiếng chuẩn xác hơn cũng
như các tiêu chí cụ thể để xác định nhãn hiệu nổi tiếng. Ngoài ra, các nghị định hướng
dẫn thi hành luật được ban hành như nghị định 103; 105 càng khẳng định vị trí và vai trò
của nhãn hiệu nổi tiếng không ngừng được chú trọng trong các văn bản pháp quy cũng
như trong đời sống.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, trong Nghị định 06/2001/NĐ – CP ngày
01/02/2001 đã đưa ra quy định về nhãn hiệu nổi tiếng: “Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu
được sử dụng liên tục cho sản phẩm, dịch vụ uy tín khiến cho nhãn hiệu đó được biết đến
một cách rộng rãi.” Định nghĩa này đã bộc lộ một số bất cập trong cách hiểu cũng như là
trong quá trình áp dụng pháp luật và chỉ đến năm 2005 khi luật Sở hữu trí tuệ ra đời mới
có những tiêu chí cụ thể rõ ràng để xác định một nhãn hiệu là nổi tiếng. Theo như khái
niệm trên, một nhãn hiệu nổi tiếng phải đáp ứng được hai yếu tố là “được sử dụng liên
tục” và “được biết đến một cách rộng rãi”. Quy định như vậy là không rõ ràng. Thứ

nhất, nếu “liên tục” dưới góc độ thời gian là liên tiếp, kế tiếp mà không có sự gián đoạn
thì một nhãn hiệu phải được sủ dụng trong khoảng thời gian là 10 năm, 20 năm hay lâu
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 17


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

hơn mới đuợc coi là “liên tục”? Thứ hai, một nhãn hiệu như thế nào thì được coi là có
“uy tín” để được biết đến “rộng rãi” . Đối với sản phẩm hàng hóa, “uy tín” được tạo nên
bởi những yếu tố nào và nếu “được biết đến rộng rãi” là nói tới số lượng người biết đến
trong nước hay ngoài nước? Khắc phục những thiếu sót này, Luật Sở hữu trí tuệ năm
2005 đã đưa ra khái niệm mới về nhãn hiệu nổi tiếng: “Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu
được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam” , cùng với các tiêu
chí cụ thể để xác định một nhãn hiệu là nổi tiếng được quy định tại điều 75 của Luật này.
Chế định “nhãn hiệu nổi tiếng” trong Luật Sở hữu trí tuệ của Việt Nam là việc thực thi
Điều 6 bis Công ước Pari 1883 mà Việt Nam là thành viên. Nội dung điều 6 quy định:
“Các nước thành viên có trách nhiệm từ chối hoặc hủy bỏ đăng ký, ngăn cấm việc sử
dụng nhãn hiệu mà nhãn hiệu đó có khả năng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã được cơ
quan thẩm quyền của nước đăng ký hoặc sử dụng coi là nhãn hiệu nổi tiếng tại nước
đó”. Để đánh giá sự nổi tiếng của nhãn hiệu, không nhất thiết phải đánh giá tất cả các
tiêu chí trên mà tuỳ từng trường hợp cụ thể. Nếu là sản phẩm thông dụng, rẻ tiền thì sự
nổi tiếng của nhãn hiệu có thể đòi hỏi số lượng sản phẩm phải nhiều, tuy nhiên, có sản
phẩm được rất nhiều người biết đến nhưng người ta lại không có điều kiện để sử dụng.
Tại Nghị định 103/2006/NĐ – CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành mộ số điều
của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp thì quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu nổi tiếng được xác lập trên cơ sở thực tiễn sử dụng rộng rãi nhãn hiệu đó theo quy
định tại Điều 75 của Luật Sở hữu trí tuệ mà không cần thực hiện thủ tục đăng ký . Thế
nhưng, luật cũng như nghị định hướng dẫn thi hành lại chưa quy định cụ thể các bước để

nhãn hiệu được công nhận là nổi tiếng, do vậy theo quy định trong nghị định 06/CP tại
điều 8 khoản 3: “ Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng phát sinh trên
cơ sở quyết định công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền” vẫn được áp dụng.
Tuy vậy, đây là bước nhảy rất ý nghĩa trong pháp luật nước ta về bảo hộ nhãn hiệu nổi
tiếng. Mặc dù trên đây chỉ là những tiêu chí mang tính định tính nhưng ít nhiều nó đã nói
lên được những hành động mang tính tích cực trong việc bảo vệ nhãn hiệu nổi tiếng tại
Việt Nam. Theo quan điểm của nhóm em, việc quy định các tiêu chí xác định nhãn hiệu
nổi tiếng như tại điều 75 là chưa hoàn toàn triệt để. Các tiêu chí này nên phải thoả mãn
được lợi ích của ba phía: nhà nước, doanh nghiệp và khách hàng. Tám tiêu chí được quy
định trong Luật SHTT của chúng ta hầu như chủ yếu xuất phát từ lợi ích của khách hàng
rồi đến doanh nghiệp mà chưa chú trọng đến lợi ích của nhà nước. Ví dụ như, một nhãn
hiệu trên thực tế có thể là không nổi tiếng hoặc không thật sự nổi tiếng nhưng, để bảo vệ
lợi ích công, nhà nước vẫn có thể cho nhãn hiệu này một cơ chế bảo hộ như một nhãn
hiệu nổi tiếng bằng việc quyết định nhãn hiệu đó là nổi tiếng. Điều này là hoàn toàn phù
hợp với bản Khuyến nghị chung của WIPO có quy định như sau: “ Quốc gia thành viên
có thể quyết định một nhãn hiệu là nổi tiếng, cho dù nhãn hiệu không nổi tiếng hoặc, nếu
quốc gia thành viên áp dụng khoản (c) trên, biết rõ rằng, nhãn hiệu không là nổi tiếng
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 18


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

trong bất kì một lượng công chúng hợp lí nào trong quốc gia mình”. Để một nhãn hiệu
trở nên nổi tiếng, chiếm được lòng tin của người tiêu dùng, đòi hỏi chủ nhãn hiệu phải
mất hàng chục năm dày công xây dựng. Đây không chỉ đơn thuần là nhãn hiệu thuộc
quyền sở hữu của chủ nhãn hiệu mà trong nhiều trường hợp đó còn là phần di sản và
niềm tự hào của quốc gia (như HONDA của người Nhật, Coca Cola của người Mỹ).
Cũng do vậy, Luật SHTT dành cho những nhãn hiệu nổi tiếng mức độ bảo hộ rất cao. Cụ

thể, đối với nhãn hiệu nổi tiếng, phạm vi bảo hộ của một nhãn hiệu nổi tiếng rộng hơn
nhãn hiệu thông thường và bao trùm lên cả các sản phẩm, dịch vụ không cùng loại. Mọi
hành vi sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng cho hàng hoá, dịch
vụ bất kỳ, kể cả hàng hoá, dịch vụ không cùng loại, không tương tự với, và không liên
quan tới hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng
nếu có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá hoặc gây ấn tượng sai lệch về mối
quan hệ giữa người sử dụng dấu hiệu đó với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng đều bị coi là
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng. Điều này được quy
định tại điểm d, khoản 1 Điều 129 Luật nhãn hiệu của Anh quy định hành vi sử dụng
nhãn hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng cho bất kỳ hàng hoá hay dịch vụ,
không xét đến bản chất hàng hoá hay dịch vụ đó trùng hay tương tự đều bị coi là hành vi
xâm phạm nếu việc sử dụng đó có thể gây ra một trong các hệ quả sau:
-

Tạo ra lợi thế cạnh tranh không công bằng

-

Gây tổn hại đế khả năng phân biệt của nhãn hiệu nổi tiếng

-

Gây tổn hại đến danh tiếng của nhãn hiệu nổi tiếng

Như vậy, mặc dù Luật SHTT Việt Nam cũng có quy định giống với luật nhãn hiệu của
Anh về tiêu chí nhãn hiệu song lại rất khác về mặt hệ quả : theo luật nhãn hiệu của Anh,
hệ quả của hành vi xâm phạm nhãn hiệu nổi tiếng là xuất phát từ bản chất của nhãn hiệu
đó là tính phân biệt, xuất phát từ lợi ích thực tiễn là khả năng cạnh tranh và xuất phát từ
giá trị vô hình của quyền SHTT và đặc thù của nhãn hiệu nổi tiếng đó là danh tiếng của
nhãn hiệu. Còn hệ quả theo Luật SHTT Việt Nam lại xuất phát từ hệ quả rất chung được

áp dụng cho mọi loại nhãn hiệu. Hệ quả thứ hai trong Luật SHTT Việt Nam cũng chỉ là
mở rộng của hệ quả thứ nhất đó là khả năng gây ấn tượng sai lệch mối quan hệ giữa chủ
sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng với người sử dụng. Nội hàm của sự sai lệch về mối quan hệ
giữa chủ sở hữu và người sử dụng cũng đã hàm chứa sự sai lệch về nguồn gốc của hàng
hoá, dịch vụ và từ đó dẫn đến sự nhầm lẫn. Cụ thể, các hệ quả xác định hành vi xâm
phạm nhãn hiệu nổi tiếng là :
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 19


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

-

Có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá ; hoặc

Gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sử dụng dấu hiệu đó với
chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng.

Đặc thù của nhãn hiệu nổi tiếng, xét về mặt lý luận là tính phân biệt của nhãn hiệu rất
cao, cao hơn nhiều với nhãn hiệu thông thường khác, phạm vi bảo hộ nhãn hiệu cũng triệt
để hơn, và xét về mặt thực tiễn là được người tiêu dùng biết đến rộng rãi. Người tiêu
dùng nhận thức được rất rõ nguồn gốc của các nhãn hiệu nổi tiếng, do đó, khả năng xảy
ra nhầm lẫn về nguồn gốc giữa hàng hoá hoặc dịch vụ gắn nhãn hiệu nổi tiếng với hàng
hoá hoặc dịch vụ gắn nhãn hiệu thông thường là ít xảy ra hơn với cá nhãn hiệ thông
thường với nhau. Mục đích của việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng không chỉ là ngăn ngừa
hành vi sử dụng gây nhầm lẫn mà còn là ngăn ngừa hành vi sử dụng có thể làm tổn hại
đến danh tiếng của nhãn hiệu nổi tiếng. Do đó, quy định của Luật SHTT Việt Nam chưa
đáp ứng được mục đích này.

Khi một đơn dăng kí nhãn hiệu hàng hoá được nộp tới Cục SHTT, sau khi xem xét về
hình thức cũng như tính hợp lệ của đơn, Cục sẽ tiếp nhận đơn và thực hiện xét nghiệm
nội dung. Một trong những vấn đề được xét tới là khả năng phân biệt của nhãn hiệu được
quy định tại điều 74 Luật SHTT. Trong đó, nhãn hiệu không được coi là có khả năng
phân biệt nếu nó là một dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn
hiệu được coi là nổi tiếng của người khác đăng ký cho hàng hoá, dịch vụ trùng hoặc
tương tự với hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng hoặc đăng ký cho hàng hoá,
dịch vụ không tương tự, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể làm ảnh hưởng đến khả
năng phân biệt của nhãn hiệu nổi tiếng hoặc việc đăng ký nhãn hiệu nhằm lợi dụng uy tín
của nhãn hiệu nổi tiếng. Quy định như vậy là phù hợp với thực tế cũng như thông lệ trên
thế giới. Tuy nhiên, Luật chưa quy định cụ thể những dấu hiệu như thế nào thì được coi
là “trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn” với nhãn hiệu nổi tiếng. Khắc phục điều
này, Nghị định 105/2006 có hướng dẫn như sau: dấu hiệu bị nghi ngờ trùng hoặc tương
tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo hộ nếu trong đó một dấu hiệu
bị coi là trùng với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo hộ nếu có cùng cấu tạo, cách trình bày
(kể cả màu sắc); một dấu hiệu bị coi là tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu
thuộc phạm vi bảo hộ nếu có một số đặc điểm hoàn toàn trùng nhau hoặc tương tự đến
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 20


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

mức không dễ dàng phân biệt với nhau về cấu tạo, cách phát âm, phiên âm đối với dấu
hiệu, chữ, ý nghĩa, cách trình bày, màu sắc và gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về hàng
hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu. Đối với nhãn hiệu nổi tiếng, dấu hiệu bị nghi ngờ bị coi là
yếu tố xâm phạm nếu: hàng hoá, dịch vụ mang dấu hiệu bị nghi ngờ đáp ứng điều kiện bị
nghi ngờ trùng hoặc tương tự về bản chất hoặc có liên hệ về chức năng, công dụng và có
cùng kênh tiêu thụ với hàng hoá, dịch vụ thuộc phạm vi bảo hộ. Hoặc hàng hoá, dịch vụ

không trùng, không tương tự, không liên quan tới hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi
tiếng nhưng có khả năng gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc hàng hoá, dịch
vụ hoặc gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sản xuất, kinh doanh sản
phẩm, dịch vụ đó với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng.
Ngoài ra, ta có thể tham khảo đến bản Khuyến nghị chung của WIPO về bảo hộ nhãn
hiệu nổi tiếng (những nhãn hiệu như vậy được gọi là nhãn hiệu gây xung đột). Theo đó,
nhãn hiệu sẽ bị coi là gây xung đột với nhãn hiệu nổi tiếng khi nhãn hiệu này, hoặc một
phần của nhãn hiệu này, có chứa sự sao chép, sự bắt chước, sự phiên dịch, hoặc sự phiên
chữ của nhãn hiệu nổi tiếng, có khả năng gây nhầm lẫn, nếu nhãn hiệu, hoặc phần cơ bản
của nhãn hiệu này, được sử dụng, là đối tượng của đơn đăng kí hoặc đã được đăng kí đối
với loại hàng hóa hoặc dịch vụ trùng hoặc tương tự với hàng hóa hoặc dịch vụ mang nhãn
hiệu. Không kể đến các loại hàng hóa hoặc dịch vụ mang nhãn hiệu này là đối tượng của
đơn đang kí hoặc đã được đăng kí, nhãn hiệu này sẽ bị coi là xung đột với nhãn hiệu nổi
tiếng khi nhãn hiệu này hoặc một phần cơ bản của nhãn hiệu này có chứa sự sao chép, sự
bắt chước, sự phiên dịch, hoặc sự phiên chữ của nhãn hiệu nổi tiếng, và khi có ít nhất một
trong các điều kiện sau đây:
Sự sử dụng nhãn hiệu đó biểu thị một mối liên hệ giữa hàng hóa hoặc dịch
vụ mang nhãn hiệu, là đối tượng của đơn đăng kí, hoặc đã được đăng kí, và của
chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng, và có nguy cơ đe dọa lợi ích của họ;
Sự sử dụng nhãn hiệu đó có khả năng làm suy yếu hoặc lu mờ theo cách
không công bằng những đặc tính khác biệt của nhãn hiệu nổi tiếng;
Sự sử dụng nhãn hiệu đó có thể sẽ gây bất lợi cho những đặc tính khác biệt
của nhãn hiệu nổi tiếng.
Về thời hạn bảo hộ, pháp luật cũng dành cho những nhãn hiệu loại này một ưu đãi đặc
biệt: quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ vô thời hạn tính
từ ngày nhãn hiệu được công nhận là nổi tiếng ghi trong quyết định công nhận nhãn hiệu
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 21



Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

nổi tiếng. Tuy vậy, ta cũng không loại trừ trường hợp một nhãn hiệu nổi tiếng không
được bảo hộ nữa. Đó là khi nhãn hiệu không còn nổi tiêng nữa, hay nói cách khác là khi
các tiêu chí làm nhãn hiệu đó trở thành nổi tiếng không còn trên thực tế hoặc nhãn hiệu
đã trở thành tên gọi chung của một loại sản phẩm, dịch vụ nhất định (trường hợp này còn
gọi là sự lu mờ nhãn hiệu). Ở Hoa Kỳ, thậm chí còn có Đạo luật Liên bang về sự lu mờ
nhãn hiệu (FTDA) vào năm 1995. Đạo luật này có những quy định về sự đền bù hay bồi
thường cho việc làm lu mờ đối với nhãn hiệu nổi tiếng, các yếu tố để xác định một nhãn
hiệu là phân biệt và nổi tiếng, đồng thời cũng đưa ra định nghĩa chính xác về thuật ngữ
“sự lu mờ” (dilution), theo đó, sự lu mờ sẽ được hiểu là việc làm giảm khả năng của nhãn
hiệu nổi tiếng trong việc xác định và phân biệt đối với hàng hóa hay dịch vụ mang nhãn
hiệu. Lịch sử đã từng có những trường hợp như vậy mà điển hình là trường hợp của viên
thuốc ASPIRIN. Trong hệ thống pháp luật về nhãn hiệu nói chung và nhãn hiệu nổi tiếng
nói riêng của Việt Nam chưa đề câp đến các biện pháp cũng như chế tài ngăn cấm việc
làm lu mờ nhãn hiệu.
Ðể hoàn thiện pháp luật thực thi quyền sở hữu trí tuệ và đặc biệt là quyền đối với nhãn
hiệu nổi tiếng, theo ý kiến của nhóm em, thời gian tới cần tập trung:
Một là, hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực thi quyền SHTT, quyền đối với nhãn hiệu nổi
tiếng trong pháp luật dân sự như: hoàn thiện các quy định về việc xác định các hành vi
xâm phạm; nâng cao vai trò của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp về nhãn hiệu,
xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn thực thi quyền SHTT một cách kịp thời và có hiệu quả,
xác định rõ thẩm quyền vụ việc của Tòa án trong việc xét xử các tranh chấp về SHTT, bổ
sung những quy định chi tiết về các chế tài đủ mạnh để chống lại các hành vi xâm phạm
quyền SHTT, nhãn hiệu nổi tiếng, sớm ban hành những văn bản hướng dẫn chi tiết về
vấn đề bồi thường thiệt hại vật chất và tinh thần gây ra do các hành vi xâm phạm. Đối với
trường hợp xâm phạm nhãn hiệu nổi tiếng, cần sử đổi hành vi xâm phạm là hành vi gây
tổn hại đến tính phân biệt của nhãn hiệu nổi tiếng. Ngoài ra, các tiêu chí để đánh giá nhãn
hiệu nổi tiếng cần dành phần chủ động cho các doanh nghiệp bằng cách quy định thêm

rằng doanh nghiệp có thể đệ trình bất kỳ yếu tố nào của doanh nghiệp mình để chứng
minh cho nhãn hiệu là nổi tiếng, Cục SHTT sẽ xem xét các yếu tố đó và quyết định cấp
giấy chứng nhận nhãn hiệu nổi tiếng hay không.
Hai là, hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực thi quyền SHTT và quyền đối với nhãn hiệu nổi
tiếng trong pháp luật hành chính. Ba là, hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực thi quyền SHTT
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 22


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

trong pháp luật hình sự, cần ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành các quy định của
Bộ luật Hình sự liên quan việc xét xử các vụ án hình sự về xâm phạm quyền SHTT cũng
như là nhãn hiệu nổi tiếng.Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu thực tiễn, về lâu dài Việt Nam
cũng cần phải thay đổi cách nhìn và nên đi theo xu hướng chung, đó là việc đưa các vụ
tranh chấp, xâm phạm về Toà án để giải quyết theo đúng bản chất dân sự của nó. Có thế
Việt Nam mới thật sự hội nhập trong cộng đồng quốc tế.

CHƯƠNG IV:
ĐÁNH GIÁ CƠ CHẾ BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG Ở VIỆT NAM – MỘT
SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN.
I. Những thành tựu:
Một là, về chính sách và công tác lập pháp, hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ và nhãn hiệu nổi tiếng đã tạo ra những thành tựu quan trọng.
Các quy định về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng được sửa đổi qua việc ban hành Bộ Luật Dân
Sự năm 2005, Luật Sở Hữu Trí Tuệ năm 2005 (sửa đổi năm 2009) và văn bản hướng
dẫn. Việc kết hợp các quy định cụ thể quy định trong các nguồn pháp lý này đã tạo ra
một chế độ pháp lý vững chắc điều chỉnh sự bảo hộ cho nhãn hiệu nổi tiếng.
Hai là, bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng trên thực tế, trước 1995, các vấn đề về bảo hộ nhãn

hiệu nổi tiếng tại Việt Nam đã xuất hiện trong một vài năm trước khi ban hành các luật.
Ví dụ, vụ kiện “McDonald” được giải quyết năm 1992 và vụ kiện “Pizza Hut” được giải
quyết năm 1993.
Từ 1995 – 2005, việc thực thi bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam đã liên tục được
đẩy mạnh. Điều này có thể được chứng minh bằng các vụ kiện được các cơ quan giải
quyết, như vụ kiện SHANGRI-LA trong năm 1995, vụ kiện TEMPO trong năm 1996, vụ
kiện CAMEL trong năm 1997, vụ kiện DUXIL, và vụ kiện SUPER MAXILITE trong
năm 2001.Từ 2005, Luật Sở Hữu Trí Tuệ và các văn bản hướng dẫn của luật này đã thúc
đẩy đáng kể hệ thống pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam. Việc áp dụng các luật
mới đã cho những kết quả quan trọng trong việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. Ở giai đoạn
này, dường như hệ thống nhãn hiệu Việt Nam đã bắt đầu quen thuộc với các nhãn hiệu
nổi tiếng cũng như các vấn đề pháp lý có liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng hơn trong quá
khứ dù đã có một số yếu kém trong hệ thống.
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 23


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

II. Những hạn chế:
Một là, thực tế cho thấy, các nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng bị vi phạm thường là những
nhãn hiệu gắn trên các sản phẩm nhỏ, dễ làm, dễ tẩu tán, dễ tiêu thụ, và không cần vốn
lớn (Việc làm giả các sản phẩm thơì trang mang nhãn hiệu Valentino, Pierre Cardin dễ
dàng hơn làm giả máy bay Boing hay xe hơi Roll Royce). Hình thức vi phạm chủ yếu là
làm giả tức là gắn nhãn hiệu hàng hoá giống hệt (the same) lên sản phẩm bị làm giả. Bởi
vì bản thân nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng (bao gồm dấu hiệu, màu sắc, chữ viết, hình
ảnh...) được người tiêu dùng nhận thức tương dối dễ dàng nhưng chất lượng của sản
phẩm gắn nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng đôi khi khó kiểm soát, đánh giá.
Bất kì cá nhân, tổ chức nào có một trong các hành vi vi phạm nêu trên, chủ văn bằng bảo

hộ hoặc người sử dụng hợp pháp nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng có quyền áp dụng các hình
thức xử lý thích hợp. Trước hết, họ có quyền áp dụng các quy định bảo hộ nhãn hiệu
hàng hoá nói chung. Tức là: nếu “bên bị vi phạm” và bên “vi phạm” đều là thành viên
của công ước Paris thì bên bị vi phạm có quyền yêu cầu quốc gia có bên vi phạm sử dụng
các công cụ pháp lý thích hợp để ngăn chặn có hiệu quả tất cả các hành vi vi phạm. Ngoài
ra, họ còn có quyền khởi kiện tại toà án(cả toà án quốc tế )và các cơ quan hành chính có
thẩm quyền khác (xem thêm điều 10-Công ước Paris). Trong trường hợp bên bị vi phạm
và bên vi phạm hoặc một trong hai bên không phải là thành viên của Công ước Paris thì
việc giải quyết đựơc tiến hành theo sự thoả thuận của hai bên. Đối với nhãn hiệu hàng
hoá nổi tiếng, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu huỷ bỏ nhãn hiệu hàng hoá vi phạm. Thời
hạn yêu cầu huỷ bỏ được quy định không ít hơn 5 năm kể từ ngày đăng kí nhãn hiệu hàng
hoá vi phạm được đăng ký (điều 6 bis- Công ước Paris). Bên cạnh đó, các nước thành
viên cũng có quyền quy định thời hạn có thể yêu cầu cấm sử dụng nhãn hiệu hàng hoá
nổi tiếng. Nếu việc vi phạm có “dụng ý xấu” (bad faith) (xem thêm điều 6 bis) tức là
nhằm gây tổn hại nghiêm trọng về uy tín, vật chất ...cho chủ sở hữu, người sử dụng hợp
pháp nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng thì thời hạn yêu cầu huỷ bỏ hoặc ngăn cấm việc sử
dụng của chủ văn bằng nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng/ người sử dụng hợp pháp nhãn hiệu
hàng hoá nổi tiếng là vô hạn.
Xuất phát từ đặc điểm của nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng là có uy tín, danh tiếng trên toàn
thế giới sau một thời hạn nhất định kể từ thời điểm đăng kí bảo hộ lần đầu tiên. Cho nên
đối với nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng, thủ tục đăng ký bảo hộ bắt buộc chỉ đặt ra lần đầu
tiên với ý nghĩa là đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá. Các văn bản pháp luật quốc tế và
văn bản pháp luật quốc gia đều không quy định: Chủ sở hữu/ nhà sản xuất phải tiếp tục
đăng kí tại bất kỳ quốc gia nào có sử dụng nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Như vậy, việc
chủ sở hữu có muốn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá hay không hoàn toàn phụ thuộc vào ý
chí của họ. Tuy nhiên trong thực tế, chủ sở hữu/ nhà sản xuất vẫn tiến hành thủ tục đăng
kí cho nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng để đảm bảo quyền lợi chắc chắn của mình. Chẳng
hạn hãng Coca-cola vẫn đăng ký bảo hộ cho nhãn hiệu nổi tiếng Coca-Cola tại Cục Sở
hữu công nghiệp Việt Nam; Công ty Walt Disney Productions (Mỹ) vẫn đăng ký cho các
nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng của mình là Mickey Mouse và Snow White taị Trung Quốc.

Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 24


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

Như vậy, các quy định bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng trong các văn bản pháp luật
quốc tế chỉ mang tính chất định khung. Để giải quyết tránh chấp phát sinh, các quốc gia
cần cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật quốc gia và Hiệp định song phương hay đa
phương cho phù hợp.
Hiện nay, ở nước ta xuất hiện ngày càng nhiều các nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng thuộc
các lĩnh vực khác nhau, chúng ta cũng đã tham gia Công ước Paris từ rất sớm. Tuy nhiên,
cho đến nay cơ sở pháp lý để bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng còn nhiều khiếm
khuyết. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam chỉ có một điều luật duy nhất đề cập đến
nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Cụ thể là điểm e-khoản 1- Điều 6-Nghị định 63/CP ngày
24/10/1996 của Chính Phủ quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp. Chúng ta chưa có
quy định cụ thể thế nào là một nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng hay đưa ra các tiêu chí xác
định một nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Đây chính là khiếm khuyết đầu tiên về mặt pháp
lý cần phải giải quyết.
Theo Điều 6 (điểm 1e) - Nghị định 63/CP, Điều 6bis - Công ước Paris sễ được áp dụng
khi giải quyết các vấn đề liên quan đến nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng tại Việt Nam. Tuy
nhiên, như chúng ta đã biết, những thoả thuận trong Công ước Paris và TRips chỉ mang
tính định khung, các quốc gia thành viên cần có quy định cụ thể, phù hợp với những quy
định định khung đó. Hầu hết các nước đều ban hành văn bản pháp luật riêng về sở hữu trí
tuệ, trong đó khi điều chỉnh nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng có dẫn chiếu tới Công ước
Paris, TRips và các văn bản pháp luật quốc tế khác bên cạnh những quy định riêng, cụ
thể, phù hợp cho mình. Pháp ban hành Bộ luật sở hữu trí tuệ (Intellectual Property Code),
Trung Quốc ban hành Luật nhãn hiệu hàng hoá (Trademark Law), Canada ban hành Luật
nhãn hiệu hàng hoá (Trademark Act)...

Một số nước trên thế giới ban hành danh mục các nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng và được
bổ sung liên tục hàng năm (như Mỹ, Nhật Bản - Xem danh mục The Japan 300; United
State 300). Việc ban hành danh mục các nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng, tránh tình trạng tranh chấp phát sinh khi cùng một nhãn hiệu hàng hoá nhưng
quốc gia này công nhận là nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng, quốc gia khác lại không công
nhận. Đây cũng là một văn bản cần thiết mà Việt Nam cũng cần xem xét để ban hành.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng chưa xác định rõ ràng cơ quan Nhà nước nào có thẩm
quyền công nhận một nhãn hiệu hàng hoá là nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. ở Trung Quốc,
Luật nhãn hiệu hàng hoá năm 1996 quy định rõ cơ quan có thẩm quyền giải quyết mọi
vấn đề liên quan đến nhãn hiệu hàng hoá nói chung là Phòng nhãn hiệu hàng hoá thuộc
Uỷ ban nhà nước về công nghiệp và thương mại (SAIC) còn ở Pháp - Toà án có thẩm
quyền này. Điều này gây khó khăn cho các chủ văn bằng bảo hộ/nhà sản xuất khi đưa
nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng vào Việt Nam. Đây cũng chính là nguyên nhân, chủ văn
bằng bảo hộ/nhà sản xuất cứ “chạy” từ Cục sở hữu công nghiệp sang Cục Bản quyền cho
đến khi nào được đăng ký bảo hộ thì thôi. Trong thực tế, thẩm quyền quyền này thuộc về
Cục Sở hữu công nghiệp. Bởi vì không có cơ quan nhà nước công nhận nhãn hiệu hàng
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 25


×