Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

LUẬN VĂN NGHỀ LUẬT SƯ TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.49 KB, 34 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA LUẬT


ĐẠO ĐỨC NGHỀ LUẬT

Tên đề tài

NGHỀ LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2016


MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
Xã hội ngày càng phát triển, càng phát sinh thêm nhiều mối quan hệ giữa công
dân với công dân, giữa công dân với các cơ quan, tổ chức và giữa các cơ quan,
tổ chức với nhau. Những mối quan hệ này nhiều khi phát sinh mâu thuẫn, ảnh
hưởng đến quyền lợi của mỗi bên. Với tư cách và sự am hiểu pháp luật và kinh
nghiệm trong hoạt động pháp luật, luật sư là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của cá nhân, cơ quan tổ chức có hiệu quả nhất tại Tòa án. Thông qua hoạt
động tranh tụng, Luật sư góp phần giảm thiểu các vụ án oan sai, bảo vệ tốt nhất
quyền lợi của khách hàng trên cơ sở các quy định của pháp luật, qua đó vị thế
của luật sư trong xã hội cũng ngày càng được nâng cao. Thông qua hoạt động tư
vấn Luật sư tham gia tư vấn cho khách hàng để đảm bảo quyền lợi hợp pháp tốt
nhất cho khách hàng của mình: tư vấn hợp đồng, tư vấn cho các doanh nghiệp
hoặc thực hiện các dịch vụ pháp lý khác… Tất cả hoạt động đó của luật sư đã
góp phần tạo nên môi trường kinh doanh lành mạnh, thúc đẩy sự phát triển của


kinh tế – xã hội, hoạt động tư vấn của luật sư cũng góp phần tuyên truyền, phổ
biến kiến thức pháp luật khi khách hàng tìm đến luật sư, yêu cầu luật sư tư vấn
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Từ đó chúng ta thấy rằng, luật sư và
nghề luật sư đang ngày càng khẳng định vị trí và vai trò quan trọng trong đời
sống xã hội hiện nay,chính vì vậy chúng tôi chọn chủ đề này nhằm giới thiệu
những nét cơ bản về nghề luật sư tại Việt Nam, nhưng quy định pháp luật liên
quan để giúp người đọc hình dung được bức tranh tổng thể về nghề đặc biệt này.

3


Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGHỀ LUẬT SƯ Ở
VIỆT NAM
1.1. Khái niệm về nghề luật sư ở Việt Nam:
Như chúng ta đã biết, hiện nay quyền bào chữa và quyền được bảo về
quyền và lợi ích hợp pháp là một trong những quyền cơ bản của công dân; quyền
đó được thể hiện tại Khoản 4 Điều 31 và Khoản 7 Điều 103 Hiến pháp 2013.
Điều này thể hiện bản chất tốt đẹp và dân chủ của pháp luật Việt Nam, theo đó
công dân có thể tự bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc nhờ
người khác bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích của mình trước Tòa án. Từ đó, mà
nghề luật sư cũng hình thành nhằm đáp ứng nhu cầu được bào chữa, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cũng như nhu cầu được tư vấn pháp luật của công dân.
Vậy luật sư là gì? Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề
theo quy định của Luật Luật sư 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2012, thực hiện dịch
vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (gọi chung là khách hàng) 1.
Tiêu chuẩn trở thành luật sư như sau: là công dân Việt Nam trung thành với Tổ
quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân
luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có
sức khỏe bảo đảm hành nghề luật sư2.
Nghề luật sư ở Việt Nam trước hết là một nghề luật, trong đó các luật sư

bằng kiến thức pháp luật của mình, độc lập thực hiện các hoạt động trong phạm vi
hành nghề theo quy định của pháp luật và quy chế trách nhiệm nghề nghiệp,
nhằm mục đích phụng sự công lý, góp phần bảo về pháp chế và xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam3.
Nghề luật sư không giống như những nghề khác bởi vì ngoài những yêu
cấu về kiến thức và trình độ chuyên môn thì hành nghề luật sư phải tuân thủ theo
quy chế đạo đức nghề nghiệp. Đây là một nét đặc thù riêng của nghề luật luật sư
và nét đặc thù này tác động sâu sắc đến kỹ năng hành nghề đặc biệt là kỹ năng
tranh tụng của luật sư.

1 Điều 2 Luật Luật sư 2006
2 Điều 10 Luật Luật sư 2006
3 “Luật sư và hành nghề luật sư”, TS Nguyễn Văn Điệp, ThS Nguyễn Hữu Ước, 2011.

4


1.2. Lịch sử hình thành nghề luật sư ở Việt Nam:
Nghề luật sư phát triển cùng quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa của Đảng và nhà nước ta. Dưới sự lãng đạo của
Đảng, cùng trải qua những giai đoạn thăng trầm của đất nước, đội ngũ luật sư đã
không ngừng phát triển và giành được những thắng lợi vẻ vang, từng bước khẳng
định vị trí quan trọng của mình trong xã hội.
Lịch sử phát triển của nghề luật sư được ghi nhận qua các gia đoạn khác
nhau sau đây:
1.2.1. Trước cách mạng tháng Tám:
Trước khi Việt Nam bị thực dân Pháp xâm chiếm, việc xét xử ở nước ta do
vua quan phong kiến tiến hành, không có sự tham gia của luật sư. Chỉ sau khi
xâm lược Nam kỳ, ngày 26/11/1876 người Pháp ban hành Nghị định về việc biện
hộ cho người Pháp hoặc người Việt mang quốc tịch Pháp tại Tòa án Pháp. Sau khi

thiết lập bộ máy cai trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam, năm 1884, Toàn quyền Pháp
ký Sắc lệnh thành lập Luật sư Đoàn tại Sài Gòn và Hà Nội gồm các luật sư người
Pháp và người Việt Nam đã nhập quốc tích Pháp. Các luật sư chỉ biện hộ trước
Tòa án Pháp cho người Pháp hoặc người có quốc tịch Pháp.
Với Sắc lệnh ngày 30/1/1911, nhà cầm quyền Pháp đã mở rộng cho người
Việt Nam không có quốc tịch Pháp được làm luật sư.
Sắc lệnh cuối cùng của người Pháp về luật sư là Sắc lệnh ngày 25/5/1930
về tổ chức Luật sư đoàn ở Hà Nội, Sài Gòn và Đà Nẵng. Sắc lệnh này đã mở rộng
cho các luật sư không chỉ biện hộ ở tòa án Pháp mà cả trước Toà Nam án; không
chỉ bào chữa cho người có quốc tịch Pháp mà cả người không có quốc tịch Pháp.
1.2.2. Từ năm 1945 đến năm 1975:
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cộng
hòa Việt Nam ra đời. Ngày 10/10/1945 chủ tịch nước kí sắc lệnh số 46/SL về
đoàn luật sư. Pháp lệnh đã mở rộng cho các luật sư được bào chữa ở tất cả các tòa
án từ các tỉnh trở lên và các tòa án quân sự.
Nhưng đến ngày 19/12/1946, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng
nổ, các tầm lớp nhân dân đều nhất tề cầm vũ khí chống giặc Pháp xâm lược. Các
luật sư đều tham gia công tác tại các cơ quan quân, dân, chính, đảng. Số lượng
luật sư giảm sút nghiêm trọng.
Để khắc phục tình trạng trên, Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 quy định
chế định bào chữa viên cho các bị cáo tại các Tòa án. Sắc lệnh số 144/SL ngày
5


22/12/1949 mở rộng cho người không phải là luật sư cũng được bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các đương sự trong các vụ án dân sự.
1.2.3. Từ năm 1975 đến nay:
Sau chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng ngày 30/4/1975, đất nước ta
đã thống nhất. Hiến pháp năm 1980 và Hiến Pháp năm 1992 của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều quy định quyền bào chữa của bị cáo được bảo

đảm.
Trong bối cảnh đó, Pháp lệnh tổ chức luật sư đầu tiên được ban hành
ngày 18/12/1987. Đây là văn bản pháp luật có ý nghĩa lịch sử trong việc khôi
phục nghề luật sư và mở đầu cho quá trình phát triển nghề luật sư ở Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới. Sau gần 10 năm, hầu hết ở các tỉnh, thành phố đã thành lập
được đoàn luật sư, với đội ngũ luật sư lên tới hàng nghìn người. Hoạt động nghề
nghiệp luật sư cũng đã có bước phát triển đáng kể. Ngoài việc tham gia tố tụng,
các luật sư đã từng bước mở rộng hoạt động nghề nghiệp sang lĩnh vực tư vấn
pháp luật và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác.
1.2.4. Giai đoạn đổi mới đất nước:
Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước đã đề ra những chủ
trương, biện pháp cải cách mạnh mẽ về tổ chức, hoạt động của các hệ thống chính
trị, trong đó có việc đổi mới tổ chức hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp
nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền và thúc đẩy quá trình hội
nhập của đất nước.
Pháp lệnh luật sư năm 2001 đã được ban hành. Nội dung của Pháp lệnh thể
hiện quan điểm cải cách mạnh mẽ tổ chức và hoạt động luật sư theo hướng chính
quy hoá, chuyên nghiệp hoá đội ngũ luật sư, nghề luật sư, tăng cường vai trò tự
quản của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư, tạo cơ sở pháp lý cho quá trình
hội nhập quốc tế của nghề luật sư ở Việt Nam. Với nội dung tiến bộ, phù hợp với
yêu cầu khách quan, Pháp lệnh luật sư năm 2001 đã nhanh chóng đi vào cuộc
sống. Chỉ sau 5 năm thi hành Pháp lệnh, đội ngũ luật sư đã tăng đáng kể cả về số
lượng và chất lượng ví dụ như: thành lập trên 1.000 tổ chức hành nghề là các văn
phòng luật sư, các công ty luật hợp danh.
Hoạt động tư vấn pháp luật của luật sư cũng đã có bước phát triển đáng kể,
đặc biệt là tư vấn cho khách hàng trong các lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương
mại ngày càng nhiều và ngày càng nâng cao về chất lượng dịch vụ.

6



1.3. Tính chất nghề luật sư ở Việt Nam:
Từ khái niệm của nghề luật sư, ta có thể đưa ra nghề luật sư Việt Nam bao
gồm ba tính chất: trợ giúp, hướng dẫn và phản biện.
1.3.1. Tính chất trợ giúp:
Trong xã hội, sự chênh lệch giàu nghèo, kẻ mạnh kẻ yếu là không thể tránh
khỏi. Những người rơi vào vị thể thấp kém như người nghèo, người già cô đơn,
người chưa thành niên không có sự đùm bộc của gia đình. Những người này dễ bị
ức hiếp, đối xử bất công cần sự giúp đỡ của người khác. Luật sư bằng kiến thức,
đạo đức và lòng nhân ái của mình hoàn toàn có thể giúp đỡ họ một cách vô tư,
không vụ lợi.
Không những thế, họ còn trợ giúp cho người dân phần nào về hiểu biết
pháp luật. Từ đó, họ hạn chế hành vi của mình để không vi phạm pháp luật, nắm
được đâu là quyền lợi và đâu là nghĩa vụ của mình để không gây ra những hậu
quả đáng tiếc.
Tính chất trợ giúp của luật sư còn được thể hiện qua quá trình tranh tụng.
Luật sư là người bảo về quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân, tổ chức và nhà
nước trước tòa án. Mục đích không phải đơn thuần là mang tính chất dịch vụ và
chỉ nghĩ đến việc kiếm lời mà trước hết đó chính là nhằm đáp ứng nhu cầu chính
đáng của con người cần được sự trợ giúp về pháp lý.
1.3.2. Tính chất hướng dẫn:
Công dân Việt Nam sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật Việt
Nam. Nhưng không phải ai trong chúng ta cũng hiểu biết, nắm rõ tinh thần của
luật. Nhưng tất nhiên, luật sư lại là những người không chỉ thông hiểu pháp luật
mà còn hiểu biết cả tinh thần và nội dung những quy định của pháp luật ở từng
thời điểm lịch sử của xã hội. Không những thế họ còn phải hiểu rõ cả tục lệ và
bản sắc văn hóa dân tộc.
Bằng kiến thức của mình, luật sư có thể tư vấn pháp lý cho các cơ quan, tổ
chức, cá nhân bằng việc ký hợp đồng pháp lý. Luật sư tư vấn trong lĩnh vực pháp
luật, soạn thảo các văn bản pháp luật, soạn thảo di chúc, hợp đồng mua bán tài

sản, hợp đồng pháp lý, hợp đồng bất động sản, hợp động của công ty. Luật sư còn
tư vấn và hướng dẫn cho khách hàng các vấn đề liên quan đến quyền của họ theo
pháp luật, xử sự theo đúng pháp luật. Từ đó giảm thiểu những tranh chấp trong xã
hội, hạn chế những vi phạm pháp luật do sự thiếu hiểu biết pháp luật của người
dân gây ra.

7


1.3.3. Tính chất phản biện:
Tính chất phản biện của luật sư là những biện luận nhằm bác lại những lý
lẽ. ý kiến quan điểm của người khác mà mình cho là không phù hợp với pháp lý
và đạo lý.
Trong hoạt động của luật sư, tính chất phản biệt thể hiện trong lĩnh vực tố
tụng. Phản biện là phải dựa trên sự thông hiểu tường tận về pháp lý và đạo lý.
Hoạt động phản biện của luật sư là lấy pháp luật và đạo đức xã hội làm chuẩn
mực để xem xét mọi khía cạnh của của sự việc nhằm xác định rõ phải trái, đúng
sai… từ đó đề xuất những biện pháp phù hợp bảo vệ lẽ phải, loại bỏ cái sai, bảo
vệ công lý.
1.4. Vai trò của nghề luật sư4:
Trong xã hội hiện nay, đất nước đang phát triển đồng nghĩa với phát sinh
nhiều mối quan hệ. Và tranh chấp cũng là điều không thể tránh khỏi cũng như
việc hiểu biết pháp luật là một thứ vô cùng thiết yếu. Vì vậy mà vai trò của luật
sư là rất lớn trong xã hội.
1.4.1. Vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị
can, bị cáo và đương sự trước tòa:
Trong cuộc sống hằng ngày, không thể tránh khỏi mâu thuẫn giữa công dân
với nhau hoặc giữa công dân với các cơ quan, tổ chức…mà cần giải quyết bằng
pháp luật. Nhưng không phải ai trong chúng ta cũng hiểu biết về pháp luật để có
thể tự mình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình. Do đó vai trò của

luật sư là quan trọng hơn cả, bằng kiến thức hiểu biết về pháp luật và bằng cái
“tâm” của mình có thể giúp đỡ họ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Thực tiễn thời gian qua cho thấy, việc tham gia tố tụng của các luật sư
không những bảo đảm tốt hơn quyền bào chữa của bị can, bị cáo, các đương sự
khác, mà còn giúp các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, sửa chữa những thiếu
sót, làm rõ sự thật khách quan, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo
vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
1.4.2. Vai trò của luật sư trong việc tư vấn pháp luật góp phần bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân:
Bên cạnh hoạt động tranh tụng, luật sư còn có thể làm tư vấn pháp luật.
Luật sư hướng dẫn khách hàng về những vấn đề liên quan đến pháp luật, quyền
của họ được pháp luật quy định và cách xử sự theo đúng pháp luật. Việc tư vấn
pháp luật cho khách hàng của luật sư góp phần không nhỏ trong việc giải quyết
4 “Luật sư và pháp luật về luật sư Việt Nam”, Đặc san tuyên truyền pháp luật số 04, trang 9,10 và 11.

8


những tranh chấp xảy ra trong đời sống xã hội, ngăn chặn được những hành vi vi
phạm pháp luật, giảm bớt phiền hà cho cơ quan nhà nước khi người dân hiểu biết
pháp luật đi khiếu nại không đúng cơ quan có thẩm quyền.
Hoạt động tư vấn pháp luật và dịch vụ pháp lý khác của luật sư là một
trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh
minh bạch, lành mạnh theo đúng pháp luật, đồng thời hỗ trợ tích cực trong việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển thị trường dịch vụ, tăng thu ngân sách, giải
quyết việc làm; góp phần bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp cả ở nước ngoài. Sự
tham gia tích cực của các luật sư trong dự án đầu tư, các giao dịch kinh doanh,
thương mại không chỉ góp phần phát huy nội lực mà còn thu hút ngoại lực, thúc
đẩy hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
1.4.3. Vai trò của luật sư trong việc tham gia tuyên truyền, phổ biến, giáo dục

pháp luật, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật:
Luật sư bằng kiến thức hiểu biết của mình về pháp luật, thông qua việc
hành nghề, họ đã góp phần tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho cộng
đồng xã hội. Không những thế, trong quá trình hoạt động luật sư chính là người
trực tiếp áp dụng luật pháp vào thực tê cuộc sống. Nên hơn ai hết, họ là những
người hiểu rõ việc thực thi pháp luật đang gặp phải những vướng mắc gì. Từ đó
mà phần nào hoàn thiện pháp luật.
1.5. Phân loại nghề luật sư ở Việt Nam
Chúng ta có thể phân loại theo hai dạng như sau:
Thứ nhất, về phạm vi hành nghề theo điều 22 Luật Luật sư 2006 sửa đổi bổ
sung năm 2012 ( LLS) gồm các loại sau: Tham gia tố tụng, thực hiện tư vấn pháp
lý, đại diện ngoài tố tụng và các dịch vụ pháp lý khác
Trong hoạt động tham gia tố tụng thì luật sư tham gia có thể với một trong
hai tư cách, Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự,
hoặc với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án
về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động,
hành chính, việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động và các vụ, việc khác theo quy định của pháp luật.

9


Thứ hai, theo hình thức hành nghề của luật sư thì theo điều 23 của LLS quy
định cách hình thức hành nghề luật: Luật sư được lựa chọn một trong hai hình
thức sau đây để hành nghề:
1.


Hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư.

Hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư được thực hiện bằng việc thành
lập hoặc tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư; làm việc theo hợp đồng
cho tổ chức hành nghề luật sư.
2. Hành nghề với tư cách cá nhân theo quy định của điều 49 LLS
Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành thì luật sư có thể lựa chọn
hành nghề cho các tổ chức hoặt hành nghề với tư cách cá nhân.
Đới với luật sư hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư, luật sư có thể
đứng ra thành lập một tổ chức hành nghề của riêng mình, do mình chịu trách
nhiệm hoặc tham gia với những luật sư khác thành lập một tổ chức hành nghề và
cùng chịu trách nhiệm với họ. Tuy nhiên, để có thể làm được điều này thì luật sư
phải đảm bảo các điều kiện của Điểm a, Khoản 3, Điều 32 LLS theo đó: “Luật sư
thành lập hoặc tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư phải có ít nhất hai
năm hành nghề liên tục làm việc theo hợp đồng lao động cho tổ chức hành nghề
luật sư hoặc hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng lao động cho cơ quan,
tổ chức”. Đây một điểm mới quan trọng trong Luật Luật sư sửa đổi bổ sung năm
2012 nhằm nâng cao trách nhiệm của Luật sư, cũng như đảm bảo cá cá nhân tổ
chức được cung cấp dịch vụ pháp lý tốt nhất khi tìm đến các tổ chức hành nghề
luật. Thực tế đã cho thấy trước khi có quy định cụ thể về điều kiện này thì có
nhiều tổ chức được thành lập bởi các luật sư chưa có kinh nghiệm dẫn đến cung
cấp các dịch vụ pháp lý thiếu chuyên nghiệp, làm ảnh hưởng đến uy tín của nghề
và lợi ích của khách hàng
Đối với luật sư hành nghề với tư cách cá nhân, Điều 49 LLS quy định:
1. Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân là luật sư làm việc theo hợp đồng
lao động cho cơ quan, tổ chức không phải là tổ chức hành nghề luật sư.
2. Trường hợp hợp đồng lao động có thỏa thuận thì luật sư hành nghề với tư
cách cá nhân phải mua bảo hiểm trách nhiệm cho hoạt động hành nghề của mình
theo quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm.
3. Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân không được cung cấp dịch vụ pháp

lý cho cá nhân, cơ quan, tổ chức khác ngoài cơ quan, tổ chức mình đã ký hợp
đồng lao động, trừ trường hợp được cơ quan nhà nước yêu cầu hoặc tham gia tố
tụng trong vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng và thực hiện
trợ giúp pháp lý theo sự phân công của Đoàn luật sư mà luật sư là thành viên.”
10


Lịch sử các hình thức hành nghề luật sư từ khi có pháp lệnh tổ chức
luật sư năm 1987
Mặc dù nghề luật sư ở nước ta tồn tại từ rất lâu, tuy nhiên mai đến năm
1987 mới có văn bản pháp luật đầu tiên quy định về vấn đề này. Xuất phát từ
những thay đổi về kinh tế và chính trị của đại hội Đảng toàn quốc lần VI năm
1986, để đáp ứng nhu cầu thực tế thì các quy định về về luật sư đã ra đời, quy
định cụ thể và chi tiết những vấn đề liên quan đến luật sư. Một trong số sự thay
đổi đó là hình thức hành nghề luật sư. Chúng ta sẽ tiến hành phân tích sự thay đổi
này qua các văn bản quy phạm pháp luật của nước ta.
Các hình thức hành nghề luật sư theo Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm
1987
Trong bối cảnh lúc bấy giờ, hình thức “ hành nghề luật sư” chưa được nhắc đến,
đặc biệt là hành nghề với tư cách các nhân. Cụ thể tại điều 13 của pháp lệnh có
quy định:
Các hình thức giúp đỡ pháp lý của luật sư bao gồm:
1- Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị can, bị cáo hoặc đại
diện cho người bị hại và các đương sự khác trong các vụ án hình sự, kể cả các vụ
án thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự; đại diện cho các bên đương sự
trong các vụ án dân sự, hôn nhân, gia đình và lao động.
2- Làm tư vấn pháp luật cho các tổ chức kinh tế Nhà nước, tập thể và tư nhân, kể
cả các tổ chức kinh tế nước ngoài.
3- Làm các dịch vụ pháp lý khác cho công dân và tổ chức.
Pháp lệnh đã sử dụng thuật ngữ khá đặc biệt và theo chúng tôi nó mang

nhiều ý nghĩa về gia trị nhân văn: “ giúp đỡ pháp lý” nó mang đúng bản chất của
nghề luật chúng ta dó là nhằm giúp đỡ mọi người về khía canh pháp lý để có thể
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mỗi người dân. Từ đó chúng ta có thể
nhận ra rằng, luật sư trong thời điểm này chưa được coi là một nghề. Một điều mà
chúng tôi cho là bất cập nữa ở văn bản này đó là chưa có sự tách bạch rõ giữa
phạm vi hành nghề của luật sư ( tham gia tranh tụng, tư vấn pháp luật, đại diện
ngoài tố tụng ) và các hình thức hành nghề luật sư. Mặc dù vầy nhưng với quy
định cho pháp luật sư tư vấn cho các tổ chức kinh tế nhà nước, tập thể và tư nhân
thẩm chỉ là cho cả tổ chức kinh tế nước ngoài, đây là một quy định mở tạo điều
kiện cho các cá nhân, tổ chức kinh tế cho thể gia nhập gia đoạn mở cửa thị trường
của nước ta một cách dễ dàng hơn và tạo điều kiện thuận lợi cho sự pháp triển.
Các hình thức hành nghề luật sư theo Pháp lệnh luật sư 2001
Trong pháp luật này, các nhà làm luật không đưa ra quy định cụ thể nào về
hình thức hành nghề luật sư, nhưng thông qua mộ số quy định có liên quan giúp
chúng ta nhận biết rằng Pháp lệnh luật sư 2001 không cho phép luật sư hành nghề
với bất kì hình thức nào ngoài hành nghề cho các tổ chức hành nghề luật sư. Điều
17 Pháp lệnh quy định về: “ hình thức tổ chức hành nghề luật sư”:
11


1.

Văn phòng luật sư.

2.

Công ty luật hợp danh.
Từ đó có thể thấy, các nhà làm luật đã gián tiếp thông qua quy định về hình
thức tổ chức hành nghề luật sư để quy định về hình thức hành nghề của luật sư.
Trong toàn bộ văn bản không có quy định nào về việc luật sư hành nghề với tư

cách cá nhân, điều này làm nảy sinh một vấn đề là khi tổ chức muốn luật sư tư
vấn cho tổ chức của mình hoặc tham gia đại diện cho tổ chức trước tòa thì họ phải
thông qua tổ chức hành nghề luật sư hoặc đoàn luật sư để của luật sư tham gia vụ
việc. các cơ quan tổ chức có nhu cầu không được phép kí hợp đông lao động với
luật sư để họ làm việc cho mình. Đây thực sự là một điều bất cập trong việc hành
nghề luật sư trong giai đoạn này.
Tuy nhiên, ngoài những bất cập chúng tôi cũng nhận thấy rằng có những
điểm hợp lý đó làm không quy định hình thức công ty luật trách nhiệm hữu hạn.
Nhằm nâng cao tối đa trách nhiệm của luật sư khi tham gia hành nghề, nhằm đảm
bảo đày đủ quyền và lợi ích của khách hàng khi tìm đến tổ chức hành nghề.
Các hình thức hành nghề luật sư theo Luật Luật sư 2006
Luật luật sư thực sự là một bước tiến quan trọng trong việc quy định các
vấn đề liên quan đến luật sư, lần đầu tiên một nghề nghề được quy định trong
luật. Các quy định về luật sư đã có hệ thống rõ ràng hơn, từ việc quy định về luật
sư, đào tạo nghề luật sư, hành nghề luật sư đến việc quy định về tổ chức hành
nghề luật sư, tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư. Đặc biệt đó là quy định tại
điều 23 về hình thức hành nghề luật sư, theo đó lần đầu tiên có một sự công nhận
hình thức về việc hành nghề luật sư với tư cách cá nhân cụ thể như sau:
Hình thức hành nghề của luật sư:
1. Hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư.
Hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư được thực hiện bằng việc thành
lập hoặc tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư; làm việc theo hợp đồng
cho tổ chức hành nghề luật sư.
2. Hành nghề với tư cách cá nhân.
3. Luật sư được lựa chọn một trong hai hình thức hành nghề quy định tại
khoản 1 và khoản 2 Điều này để hành nghề.
Luật luật sư 2006 đã cho phép luật sư tự do lựa chọn hình thức hành nghề
cho mình, theo đó luật sư có thể hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư hoặc
với tư cách cá nhân.
Đối với luật sư hành nghề với tư cách cá nhân, luật này đã mở đến mức tối

đa tự do lựa chọn cho các luật sư, Điều 49 đã quy định:
Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân:
12


1. Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân là việc luật sư tự mình nhận vụ,
việc, cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình đối với hoạt động hành nghề và hoạt động theo loại hình hộ kinh
doanh cá thể.
Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân chỉ được đăng ký một địa điểm
giao dịch và không có con dấu.
2. Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân bằng việc cung cấp dịch vụ pháp
lý cho khách hàng theo hợp đồng dịch vụ pháp lý, làm việc cho cơ quan, tổ chức
theo hợp đồng lao động.
Với quy định này thì luật sư không bị rằng buộc bởi bất kì tổ chức nào
ngoài đoàn luật sư mà luật sư đó làm thành viên.
Các hình thức hành nghề luật sư theo Luật Luật sư sửa đổi bổ sung
năm 2012
Ngày 20 tháng 11 năm 2012, tại kì hợp quốc hội thứ 4đã thông qua luật sửa
đổi bổ sung một số điều của Luật Luật sư, theo đó các hình thức hành nghề luật
sư lại có sự thay đổi.
Luật sửa đổi bổ sung luật luật sư vẫn giữ nguyên những nội dung cơ bản khi
quy định hình thức hành nghề luật sư đó là luật sư có thể hành nghề trong các tỏ
chức hành nghề luật sư bằng việc thành lập tham gia thành lập tổ chức hành nghề
luật sư hoặc làm việc cho các tổ chức hành nghề thông qua hợp đồng lao động,
luật sư có thể hành nghề với tư cách cá nhân. Tuy nhiên, trong mỗi hình thức lại
có sự thay đổi, đối với luật sư muốn thành lập hoặc tham gia thành lập phải có ít
nhất hai năm hành nghề liên tục. đối với luật sư hành nghề với tư cách cá nhân,
mức độ tự do lựa chọn nghề lại ít đi khi luật sư hoạt động với tư cách cá nhân chỉ
có thể hành nghề thông qua kí kết hợp đồng lao động với cơ quan tổ chức không

phải là tổ chức hành nghề luật sư. Và theo khoản 3 Luật sửa đổi bổ sung năm
2012 thì:
Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân không được cung cấp dịch vụ pháp
lý cho cá nhân, cơ quan, tổ chức khác ngoài cơ quan, tổ chức mình đã ký hợp
đồng lao động, trừ trường hợp được cơ quan nhà nước yêu cầu hoặc tham gia tố
tụng trong vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng và thực hiện
trợ giúp pháp lý theo sự phân công của Đoàn luật sư mà luật sư là thành viên.”5

5 Điều 49 Luật Luật Luật sư 2006 sửa đổi bổ sung năm 2012
13


1.6. Điều kiện để hành nghề luật sư
1.6.1. Chặng đường để trở thành luật sư
Để có một cái nhìn khái quát về hành trình mà một người bình thường phải
trải qua để trở thành một luật sư có đủ khả năng, đạo đức để hoạt động trong nghề
chúng tôi xin được mô tả khái quát thông qua sơ đồ6:

Muốn trở thành luật sư trước hết bạn phải trải qua các bước sau:
Bước 1: Có bằng cử nhân luật.
Bước 2: Tham gia khóa đào tạo nghề luật sư theo quy định tại điều 12 Luật
Luật sư 2006 sửa đổi bổ sung 2012 cụ thể:
Đào tạo nghề luật sư
1. Người có Bằng cử nhân luật được tham dự khóa đào tạo nghề luật sư tại
cơ sở đào tạo nghề luật sư.
2. Thời gian đào tạo nghề luật sư là mười hai tháng.
Người hoàn thành chương trình đào tạo nghề luật sư được cơ sở đào tạo
nghề luật sư cấp Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề luật sư.
3. Chính phủ quy định về cơ sở đào tạo nghề luật sư.
4. Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chương trình khung đào tạo nghề luật sư,

việc công nhận đào tạo nghề luật sư ở nước ngoài.”
6 Tài liệu học tập cô Bạch Thị Nhã Nam, giảng viên Khoa Luật, Đh Kinh tế-Luật

14


Theo quy định của luật này thì có sự thay đổi so với Luật Luật sư 2006 đó
là về thời gian đào tạo nghề luật sư tăng từ 6 lên 12 tháng. Theo chúng tôi sự tăng
thêm này là phù hợp, nhằm một đích đảm bảo một khoản thời gian hợp lý để các
cử nhân tích lúy những kỹ năng cần thiết cho nghề nghiệp. Vì phần lớn ở bậc đai
học chỉ được tiếp cận với nền tảng về cơ sở lý luận chung, chưa được tiếp cận
nhiều về kĩ năng một một luật sư cần có trong khi hành nghề. Bên cạnh đó thì
cũng có những đối được miễn đào tạo nghề luật sư được quy định cụ thể như sau7:
1. Đã là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên.
2. Giáo sư, phó giáo sư chuyên ngành luật; tiến sỹ luật.
3. Đã là thẩm tra viên cao cấp ngành Toà án, kiểm tra viên cao cấp ngành Kiểm
sát; chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao cấp trong lĩnh
vực pháp luật.
4. Đã là thẩm tra viên chính ngành Toà án, kiểm tra viên chính ngành Kiểm sát;
chuyên viên chính, nghiên cứu viên chính, giảng viên chính trong lĩnh vực pháp
luật
Bước 3 Tập sự hành nghề tại tổ chức hành nghề luật sư
Người có Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề luật sư và người quy
định tại khoản 2 Điều 16 của Luật sửa đổi bổ sung năm 2012 này được tập sự
hành nghề tại tổ chức hành nghề luật sư. Thời gian tập sự hành nghề luật sư là
mười hai tháng, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 16 của
Luật này. Thời gian tập sự hành nghề luật sư được tính từ ngày đăng ký tập sự tại
Đoàn luật sư. Tổ chức hành nghề luật sư phân công luật sư hướng dẫn người tập
sự hành nghề luật sư. Luật sư hướng dẫn tập sự phải là người có ít nhất ba năm
kinh nghiệm hành nghề luật sư và không thuộc trường hợp đang trong thời gian bị

xử lý kỷ luật theo quy định tại khoản 1 Điều 85 của Luật này. Tại cùng một thời
điểm, một luật sư không được hướng dẫn quá ba người tập sự. Người tập sự hành
nghề luật sư đăng ký tập sự tại Đoàn luật sư ở địa phương nơi có trụ sở của tổ
chức hành nghề luật sư mà mình tập sự và được Đoàn luật sư cấp Giấy chứng
nhận người tập sự hành nghề luật sư. Đoàn luật sư có trách nhiệm giám sát việc
tập sự hành nghề luật sư. Người tập sự hành nghề luật sư được giúp luật sư hướng
dẫn trong hoạt động nghề nghiệp nhưng không được đại diện, bào chữa, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng tại phiên tòa, không được ký văn bản
tư vấn pháp luật. Người tập sự hành nghề luật sư được đi cùng với luật sư hướng
dẫn gặp gỡ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự, nguyên
đơn, bị đơn và các đương sự khác trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính khi
được người đó đồng ý; giúp luật sư hướng dẫn nghiên cứu hồ sơ vụ, việc, thu
thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến vụ, việc và các hoạt động nghề nghiệp
7 Điều 13 Luật Luật Luật sư 2006 sửa đổi bổ sung năm 2012

15


khác; được tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng và thực hiện các dịch vụ pháp
lý khác theo sự phân công của luật sư hướng dẫn khi được khách hàng đồng ý.
Luật sư hướng dẫn phải giám sát và chịu trách nhiệm về các hoạt động của người
tập sự hành nghề luật sư quy định tại khoản này. Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định
cụ thể việc tập sự hành nghề luật sư.
Bước 4 vượt qua kì thi kiểm tra kết quả tập sự nghề luật sư.
Người tham dự kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư là người tập sự đã
hoàn thành thời gian tập sự theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật sửa đổi
bổ sung năm 2012 . Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư xem xét, lập danh sách những
người đủ điều kiện tham dự kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư gửi Liên
đoàn luật sư Việt Nam. Người được miễn tập sự hành nghề luật sư theo quy định

tại khoản 1 Điều 16 của Luật này thì không phải tham dự kiểm tra kết quả tập sự
hành nghề luật sư. Liên đoàn luật sư Việt Nam tổ chức kiểm tra kết quả tập sự
hành nghề luật sư. Việc kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư do Hội đồng
kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư tiến hành; thành phần Hội đồng gồm
Chủ tịch hoặc một Phó Chủ tịch Liên đoàn luật sư Việt Nam làm Chủ tịch, đại
điện Ban chủ nhiệm một số Đoàn luật sư và một số luật sư là thành viên. Danh
sách thành viên Hội đồng do Chủ tịch Liên đoàn luật sư Việt Nam quyết định.
Người đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư được Hội đồng kiểm
tra cấp Giấy chứng nhận kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư. Bộ Tư pháp
có trách nhiệm hướng dẫn và giám sát việc tổ chức kiểm tra kết quả tập sự hành
nghề luật sư.
Bước 5 Làm hồ sơ gửi ban chủ chủ nhiệm đoàn luật sư đề nghị cấp chứng chỉ
hành nghề luật sư
Theo Điều 17 Luật Luật sư sửa đổi bổ sung năm 2012 thì Người đạt yêu
cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư có hồ sơ đề nghị cấp Chứng chỉ
hành nghề luật sư gửi Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư.
Hồ sơ gồm có:
a) Đơn đề nghị cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư theo mẫu do Bộ Tư pháp
ban hành;
b) Phiếu lý lịch tư pháp;
c) Giấy chứng nhận sức khỏe;
d) Bản sao Bằng cử nhân luật hoặc bản sao Bằng thạc sỹ luật;
đ) Bản sao Giấy chứng nhận kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư.
Trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ban chủ
nhiệm Đoàn luật sư chuyển hồ sơ cho Sở Tư pháp kèm theo bản xác nhận người
đề nghị cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư có đủ tiêu chuẩn luật sư theo quy định
của Luật này.
Người được miễn tập sự hành nghề luật sư có hồ sơ đề nghị cấp Chứng chỉ
hành nghề luật sư gửi Sở Tư pháp nơi người đó thường trú.
Hồ sơ gồm có:

a) Các giấy tờ quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều này;
16


b) Giấy tờ quy định tại điểm d khoản 1 Điều này, trừ những người là giáo sư,
phó giáo sư chuyên ngành luật, tiến sỹ luật;
c) Bản sao giấy tờ chứng minh là người được miễn tập sự hành nghề luật sư
quy định tại khoản 1 Điều 16 của Luật này.
Trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Sở Tư
pháp có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ, trong trường hợp cần thiết thì tiến hành xác
minh tính hợp pháp của hồ sơ và có văn bản đề nghị kèm theo hồ sơ cấp Chứng
chỉ hành nghề luật sư gửi Bộ Tư pháp.
Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Bộ trưởng
Bộ Tư pháp quyết định cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư; trong trường hợp từ
chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người đề nghị cấp Chứng
chỉ hành nghề luật sư và Sở Tư pháp nơi gửi hồ sơ đề nghị cấp Chứng chỉ hành
nghề luật sư.
Người bị từ chối cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư có quyền khiếu nại, khiếu
kiện theo quy định của pháp luật.
Người thuộc một trong những trường hợp sau đây thì không được cấp
Chứng chỉ hành nghề luật sư:
a) Không đủ tiêu chuẩn luật sư quy định tại Điều 10 của Luật này;
b) Đang là cán bộ, công chức, viên chức; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp,
công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan,
hạ sĩ quan, công nhân trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân;
c) Không thường trú tại Việt Nam;
d) Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đã bị kết án mà chưa được xóa án
tích về tội phạm do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng do cố ý; đã bị kết án về
tội phạm nghiêm trọng do cố ý, tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý, tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng do cố ý kể cả trường hợp đã được xóa án tích;

đ) Đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc;
e) Mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
g) Những người quy định tại điểm b khoản này bị buộc thôi việc mà chưa
hết thời hạn ba năm, kể từ ngày quyết định buộc thôi việc có hiệu lực.”
Như vậy, tổng thời gian từ lúc học đại học chuyên ngàng luật cho đến khi
trở thành luật sư của mỗi người nếu thực hiện liên tục không đứt đoạn là khoản
sáu năm. So với những ngành nghề khác trong nước được đào tạo trong nước thì
rõ ràng nghề Luật sư có thời gian đào tạo lâu hơn, thể hiện rõ tính chất phức tạp
của công việc. Có nhiều người cho rằng, thời gian đào tạo nghề Luật sư như vậy
là quá lâu, dẫn đến việc xây dựng sự nghiệp và đạt được thành công muộn hơn
bạn bè cũng trang lứa. Có thể thấy đây là ý kiến hết sức chủ quan, chưa nhận thức
đúng đắn và chính xác về nghề Luật sư. Nghề luật sư không giống những nghề
bình thường khác. Luật sư là những người vừa phải nắm chắc pháp luật, vừa phải
có những kỹ năng cần thiết đồng thời phải có đạo đức nghề nghiệp vững vàng.
Luật sư không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích
17


chính đáng của công dân mà còn góp phần không nhỏ vào việc phát triển xã hội.
Chính vì vậy, để trở thành một Luật sư đúng nghĩa, mỗi người phải trải qua một
khoảng thời gian rèn luyện nghiêm túc, có học vấn vững vàng đồng thời được đào
tạo những kỹ năng bài bản. Bởi vậy chúng tôi cho rằng: “Sáu năm không phải là
dài cho những ai thực sự có đam mê và nhiệt huyết với nghề.”8
1.6.2. Điều kiện hành nghề luật sư
Một người muốn đủ điều kiện để hành nghề luật sư thì trước hết phải có đủ
tiêu chuẩn luật sư, tiêu chuẩn phổ biến để công nhận là luật sư đó là công dân việt
nam trung thành với tổ quốc, tuân thủ , tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm
chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời
gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể

trở thành luật sư.9
Ngoài những tiêu chuẩn trên thì người muốn hành nghề luật sư phải có chứng chỉ
hành nghề luật sư và gia nhập một đoàn luật sư.
Từ những điều kiện mà pháp luật quy định như trên và xu thế hội nhập kinh
tế hiện nay thì trở thanh một luật sư là mơ ước của nhiều người. Một mơ ước
không quá xa xôi nếu chúng ta có cái “ Tâm” và lòng nhiệt huyết, cùng với đó là
sự phát triển của xã hội trên thực tế nghề luật sư đang dần khẳng định được vai
trò và vị trí của mình. Vì vậy, các bạn nếu cố gắng thì nhất định sẽ đạt được ước
mơ.
1.7. Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp của Luật sư Việt Nam:
Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư là những quy tắc xử sự
được thể hiện dưới hình thức văn bản chứa đựng những quy phạm đạo đức và
ứng xử nghề nghiệp do Hội đồng luật sư toàn quốc ban hành để điều chỉnh hành
vi của các thành viên Liên đoàn Luật sư Việt Nam trong quan hệ với các chủ thể
có liên quan khi hoạt động nghề nghiệp và trong giao tiếp xã hội 10. Quy tắc Đạo
đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư gồm Lời nói đầu, sáu chương, 27 nguyên tắc
cụ thể, quy định những chuẩn mực về đạo đức và ứng xử nghề nghiệp, là thước
đo phẩm chất đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư. Mỗi luật sư phải
lấy Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp này làm khuôn mẫu cho sự tu
dưỡng, rèn luyện để giữ gìn uy tín nghề nghiệp, thanh danh của luật sư, xứng
đáng với sự tôn vinh của xã hội.
8 />
9 Điều 10 Luật Luật Luật sư 2006 sửa đổi bổ sung năm 2012
10“ Tài liệu đào tạo bồi dưỡng luật sư”, Liên doàn luật sư Việt Nam, Bài 1.

18


Vì sao Luật sư lại phải thực hiện các nguyên tắc này? Bởi lẽ, ở Việt Nam
nghề Luật sư là một nghề cao quý, bởi hoạt động nghề nghiệp của luật sư nhằm

mục đích góp phần bảo về công lý, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ; góp phần phát triển kinh tế-xã hội, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh. Nền tảng cơ bản của nghề Luật sư là tính chuyên
nghiệp và đạo đức nghề nghiệp. Luật sư phải có bổn phận tự nâng cao trình độ,
kỹ năng chuyên môn, nêu gương trong việc tôn trọng, chấp hành pháp luật;
Trong số 27 nguyên tắc đó được chia thành sáu phần bao gồm: tiêu chuẩn
đạo đức chung, trong quan hệ với khách hàng, đồng nghiệp, với cơ quan tiến
hành tố tụng, với các cơ quan Nhà nước khác và các quy tắc khác. Từ đó, tôi xin
rút ra một số phẩm chất đạo đức chung đối với mọi mối quan hệ mà một Luật sư
cần có: tính trung thực, tinh thần trách nhiệm cao, có uy tín, giữ bí mật thông tin
và quan trọng hơn hết là có lòng nhân ái.
Thứ nhất, Luật sư phải có tính trung thực, phải tôn trọng sự thật khách
quan, không vì lợi ích vật chất, tinh thần hoặc bất kỳ áp lực nào khác để làm trái
pháp luật và đạo đức nghề nghiệp11. Vì thế, luật sư không được chủ ý đưa ra các
tuyên bố sai trái hoặc tiếp tay cho tội phạm hoặc lừa đảo. Trong khi giao dịch với
bên thứ ba, Luật sư phải giải thích rõ vai trò của mình nhằm tránh sự hiểu lầm và
không được lấy chứng cứ từ bên thứ ba một cách bất hợp pháp.
Thứ hai, Luật sư có tinh thần trách nhiệm cao. Khi tiếp nhận yêu cầu khiếu
nại của khách hàng, luật sư, tổ chức hành nghề luật sư có thái độ ôn hòa, nhã
nhặn, chủ động thương lượng, hòa giải với khách hàng. Hết mình giải quyết vụ
việc không vì mục đích lợi nhuận mà vì mục đích bảo vệ quyền và nghĩa vụ hợp
pháp của công dân. Nếu không thể giải quyết, phải tận tình hướng dẫn khách
hàng cách tốt nhất để giải quyết vụ việc này một cách hợp pháp. Ngoài ra, Luật
sư cũng phải có tinh thần trách nhiệm đối với các cơ quan tiến hành tố tụng và
các cơ quan nhà nước khác.
Thứ ba, khi trở thành Luật sư điều quan trọng nhất của Luật sư đó là uy tín.
Thật ra, phẩm chất đạo đức này gần như bao gồm các phẩm chất đạo đức khác.
Một Luật sư, khi đã có kiến thức và phẩm chất đạo đức tốt đẹp là đã tạo ra một uy
tín cho riêng mình, mà nếu họ biết giữ gìn hình ảnh của mình thì uy tín đó khó mà
lay chuyển. Không những Luật sư phải tự xây dựng uy tín cho bản thân mà còn

biết tôn trọng, bảo vệ uy tín, danh dự của đồng nghiệp, khách hàng.

11 Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam, Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Quy tắc 2.

19


Thứ tư, Luật sư phải biết giữ bí mật thông tin cho khách hàng, đồng nghiệp
khi thực hiện giao dịch pháp lý và cả khi đã kết thúc dịch vụ pháp lý đó, trừ
trường hợp khách hàng đồng ý hoặc pháp luật có quy định. Ngoài ra, Luật sư còn
có trách nhiệm yêu cầu các đồng nghiệp có liên quan và nhân viên của mình cam
kết không tiết lộ những bí mật thông tin mà họ biết được và giải thích rõ nếu tiết
lộ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật12.
Cuối cùng, và là một Luật sư hay bất kỳ một ngành nghề nào khác đều rất
cần lòng nhân ái. Không phải chỉ cần nhân ái với khách hàng, cấp trên mà còn
phải có lòng nhân ái với mọi mối quan hệ. Với cái tâm, Luật sư bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm công bằng trong xã hội.
1.8. Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư
Trước hết ta cần biết được tổ chức xã hội - nghề nghiệp là gì: Là loại hình
tổ chức xã hội do nhà nước sáng kiến thành lập được hình thành theo quy định
của nhà nước. Hoạt động của các tổ chức xã hội nghề nghiệp được đặt dưới sự
quản lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, tổ chức xã hội nghề
nghiệp cũng là tổ chức hoạt động mang tính chất tự quản, cơ cấu tổ chức nội bộ
của từng tổ chức do tổ chức đó quyết định hoạt động không mang tính quyền lực
nhà nước, đảm bảo nguyên tắc tự nguyện khi hình thành tổ chức
Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư nước ta được chia làm hai cấp:Tổ
chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và
Tổ chức xã hội – nghề nghiệp toàn quốc của luật sư.
Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư được thành lập nhằm đại diện,
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các luật sư; thực hiện chức năng tự quản của

luật sư nhằm xây dựng, phát triển đội ngũ luật sư có phẩm chất chính trị, đạo đức,
có trình độ chuyên môn cao, góp phần bảo vệ công lý, phát triển kinh tế, xây
dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh13
1.8.1. Tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư ở tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương.
1.8.1.1.giới thiệu sơ lượt về Đoàn luật sư
Đại diện cho Tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương đó là Đoàn luật sư được tổ chức và hoạt động theo Luật Luật sư
sửa đổi bổ sung năm 2012 và Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam. Đoàn luật
12 Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam, Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Quy tắc 12.

13 Điều 2 Nghị định 131/2008/NĐ-CP Hướng dẫn thi hành các quy định của Luật luật sư về tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư

20


sư có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng, hoạt động theo nguyên
tắc tự trang trải bằng nguồn thu từ phí thành viên, các khoản đóng góp của thành
viên và các nguồn thu hợp pháp khác. Tại mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương có từ ba người có Chứng chỉ hành nghề luật sư trở lên thì được thành lập
Đoàn luật sư. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cho phép
thành lập Đoàn luật sư sau khi có ý kiến thống nhất của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Đoàn luật sư không được ban hành nghị quyết, quyết định, nội quy, quy định về
phí, khoản thu và các quy định khác trái với quy định của pháp luật và Điều lệ
của Liên đoàn luật sư Việt Nam. Thành viên của Đoàn luật sư là các luật sư.
Quyền và nghĩa vụ của thành viên Đoàn luật sư do Điều lệ của Liên đoàn luật sư
Việt Nam quy định.14
1.8.1.2.Nhiệm vụ, quyền hạn của Đoàn luật sư
Đoàn luật sư có các nhiệm vụ và quyền hạn sau đây15:
1. Đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của luật sư trong hành nghề.

2. Thực hiện rà soát, đánh giá hàng năm chất lượng đội ngũ luật sư; giám
sát, phối hợp với Đoàn luật sư ở địa phương khác giám sát luật sư là thành viên,
luật sư hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư và chi nhánh của tổ chức hành
nghề luật sư tại địa phương trong việc tuân thủ pháp luật, tuân theo Điều lệ của
Liên đoàn luật sư Việt Nam và Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư
Việt Nam; xử lý kỷ luật đối với luật sư.
3. Giám sát, phối hợp với Đoàn luật sư ở địa phương khác giám sát hoạt
động của tổ chức hành nghề luật sư, chi nhánh, văn phòng giao dịch của tổ chức
hành nghề luật sư; yêu cầu tổ chức hành nghề luật sư chấm dứt hành vi vi phạm
pháp luật và đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý.
4. Cấp Giấy chứng nhận người tập sự hành nghề luật sư và giám sát người
tập sự hành nghề luật sư; lập danh sách những người đủ điều kiện tham dự kiểm
tra kết quả tập sự hành nghề luật sư gửi Liên đoàn luật sư Việt Nam.
5. Nhận hồ sơ đề nghị cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư và gửi Sở Tư pháp;
đề nghị Bộ Tư pháp thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư.
6. Tổ chức đăng ký việc gia nhập Đoàn luật sư, tổ chức việc chuyển, tiếp
nhận luật sư; đề nghị Liên đoàn luật sư Việt Nam cấp, đổi, thu hồi Thẻ luật sư.
7. Thực hiện bồi dưỡng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ, bồi dưỡng kỹ
năng quản trị, điều hành tổ chức hành nghề luật sư.
8. Giám sát việc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư.
9. Hòa giải tranh chấp giữa người tập sự hành nghề luật sư, luật sư với tổ
chức hành nghề luật sư; giữa khách hàng với tổ chức hành nghề luật sư và luật sư.
10. Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền.
14 Điều 60 Luật Luật Luật sư 2006 sửa đổi bổ sung năm 2012
15 Điều 61 Luật Luật Luật sư 2006 sửa đổi bổ sung năm 2012

21


11. Tổng kết, trao đổi kinh nghiệm và thực hiện các biện pháp khác nhằm

nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho luật sư.
12. Tập hợp, phản ánh tâm tư, nguyện vọng, ý kiến đóng góp, kiến nghị của
luật sư.
13. Quy định về mức phí gia nhập Đoàn luật sư, phí tập sự hành nghề luật sư
trên cơ sở khung phí do Liên đoàn luật sư Việt Nam ban hành.
14. Báo cáo Liên đoàn luật sư Việt Nam, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương về đề án tổ chức đại hội, phương án xây dựng nhân sự Ban
chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật.
15. Thực hiện nghị quyết, quyết định, quy định của Liên đoàn luật sư Việt
Nam.
16. Tổ chức để các luật sư tham gia tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật và thực hiện trợ giúp pháp lý.
17. Báo cáo Liên đoàn luật sư Việt Nam về tổ chức, hoạt động của Đoàn luật
sư, kết quả Đại hội; gửi Liên đoàn luật sư Việt Nam nghị quyết, quyết định, nội
quy, quy định của Đoàn luật sư theo quy định của Điều lệ của Liên đoàn luật sư
Việt Nam hoặc khi được yêu cầu.
18. Báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về tổ
chức và hoạt động, kết quả Đại hội; báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi
được yêu cầu; gửi Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nghị
quyết, quyết định, quy định của Đoàn luật sư.
19. Các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt
Nam.
1.8.1.3.Các cơ quan của Đoàn luật sư
Bao gồm:
1. Đại hội toàn thể hoặc Đại hội đại biểu luật sư của Đoàn luật sư là cơ
quan lãnh đạo cao nhất của Đoàn luật sư.
2. Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư là cơ quan chấp hành của Đại hội toàn thể
hoặc Đại hội đại biểu luật sư của Đoàn luật sư, do Đại hội toàn thể hoặc Đại hội
đại biểu luật sư bầu ra.
3. Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn luật sư do Đại hội toàn thể

hoặc Đại hội đại biểu luật sư của Đoàn luật sư bầu ra theo nhiệm kỳ của Ban chủ
nhiệm Đoàn luật sư.
Ngoài các cơ quan thì điều lệ của Đoàn luật sư đóng vai trò vô cùng quan
trọng nhằm điều chỉnh các quan hệ nội bộ của Đoàn Luật sư và giúp Đoàn hoạt
động một các có hiệu quả. Căn cứ quy định của Luật này, pháp luật về hội và
Điều lệ của tổ chức luật sư toàn quốc, Đại hội toàn thể hoặc Đại hội đại biểu luật

22


sư của Đoàn luật sư thông qua Điều lệ Đoàn luật sư Điều lệ Đoàn luật sư gồm
những nội dung chính sau đây:
a) Nhiệm vụ, quyền hạn của Đoàn luật sư;
b) Quyền, nghĩa vụ của thành viên Đoàn luật sư;
c) Thủ tục đăng ký việc tập sự hành nghề luật sư, gia nhập Đoàn luật sư, rút tên
khỏi danh sách người tập sự hành nghề luật sư, rút tên khỏi danh sách thành viên
của Đoàn luật sư, chuyển Đoàn luật sư của luật sư;
d) Cơ cấu tổ chức, thể thức bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn của
các cơ quan của Đoàn luật sư;
đ) Tài chính của Đoàn luật sư;
e) Việc khen thưởng, kỷ luật đối với luật sư;
g) Phí gia nhập Đoàn luật sư, phí thành viên;
h) Thể thức sửa đổi, bổ sung Điều lệ;
i) Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong nội bộ của Đoàn luật sư;
k) Quan hệ với cơ quan, tổ chức khác.
Trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày được thông qua, Ban chủ
nhiệm Đoàn luật sư gửi Điều lệ Đoàn luật sư tới Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được Điều
lệ Đoàn luật sư, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phê duyệt
Điều lệ. Điều lệ Đoàn luật sư có hiệu lực kể từ ngày được phê duyệt16.

1.8.1.4. vai trò của Đoàn luật sư.
Từ nhiệm vụ và quyền hạn của Đoàn luật sư ta thấy rằng vai trò của Đoàn
luật sư là nhằm mục đích tập hợp, hướng dẫn giám sát và bênh vực cho quyền lợi
của các luật sư, duy trì uy tín nghề nghiệp và nâng cao hiệu quả hành nghề của
các luật sư thành viên. Khi muốn đủ điều kiện hành nghề luật sư thì bắt buộc một
luật sư phải gia nhập một Đoàn luật sư hoặc tổ chức hành nghề luật sư ở trung
ương.
Theo báo cáo tổng kết năm năm thi hành Luật Luật sư Hoạt động tự quản
của các Đoàn luật sư đối với luật sư và hành nghề luật sư trong thời gian qua đã
có nhiều chuyển biến tích cực. Đa số các Đoàn luật sư đã có sự nỗ lực đổi mới
phương thức hoạt động, nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý, điều hành của Ban
chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật Đoàn luật sư; ban hành các quy chế
16 Điều 63 Luật Luật Luật sư 2006 sửa đổi bổ sung năm 2012

23


nội bộ cần thiết cho việc quản lý, điều hành của Đoàn như Quy chế làm việc của
Ban Chủ nhiệm, Quy chế giám sát việc tập sự, giám sát, kiểm tra việc tuân theo
Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư. Đặc biệt các Đoàn luật sư có
Điều lệ riêng đã được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt. Căn cứ vào nhiệm vụ,
quyền hạn được giao, các Đoàn luật sư đã thực hiện tương đối tốt công tác giám
sát, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật, tuân theo quy tắc đạo đức và ứng xử nghề
nghiệp luật sư và Điều lệ Đoàn luật sư của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư; kịp
thời nhắc nhở, uốn nắn và có biện pháp xử lý nghiêm minh các trường hợp vi
phạm pháp luật, quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư; phối hợp chặt
chẽ với Sở Tư pháp và các cơ quan quản lý nhà nước khác ở địa phương thực
hiện tốt việc quản lý luật sư và hành nghề luật sư. Trong thời gian qua, các Đoàn
luật sư đã xử lý kỷ luật 53 luật sư, người tập sự hành nghề luật sư, trong đó 30
trường hợp bị xoá tên khỏi danh sách luật sư, người tập sự hành nghề luật sư.

Một số Đoàn luật sư đã tổ chức các hội thảo chuyên đề cho luật sư. Đặc
biệt là tổ chức các hội thảo về những khó khăn, vướng mắc trong việc tham gia tố
tụng của luật sư, kinh nghiệm giải quyết các vụ việc về tranh chấp quyền sử dụng
đất, rút kinh nghiệm đối với luật sư trong các vụ án có tính chất điểm, điển hình
như vụ án vi phạm các quy định về quản lý đất đai tại Đồ Sơn - Hải Phòng, vụ án
Bùi Tiến Dũng, nguyên Tổng Giám đốc ban quản lý các dự án - PMU18, vụ án bị
cáo Nguyễn Hồng Thủy và đồng bọn buôn bán, sản xuất ma túy, vụ án Vườn
Điều... mà luật sư tham gia theo tinh thần Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính
trị để đánh giá những mặt được và chưa được, tích cực và hạn chế về quan điểm
bào chữa, kiến thức pháp luật, kỹ năng tham gia tranh tụng, phong cách, văn hoá
ứng xử của luật sư. Công tác bồi dưỡng về kiến thức pháp luật, kỹ năng hành
nghề, đạo đức và ứng xử nghề nghiệp cho luật sư cũng được các Đoàn luật sư
quan tâm và chủ động thực hiện bước đầu đã có hiệu quả.
Các Đoàn luật sư tích cực tham gia đóng góp ý kiến xây dựng pháp luật,
tham gia tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân, trợ giúp pháp
lý, tư vấn miễn phí, bào chữa miễn phí. Một số Đoàn luật sư đã kịp thời phản ánh
những tâm tư, nguyện vọng của luật sư, đề xuất, kiến nghị với cơ quan Đảng và
Nhà nước về cơ chế, chính sách phát triển nghề luật sư, kịp thời tháo gỡ những
khó khăn, vướng mắc liên quan đến tổ chức, hoạt động luật sư
Tuy nhiên bên cạnh những đóng góp to lớn của Đoàn luật sư trong hoạt
động hành nghề luật sư thì vẫn tồn tại nhiều yếu điểm mà nếu khắc phục được nó
thì sẽ góp phần nâng cao vai trò và vị thế của đoàn luật sư hơn nữa trong sự
nghiệp phát triển nghề luật sư ở nước ta, cụ thể:
Thứ nhất, Tuy pháp luật quy định tổ chức luật sư đựoc thành lập theo địa
giới hành chính nhưng cũng có tỉnh ở Việt Nam không có đoàn luật sư (đó là
thuộc tỉnh miền núi, thuộc vùng sâu vùng xa và là vùng dân tộc thiểu số của Việt
Nam.
Thứ 2, tuy các tình thành phố có tổ chức luật sư nhưng chỉ có Đoàn luật sư
Hà Nội và Đoàn luật sư tại TP. Hồ Chí Minh là có số lượng luật sư đông (ở Hà
24



Nội là 1.400 luật sư còn ở TYP. Hồ Chí Minh là gần 2000 luật sư). Trong khi ở
các Đoàn luật sư khác thì chỉ trên dưới 1 chục người, có Đoàn luật sư chỉ có vài
ba người và cũng không phải là luật sư chuyên nghiệp vì họ còn kiêm nhiệm các
việc khác để có thêm thu nhập. Một hạn chế rất lớn của các Đoàn luật sư là không
giao lưu giữa các luật sư trong cùng 1 đoàn và giữa các đoàn luật sư cũng không
có mối dây liên kết. Rất hiếm khi có những buổi giao lưu về nghiệp vụ giữa các
Đoàn luật sư mà chỉ có những cuộc hội thảo chuyên ngành có mời các Đoàn luật
sư thì mới có dịp gặp gỡ. ở Đoàn luật sư Hà Nội duy trì truyền thống hàng năm
tổng kết có mời 1 số Đoàn luật sư ở phía Bắc tham dự để lên kế hoạch hành động
để nâng cao năng lực của luật sư và góp phần phát triển Đoàn luật sư ở Việt Nam.
1.8.2. Tổ chức xã hội – nghề nghiệp toàn quốc của luật sư
Trong Luật Luật sư 2006 Tổ chức xã hội – nghề nghiệp toàn quốc của luật
sư đó chính là tổ chức luật sư toàn quốc là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật
sư trong phạm vi cả nước, đại diện cho luật sư, các Đoàn luật sư, có tư cách pháp
nhân, có con dấu và tài khoản, hoạt động theo nguyên tắc tự trang trải bằng nguồn
thu từ phí thành viên, các khoản đóng góp của thành viên và nguồn thu hợp pháp
khác. Nhưng trong Luật sữa đổi bổ sung Luật Luật sư năm 2012 thì Tổ chức luật
sư toàn quốc với tên gọi là Liên đoàn luật sư Việt Nam.
1.8.2.1.giới thiệu về Liên đoàn luật sư Việt Nam.
Liên đoàn Luật sư Việt Nam (tên tiếng Anh: Vietnam Bar Federation,
viết tắt là VBF) là một tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hoạt động theo chế độ tự
quản, quản lý thống nhất trong phạm vi toàn quốc của các luật sư Việt Nam đại
diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các luật sư và các Đoàn luật sư là thành
viên của Liên đoàn. Liên đoàn Luật sư Việt Nam là thành viên của Mặt trận tổ
quốc Việt Nam. Trụ sở của Liên đoàn Luật sư Việt Nam đặt tại Hà Nội.
Trước khi có Liên đoàn Luật sư Việt Nam thì các Đoàn luật sư đã được
thành lập ở hầu hết các tỉnh, thành phố trên cả nước.
Ngày 16/01/2008, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 76/QĐTTg về việc phê duyệt Đề án "Thành lập Tổ chức Luật sư toàn quốc".

Hội đồng lâm thời Luật sư toàn quốc được thành lập ngày 04/6/2008, chủ
tịch là luật sư Lê Thúc Anh (nguyên Phó Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao).
Hội đồng lâm thời Luật sư toàn quốc có trách nhiệm soạn dự thảo Điều lệ tổ chức
luật sư toàn quốc, hướng dẫn các đoàn luật sư trên cả nước bầu đại biểu và chuẩn
bị các điều kiện cần thiết để tổ chức Đại hội đại biểu luật sư toàn quốc lần thứ
nhất.
Đại hội đại biểu Luật sư toàn quốc lần thứ nhất được tổ chức tại Hà Nội (từ
ngày 10-12/5/2009) đã thông qua việc thành lập Liên đoàn Luật sư Việt Nam vào
ngày 12/5/2009.

25


×