Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.08 KB, 22 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

----------

Đề tài môn: Quản Trị Ngân Hàng

HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ
TẠI VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn
Nhóm thực hiện
Lớp

: PGS.TS. Trương Quang Thông
: 05
: TCDN – Khóa 23

Hoàng Việt Duy
Đặng Thị Thúy Hằng
Nguyễn Thới Huyền Ngân
Chu Thị Minh

MSHV: 7701230388
MSHV: 7701230472
MSHV: 7701230715
MSHV: 7701230682

TP.HCM, tháng 08 năm 2014



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

----------

Đề tài môn: Quản Trị Ngân Hàng

HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ
TẠI VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn
Nhóm thực hiện
Lớp

: PGS.TS. Trương Quang Thông
: 05
: TCDN – Khóa 23

Hoàng Việt Duy
Đặng Thị Thúy Hằng
Nguyễn Thới Huyền Ngân
Chu Thị Minh

MSHV: 7701230388
MSHV: 7701230472
MSHV: 7701230715
MSHV: 7701230682

TP.HCM, tháng 08 năm 2014



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Tiếng Việt

NHTW

Ngân hàng Trung ương

NHNN

Ngân hàng Nhà nước

NHTM

NHTM

NHĐT

Ngân hàng đầu tư

CTCK

Công ty Chứng khoán

CTCP

Công ty Cổ Phần


TTCK

Thị trường Chứng khoán

USD

Đô la Mỹ

VND

Việt Nam đồng

XNK

Xuất nhập khẩu

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn


MỤC LỤC
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO...............................................................................1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM..........................................................................1
---------- .................................................................................1
Đề tài môn: Quản Trị Ngân Hàng....................................................................................................1
HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ ................................................................................................1
TẠI VIỆT NAM..................................................................................................................................1
........................................................................................................................................................1
Giảng viên hướng dẫn : PGS.TS. Trương Quang Thông..................................................................1

Nhóm thực hiện : 05......................................................................................................................1
Lớp : TCDN – Khóa 23.....................................................................................................................1
......................................................................................................................................................1
Hoàng Việt Duy MSHV: 7701230388..........................................................................................1
Đặng Thị Thúy Hằng MSHV: 7701230472...................................................................................1
Nguyễn Thới Huyền Ngân MSHV: 7701230715 ............................................................1
Chu Thị Minh MSHV: 7701230682................................................................................1
........................................................................................................................................1
...................................................................................................................................................2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO..........................................................................................................2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM...........................................................................................2
----------.......................................................................................................................2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT.........................................................................................................3
MỤC LỤC........................................................................................................................................4

LỜI MỞ ĐẦU
Sau hơn 15 năm hình thành và phát triển, thị trường chứng khoán Việt Nam đã
đạt được nhiều thành tựu quan trọng, ngày càng thể hiện vai trò là một kênh huy động
vốn dài hạn không thể thiếu của nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng.
Đặc biệt từ năm 2006 đến nay, thị truờng chứng khoán đã có tốc độ tăng truởng rất
mạnh, thu hút một lượng lớn các nhà đầu tư tham gia và tạo thành một hiện tượng kinh
tế của Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới.
Thực tế cho thấy, trong hoạt động của thị trường vốn ở các nước phát triển thì
ngân hàng đầu tư là chủ thể quan trọng nhất. Tại Việt Nam, tuy ngân hàng đầu tư còn
là một khái niệm mới mẻ, song đã xuất hiện một số công ty chứng khoán và công ty
quản lý quỹ với các hoạt động phôi thai theo hướng các nghiệp vụ của ngân hàng đầu
tư. Đồng thời, một số ngân hàng thương mại lớn cũng đang trong quá trình chuyển đổi
sang mô hình tập đoàn tài chính, trong đó có chú trọng đẩy mạnh phát triển mảng ngân



hàng đầu tư. Đây là sự phát triển tất yếu mà các nước phát triển đã trải qua và là một
định hướng đúng của nền kinh tế.
Những cuộc khủng hoảng tài chính đương đại cũng đặt ra câu hỏi lớn về tương
lai của mô hình ngân hàng đầu tư. Song dù đi theo mô hình nào thì ngành ngân hàng
đầu tư vẫn tiếp tục khẳng định vị thế là một định chế tài chính quan trọng nhất của thị
trường vốn.
Với đề tài “Hoạt động ngân hàng đầu tư tại Việt Nam” nhóm hy vọng phần
nào hiểu rõ hơn về hoạt động của ngân hàng đầu tư nói chung và tại Việt Nam nói
riêng cũng như hướng đi sắp tới của ngân hàng đầu tư.


1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ
1.1. Khái niệm về Ngân hàng đầu tư
Theo quan điểm truyền thống, Ngân hàng đầu tư (NHĐT) được hiểu là một định
chế trung gian tài chính với chức năng chính là tư vấn và thực hiện huy động nguồn
vốn trên thị trường vốn cho các khách hàng. Các nguồn vốn trên thị trường vốn chủ
yếu mang tính chất trung và dài hạn trong khi các nguồn vốn ngắn hạn thường được
huy động trên thị trường tiền tệ thông qua hệ thống Ngân hàng thương mại (NHTM).
Trong quá trình phát triển kinh doanh, các doanh nghiệp luôn cần các nguồn
vốn, đặc biệt các nguồn vốn trung và dài hạn để tài trợ cho quá trình sản xuất kinh
doanh của mình. Tương tự như vậy, các chính phủ cũng cần huy động các nguồn vốn
nhàn rỗi để bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước, đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng hay
đầu tư cho y tế, giáo dục, văn hóa. Thay vì tìm kiếm các nguồn vay ngắn hạn trên thị
trường tiền tệ qua kênh ngân hàng thương mại với các điều khoản vay vốn ngặt nghèo
hoặc mức lãi suất không hấp dẫn, các doanh nghiệp và chính phủ có thể tìm kiếm các
nguồn vốn trung dài hạn trên thị trường vốn.
Ngân hàng đầu tư xuất hiện làm nhiệm vụ giúp các doanh nghiệp, Chính phủ phát
hành các loại chứng khoán ra thị trường nhằm huy động các nguồn vốn cần thiết. Các
loại chứng khoán phát hành có thể bao gồm cổ phiếu hoặc trái phiếu. Do vậy, NHĐT
đóng vai trò là một chủ thể trung gian quan trọng của nền kinh tế hoạt động trên thị

trường vốn.
Như vậy về cơ bản NHĐT thực chất là một công ty chứng khoán nhưng ở mức độ
phát triển cao với các loại nghiệp vụ đa dạng và phức tạp hơn.
Tóm lại, NHĐT là một định chế đóng vai trò như một trung gian tài chính (hay
công ty tài chính được phát triển đi lên từ mô hình công ty chứng khoán) với chức
năng chủ yếu là hoạt động trên thị trường vốn trung và dài hạn thông qua các dịch vụ
liên quan tới tài chính như bảo lãnh: làm trung gian giữa các tổ chức phát hành chứng
khoán và nhà đầu tư, tư vấn giúp dàn xếp các thương vụ mua lại và sáp nhập cùng các
hoạt động tái cơ cấu doanh nghiệp khác và môi giới cho khách hàng là các tổ chức.
Những nghiệp vụ này không giống như những nghiệp vụ của các NHTM.
Ngày nay, NHĐT đã mở rộng các loại hình nghiệp vụ của mình sang các lĩnh vực
khác và trở thành một chủ thể kinh doanh đa dạng lấy nghiệp vụ NHĐT truyền thống
làm hoạt động cốt lõi. Các mảng kinh doanh chính của một NHĐT hiện nay ngoài
nghiệp vụ NHĐT (bao gồm dịch vụ phát hành chứng khoán và tư vấn mua bán, sáp
nhập doanh nghiệp), còn có hoạt động đầu tư (sales & trading), nghiên cứu (research),
quản lý đầu tư (investment management), ngân hàng bán buôn (merchant banking) và
nghiệp vụ nhà môi giới chính (prime brokerage).
1.2. Khung pháp lý quản lý hoạt động Ngân hàng đầu tư trên thế giới
Nhóm: 05 – GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

Trang 1


1.2.1. BASEL
Nói đến các chuẩn mực quốc tế về đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tài
chính, người ta sẽ nhắc ngay đến các tiêu chuẩn Basel. Những tiêu chuẩn ra đời cách
đây hơn hai thập kỷ và liên tục được hầu hết các nước cũng như các tổ chức tài chính
toàn cầu tuân thủ một cách rộng rãi hay cố gắng đạt được.
Vào năm 1988, Ủy ban đã công bố hệ thống đo lường vốn mà nó được đề cập như
là Hiệp ước vốn Basel (the Basel Capital Accord) hay Basel I. Hệ thống này cung cấp

khung đo lường rủi ro tín dụng với tiêu chuẩn vốn tối thiểu là 8%. Từ năm 1988, Basel
I không chỉ được phổ biến trong các quốc gia thành viên mà còn ở hầu hết các nước
khác với các ngân hàng hoạt động quốc tế.
Năm 1999, Ủy ban Basel đã đề xuất khung đo lường mới (Basel II) với 3 trụ cột
chính: (1) yêu cầu vốn tối thiểu trên cơ sở kế thừa Basel I; (2) sự xem xét giám sát của
quá trình đánh giá nội bộ và sự đủ vốn của các tổ chức tài chính; và (3) sử dụng hiệu
quả việc công bộ thông tin nhằm làm mạnh kỷ luật thị trường như là một sự bổ sung
cho các nỗ lực giám sát.
1.2.2. Luật Glass-Steagall năm 1933
Khi tai họa đại suy thoái (Great Depression 1929) xảy ra, bắt đầu tại Mỹ, Quốc
Hội Mỹ đã có biện pháp chấn chỉnh qua đạo luật Glass-Steagall được Tổng Thống
Franklin Roosevelt ký thành luật năm 1933 với mục đích tách biệt NHTM và NHĐT.
Đạo luật này nhằm sửa chữa tình trạng đầu cơ thái quá của các ngân hàng trong thập
niên 1920s, dẫn đến sự sụp đổ của thị trường chứng khoán năm 1929, và đưa đến nạn
đại suy thoái. Lúc đó, các NHTM đã đầu tư một cách quá phiêu lưu với tiền ký thác
nên đạo luật Glass-Steagall thiết lập một bức tường ngăn cách giữa NHĐT và NHTM,
cấm các NHTM không được bảo chứng bảo hiểm và chứng khoán. Luật này cấm các
NHTM tham gia vào hoạt động chứng khoán, trừ việc mua bán trái phiếu chính phủ và
trái phiếu nghĩa vụ chung của chính quyền địa phương và ngược lại các NHĐT hay
công ty chứng khoán không được tham gia vào các hoạt động nhận tiền gửi. Đạo
luật Glass-Steagall được đánh giá là “Bức tường lửa” đối với hoạt động NHTM.
1.2.3. Luật Gramm–Leach–Bliley năm 1999
Đạo luật Gramm-leach-bliley (GLB Act) được Quốc hội Mỹ thông qua năm 1999
là kết quả của một quá trình hợp nhất các quy định pháp lý đối với thị trường dịch vụ
tài chính Mỹ trong nhiều thập kỷ. Đạo luật này tạo điều kiện cho sự sáp nhập giữa các
doanh nghiệp thuộc lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán và các định chế tài
chính khác, và như vậy đã dỡ bỏ sự phân đoạn do Đạo luật Glass- Steagall quy định từ
năm 1933, trong đó hạn chế sự sáp nhập giữa các ngân hàng và các công ty chứng
khoán; đồng thời, dỡ bỏ sự phân đoạn do Đạo luật Bank Holding company (BHC Act)
Nhóm: 05 – GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông


Trang 2


ban hành năm 1956, trong đó hạn chế sự sáp nhập giữa các ngân hàng và các công ty
bảo hiểm 21.
Đạo luật Gramm-leach-bliley đã tạo điều kiện cho các ngân hàng đăng ký thành
lập các tập đoàn tài chính - ngân hàng đa năng tại Hoa Kỳ thông qua việc mở thêm
hoạt động môi giới bảo hiểm. Mặt khác, các công ty chứng khoán và các công ty bảo
hiểm cũng có thể chuyển đổi thành các tập đoàn tài chính - ngân hàng nếu họ mua lại
một ngân hàng trong trường hợp họ thỏa mãn các điều kiện nhất định.
1.2.4. Đạo luật Sarbanes-Oxley 2002
Sự xuất hiện của các vụ scandal kế toán dẫn đến sự sụp đổ của Enron và
WorldCom tại Mỹ trong những năm 2000 đã làm tổn hại nghiêm trọng lòng tin của
công chúng vào thị trường vốn. Để cải thiện tình hình đó, Quốc hội Mỹ đã thông qua
đạo luật Sarbanes-Oxley 2002 nhằm tăng cường trách nhiệm báo cáo tài chính và hệ
thống kiểm soát nội bộ đối với các công ty đại chúng.
Một Ủy ban giám sát kế toán các công ty đại chúng (Public Company Accounting
Oversight Board) được thành lập với chức năng giám sát hoạt động của các công ty
kiểm toán nhằm đảm bảo tính độc lập của kiểm toán và quy trình chất lượng kiểm
toán. Theo quy định của Luật, các công ty kiểm toán phải thay đổi Partner chịu trách
nhiệm chính về cuộc kiểm toán định kỳ 5 năm một lần nhằm ngăn chặn mối quan hệ
thân thiết với các công ty được kiểm toán. Các công ty kiểm toán cũng bị hạn chế cung
cấp các dịch vụ phi kiểm toán có thể gây mâu thuẫn lợi ích (ví dụ tư vấn thuế, kế
toán), làm giảm tính độc lập của dịch vụ kiểm toán.
Đạo luật Sarbanes-Oxley quy định trách nhiệm của người đứng đầu doanh nghiệp,
yêu cầu tăng cường các thuyết minh tài chính, xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ đủ
mạnh đối với báo cáo tài chính. Đạo luật cũng quy định mâu thuẫn lợi ích đối với các
nhà phân tích chứng khoán, trách nhiệm của doanh nghiệp đối với các gian lận kế
toán, hình sự hóa các loại tội phạm “cổ cồn trắng”. Một phần quy định của đạo luật

Sarbanes-Oxley gây khó khăn và tốn kém nhất cho các công ty đại chúng đó là Mục
404 SOX, yêu cầu kiểm toán viên xác nhận tính đầy đủ của hệ thống kiểm soát nội bộ
đối với quy trình báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Sự ra đời của các chuẩn mực kế
toán ghi nhận theo giá trị hợp lý (fair value accounting) áp dụng cho các tài sản và
công nợ tài chính cũng là một trong những quy định mới trong vài năm gần đây và
thực sự trở thành chủ đề nóng trong cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ vừa qua.
1.2.5. Luật Dodd-Frank 2010
Ngày 21/7/ 2010, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã ký thông qua chính thức Đạo
luật Dodd-Frank như là thắng lợi lớn về lập pháp thứ hai của ông Obama liên tiếp
trong năm 2010, sau việc thông qua Luật cải cách hệ thống bảo hiểm y tế vào 3/2010.

Nhóm: 05 – GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

Trang 3


Lý do ra đời Đạo luật Dodd-Frank bắt nguồn từ nhận thức lại của chính giới Mỹ về vai
trò của bàn tay nhà nước và từ thực tiễn kinh tế-tài chính Mỹ suốt 3 thập kỷ trước đó.
Đạo luật Dodd-Frank ra đời được coi là bước cải cách thị trường tài chính sâu rộng
nhất được triển khai kể từ cuộc đại suy thoái những năm 1930, vì nó bao quát và tu
chỉnh hầu hết các vấn đề trọng yếu của thị trường tài chính nhằm tăng cường tính minh
bạch và trách nhiệm giải trình, đảm bảo nguyên tắc thị trường (không sử dụng tiền
thuế của người dân để xử lý tổ chức tài chính) và bảo vệ tốt hơn người tiêu dùng nói
chung và người gửi tiền nói riêng. Đạo luật này là một phần của bước chuyển mang
tính toàn cầu từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, theo đó Chính phủ sẽ can
dự sâu hơn vào ngành tài chính. Như tên gọi của mình, Đạo luật đã đề cập và điều
chỉnh đến hầu hết các vấn đề trọng yếu của thị trường tài chính tại Mỹ, bao gồm cấu
trúc hệ thống giám sát, mối quan hệ của các cơ quan giám sát, các trung gian tài chính,
sản phẩm dịch vụ tài chính và bảo vệ người gửi tiền, người sử dụng dịch vụ tài
chính…

Điểm nổi bật của Đạo luật liên quan đến hoạt động NHĐT là quy định trong vài
năm các ngân hàng lớn phải rút dần vốn ra khỏi các quỹ đầu cơ, quỹ tư nhân và chỉ
được nắm giữ tối đa 3% số cổ phiếu của các quỹ này. Đạo luật sẽ áp dụng các khoản
phí và hạn chế mới đối với các ngân hàng lớn nhất nước, đặt ra các giới hạn đối với thị
trường phái sinh trị giá 450.000 tỷ USD, cũng như bảo vệ người tiêu dùng trước các
tài sản thế chấp và thẻ tín dụng. Biện pháp này sẽ giảm thiểu tác động xấu đến nền
kinh tế nếu các thể chế tài chính sụp đổ.
2. DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM
2.1. Khung pháp lý quản lý hoạt động Ngân hàng đầu tư tại Việt Nam
Hiện nay, ở Việt Nam chưa có mô hình NHĐT thực sự, song đã xuất hiện một số
công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ với các hoạt động theo hướng các nghiệp
vụ của NHĐT. Đồng thời, một số NHTM lớn cũng đang trong quá trình chuyển đổi
sang mô hình tập đoàn tài chính, trong đó có chú trọng đẩy mạnh phát triển mảng
NHĐT. Đây là sự phát triển tất yếu mà các nước phát triển đã trải qua và là một định
hướng đúng của nền kinh tế.
Trong những năm qua, hệ thống pháp luật ngân hàng ở Việt Nam đang dần hoàn
thiện. Mốc quan trọng đầu tiên là năm 1990, hai Pháp lệnh Ngân hàng đã được ban
hành tạo cơ sở pháp lý cho việc chuyển đổi hệ thống ngân hàng từ một cấp sang hai
cấp. Năm 1997, đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển hệ thống ngân hàng theo cơ chế
thị trường, hai Pháp lệnh Ngân hàng đã được nâng cấp thành Luật Ngân hàng (Luật
Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng) có hiệu lực thi hành từ 01/10/1998.
Sau đó, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu cải cách, năm 2003 và
2004, Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng được bổ sung sửa đổi
Nhóm: 05 – GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

Trang 4


nhằm giải quyết những qui định còn thiếu về dịch vụ ngân hàng, về nâng cao chất
lượng cung cấp dịch vụ, về năng lực quản lý và khuyến khích sự chủ động về quản lý

của các Ngân hàng. Ngày 16/06/2010, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XII, đã thông
qua Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng mới và bắt đầu có hiệu lực
ngày 01 tháng 01 năm 2011. Về bản chất, xét về phạm vi và nội dung hoạt động,
NHĐT không phải là một tổ chức tín dụng, mà là một định chế tài chính thực hiện các
nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán. Do đó, loại hình này sẽ được điều chỉnh bởi pháp
luật về chứng khoán. Kế thừa các quy định của Luật Các tổ chức tín dụng ngày 12
tháng 12 năm 1997 và bài học rút ra từ khủng hoảng tài chính toàn cầu, Luật Các tổ
chức tín dụng được ban hành ngày 16 tháng 06 năm 2010 chính thức có hiệu lực ngày
01 tháng 01 năm 2011 và thay thế Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 quy định mô
hình NHTM ở Việt Nam là mô hình “NHTM đa năng hạn chế”, theo đó các NHTM
được thực hiện các hoạt động ngân hàng truyền thống (như nhận tiền gửi, cấp tín dụng
và cung ứng các dịch vụ thanh toán) và tùy theo mức độ rủi ro thị trường của từng
nghiệp vụ NHĐT, các NHTM được phép trực tiếp (Điều 107) hoặc gián tiếp (thông
qua công ty con, công ty liên kết) thực hiện các nghiệp vụ NHĐT (Điều 103). Mặt
khác, với hàng loạt các nghiệp vụ chịu sự điều chỉnh của rất nhiều ngành luật khác
nhau nên việc không đưa khái niệm “NHĐT” vào Luật các tổ chức tín dụng năm 2010
là hợp lý và phù hợp với bản chất của hoạt động. Rõ ràng đây không đơn thuần là hoạt
động ngân hàng, các nghiệp vụ của nó chịu sự tác động, điều chỉnh của nhiều ngành
luật khác nhau như Bộ Luật dân sự (liên quan đến tư cách chủ thể và các giao dịch cơ
bản), Luật Chứng khoán (liên quan đến tư vấn, bảo lãnh phát hành, quản lý quỹ, tự
doanh…), Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh (liên quan đến địa vị
pháp lý, loại hình doanh nghiệp, đầu tư, phương thức M&A…), Luật các tổ chức tín
dụng (liên quan đến hoạt động ngân hàng, tài trợ thương mại, dịch vụ ngân hàng…),
các Luật thuế (các loại thuế cho giao dịch, thuế liên quan đến tái cơ cấu, M&A…),
pháp luật về thông tin, truyền thông (liên quan đến việc cung cấp báo cáo, phân tích,
thông tin cho nhà đầu tư, thông tin về tư vấn, phát hành chứng khoán…).
Ngày 1/7/2011, Luật Chứng khoán sửa đổi, bổ sung được Quốc hội thông qua năm
2010 chính thức có hiệu lực. Ngày 20/7/2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị
định số 58/2012/NĐ-CP. Trước hết, Nghị định 58 ra đời, là văn bản có tính nhất thể
hóa, thay thế cho một loạt nghị định về TTCK của Thủ tướng Chính phủ đã ban hành

trước đó, như Nghị định 14/2007/NĐ-CP ngày 19/01/2007 quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật CK, Nghị định 84/2010/NĐ-CP ngày 02/8/2010 sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định 14/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Chứng khoán và Nghị định 01/2010/NĐ-CP ngày 04/01/2010 về chào bán cổ
phần riêng lẻ. Không chỉ tập trung các văn bản hướng dẫn quy định thi hành Luật
Nhóm: 05 – GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

Trang 5


Chứng khoán trước đây về một mối, nhằm tăng cường tính thống nhất của các văn bản
dưới luật và thuận tiện cho quá trình tra cứu, thực thi luật của các đối tượng liên quan,
Nghị định 58 đã hướng dẫn chi tiết và đầy đủ các quy định của Luật Chứng khoán sửa
đổi, mở rộng các quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động của lĩnh vực chứng
khoán và thị trường chứng khoán; mở rộng cánh cửa liên thông giữa thị trường chứng
khoán Việt Nam với quốc tế... tạo điều kiện nền tảng cho việc phát triển các sản phẩm
mới, nghiệp vụ mới, phù hợp với thông lệ quốc tế và khu vực. Đến ngày 30/11/2012,
Bộ Tài chính ban hành Thông thư 210/2012/TT-BTC hướng dẫn về thành lập và hoạt
động công ty chứng khoán. Tuy nhiên, các quy định về NHĐT chưa đồng bộ, chưa
hoàn chỉnh và chưa có hệ thống làm cho mảng pháp luật điều chỉnh hoạt động này
chưa được nhận diện và phát triển đồng bộ trong hành lang pháp lý cho thị trường tài
chính. Nhà nước hiện nay chưa có những hoạch định cụ thể mang tầm chiến lược để
phát triển một cách bày bản, đồng bộ và hiệu quả cho thị trường chứng khoán. Nhiều
văn bản pháp luật được đưa ra chưa phù hợp với tình hình thực tế và còn nhiều bất
cập. Bản thân các văn bản pháp lý điều hành cũng trong quá trình điều chỉnh.
2.2. Các hoạt động của dịch vụ Ngân hàng đầu tư tại Việt Nam
Với thị trường tài chính ở Việt Nam, NHĐT là một khái niệm khá mới, tuy nhiên
với tiềm năng và sự phát triển mạnh mẽ của TTCK trong những năm gần đây, đặc biệt
bùng nổ vào năm 2007 (tổng giá trị vốn hóa thị trường đạt gần 500.000 tỉ đồng, hơn
43% GDP của cả năm 2007, đem lại số vốn ấn tượng mà doanh nghiệp huy động thêm

trong năm 2007 hơn 90.000 tỉ đồng, gấp ba lần so với năm 2006). Một số CTCK lớn
đã bước đầu trang bị thêm dịch vụ NHĐT bên cạnh một số dịch vụ truyền thống như
dịch vụ quản lý chứng khoán, dịch vụ quản lý quỹ. NHĐT là hướng đi của các công ty
chứng khoán hàng đầu Việt Nam như: Công ty CP chứng khoán Sài Gòn (SSI), Công
ty TNHH chứng khoán Vietcombank (VCBS), công ty chứng khoán ngân hàng Sài
Gòn Thương Tín (Sacombank–SBS), công ty chứng khoán ngân hàng Á Châu
(ACBS), Công ty TNHH chứng khoán NH Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BSC),…
Việc lựa chọn để trở thành NHĐT là một điều dễ hiểu bởi đó là xu hướng tất yếu của
quy luật phát triển trên TTCK.
2.2.1. Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn (SSI)
Kể từ khi thành lập ngày 30/12/1999 đến nay, SSI đã trở thành tổ chức tài chính
hàng đầu trong việc xây dựng mô hình kinh doanh bền chặt và hiệu quả bao gồm các
nghiệp vụ: dịch vụ chứng khoán, quản lý quỹ, kinh doanh tài chính và đặc biệt phải kể
đến sự góp sức rất lớn từ dịch vụ NHĐT. Được thành lập vào 09/2008, dịch vụ NHĐT
với sứ mệnh gắn kết vốn với các cơ hội đầu tư, với khả năng cung cấp một hệ thống
phong phú, hoàn chỉnh các dịch vụ để phục vụ mạng lưới khách hàng rộng khắp, bao
gồm các công ty, cơ quan Nhà nước, tổ chức tín dụng và đông đảo các cá nhân. Năm
Nhóm: 05 – GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

Trang 6


2012 và 2013, SSI liên tiếp được vinh danh là NHĐT tốt nhất Việt Nam do The Asset
trao tặng, khẳng định uy tín trong lĩnh vực dịch vụ NHĐT tại Việt Nam. Với thế mạnh
là một công ty chứng khoán có đối tác chiến lược nước ngoài, đội ngũ nhân sự nhiệt
huyết, nhạy bén ứng dụng tiêu chuẩn quốc tế nhằm cung cấp tư vấn tài chính đa dạng,
ưu việt và phù hợp với từng phân khúc khách hàng, tiêu biểu là:
- Dịch vụ thị trường vốn: tư vấn cổ phần hoá, tư vấn phát hành cổ phiếu, bảo lãnh
phát hành cổ phiếu, tư vấn niêm yết cổ phiếu. Trong năm 2013, SSI đã huy động thành
công gần 2.000 tỷ VND cho Công ty CP Hoàng Anh Gia Lai và các doanh nghiệp nỗi

bật khác như: Công ty CP Xuyên Thái Bình, Công ty CP Thực phẩm Quốc tế, Công ty
CP Kỹ nghệ lạnh… SSI cũng đã triển khai tư vấn cổ phần hóa cho 3 doanh nghiệp nhà
nước có quy mô lớn với vị thế dẫn đầu trong ngành là Tổng công ty Xây dựng Hà Nội,
Tổng công ty Viglacera, Tổng công ty Đầu tư Nước và Môi trường Việt Nam.
- Dịch vụ thị trường nợ: tư vấn phát hành trái phiếu và công cụ nợ, phát hành và bảo
lãnh phát hành trái phiếu, tư vấn niêm yết trái phiếu. SSI đã huy động thành công 840
tỷ VND cho Công ty CP Prime Group bằng việc phát hành trái phiếu chuyển đổi…
- Tái cấu trúc doanh nghiệp: rà soát mô hình hoạt động, cơ cấu tài chính, cơ cấu tài
sản, cơ cấu nợ, dòng tiền,... đưa ra các sản phẩm, cấu trúc tài chính phù hợp với đặc
thù ngành nghề và năng lực tài chính của từng doanh nghiệp. Nổi bật là tái cơ cấu
công ty, chia tách tài sản của Công ty CP Hoàng Anh Gia Lai với Công ty CP An Phú.
- Định giá doanh nghiệp: cung cấp dịch vụ khảo sát và định giá doanh nghiệp độc
lập để có được những thông tin về bức tranh hiện tại và viễn cảnh tương lai của doanh
nghiệp một cách minh bạch.
- Nghiệp vụ mua bán và sáp nhập: giúp khách hàng là các công ty, doanh nghiệp tư
nhân, nhà nước và các tổ chức định chế tài chính tìm kiếm cơ hội đầu tư mua, bán, trợ
giúp làm khảo sát, định giá tài sản, làm thủ tục... SSI đã thực hiện thành công việc mua
lại Công ty CP Bê Tông và Xây Dựng Vinaconex Xuân Mai thuộc Tổng Công ty CP
Xuất Nhập Khẩu và Xây Dựng Việt Nam hoặc Công ty CP Hùng Vương mua lại đồng
loạt Công ty CP XNK thủy sản An Giang, Công ty CP Thực phẩm Sao Ta, Công ty CP
Thức ăn chăn nuôi Việt Thắng…
- Nghiệp vụ Private Equity (góp vốn tư nhân) bao gồm một số dịch vụ như: venture
capital (đầu tư mạo hiểm), growth capital (vốn phát triển), leverage buyouts (mua lại
bằng vốn vay nợ) và cung cấp những dịch vụ tư vấn trước và sau thương vụ, nhằm
đảm bảo thành công cho khách hàng.
- Các nghiệp vụ phái sinh: SSI sẽ tư vấn thiết kế và cung cấp các sản phẩm chứng
khoán cơ cấu hoá và các công cụ quản trị rủi ro tài chính.

Nhóm: 05 – GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông


Trang 7


- Các dịch vụ theo ngành: nhằm phục vụ một mạng lưới khách hàng trải rộng trong
tất cả các ngành kinh tế trọng điểm (tài chính và ngân hàng, vật liệu cơ bản, xây lắp và
bất động sản, dầu khí, viễn thông, vận tải và kho bãi, thương mại và dịch vụ…)
2.2.2. Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng TMCP Ngoại Thương
Việt Nam (VCBS)
VCBS ra đời năm 2002, là một trong những công ty đầu tiên tham gia trên TTCK
Việt Nam. Không chỉ tạo dựng thương hiệu và uy tín trên thị trường Việt Nam, VCBS
luôn nỗ lực vươn tới tầm cao trở thành NHĐT chuyên nghiệp trên phạm vi hoạt động
quốc tế, mang lại cho khách hàng những “giải pháp tài chính” hiệu quả và phù hợp. Để
đối đầu với những thách thức căm go trong hoạt động kinh doanh, VCBS đã thiết kế
các gói tư vấn lý tưởng nhằm tối ưu danh mục đầu tư của khách hàng bao gồm:
- Tư vấn huy động vốn: ngoài tư vấn, phát hành, bảo lãnh phát hành và niêm yết
tạo thêm kênh huy động vốn, VCBS cung cấp thêm dịch vụ đại lý phát hành, tạo sự đa
dạng cho khách hàng chọn lựa dịch vụ phù hợp, các thương vụ điển hình như: đồng tư
vấn và đại lý phát hành thành công 5.000 tỷ đồng trái phiếu cho Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin), tư vấn và bảo lãnh phát hành thành công 1.000 tỷ
trái phiếu Công ty CP Hạ tầng kỹ thuật TP.HCM, tư vấn niêm yết các đơn vị trực thuộc
Petrolimex: Vipco, Pjico, Pjitaco...
- Tư vấn mua bán và sáp nhập (M&A): cũng giống như SSI, dịch vụ NHĐT tại
VCBS thực hiện vai trò là cầu nối xúc tác cho tiến trình thực hiện M&A doanh nghiệp
thông qua những đánh giá, phân tích, định ra mức giá hợp lý và phương thức phù hợp
với tình hình của doanh nghiệp. Các thương vụ tiêu biểu như: tư vấn thành công hợp
đồng sáp nhập (M&A): công ty CP Sông Đà 9 và công ty CP Sông Đà 91, công ty CP
Someco Sông Đà và công ty CP Someco Hòa Bình.
- Tư vấn chuyển đổi và tái cấu trúc doanh nghiệp: hỗ trợ doanh nghiệp trong việc
cung cấp các sản phẩm dịch vụ chuyển đổi như: tư vấn cổ phần hóa cho các công ty:
Đường bộ Daklak, Hầm đường bộ Hải Vân, Công ty 829 và một số công ty con thuộc
Tổng công ty Giấy Việt Nam

- Để đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng, VCBS còn cung cấp nhiều sản phẩm
đa dạng khác trong năm 2013 như: hỗ trợ và tư vấn cho các công ty đại chúng công bố
thông tin, quan hệ công chúng, cải thiện hình ảnh trong cộng đồng nhà đầu tư với các
hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp như: Công ty CP Tập đoàn Hà Đô, Công ty CP Cảng
Logistic Đà Nẵng, Công ty CP Dược Danapha.
- Tư vấn khác: tư vấn đăng ký công ty đại chúng, đánh giá hiệu quả tài chính của
dự án, tư vấn đại hội đồng cổ đông, tư vấn tìm kiếm đối tác chiến lược…
2.2.3. Các Ngân hàng đầu tư Quốc tế tại Việt Nam.

Nhóm: 05 – GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

Trang 8


Tự do hóa tài chính là một xu hướng đã và đang phát triển mạnh trong thời gian
gần đây. Quá trình này là động lực thúc đẩy các dòng vốn đầu tư luân chuyển giữa các
quốc gia. Tại Việt Nam cùng với lộ trình cam kết WTO, việc gia nhập vào một sân
chơi mới với nhiều quy tắc chặt chẽ, khiến chúng ta phải đứng trước nhiều thách thức
bên cạnh những cơ hội hấp dẫn. Tính đến tháng 10/2012, hệ thống các NHTM Việt
Nam có 39 NHTM CP, 01 NHTM Nhà nước, 54 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 05
ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 05 ngân hàng liên doanh. Chính sự phát triển nhanh
về mặt số lượng của NHĐT quốc tế đã thúc đẩy thị trường tài chính hoạt động sôi nổi,
khốc liệt và minh bạch hơn.
Sau khi gia nhập WTO, hàng loạt các NHĐT quốc tế không chỉ có mặt tại Việt
Nam mà còn nhanh chóng góp vốn vào các công ty tài chính - chứng khoán ở Việt
Nam như: Morgan Stanley (Mỹ) góp vốn vào công ty Tài chính Dầu khí (PVFC),
Ngân hàng ANZ (Úc) và Daiwa Securities (Nhật) góp vốn vào CTCK Sài gòn (SSI),
Vina Capital góp vào CTCK Vina Securities, Indochina Capital góp vốn vào CTCK
Mekong, Tập đoàn HSBC góp vốn vào Tập đoàn Bảo Việt, ngân hàng Mizuho (Nhật)
góp vốn vào ngân hàng Ngoại thương Việt Nam… Với các dịch vụ tư vấn toàn diện về

tài chính và huy động vốn cho các Tập đoàn, tổ chức tài chính và Chính phủ. NHĐT
quốc tế cung cấp các giải pháp tài chính phù hợp và các dịch vụ tư vấn chiến lược về
các thương vụ M&A, thoái vốn, tái cơ cấu tài chính, bảo lãnh phát hành và phân phối
vốn chủ sở hữu, các khoản nợ và chứng khoán phái sinh. Không những vậy, trong thời
gian ngắn nhưng các NHĐT quốc tế đã thực hiện thành công rất nhiều giao dịch lớn
như: Ngân hàng đầu tư Credit Suisse phát hành trái phiếu cho chính phủ bằng USD
tổng giá trị là 750 triệu USD (2005), Deutsche Bank bảo lãnh phát hành trái phiếu
VND kỳ hạn 10 năm cho Vinashin và BIDV (2007), ANZ đồng bảo lãnh phát hành cho
Tập đoàn điện lực Việt Nam (2009), đồng phát hành trái phiếu VND cho Tập đoàn
Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (2012) và phát hành trái phiếu kèm chứng
quyền cho Tập đoàn FPT, HSBC đồng phát hành trái phiếu quốc tế của Vietinbak
(2012)… Natexis Banques thu xếp vốn vay cho Tổng công ty Xây dựng Sông Đà,
Credit Suisse thu xếp vốn vay cho Vinashin 600 triệu USD (2007)... Tư vấn cổ phần
hóa như: Credit Suisse tư vấn cho Tập đoàn Bảo hiểm Việt Nam, Vietcombak (2007)
và Mobifone (2008), Deutsche Bank tư vấn cho ngân hàng Đồng bằng sông Mê-kong
(2007), Morgan Stanley tư vấn cho BIDV, Pacihic Airlines, Jesta (2007)…
Các NHĐT quốc tế ngày nay đang hướng đến mô hình ngân hàng đa năng và Việt
Nam là một thị trường tiềm năng. Qua đó sẽ giúp các NHĐT trong nước có nhiều cơ
hội hợp tác, học hỏi kỹ năng, kinh nghiệm, đồng thời không ngừng nổ lực hoàn thiện
chất lượng dịch vụ.

Nhóm: 05 – GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

Trang 9


3. VIỄN CẢNH PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ
CÁC VẤN ĐỀ ĐẶT RA TẠI VIỆT NAM
3.1. Tiềm năng của NHĐT tại Việt Nam
3.1.1. Thị trường vốn ở Việt Nam

Việt Nam là một quốc gia đang trên đà phát triển, thị trường vốn còn trong giai
đoạn sơ khai song đã có sự phát triển khá nhanh về quy mô lẫn chất lượng trong những
năm gần đây. Sau khi ra đời từ năm 2000, trải qua nhiều biến động lớn, đặc biệt là suy
giảm do tác động khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008, thị trường chứng khoán Việt
Nam đã có dấu hiệu tăng trưởng ổn định trở lại. Thị trường chứng khoán năm 2013
tăng trưởng tốt nhất từ năm 2010 cho đến nay. Cuối năm 2013, chỉ số VNIndex đóng
cửa ở mức 504,63 điểm (tăng 22%) trong khi HNXIndex đạt 67,84 điểm, tăng 19% so
với năm 2012.
Quy mô vốn hóa thị trường đạt 949 ngàn tỷ đồng (chiếm 30% GDP), tăng 23,7%
so với năm 2012 và tăng 412% so với cuối năm 2008. Số lượng công ty niêm yết trên
toàn thị trường là 644 công ty, trong đó 304 công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng
khoán TP.HCM, chủ yếu là các công ty lớn, chiếm 89% lượng vốn hóa toàn thị trường
so với 340 công ty trên sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội.
Mức huy động vốn qua kênh đấu thầu trái phiếu Chính phủ năm 2013 đạt 194.800
tỷ đồng, tăng 10% so với năm trước và đạt mức tăng trưởng cao nhất khu vực. Huy
động vốn qua cổ phiếu và cổ phần hóa là 17,5 nghìn tỷ đồng, tăng 5% so với năm
2012. Thực tế cho thấy quá trình cổ phần hóa ở Việt Nam đã và đang diễn ra một cách
chậm chạp ngay cả khi nền kinh tế ở vào thời điểm thuận lợi. Nguyên nhân là do
khung pháp lý về cổ phần hóa, thông lệ thị trường không phù hợp với thực tiễn và các
mâu thuẫn lợi ích khác.
Theo thống kê của Ủy ban chứng khoán nhà nước (SSC) đến năm 2013, có 94
công ty chứng khoán, 41 công ty quản lý quỹ, 382 quỹ đầu tư nước ngoài và 8 ngân
hàng lưu ký trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Số lượng công ty chứng khoán và
tài khoản của các nhà đầu tư ở Việt Nam đã tăng theo từng năm với tốc độ nhanh
chóng. Số lượng tài khoản đầu tư chứng khoán đạt 1,3 triệu tài khoản, tăng 40 nghìn
tài khoản so với năm 2012 và tăng gần 1 triệu tài khoản so với năm 2007. Mặc dù mức
tăng giảm so với các năm trước nhưng số tài khoản Nhà đầu tư nước ngoài tăng 56%
so với cùng kỳ, đạt 676 tài khoản trong đó hơn 1/3 là tài khoản của tổ chức nước
ngoài. Sự giảm sút số tài khoản mở mới của nhà đầu tư trong nước chủ yếu do quá
trình cơ cấu trong nội bộ ngành chứng khoán: 3 công ty chứng khoán đóng cửa và 15

công ty chứng khoán bị UBCKNN rút giấy phép. Các công ty còn lại có xu hướng
củng cố hệ thống và tập trung phát triển các tài khoản hiện hữu hơn là chạy theo số
lượng mở mới. Mặc dù thông tin Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED) sớm cắt giảm gói
Nhóm: 05 – GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

Trang 10


cứu trợ QE3 vào giữa năm, khiến dòng vốn có xu hướng thoái khỏi các thị trường mới
nổi như Thái Lan, Indonexia… nhưng Việt Nam vẫn là một trong số ít có dòng vốn
ngoại dương và tăng trưởng dù quy mô còn khá khiêm tốn. Dòng vốn ngoại mua ròng
trên thị trường chứng khoán đạt 7.667 tỷ đồng cổ phiếu, tăng 53,1% so với năm 2012
và 10.500 tỷ đồng trái phiếu. Đây cũng là năm thứ 3 liên tiếp dòng vốn ngoại tăng
trưởng, cho thấy sự quan tâm của các Nhà đầu tư nước ngoài với thị trường Việt nam
đang gia tăng trở lại.
Hoạt động M&A của các doanh nghiệp Việt Nam đã tăng gấp 5 lần kể từ năm
2009, từ 1,08 tỷ USD lên mức kỷ lục 5,1 tỷ USD trong năm 2012 và khoảng 3,6 tỷ
USD trong năm 2013. Nhiều thương vụ M&A quy mô lớn được thực hiện như là một
kênh đầu tư quan trọng của giới đầu tư Việt Nam trên nhiều lĩnh vực: chuyển nhượng
Trung tâm thương mại- khách sạn Vincom Center A giá trị 470 triệu USD từ Công ty
Cổ phần Tập đoàn Vingroup cho CTCP Tập đoàn Phát triển hạ tầng và Bất động sản
Việt Nam (VIPD); CTCP Hùng Vương (sàn HOSE) đã bán 30 triệu cổ phiếu cho một
đối tác Singapore với tổng giá trị 900 tỷ đồng, ngân hàng Tokyo- UFJ Mitsubishi của
Nhật Bản-tập đoàn tài chính đứng thứ 3 thế giới đã hoàn tất thương vụ mua 20% cổ
phần của Vietinbank với tổng giá trị 743 triệu USD…
Mặc dù ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế cũng như các khó khăn
của nền kinh tế vĩ mô trong nước, thị trường vốn Việt Nam vẫn hứa hẹn nhiều tiềm
năng phát triển trong tương lai.
3.1.2. Tình hình đầu tư, nhu cầu
Nhu cầu vốn: tại Việt Nam, mô hình NHĐT còn khá lạ lẫm, vì đa phần các doanh

nghiệp Việt Nam chưa sẵn sàng huy động vốn từ các thị trường quốc tế do chưa đáp
ứng được các tiêu chuẩn quốc tế về quản trị doanh nghiệp, chẳng hạn như tính minh
bạch và rõ ràng. Bên cạnh đó, những năm trước đây thị trường vốn nội địa có tính
thanh khoản cao, doanh nghiệp không cần phải tìm đến nguồn vốn nước ngoài, nên
cũng không cần sự trợ giúp của NHĐT. Nhưng với sự tụt dốc của thị trường chứng
khoán kể từ năm 2007 và tăng trưởng tín dụng giảm, nhiều chuyên gia tài chính cho
rằng, nguồn vốn quốc tế ngày càng trở nên quan trọng. Và NHĐT, với vai trò là định
chế tài chính trung gian, sẽ có nhiều cơ hội phát triển hơn. Một trong những chiến lược
chuẩn bị cho cuộc cạnh tranh khu vực là hợp tác với các đối tác chiến lược quốc tế,
những người có khả năng chia sẻ kinh nghiệm chuyên môn, các sản phẩm và cả thị
trường của họ. Đây chính là điểm mấu chốt để trả lời cho câu hỏi vì sao NHĐT lại trở
nên quan trọng thời gian tới, bởi NHĐT sẽ giúp doanh nghiệp xác định được đối tác
chiến lược quốc tế và đưa cả hai đến với nhau.
Nhu cầu đầu tư, tái cấu trúc doanh nghiệp: một trong những hoạt động của ngân
hàng là nhận tiền gửi và trả lãi cố định cho khách hàng. Tuy nhiên không phải khách
Nhóm: 05 – GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

Trang 11


hàng nào cũng dừng lại ở mức nhận lãi suất là đủ. Nhiều khách hàng có số tiền nhàn
rỗi lớn có tâm lý sẵn sàng chấp nhận rủi ro để hưởng mức lợi tức cao hơn nhưng họ
không có đủ thời gian, kiến thức, kinh nghiệm cũng như mối quan hệ để có thể trực
tiếp đầu tư sinh lợi. Với sự tư vấn của các chuyên gia đầu tư của ngân hàng, khoản tiền
gửi sẽ được đầu tư hợp lý vào các danh mục chứng khoán, bảo hiểm hay đầu tư vào
hàng hóa, tiền tê, đầu tư vào dự án…
Cũng như vậy với các tổ chức, doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp không
có chuyên môn về đầu tư hay muốn mở rộng đầu tư sang các ngành nghề khác, các
chuyên gia tư vấn của ngân hàng, là người có kiến thức hiểu biết sâu rộng về lĩnh vực
đó sẽ là trung gian tốt nhất để tìm đầu ra cho nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp. Theo

chỉ đạo Chính phủ các tập đoàn, tổng công ty phải thoái vốn đầu tư dàn trải ra ngoài
ngành, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính trước năm 2015. Một số NHTM cũng tập
trung rút lại những khoản ủy thác đầu tư hoặc trái phiếu doanh nghiệp không chỉ vì hai
nghiệp vụ này phải được tính vào tăng trưởng tín dụng và trích lập dự phòng rủi ro, mà
còn vì nó cũng liên quan đến mảng NHĐT. Điều này ngoài tạo cơ hội cho các sản
phẩm tư vấn đầu tư chuyên nghiệp bài bản còn mở ra các cơ hội lớn cho dịch vụ tư vấn
tái cấu trúc, M&A của lĩnh vực NHĐT.
3.2. Viễn cảnh phát triển NHĐT tại Việt Nam
Trên thế giới từ năm 2007 đến nay, nhiều nước cũng quay về với mô hình truyền
thống NHTM bán lẻ, như một dịch vụ nền tảng, phát triển theo chuyển động công
nghệ. Tuy vậy NHĐT vẫn là mảng quan trọng của các tập đoàn tài chính quốc tế, dù
dưới dạng ngân hàng đa năng hay đầu tư riêng biệt. NHĐT không bị xem như là tội đồ
gây nên khủng hoảng tài chính mà được cấu trúc lại theo hướng kiểm soát chặt chẽ
hơn. Không ít NHĐT từng tồn tại độc lập, nay lại sáp nhập với ngân hàng bán lẻ. Và ở
Việt Nam mô hình NHĐT dường như đang là xu hướng phát triển trong tương lai của
các định chế tài chính.
Nền kinh tế Việt Nam có xuất phát điểm khá thấp so với thế giới, thị trường chứng
khoán ra đời đã tròn 10 năm song chỉ mới thực sự phát triển mạnh trong những năm
gần đây. NHĐT là một khái niệm khá mới mẻ tại Việt Nam, song đã xuất hiện một số
Công ty chứng khoán và Công ty quản lý quỹ với các hoạt động theo hướng các
nghiệp vụ của NHĐT và một số NHTM lớn cũng đang trong quá trình chuyển đổi sang
mô hình tập đoàn tài chính hay ngân hàng tổng hợp, trong đó có chú trọng đẩy mạnh
phát triển mảng NHĐT. Cụ thể như một số công ty đầu ngành chứng khoán, tiêu biểu
là CTCK Sài Gòn (SSI) cũng đã đưa ra chiến lược phát triển theo mô hình NHĐT, các
ngân hàng quốc doanh lớn sau cổ phần hóa như Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam,
Ngân hàng Công thương Việt Nam cũng định hướng phát triển mạnh mảng hoạt động
NHĐT để hình thành mô hình ngân hàng tổng hợp.
Nhóm: 05 – GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

Trang 12



Tuy nhiên, các nghiệp vụ tư vấn NHĐT tại Việt Nam mới tồn tại ở dạng rất sơ khai
và chưa hình thành một mô hình NHĐT độc lập với đầy đủ chức năng vốn có của nó.
Với những tiềm năng của ngành NHĐT Việt Nam thì định chế tài chính này sẽ được
phát triển theo ba con đường như sau:
- Thứ nhất, thành lập các NHĐT “thuần” tại Việt Nam. Các công ty tài chính
trong nước có xu hướng thực hiện các nghiệp vụ “thuần” về NHĐT sẽ chủ động liên
kết với các NHĐT quốc tế để học hỏi kinh nghiệm. Ở Việt Nam điển hình là Vietnam
Capital Partners (VCP). Mặc dù hoạt động này chỉ mới ở bước đầu nhưng hiệu quả
kinh tế mang lại khá cao.
- Thứ hai, các NHĐT quốc tế sẽ thành lập các công ty con hoặc chi nhánh tại thị
trường Việt Nam. NHĐT quốc tế đặt văn phòng đại diện tại Việt Nam và lập liên
doanh để thực hiện những nghiệp vụ NHĐT khác nhau, như trường hợp Vietnam
Partners LLC (VPL). Hiện nay, đa phần các ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt
Nam như HSBC, ANZ, Citibank, Standard Chartered Bank, Shinhan Bank, Hong
Leong Bank Berhad đều cung cấp dịch vụ NHĐT. Ngoài ra, hầu hết các tên tuổi lớn
trong ngành NHĐT như Credit Suisse, Goldman Sachs, Morgan Stanley, J.P. Morgan,
Normura Securities và Daiwa Securities đều đã xuất hiện và xúc tiến thâm nhập vào
thị trường Việt Nam.
- Thứ ba, các công ty chứng khoán thành lập thêm NHĐT. Các công ty chứng
khoán hàng đầu Việt Nam đang có xu hướng cải thiện hoạt động để chuyển đổi thành
mô hình NHĐT như SSI, công ty chứng khoán ngân hàng Á Châu (ACBS), công ty
chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HSC), tuy nhiên doanh thu từ dịch vụ của
NHĐT đem lại là chưa đáng kể, và các CTCK chủ yếu vẫn sống nhờ hoạt động môi
giới và tự doanh.
Đối với 2 con đường đầu tiên xây dựng mô hình NHĐT “thuần” về nghiệp vụ
NHĐT thì hình thức triển khai phù hợp nhất ở Việt Nam là mô hình NHĐT nhỏ,
hướng đến phân khúc các hợp đồng có giá trị không quá cao, dưới 100 triệu USD sẽ
phù hợp với nhu cầu của các doanh nghiệp nhỏ và tránh được sự cạnh tranh từ các

NHĐT lớn. Với con đường thứ ba là chuyển đổi công ty chứng khoán thành NHĐT
hay công ty chứng khoán triển khai thêm những nghiệp vụ NHĐT riêng biệt sẽ tiếp tục
là đích đến của nhiều công ty chứng khoán. Hiện tại, hầu hết các công ty chứng khoán
đều tập trung vào hoạt động bán lẻ với rất nhiều đối thủ cạnh tranh, cộng với sự bấp
bênh về lợi nhuận trong mảng tự doanh. Vì thế, sắp tới, các công ty chứng khoán sẽ
phải dốc sức tìm kiếm những nguồn lợi nhuận mới từ hoạt động NHĐT như tư vấn đầu
tư tài chính và chiến lược, tư vấn cổ phần hóa, bảo lãnh phát hành, tái cấu trúc, M&A.
Tuy nhiên, chất lượng chứ không phải số lượng sẽ quyết định thành công của các công
ty chứng khoán theo đuổi mô hình này, chỉ có những công ty chứng khoán có tiềm lực
Nhóm: 05 – GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

Trang 13


tài chính mạnh, hạ tầng kỹ thuật và đội ngũ nhân viên tư vấn chất lượng cao mới có
thể tham gia và tồn tại được trong lĩnh vực NHĐT.
3.3. Các vấn đề đặt ra
3.3.1. Chất lượng nhân sự.
Năng lực cung cấp dịch vụ NHĐT phụ thuộc nhiều vào năng lực của đội ngũ tư
vấn (banker) và mạng lưới quan hệ với các nhà đầu tư. NHĐT là dịch vụ mua bán vốn
nên banker phải hiểu rõ về doanh nghiệp, ngành kinh doanh của khách hàng và cả đối
tác, để thiết kế những giải pháp tốt nhất. Họ cũng phải có khả năng trình bày, đàm
phán về những vấn đề đa dạng, không chỉ về kinh tế, tài chính mà cả pháp lý, không
chỉ trong hiện tại mà liên quan rất nhiều đến tương lai và phải có hiểu biết sâu sắc về
tình hình thị trường vốn. Và chất lượng banker Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu
hiện nay của thị trường. Phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa sẵn sàng trả phí
hoặc trả phí chưa thoả đáng cho dịch vụ NHĐT trong khi một số doanh nghiệp lớn của
nhà nước có nhu cầu sử dụng dịch vụ NHĐT thì đa phần loại banker Việt Nam ngay từ
khâu chọn thầu. Nguyên nhân vì họ cho rằng banker Việt Nam chưa đủ năng lực để
gánh vác nhiệm vụ mà họ giao. Một số dịch vụ đấu giá cổ phần lần đầu (IPO) hoặc

niêm yết cổ phiếu cho các doanh nghiệp, chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước, trong thời
gian qua thực chất chỉ là thực hiện các thủ tục hành chính và pháp lý với mức phí rất
nhỏ, chứ không phải là dịch vụ IPO theo đúng đặc trưng trên thị trường vốn.
3.3.2. Rủi ro.
Mô hình kinh doanh NHĐT còn phải đối mặt với rất nhiều rủi ro. Lợi nhuận của
NHĐT thông thường đến từ 3 hoạt động: (1) phí từ huy động vốn và M&A cho khách
hàng; (2) phí môi giới mua và bán cổ phiếu, dự án, doanh nghiệp; (3) lợi nhuận từ hoạt
động đầu tư. Hầu hết lợi nhuận của các NHĐT nhỏ chỉ đến từ các hoạt động thuộc
nhóm 1, nhưng các NHĐT lớn thì tạo lợi nhuận trên cả 3 hoạt động. Theo đánh giá của
các chuyên gia NHĐT, phần lớn rủi ro thường đến từ hoạt động thứ 3 do nó phụ thuộc
rất nhiều vào biến động thị trường. Do đó vấn đề quản trị rủi ro trong đầu tư phải được
đạt lên hàng đầu trong mô hình NHĐT ở Việt Nam.
Tuy nhiên, còn có một rủi ro rất lớn mà các NHĐT có thể phải đối mặt và được
xem là bài học xương máu cho tất cả những nhà kinh doanh NHĐT, đặc biệt là NHĐT
thuần là rủi ro mất thanh khoản khi sử dụng đòn bẩy tài chính quá nhiều. Giả sử
NHĐT A, cùng mô hình với Lehman Brothers (NHĐT đã phá sản năm 2008), có vốn
chủ sở hữu là 1 và vốn vay từ ngân hàng, phát hành trái phiếu là 33; tỷ lệ đòn bẩy của
A sẽ là 3300%. Giả sử khi giá cổ phiếu của A giảm 50% (do tác động bất lợi của thị
trường) thì phần tài sản chỉ còn 17, trong khi vốn vay quá lớn (33) đến hạn phải trả thì
NHĐT có thể mắc phải 2 rủi ro lớn. Rủi ro đầu tiên là NHĐT này không tạo được lợi
nhuận kế toán để trả nợ. Rủi ro thứ hai lớn hơn nhiều là A không có tiền mặt (hay
Nhóm: 05 – GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

Trang 14


vàng, kim cương, trái phiếu chính phủ, tài sản có thể chuyển đổi nhanh thành tiền mặt)
và cũng không thể huy động tiền mặt ngắn hạn (do không phải là NHTM), dẫn đến
việc A có thể sụp đổ ngay lập tức. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia NHĐT cho rằng, mô
hình NHĐT Việt Nam sẽ khó lâm vào tình cảnh phá sản như các NHĐT độc lập tại

Mỹ. Vì nhiều NHĐT tại Việt Nam, dù được xem là “pháp nhân độc lập”, nhưng vẫn
phải có một định chế tài chính “chống lưng” về mặt thanh khoản. Ngoài ra với quy mô
nhỏ và tính thanh khoản thấp của thị trường vốn Việt Nam hiện nay, nguy cơ từ việc
mất thanh khoản dẫn đến phá sản sẽ không cao như các thị trường phát triển như Mỹ.
3.3.3. Hoạt động định mức tín nhiệm.
Công ty định mức tín nhiệm trong môi trường hoạt động của NHĐT được xem
như trọng tài, những người cầm cân nẩy mực, bởi thông thường các nhà đầu tư sẽ nhìn
vào báo cáo đánh giá, xếp hạng của tổ chức định mức tín nhiệm về NHĐT, về doanh
nghiệp, về các sản phẩm tài chính… để đưa ra quyết định đầu tư phù hợp. Việc đảm
bảo sự minh bạch giữa NHĐT và công ty định mức tín nhiệm là một điều không hề dễ
dàng, hay nói cách khác khó phát hiện ra các NHĐT có liên kết với các công ty định
mức tín nhiệm để che giấu sự thật hay không. Để làm được việc này một lần nữa phải
nhờ đến sự giám sát của nhà nước. Cần đưa ra những quyết định nhằm hạn chế vai trò
của các tổ chức định mức tín nhiệm trong các nghiệp vụ mang tính chất quan trọng.
Ngoài ra, để hạn chế mâu thuẫn lợi ích, tổ chức định mức tín nhiệm không được phép
tham gia đồng thời dịch vụ cơ cấu sản phẩm và định mức tín nhiệm cho chính sản
phẩm mà họ cơ cấu. Ở Việt Nam đến đầu năm 2014, vẫn chưa có khuôn khổ pháp lý
về hoạt động định mức tín nhiệm và chưa biết đến bao giờ mô hình công ty định mức
tín nhiệm bắt đầu được triển khai.
3.3.4. Khung pháp lý và Giám sát cơ chế hoạt động.
Theo xu hướng sắp tới, Ủy ban chứng khoán Việt Nam là cơ quan quản lý cao nhất
của các NHĐT. Vì thế việc thiết lập một hệ thống giám sát chặt chẽ hoạt động của các
NHĐT là một điều cần thiết bởi xét cho cùng thì NHĐT là một công ty tài chính hoạt
động mang tính chất rủi ro cao, có tầm ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế. Cần phải thiết
lập một hệ thống giám sát theo chiều dọc, quy định những ràng buộc cụ thể về mức độ
rủi ro trong hoạt động như tỷ lệ vốn dự trữ, hệ số đòn bẩy tài chính, lĩnh vực hoạt động
và đặc biệt là việc chấp hành kỷ luật tài chính của các NHĐT. Tuy nhiên giám sát
không có nghĩa là nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt động của các NHĐT vì như
vậy sẽ hạn chế sự phát triển năng động vốn có của mô hình này. Để làm được việc này,
đòi hỏi UBCKNN phải chỉnh sửa hoặc ban hành những luật, chỉ thị cũng như các

hướng dẫn liên quan một cách cụ thể và rõ ràng hơn nữa.

Nhóm: 05 – GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

Trang 15


KẾT LUẬN
Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính năm 2008 đã làm kiệt quệ ngành ngân hàng
đầu tư và kéo theo sụp đổ của hàng loạt định chế tài chính lừng danh trên thế giới như
Lehman Brothers, Bear Stearns, Merrill Lynch... Các ngân hàng đầu tư độc lập còn lại
có xu hướng chuyển đổi sang mô hình cân bằng hơn là ngân hàng tổng hợp: vừa thực
hiện nghiệp vụ ngân hàng đầu tư vừa thực hiện nghiệp vụ ngân hàng thương mại và
tăng cường hơn nữa hoạt động quản trị rủi ro của mình. Khi bị thắt chặt ở các thị
trường phát triển, dòng vốn với tính lưu chuyển linh hoạt sẽ chảy sang các thị trường
tài chính khác để tìm lợi nhuận tối ưu, đặc biệt là các thị trường đang phát triển ở châu
Á. Việt Nam chính là 1 một thị trường tiêu biểu, mang những nét hấp dẫn của một thị
trường mới nổi: quy mô nhỏ, sơ khai, năng động, nhiều cơ hội “làm giàu” và sẽ là
mảnh đất màu mỡ cho các nghiệp vụ của ngân hàng đầu tư như: tư vấn, ủy thác, bảo
lãnh, môi giới, mua bán sát nhập... Những hoạt động này tuy đã manh nha xuất hiện
cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán trong thời gian qua nhưng còn mang
tính tự phát, nhỏ lẻ và thiếu chuyên nghiệp. Với nghiên cứu tổng quan về thực trạng,
xu hướng hoạt động của ngành ngân hàng đầu tư trên thế giới và khu vực, chúng tôi tin
rằng nhu cầu về các dịch vụ ngân hàng đầu tư ở Việt Nam là luôn luôn có và ngành
ngân hàng đầu tư Việt Nam với các tiềm năng có sẵn, với lợi thế bài học kinh nghiệm
từ các nước đi trước, sẽ tìm được con đường phát triển bền vững phù hợp, góp phần
vào sự phát triển của thị trường tài chính và nển kinh tế đất nước.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Cẩm nang ngân hàng đầu tư – Mạc Quang Huy – NXB Thống Kê – 2009
- Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997
- Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010.
- Thông tư 210/2012/TT-BTC hướng dẫn về thành lập và hoạt động CTCK
- Luận văn "Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh ngân hàng tại Ngân hàng thương
mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam" - Trần Hà Minh Thắng.
- Bài đọc “Những tín hiệu tích cực từ quy định mới về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong
hoạt động ngân hàng ở Việt Nam” – Huỳnh Thế Du
- Bộ tài chính: www.mof.gov.vn
- Ngân hàng nhà nước Việt Nam: www.sbv.gov.vn
- Ngân hàng thế giới: www.wb.org.com
- Thời báo kinh tế Việt Nam: www.vneconomy.com.vn
- Tổng cục thống kê Việt Nam: www.gso.gov.vn
- Trang thông tin thế giới: www.bbc.co.uk/vietnamese/business/2010
- Trang tài chính và cuộc sống:
- Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn: />- Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng Thương Mại VN: www.vcbs.com.vn
- Ngân hàng TNHH một thành viên HSBC (Việt Nam):
- Công ty Cổ phần Chứng khoán Ngân hàng Sacombank: www.sbsc.com.vn



×