Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

skkn dạy văn hướng tới điều chỉnh hành vi ứng xử cho học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (869.38 KB, 26 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HƯNG YÊN
TRƯỜNG THPT VĂN GIANG
––––––––––––––

––––––––––––––

DẠY VĂN HƯỚNG TỚI ĐIỀU CHỈNH HÀNH VI
ỨNG XỬ CHO HỌC SINH

NGƯỜI VIẾT

: TÔ THỊ HỒNG VÂN

GIÁO VIÊN MÔN

: VĂN

TRƯỜNG

: THPT VĂN GIANG

TÀI LIỆU KÈM THEO

: ĐĨA CD

Văn Giang tháng 3 năm 2014
–––––––––––––

––––––––––––––

1




A. MỞ ĐẦU:
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong những năm gần đây, đạo đức xã hội và đạo đức học sinh trong
nhà trường đang xuống cấp một cách nghiêm trọng. Trong trường học, tình
trạng học sinh bỏ giờ, đánh nhau, nói tục, chửi thề, vô lễ với giáo viên…
có chiều hướng gia tăng. Ngoài xã hội, tình trạng vi phạm đạo đức, pháp
luật đã và đang khiến những người có lương tâm và trách nhiệm lo lắng.
Đứng trước thực trạng ấy, một câu hỏi đặt ra cho mỗi giáo viên là làm
sao trong quá trình giảng dạy có thể rèn luyện phẩm chất đạo đức cho học
sinh để các em có được hành vi chuẩn mực, có cách ứng xử tốt đẹp với
mọi người. Trong các môn học ở nhà trường, những môn học xã hội là
những môn học cung cấp cho học sinh những hiểu biết xã hội, từ đó góp
phần giáo dục tư cách đạo đức và điều chỉnh hành vi cho học sinh. Trong
các môn học xã hội, môn Ngữ Văn là một môn học có vai trò rất quan
trọng trong việc bồi dưỡng tâm hồn, từ đó góp phần hình thành nhân cách
cho học sinh. Vậy con đường nào, cách thức nào để thông qua mô n Văn
góp phần điều chỉnh hành vi cho người học Văn, từ đó góp phần nâng cao
đạo đức trong trường học và đạo đức xã hội? Xuất phát từ câu hỏi này,
chúng tôi đã đi và nghiên cứu đề tài: Dạy Văn hướng tới điều chỉnh hành
vi ứng xử cho học sinh.
II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ:
Dạy Văn hướng tới điều chỉnh hành vi cho người học là vấn đề được
nhiều người quan tâm đến, nhất là trong xu thế dạy học hướng tới học đi
đôi với hành. Vì vậy, trong các bài giảng của giáo viên đều có mục liên hệ
thực tế, giáo dục học sinh về tư tưởng, tình cảm và kĩ năng sống. Tuy
nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu nào đi sâu tìm hiểu đề tài này.
Vì vậy qua đề tài sáng kiến kinh nghiệm: Dạy Văn hướng tới điều chỉnh
hành vi ứng xử cho học sinh vẫn còn là một đề tài mới mẻ.

III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài gồm:
- Các bài đọc văn về tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ Văn THPT
2


- Các bài làm văn về nghị luận xã hội trong chương trình Ngữ Văn THPT
IV. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm này nhằm nghiên cứu thực trạng về dạy
và học Văn, từ đó đưa ra những giải pháp để học sinh yêu thích môn Văn,
có ý thức áp dụng kiến thức môn Văn vào thực tế đời sống, góp phần điều
chỉnh hành vi cho người học Văn.
V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
Đề tài của chúng tôi gồm những nội dung sau đây:
Thứ nhất: khái quát thực tế của việc dạy Văn, học Văn trong các nhà trường
hiện nay
Thứ hai: đưa ra những giải pháp của việc dạy Văn hướng tới điều chỉnh
hành vi ứng xử cho học sinh
Thứ ba: minh họa qua một tiết dạy cụ thể và rút ra kết luận chung
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Khi thực sáng kiến kinh nghiệm này, chúng tôi đã sử dụng các phương
pháp sau:
- Phương pháp liên môn: liên môn Giáo dục công dân và Ngữ Văn để
áp dụng văn học vào đời sống.
- Khi nghiên cứu khoa học: dùng phương pháp phân tích để tìm hiểu vấn đề,
phương pháp tổng hợp để rút ra những kết luận khoa học, dùng phương pháp thống
kê phân loại để nghiên cứu số liệu
- Khi giảng dạy, chúng tôi sử dụng các phương pháp dạy học nêu vấn đề,
phương pháp thuyết trình, phương pháp đàm thoại.


3


B. NỘI DUNG:
I. CÁC KHÁI NIỆM:
1. Hành vi là gì?
Hành vi là cách ứng xử của con người đối với một sự kiện, sự vật,
hiện tượng trong một hoàn cảnh, tình huống cụ thể, nó được biểu hiện
bằng lời nói, cử chỉ, hành động nhất định.
Hành vi của con người hàm chứa các yếu tố kiến thức, thái độ, niềm
tin, giá trị xã hội cụ thể của con người, các yếu tố này thường đan xen
nhau, liên kết chặt chẽ với nhau.
2. Ứng xử và hành vi ứng xử văn hóa:
Ứng xử là một biểu hiện của giao tiếp, là sự phản ứng của con người trước sự
tác động của người khác với mình trong một tình huống nhất định. Ứng xử được
thể hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng của con người nhằm đạt kết
quả tốt trong mối quan hệ giữa con người với nhau.
Hành vi ứng xử văn hóa là những biểu hiện hoạt động bên ngoài của
con người, được thể hiện ở lối sống, nếp sống, suy nghĩ và cách ứng xử
của con người đối với bản thân, với những người chung quanh, trong công
việc và môi trường hoạt động hằng ngày. Tuy nhiên hành vi ứng xử văn
hóa của mỗi cá nhân là khác nhau, nó được hình thành qua quá trình học
tập, rèn luyện và trưởng thành của mỗi cá nhân trong xã hội. Hành vi ứng
xử văn hóa của tuổi trẻ được coi là các giá trị văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ
của mỗi cá nhân được thể hiện thông qua thái độ, hành vi, cử chỉ, lời nói
của mỗi cá nhân đó. Nó được biểu hiện trong mối quan hệ với những người
chung quanh, trong học tập, công tác, với bạn bè c ùng trang lứa và thậm
chí ngay cả với chính bản thân họ.
II. THỰC TRẠNG VỀ CÁCH ỨNG XỬ CỦA HỌC SINH NGÀY HÔM NAY:
1. Biếu hiện:

Phải khẳng định rằng: cách ứng xử của học sinh ngày hôm nay đang
có nguy cơ đứng trước nguy cơ lệch chuẩn. Nhiều chuẩn mực đạo đức đã
được nhiều thế hệ học sinh trước đây trân trọng, tuân thủ một cách nghiêm
ngặt nay lại không được học sinh coi trọng.. Ngày nay, đi giữa sân trường
4


rất hiếm gặp cảnh tượng một sinh viên cúi đầu kính cẩn chào thầy cô giáo.
Ngay cả khi thầy cô bước vào lớp cũng có những bạn uể oải, “nhấp nhổm”
nửa đứng, nửa ngồi hoặc nếu thầy cô nào “dễ tính”, thì sẵn sàng vừa ngồi
vừa chào. Trong khi các thầy cô đang hăng say giảng bài thì dưới lớp một
số bạn sinh viên “hồn nhiên” ăn sáng, một số bạn khác thì ngủ gật hoặc
dùng điện thoại, làm việc riêng. Khi bị nhắc nhở, có sinh viên còn tỏ thái
độ chống đối, thậm chí cãi nhau tay đôi với các thầy cô , cá biệt còn có tình
trạng học sinh đánh lại thầy giáo ngay trên bục giảng... Ranh giới giữa
thầy và trò ngày càng mong manh và lời dạy “nhất tự vi sư, bán tự vi
sư” cũng ít được các bạn trẻ ngày nay ghi nhớ.
Ý thức kém của học sinh còn được thể hiện ngay từ những việc rất
nhỏ, rất đời thường như xả rác bừa bãi. Những tờ giấy gói xôi, những vỏ
bánh mỳ, vỏ hộp sữa, vỏ hạt hướng dương… xuất hiện nhan nhản khắp sân
trường, lớp học cho dù thùng rác được bố trí ở mọi nơi. Có trường hợp khi
"được" bạn bè nhắc nhở, lại còn tỏ thái độ khinh khỉnh: " Tao làm gì kệ tao,
không ảnh hưởng gì đến mày là được. Không xả rác thì lao công làm gì có
việc để làm?"
Tóm lại, có vô số những hành vi ứng xử không đúng của các học
sinh, sinh viên với thầy cô, bạn bè. Nó có thể xuất phát xuất phát từ nhu
cầu thể hiện “cá tính” hoặc cũng có thể xuất phát từ lối sống “thoáng”
của các bạn trẻ… nhưng dù là lý do gì thì đó cũng là những hành vi rất xấu
trong môi trường giáo dục.
2. Nguyên nhân:

Vậy nhiều người trong giới trẻ, trong đó có nhiều học sinh đang ứng
xử thiếu văn hóa vì đâu?
Như trên đã trình bày, sự xuống cấp về đạo đức trong xã hội là
nguyên nhân chính gây ra việc lệch chuẩn về hành vi đang diễn ra trong
giới trẻ. Đạo đức xã hội đang ngày càng bị băng hoại, tạo nên những lối
mòn xấu cho nhiều người đi theo. Ví dụ: ở nơi công cộng, người lớn vứt
rác bừa bãi, trẻ em thấy những hành động của người lớn như vậy chắc chắn
chúng sẽ học theo.

5


Bên cạnh đó, việc các luồng văn hóa phương Tây tràn vào Việt Nam,
tiếp đó là sự phát triển không ngừng của công nghệ thông tin đã khiến cho
các bạn trẻ ngày càng có nhiều điều kiện để bộc lộ cái tôi của mình. Nhưng
đó cũng là một trong những nguyên nhân hình thành nên hành vi, thái độ
ứng xử không tốt của các bạn trẻ. Tâm lý giới trẻ luôn mong muốn tiếp thu
và bắt chước cái mới, cái lạ về mọi mặt, trong đó có các hành vi ứng xử,
tuy nhiên, rất ít trong số đó có sự chọn lọc. Vì vậy, có những lối sống chưa
lành mạnh trong văn hóa xứ người đã du nhập vào Việt Nam.
Sự bùng nổ của truyền thông cũng có tác động rất lớn đến thái độ và
hành vi ứng xử của giới trẻ, bởi có truyền thông là sẽ có hiệu ứng ảnh
hưởng. Trên các trang mạng xă hội như diễn đàn, forum… ngày nay đầy
rẫy những câu chửi thề, nói tục, những phát ngôn gây sốc, những bài viết
nói xấu thầy cô, bạn bè, trường lớp… Việc nghe, nhìn thấy nó hàng ngày
khiến cho các bạn trẻ dễ dàng bị “nhiễm theo” và bắt chước.
3. Hậu quả:
Đây hoàn toàn là những biểu hiện của nếp sống xa lạ, sai trái, đi
ngược với truyền thống văn hóa dân tộc. Những hành vi đó tác hại của nó
không nhỏ: làm rạn nứt mối quan hệ tốt đẹp vốn có giữa thầy với trò, làm

rối loạn kỉ cương trong nhà trường, làm ảnh hướng nghiêm trọng đến chất
lượng giáo dục và đào tạo, làm suy thoái đạo đức xã hội.
Hậu quả của những hành vi xấu của học sinh trong nhà trườ ng là
không nhỏ. Vậy những môn học có tác dụng giúp điều chỉnh hành vi như
môn Văn trong nhà trường hiện nay đang diễn ra như thế nào , đã góp phần
quan trọng điều chỉnh hành vi ứng xử của học sinh trong trường học hay
chưa? Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi xin đi vào vấn đề thực trạng học
Văn ở trường phổ thông.
III. THỰC TRẠNG VỀ VIỆC HỌC VĂN CỦA HỌC SINH Ở
TRƯỜNG PHỔ THÔNG:
1. Biểu hiện:
Học Văn không chỉ là học ngôn ngữ, học tác phẩm văn học, học Văn là học
làm người. Theo M.Gorki- nhà văn vĩ đại của nước Nga thì: “ Văn học là nhân

6


học”. Nếu văn chương được ví như khoa học nghiên cứu con người thì học Văn
chính là học cách làm người theo đúng nghĩa cao đẹp nhất..
Nhưng tiếc rằng, không phải học sinh nào cũng ý thức được tầm
quan trọng của môn Văn. Nhiều học sinh học Văn nhưng chẳng hiểu để
làm gì, bởi họ chưa biết ứng dụng môn học vào cuộc sống. Trên thực tế,
việc học Văn trong nhà trường THPT chưa được coi trọng đúng mức. Học
sinh thường có một suy nghĩ sai lệch rằng môn Văn không quan trọng, chỉ
vì môn học này không giúp học sinh thi được vào một trường đại học khối
kinh tế hay kĩ thuật, khiến họ có thể kiếm được một công ăn việc làm có
thu nhập cao.
2. Nguyên nhân:
Học sinh chưa yêu thích môn học không chỉ do những nhận thức xã
hội lệch lạc về môn học mà còn bởi cách dạy học nói chung và dạy Văn

nói riêng chưa gắn với thực hành, chưa gắn với đời sống. Môn Văn trong
nhà trường vẫn còn chưa thực sự gắn bó với thực tế. Nhiều bạn trẻ học
Văn nhưng lại không biết cách ứng dụng Văn vào thực tế cuộc sống. Một
tác phẩm văn học rất hay mà qua đó ta có thể học được rất nhiều bài học
quý giá nhưng những bài học bổ ích, lí thú đó lại không được các bạn học
sinh vận dụng trong đời sống. Thật đáng tiếc vì không được thực hành qua
ứng xử thì xét đến cùng, những kiến thức trê n sách vở kia chỉ là đống lí
thuyết xuông không có tác dụng.
3. Hậu quả:
Hậu quả của việc xem nhẹ môn Ngữ Văn trong nhà trường phổ
thông là không nhỏ. Nó là một trong những nguyên nhân dẫn đến những
hành vi lệch chuẩn của học sinh nói riêng và giới trẻ nói chung. Khi một
môn học bồi dưỡng tâm hồn và dạy làm người không được coi trọng thì tất
nhiên, nó ảnh hưởng đến cả một thế hệ. Không rung động với tác phẩm văn
học, tâm hồn con người trở nên khô cứng, hời hợt, không phân định được
rõ ràng giữa đúng với sai, yêu với ghét, giữa những điều nên làm và những
điều không nên làm.
Trên cơ sở tình hình dạy và học môn Văn ở trường phổ thông còn xa
thực tế, chưa đáp ứng được nhu cầu giáo dục đạo đức trong trường học,
7


chúng tôi đã nghiên cứu và đưa ra những giải pháp sau đối với việc dạy
học môn Văn:
IV. GIẢI PHÁP DẠY VĂN HƯỚNG TỚI ĐIỀU CHỈNH HÀNH VI
ỨNG XỬ:
Học Văn để có thể áp dụng kiến thức văn chương vào đời sống, để
điều chỉnh hành vi đạo đức trong giới trẻ không phải là quá khó, nếu mỗi
bain học sinh giáo viên thực hiện được qui trình học tập như sau:
1. Yêu cầu học sinh đọc kĩ tác phẩm và soạn bài trước khi đến lớp:

Nhiều học sinh có thói quen chưa đọc tác phẩm đã soạn bài. Nội dung
bài soạn sẽ được chép ở sách Để học tốt Ngữ Văn, vốn bày bán trên thị
trường rất phổ biến. Làm vậy tiết kiệm thời gian soạn bài nhưng tác hại là
rất lớn: không tiếp xúc với tác phẩm, không thực sự đọc hiểu văn bản, từ
đó học sinh sẽ không thể hiểu bài cô giáo giảng. Vì vậy, học sinh phải từ
bỏ thói quen này và soạn bài đầy đủ trước khi đến lớp. Giáo viên kiểm tra
đôn đốc thường xuyên, học sinh dần dần sẽ đi vào nề nếp .
2. Trên lớp, tạo tinh thần hăng hái phát biểu xây dựng bài cho học sinh.
Nhiều học sinh càng lớn càng rụt rè trong giờ học. Nhiều khi các em
biết nhưng vẫn không xung phong trả lời câu hỏi, sọ rằng nhỡ lại sai, các
bạn sẽ cười chê. Tuy nhiên, đó cũng là một quan niệm sai lầm. Nếu học
sinh tích cực xây dựng bài, các em sẽ thấy hiểu bài ngay tại lớp, tiết kiệm
thời gian học bài ở nhà, hiểu bài nhanh hơn. Khi ấy, bạn sẽ thấy yêu thích
hơn môn học của mình. Giáo viên cần biết động viên học sinh học tập để
các em nhiệt tình hăng hái tham gia vào bài giảng của minh.
3. Hướng dẫn học sinh đọc hiểu tác phẩm văn học để tìm ra ý nghĩa của nó.
Học Văn để ứng dụng vào cuộc sống- muốn làm được điều đó trước
tiên học sinh phải hiểu sâu về tác phẩm để nắm rõ nội dung, ý nghĩa, tư
tưởng của tác phẩm.
Trước đây, nhiều học sinh thường lầm tưởng học Văn là học thuộc vẹt
những điều thầy cô giảng và những điều tài liệu tham khảo đã viết để trình
bày lại trong bài của mình. Lối học vẹt như vậy khiến nhiều người thấy
mệt mỏi, chán nản.
8


Chương trình Ngữ Văn đổi mới nhấn mạnh việc đọc hiểu văn bản văn học,
coi kĩ năng đọc hiểu văn bản là một trong những kĩ năng cơ bản của con người
trong cuộc sống hiện đại. Khi dạy học sinh đọc hiểu văn bản văn học, người
giáo viên cần chú ý những đặc trưng sau của văn bản văn học:

Thứ nhất, văn bản văn học là văn bản đa nghĩa. Đọc hiểu văn bản văn
học phải tìm được nhiều lớp nghĩa khác nhau của chúng.
Thứ hai, trong quá trình đọc hiểu các lớp nghĩa phải đi từ lớp nghĩa bề
mặt, từ đó mới khơi gợi dần đi tìm những lớp nghĩa bề sâu. Nếu học sinh
càng tìm được nhiều các lớp nghĩa của văn bản văn học, học sinh đó càng
thành công.
Thứ ba, các lớp nghĩa của văn bản văn học tìm được có thể không hoàn toàn
giống với những điều học sinh được đọc, được học. Điều đó hoàn toàn có thể
chấp nhận. Tuy nhiên, những đều bạn tìm được phải được suy ra từ câu chữ, hình
tượng văn học cụ thể, không phải là những điều suy diễn tùy tiện.
Nếu tuân thủ đúng qui trình đó, dù văn bản khó hiểu đến đâu, học sinh
cũng có thể khám phá được. Chẳng hạn đọc hiểu tác phẩm Bài ca ngắn đi
trên bãi cát của Cao Bá Quát- một tác phẩm khó của văn học trung đại
Việt Nam, hãy bắt đầu từ việc tìm lớp nghĩa trên bề mặt của tác phẩm. Đó
là hình tượng con đường đi trên cát dưới ánh mặt trời nóng bỏng như thiêu
như đốt. Lữ khách trên đường rơi nước mắt vì nỗi nhọc nhằn khổ ải trên
đường như đầy đọa thân xác con người.
Đặt bài thơ trong bối cảnh thời đại và hoàn cảnh riêng của tác giả, ta
lại khám phá ra những ý nghĩa riêng của nó. Con đường đi trên cát chính là
con đường đi thi của Cao Bá Quát, đi từ quê hương nhà thơ ở làng Phú
Thị- Gia Lâm- Hà Nội đến kinh đô Huế dự thi. Trên hành trình gian khổ
ấy, Cao Bá Quát phải đi qua những tỉnh miền trung với mênh mang những
cồn cát nóng bỏng chân người. Nổi tiếng văn hay chữ tốt khắp thiên hạ
nhưng lại lận đận trên con đường thi cử, mỗi lần đi thi lại là một cuộc hành
trình đầy khổ ải trong cuộc đời Cao Bá Quát. Vì vậy, con đường cát là biểu
tượng cho con đường công danh- con đường mà ông đã vô cùng chán ghét
nhưng không còn cách nào khác buộc phải bước đi. Đã sinh ra là nhà n ho,
đã học chữ thánh hiền, Cao Bá Quát chỉ có một con đường duy nhất là đi
9



thi, đỗ đạt, ra làm quan để giúp vua trị nước cứu đời. Nhưng thời Cao Bá
Quát là thời đổ nát, triều đình phong kiến chỉ là nơi lui tới của bọn sâu mọt
nịnh thần nên con đường công danh vì thế mà trở nên nhem nhuốc, xấu xa.
Cao Bá Quát chán ghét công danh còn vì lẽ đó.
Đặt bài thơ trong bối cảnh thời đại, chúng ta con cảm nhận được một
tầng nghĩa nữa của tác phẩm. Việt Nam thế kỉ XVIII dưới sự cai trị của
triều đình nhà Nguyễn là một quốc gia trì trệ bảo thủ. Nền học vấn theo lối
cũ chỉ trọng văn chương, không trọng thực học, ê a tụng niệm những điều
cũ kĩ, không còn hợp với nhu cầu của thời đại. Là một nhà nho có tư tưởng
khai sáng, Cao Bá Quát đã sớm nhận ra điều bất cập của lối học cũ. Sự bế
tắc của ông, xét đến cùng không phải chỉ là bi kịch của một con ngườis mà
còn là bi kịch của cả một lớp người, bi kịch của cả thời đại. Hiểu được
những điều ấy, bạn sẽ thấy tác phẩm thật sâu sắc, nó đã đặt ra được những
vấn đề to lớn của thời đại. Việc hiểu tác phẩm sẽ khiến bạn yêu quí hơn,
trân trọng hơn giá trị của nó.
4. Hướng dẫn học sinh từ ý nghĩa tác phẩm văn học đã hiểu được,
suy ngẫm về những bài học cuộc sống được đặt ra trong mỗi tác phẩm
và hãy cố gắng làm theo những bài học bổ ích đó:
Dạy xong mỗi tác phẩm văn học, giáo viên hướng dẫn học sinh tự rút ra
được những bài học cho mình. Điều quan trọng là các em suy ngẫm về những bài
học ấy, đặt mình trong hoàn cảnh của các nhân vật, từ đó suy ngẫm về cách ứng
xử của mình trong những tình huống tương tự của cuộc sống.
Mỗi tác phẩm, dù nói về con người hay thiên nhiên đều cho ta những
bài học làm người. “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến là một ví dụ. Bài thơ
đã vẽ lên một bức tranh phong cảnh thật đẹp- một bức tranh mùa thu với
những nét đặc trung của đồng bằng Bắc Bộ xưa. Đó là khung cảnh một
vùng quê đồng bằng đang vào thu với các dấu hiệu rất riêng, rất điển hình
của mùa thu đồng bằng Bắc Bộ: chiếc ao làng với làn nước trong veo trong
một không gian nhỏ bé, xinh xắn, cái lạnh lẽo của gió heo may ngấm vào

là nước trong veo dười tận đáy ao, bầu trời mùa thu xanh cao vời vợi với
những đám mây hiền hòa… Cảnh thu đặc trưng cho khung cảnh vùng nông
thôn Bắc Bộ với ngõ nhỏ quanh co đầy tre trúc. Những cảnh vật làng q uê
10


Bắc Bộ như vậy giờ đã không còn, thay vào đó là con đường bê tông thẳng
tắp với những nhà cao tầng san sát nhau. Thật may sao, nông thôn bắc Bộ
truyền thống vẫn được lưu giữ nguyên vẹn qua những vần thơ của Nguyễn
Khuyến. Đọc tác phẩm, giáo viên dạy cho học sinh biết yêu hơn thế giới
thiên nhiên quanh mình, thấy trân trọng hơn quá khứ dân tộc, thấy thêm
yêu quê hương và yêu hơn những giá trị truyền thống của văn hóa Việt
Nam. Tình yêu ấy phải biến thành những hành động, có thể nhỏ bé nhưng
thiết thực, góp phần xây dựng quê hương giàu đẹp.
Đến với văn học chính là đến với một hành trình khám phá vẻ đẹp của
quê hương đất nước. “ Bài ca phong cảnh Hương Sơn” của thi sĩ Chu
Mạnh Trinh là một điển hình của hành trình khám phá ấy. Hương Sơn qua
lời thơ của thi sĩ họ Chu là một nơi với khung cảnh núi rừng trùng điệp
giữa trời, mây, non, nước với quần thể kiến trúc thiên tạo và n hân tạo với
suối, chùa, am, động… Qua bài thơ, mỗi học sinh tự thấy bản thân phải có
trách nhiệm bảo vệ những di tích đó để những cái đẹp của cảnh quan thiên
nhiên và những cái đẹp của không gian văn hóa tâm linh còn được lưu giữ
mãi mãi
“ Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến cũng là một bài thơ hay viết
về tình bạn. Bài thơ ca ngợi tình cảm cao đẹp của nhà văn Nguyễn Khuyến
và bạn của ông là Dương Khuê. Họ thân thiết gắn bó bên nhau từ tuổi
thanh xuân đến khi tuổi già đầu bạc, vừa yêu thương gắn bó, vừa trân trọng
nâng niu giữ gìn tình bạn. Sau này, dù cuộc đời nhiều thay đổi, dù hai
người mỗi người một lí tưởng, chí hướng: một người ở lại làm quan cho
triều đình, một người cáo quan về ẩn dật thì nhưng tình bạn giữa họ vẫn

không thay đổi trước bao biến đổi dâu bể của cuộc đời. Khi đọc, học tác
phẩm, học sinh có thể nhìn nhận lại thái độ, cách ứng xử đối với bạn mình.
Liệu có khi nào nói xấu về bạn mình chưa? Đã giúp đỡ bạn bè lúc khó
khăn chưa? Giúp đỡ bạn bằng cách đó đã phải là tốt cho bạn chưa? Giúp
đỡ bạn bè không phải bằng cách giờ kiểm tra cho bạn chép bài, bao che
cho những khuyết điểm của bạn. Chúng ta giúp đỡ bạn bằng cách cùng
giúp bạn tiến bộ: những bài tập khó mà bạn chưa hiểu, mình c ó thể giảng
giải giúp bạn. Hãy giúp bạn khắc phục những khuyết điểm, khuyên bạn từ
bỏ những cái xấu để chăm chỉ, cố gắng học hành. Như vậy, chúng ta mới
11


giúp bạn bè một cách đúng nghĩa. Giúp đỡ bạn bằng cách bao che những
khuyết điểm cho bạn, là hại bạn chứ không phải giúp bạn. Hãy học cách
giúp đỡ bạn mình để bạn cùng tiến bộ.
5. Giáo viên giúp học sinh đi tìm những tình huống đời sống đặt ra
trong những tác phẩm văn học :
Có những tác phẩm thoạt tiên tiếp xúc tưởng như nó không còn liê n
quan gì đến đời sống, chỉ thuần túy chỉ là những truyện trong sách vở.
Nhưng thực ra không phải như vậy. Văn chương chính là chuyện cuộc đời,
bất kì những vấn đề nào đặt ra trong những tác phẩm cũng là những vấn đề
của đời sống.
Có thể lấy tác phẩm Bài ca ngất ngưởng của nhà nho Nguyễn Công
Trứ trong chương trình Ngữ Văn 11 làm minh chứng. Bài thơ ra đời từ thế
kỉ XVIII, nhưng vẫn đặt ra những vấn đề mà con người trong cuộc sống
hiện đại vẫn phải đối mặt. Tác phẩm viết về bản lĩnh và cá tính của một
nhà nho thể hiện qua tài năng, lí tưởng, học vấn, quan niệm sống. Ngất
ngưởng đi giữa cuộc đời, Nguyễn Công Trứ tưởng chừng n hư không giống
ai: người đời thích làm quan, ông cho rằng làm quan chính là vào lồng;
người đời sợ dư luận, ông thách thức dư luận; người đời thích được, sợ

mất, Nguyễn Công Trứ xem thường chuyện được mất ở đời; người đời
thích đi theo những lối mòn có sẵn, Nguyễn Công Trứ tự tìm một con
đường đời cho riêng mình. Chính vì vậy mà giữa chốn triều đình đầy rẫy
những kẻ bất tài vô dụng, Nguyễn Công Trứ trở thành một đỉnh cao ngất
ngưởng để bao kẻ phải ngước nhìn. Cá tính của ông xét đến cùng là một
cách phản đối trật tự phong kiến đầy rẫy bất công đương thời.
Bài thơ viết về Nguyễn Công Trứ- một nhà nho tài tử của thế kỉ XVIII.
Nó không chỉ đặt ra những vấn đề của quá khứ mà còn để lại bài học về
cách ứng xử của con người trong xã hội hiện đại. Nguyễn Côn g Trứ tuy
chán ghét công danh nhưng vì lí tưởng cao cả, ông sẵn sàng vào lồng công
danh. Nguyễn Công Trứ không ưa gì các bậc phương diện quốc gia nhưng
ông dù ngất ngưởng nhưng vẫn là một trung thần, hết lòng trung với vua,
trung với nước.

12


Từ tác phẩm này có thể đặt ra một tình huống của đời sống: trong
cuộc sống, có phải lúc nào con người cũng được hành động theo sở
thích, các tính riêng của mình? Tác phẩm của Nguyễn Công Trứ chính là
một câu trả lời. Từ cách hành xử của Nguyễn Công Trứ, tuy ngất ngưởng
mà vẫn khuôn mẫu, học sinh có thể học được cách ứng xử của người xưa:
dù không muốn nhưng nhiều lúc con người phải ép mình vào khuôn khổ.
Xã hội hiện đại chấp nhận cá tính con người. Tuy nhiên, không thể lấy ý
thích cá nhân của mình làm trung tâm của xã hội mà nhiều lúc cái cá nhân
phải đặt dưới quy định của cộng đồng. Trong cách ứng xử, không phải lúc
nào cũng ưu tiên cho cá tính, cá tính trong nhiều trường hợp phải lui xuống
hàng thứ yếu để con người thực hiện các bổn phận của bản thân.
6. Cho học sinh giải quyết những tình huống đời sống được đặt ra
trong những tác phẩm văn học.

Vào cuối tiết học, giáo viên có thể tổ chức một cách học Văn hiệu quả
và thú vị bằng cách đặt ra những tình huống đời sống t rong các tác phẩm
văn học và yêu cầu học sinh trả lời. Nếu được mọi người hưởng ứng, đây
sẽ là một hình thức học Văn gắn với thực tế đời sống một cách đặc biệt
hấp dẫn.
Chẳng hạn, từ tác phẩm “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong
chương trình Ngữ Văn 10, ta có thể đặt ra những tình huống ứng xử dưới
dạng những câu hỏi cho học sinh chọn lựa: Em có tán đồng quan điểm
sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm hay không? Tại sao? Nếu được lựa
chọn, em chọn cuộc sống ở “nơi vắng vẻ” hay “chốn lao xao”? Lí giải vì
sao em lựa chọn như vậy?
Khi đó sẽ có một sự tranh luận rất sôi nổi. Người cho rằng thế này,
người lại nói rằng thế khác. Chủ tọa có thể kết lại bằng một sự đánh giá:
cách hành xử của Nguyễn Bỉnh Khiêm là cách hành xử bất đắc dĩ của một
nhà nho sinh ra gặp thời nhiễu nhương loạn lạc, thể hiện trí tuệ uyên thâm
và vẻ đẹp nhân cách của kẻ sĩ với hành động lánh đục về trong. Cách hành
xử đó trong cuộc sống thời bình hôm nay có những nét không hợp thời vì
những người tuổi trẻ ngày hôm nay cần đem hết tài năng, tâm huyết của
mình ra giúp đời, giúp nước. Tuy nhiên, vẫn có thể học tập nhà nho
13


Nguyễn Bỉnh Khiêm ở lối sống thanh cao, không màng danh lợi, ở cách
kết hợp giữa lao động chân tay và giải trí, ở lối sống hòa hợp , trở về giữa
lòng thiên nhiên để di dưỡng sức khỏe và tâm hồn.
7. Giúp học sinh tổng kết những bài học ứng xử được đặt ra trong tác
phẩm theo những chủ đề khác nhau. Nhắc nhở học sinh thường xuyên
ghi nhớ chúng để biến những bài học trong sách vở thành chính
phương châm ứng xử của mình.
Dưới sự hướng dẫn của các thầy cô giáo, học sinh có thể tổng kết và

rút ra những bài học như sau :
Về ứng xử trong gia đình : Văn học dạy chúng ta hãy biết thương
yêu : thương yêu, kính trọng cha mẹ, yêu quí anh chị em ruột thịt, biết
nhường nhịn, biết hi sinh.
Về ứng xử ngoài xã hội : Văn học dạy chúng ta hãy biết yêu quí mọi
người, biết cởi mở, thân thiện với mọi người, dù người đó ta chỉ gặp một
lần trong cuộc đời. Những điều mình không mong muốn thì không làm cho
mọi người, những gì mình mong muốn thì cố gắng làm cho mọi người,
sống vì mọi người cũng là một hạnh phúc vì bàn tay tặng hoa hồng cũng
được lưu giữ mùi hương.
Về ứng xử với thế giới tự nhiên : đặt trong thách thức chung của thời
đại, trước nguy cơ biến đổi khí hậu, thiên tai ngày càng hoành hành, có sức
công phá mạnh mẽ, mỗi con người cần biết ứng xử hài hòa với tự nhiên.
Hãy biết yêu quí những cánh rừng, hãy biết yêu quí những dòng sông, hãy
làm tất cả để có một môi trường sống trong lành.
Nhưng bên cạnh những quan hệ ứng xử trên, mỗi con người cần phải
ứng xử ngay với chính bản thân mình. Hãy yêu quí và chăm sóc tốt cho
chính bản thân mình nhưng đừng nuông chiều nó. Hãy nghiêm khắc với
chính mình, hãy cố gắng phấn đấu cho tương lai bản thân nhưng khi cần,
bạn phải biết hi sinh bản thân mình cho người khác. Đó là lẽ sống cao cả
mà chúng ta rút ra được từ những tác phẩm văn học.
V.MINH HỌA QUA MỘT TIẾT DẠY CỤ THỂ:

14


Tiết 36

Đọc văn


CẢNH NGÀY HÈ
( Bảo kính cảnh giới – bài 43 )
Nguyễn Trãi

A. Mục tiêu bài học
Kiến thức :
- Cảm nhận được vẻ đẹp độc đáo của bức tranh ngày hè và tâm hồn yêu thiên
nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất nước của Nguyễn Trãi.
- Thấy được vẻ đẹp của thơ Nôm Nguyễn Trãi: bình dị, tự nhiên đan xen câu lục
ngôn vào câu thất ngôn.
Kĩ năng:
- Đọc hiểu một tác phẩm thơ trung đại
Thái độ :
- Tình yêu thiên nhiên, đất nước, tình cảm gắn bó với cuộc sống người dân.
B. Phương tiện thực hiện: SGK, SGV, thiết kế giáo án, chuẩn KTKN
C. Cách thức tiến hành: GV tổ chức giờ dạy học theo cách kết hợp các phương
pháp đọc diễn cảm, gợi tìm, trao đổi thảo luận, trả lời câu hỏi.
D. Tiến trình dạy học
1. Ổn định tổ chức: Kiểm tra sĩ số
2.Bài cũ:
Đọc thuộc lòng bài Tỏ lòng. Phân tích bài thơ. Từ bài thơ, em học tập được gì ở
danh tướng Phạm Ngũ Lão?
3. Bài mới
Hoạt động của GV, HS

Mục tiêu cần đạt
I. Giới thiệu chung

- Gọi HS đọc tiểu dẫn. Phần 1. Tiểu dẫn: Giới thiệu Quốc âm thi tập
tiểu dẫn giới thiệu nội dung - Đặt nền móng và mở đường cho sự phát triển của thơ

gì?
tiếng Việt - gồm 245 bài.
- Trình bày những nét khái
15


quát về tập thơ Quốc âm thi - Về nội dung: phản ánh vẻ đẹp con người Nguyễn Trãi:
tập.
nhân nghĩa, yêu nước, thương dân, yêu thiên nhiên, cuộc
sống.
- Về nghệ thuật: Thơ Đường luật được sử dụng thuần thục
như thể thơ dân tộc, có khi chen vào câu lục ngôn ( 6 chữ).
- Về bố cục: Chia làm 4 phần (SGK).
2. Văn bản
- Gọi HS đọc diễn cảm bài
thơ: giọng điệu thể hiện tâm
trạng vui, sảng khoái. Giải
nghĩa từ khó.

a. Xuất xứ: Trích Quốc âm thi tập, phần Vô đề, mục Bảo
kính cảnh giới- bài số 43.
b. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ

Bài thơ thể hiện vẻ đẹp tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đời,
+ Xuất xứ?
yêu cuộc sống của Nguyễn Trãi, đồng thời bộc lộ khát
+ Cảm hứng chủ đạo của bài vọng về cuộc sống thanh bình, hạnh phúc cho nhân dân.
thơ là gì?
II. Tìm hiểu văn bản
1. Vẻ đẹp bức tranh, thiên nhiên, cuộc sống

a. Bức tranh ngày hè sinh động và đầy sức sống
* Tính sinh động: kết hợp giữa đường nét, màu sắc, âm
+ HS thảo luận câu hỏi 5 thanh, con người, cảnh vật.
SGK.
- Màu sắc: + Màu lục của lá hoè đùn đùn ra mãi
+ Màu đỏ của hoa lựu như phun vào không
gian
+ Màu vàng của ánh mặt trời buổi
- Gợi ý cho HS trả lời câu
hỏi 2.
- Âm thanh
chiều
+ Tiếng ve inh ỏi- đặc trưng của mùa hè.
+ Tiếng lao xao chợ cá- đặc trưng làng chàì.
- Hình ảnh đặc trưng
+ Hoa lựu đỏ rực
+ Sen ngát mùi hương

+ kết hợp cách ngắt nhịp
không theo luật

- Có những động từ nào diễn  Làm nổi bật cảnh vật trong ngày hè.
16


tả trạng thái cảnh ngày hè? * Trạng thái cảnh ngày hè
Trạng thái của cảnh diễn tả
- Về thời gian: Cảnh vật đang ở cuối ngày( lầu tịch dương).
ra sao?
Nhưng sự sống thì không dừng lại.nhà thơ dùng các động

từ: đùn đùn, giương, phun như có một cái gì thôi thúc từ
bên trong đang ứa căng, tràn đầy không kìm lại được 
- GV mở rộng: các tác giả Đầy sức sống.
thời Hồng Đức tả bức tranh b. Sư giao cảm tinh tế giữa nhà thơ và cảnh vật
mùa hè đẹp, mộc mạc nhưng - Nhà thơ đón nhận cảnh vật bằng nhiều giác quan: thị giác,
thô:
thính giác, khứu giác và cả sự liên tưởng.
Nước nồng sừng sực dầu rô - Biết hoà màu sắc ,âm thanh, đường nét theo qui luật của
trỗi
cái đẹp trong hội hoạ, âm nhạc
Ngày nắng chang chang lưỡi  Bức tranh thiên nhiên có hình, có hồn, gợi tả, sâu
chó lè.
lắng.
- Gợi ý cho HS trả lời câu 2. Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi
hỏi 3.
a. Tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu cuộc sống
- “ Rồi hóng mát thuở ngày trường”: với thời gian rảnh rỗi,
tâm hồn thư thái thanh thản cùng khí trời mát mẻ, trong
lành là hoàn cảnh rất hiếm hoi, lí tưởng để NT làm thơ, yêu
say cảnh đẹp.

Giáo viên lồng ghép giáo
dục tư tưởng cho học sinh:

- Âm thanh lao xao chợ cá + tiếng cầm ve  Chính là khúc
nhạc lòng của tác giả đang rộn rã niềm vui trước cảnh “
dân giàu đủ”.

Khi sáng tác bài thơ,
Nguyễn Trãi đang trong

thời kì ở ẩn. Dù bất đắc chí
nhưng ông đã gác lại nỗi
buồn về thân phận của
mình để mở lòng mình ra
trước thiên nhiên tạo vật.
17


Nguyễn Trãi yêu từng
đường nét, từng sắc màu,
từng rung động xôn xao
của cây lá xung quanh
mình. Tình yêu sâu sắc ấy
khiến mỗi chúng ta chợt
nhận ra vẻ đẹp của thế giới
thiên nhiên xung quanh ta,
nó khiến mỗi người chúng
ta phải suy nghĩ về cách
ứng xử của mình với thiên
nhiên và môi trường sống.
Điều đó là vô cùng cấp
thiết vì cùng với sự phát
triển của xã hội hiện đại
hôm nay, môi trường sống
b. Tấm lòng ưu ái với dân với nước
của con người đâng bị hủy
hoại một cách nghiêm Mong ước có được chiếc đàn của vua Thuấn để gãy khúc
Nam phong cho dân được ấm no hạnh phúc( dân giàu đủ).
trọng.
Nhưng đó là hạnh phúc cho tất cả mọi người, mọi nơi(

HS thảo luận trả lời câu hỏi
khắp đòi phương)
4.
 Yêu nước thương dân, tha thiết đến trọn đời. Đó
chính là lí tưởng cao cả của người anh hùng có tư tưởng
- GV hướng HS vào phần ghi
thân dân, về ở ẩn vẫn nặng lòng với dân với nước
nhớ. Gọi HS đọc to và rõ
 Ghi nhớ: SGK
phần ghi nhớ.
Giáo viên lồng ghép giáo
dục tư tưởng cho học sinh:
Tình yêu đất nước của
Nguyễn Trãi được thể hiện
qua một nguyện ước cao
cả: ước cho nhân dân khắp
18


nơi được giàu đủ, đất nước
được thái bình. Ngày nay,
đất nước đã được thái bình
nhưng cuộc sống vẫn còn
biết bao nhiêu những nhọc
nhằn, vất vả. Đất nước vẫn
luôn rất cần có những con
người có tấm lòng như
Nguyễn Trãi để đứng ra
gánh vác trọng trách với
dân, với nước. Mặc dù ra

đời cách đây hàng trăm
năm, bài thơ vẫn khiến
chúng ta xúc động, từ đó,
làm thức tỉnh tình yêu và
trách nhiệm của mỗi công
dân với đất nước.
4. Củng cố: Phần ghi nhớ
5. Dặn dò:
- Học thuộc lòng bài thơ .
- Soạn: Tóm tắt văn bản tự sự
- Bài về nhà: Cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn, lí tưởng của Nguyễn Trãi qua
bài thơ Cảnh ngày hè. Qua đó, em rút ra được bài học gì về lí tưởng sống
cho bản than.
VI. KẾT QUẢ:
Để thực hiện công trình nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu trên hai nhóm học sinh, bao gồm đối tượng là học sinh lớp 11 và 12
trường THPT Văn Giang. Ở những lớp có học sinh thuộc đối tượng nghiên
cứu, chúng tôi chia thành hai nhóm: một nhóm sử dụng phương pháp học
Văn thông thường, một nhóm sử dụng phương pháp học Văn có quan tâm
đến hành vi ứng xử. Sau thời gian áp dụng ba tháng, chúng tôi tập hợp các
19


con số thống kê và phân tích các số liệu. Các con số thố ng kê này xoay
quanh hai vấn đề: hứng thú của người học Văn và hành vi ứng xử của
người học Văn. Kết quả thu được là những con số thống kê trong bảng sau:
Sau đây là bảng thống kê cho ta thấy lợi ích của việc học Văn ở trường:
Hành vi, ứng xử

Nhóm 1 ( Học bình Nhóm 2 (Học Văn có

thường)
điều chỉnh hành vi)

Ứng xử với thiên Đúng : 38,2%
nhiên, môi trường
Sai : 61,8%

Đúng : 63,78%

Úng xử xã hội ( giữa Đúng : 42%
người với người)
Sai : 58%

Đúng : 67,8%

Ứng xử gia đình ( giữa Đúng : 40%
các thành viên trong Sai : 60%
gia đình)

Đúng : 65,87%

Sai : 36,22%
Sai : 32,2%
Sai : 34,13%

Hứng thú học môn Nhóm 1 ( Học bình Nhóm 2 (Học Văn có
văn
thường)
điều chỉnh hành vi)
Hứng thú : 25%


Hứng thú : 50%

Không hứng thú: 40%

Không hứng thú :25%

Bình thường : 35%

Bình thường: 25%

Bảng thống kê thứ nhất thống kê các hành vi ứng xử của hai nhóm học
sinh. Ở nhóm học sinh học theo phương pháp truyền thống, tỉ lệ hành vi
đúng cao nhất là 42%, trong khi ở nhóm học sinh học Văn theo phương
pháp điều chỉnh hành vi, tỉ lệ hành vi đúng cao nhất là 63,78%, tăng
21,78%. Bên cạnh đó, tỉ lệ hành vi sai của nhóm 1 nhiều nhất là 61,8%,
trong khi đó nhóm 2 là 36,22%, giảm 24,78%. Như vậy, học Văn theo
phương pháp điều chỉnh hành vi đã có hiệu quả đáng kể trong việc hạn c hế
những hành vi sai, nhân rộng những hành vi tích cực trong cách ứng xử
20


của người học sinh, góp phần tích cực vào cải thiện đạo đức học sinh trong
nhà trường.
Ở bảng thống kê thứ hai, học Văn điều chỉnh hành vi nhờ gắn với thực
tế đời sống nên đã giúp tăng thêm 25% hứng thú học bộ môn. Số học sinh
không hứng thú cũng giảm từ 40% xuống 25% - một con số không nhỏ
Tóm lại, qua hai bảng bảng số liệu trên ta thấy, người học Văn có điều
chỉnh hành vi có tỉ lệ hành vi đúng và có hứng thú với môn học cao hơn
với những người học Văn không có điều chỉnh hành vi. Nếu mọi người từ

quá trình đọc và học các tác phẩm văn học đều tự rút ra được ý nghĩa rồi
ứng dụng vào cuộc sống, từ đó biết điều chỉnh hành vi của mình thì chắc
chắn xã hội ngày một tốt đẹp, đất nước ngày càng phát triển.

21


KẾT LUẬN
Dạy học hướng tới điều chỉnh hành vi ứng xử cho học sinh là một hướng đi
cần thiết đối với giáo dục để góp phần đào tạo những con người toàn diện. Đặc
biệt, với những bộ môn khoa học xã hội như Ngữ Văn, việc dạy học hướng tới
thay đổi hành vi ứng xử cho học sinh nếu được áp dụng sẽ đem lại hiệu quả
không nhỏ. Nó vừa giúp kết hợp học với hành, vừa giáo dục toàn diện con người,
vừa giúp làm tăng hứng thú, hiệu quả trong giờ học Văn.
Muốn dạy học Văn hướng tới điều chỉnh hành vi ứng xử, người giáo viên
vẫn phải thực hiện đầy đủ các bước của một giờ lên lớp. Phần chuẩn bị của học
sinh và nội dung bài giảng của giáo viên phải được chuẩn bị một cách kĩ lưỡng,
đảm bảo theo đúng chuẩn kiến thức kĩ năng. Giờ dạy phải lôi cuốn, hấp dẫn mới
có thể cuốn hút học sinh vào những tình huống của đời sống. Phần lồng ghép
giáo dục tư tưởng, kĩ năng sống cho học sinh phải khéo léo, các câu hỏi liên hệ
thực tế phải phù hợp mới có thể lôi cuốn học sinh tham gia.
Các bước chuẩn bị cho dạy Văn hướng tới điều chỉnh hành vi gồm:
1. Yêu cầu học sinh đọc kĩ tác phẩm và soạn bài trước khi đến lớp:
2. Trên lớp, tạo tinh thần hăng hái phát biểu xây dựng bài cho học sinh.
3. Hướng dẫn học sinh đọc hiểu tác phẩm văn học để tìm ra ý nghĩa của nó.
4. Hướng dẫn học sinh từ ý nghĩa tác phẩm văn học đã hiểu được, suy
ngẫm về những bài học cuộc sống được đặt ra trong mỗi tác phẩm và hãy
cố gắng làm theo những bài học bổ ích đó:
5. Giúp học sinh đi tìm những tình huống đời sống đặt ra trong những tác
phẩm văn học

6. Hướng dẫn học sinh giải quyết những tình huống đời sống được đặt ra
trong những tác phẩm văn học.
7. Giúp học sinh tổng kết những bài học ứng xử được đặt ra trong tác phẩm
theo những chủ đề khác nhau. Nhắc nhở học sinh thường xuyên ghi nhớ
chúng để biến những bài học trong sách vở thành chính phương châm ứng
xử của mình.

22


Dạy Văn hướng tới điều chỉnh hành vi ứng xử cho học sinh có thể áp dụng ở
mọi cấp học. Xét đến cùng, học Văn là học làm người, dạy Văn là dạy làm người.
Đã dạy làm người thì không thể không dạy về ứng xử. Đối với học sinh cấp dưới,
giáo viên nên dạy những điều đơn giản, đối với học sinh cấp cao hơn, giáo viên
có thể dạy những bài học sâu xa hơn. Mưa dầm thấm lâu, mỗi ngày một chút, dần
dần sẽ hình thành ý thức cho người học Văn: học làm người thông qua những tác
phẩm văn học.
Cuối cùng, trong khuôn khổ một sáng kiến kinh nghiệm, công trình nghiên
cứu này chắc chắn còn những khiếm khuyết không tránh khỏi. Rất mong nhận
được sự góp ý của ban giám khảo để chúng tôi có thể hoàn thiên thêm công trình
nghiên cứu của mình. Xin trân trọng cảm ơn!

23


Mục lục
Trang
A. ĐẶT VẤN ĐỀ

2


I. Lí do chọn đề tài

2

II. Lịch sử vấn đề

2

III. Đôi tượng nghiên cứu

2

IV. Mục đích nghiên cứu

3

V. Nội dung nghiên cứu

3

VI. Phương pháp nghiên cứu

3

B. NỘI DUNG

4

I. Các khái niệm


4

1. Hành vi là gì?

4

2. Ứng xử và hành vi ứng xử văn hóa

4

II. Thực trạng và cách ứng xử của học sinh ngày hôm nay

4

1. Biểu hiện

4

2. Nguyên nhân

5

3. Hậu quả

6

III. Thực trạng của việc học Văn ở trường phổ thông

6


1. Biểu hiện

6

2. Nguyên nhân

7

3. Hậu quả

7

IV. Giải pháp dạy Văn hướng tới điều chỉnh hành vi cho học sinh
V. Minh họa qua một tiết học

15

C. KẾT LUẬN:

22

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đình Chú (2004), Mấy vấn đề cơ bản của lịch sử văn học Việt Nam,
Tài liệu giảng dạy cao học trường ĐHSP Hà Nội.
2. Việt Chương (2005), Từ điển thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam, Nxb Đồng
Nai.

3. Phạm Đức Dương (2009), Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á,
Nxb Khoa học xã hội, H.
4. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển thuật ngữ văn
học, Nxb Đại học quốc gia, H.
5. Trần Đình Hượu (1996), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb Văn hóa dân tộc.
6. Trần Đình Hượu (2007), Các bài giảng về tư tưởng Phương Đông ( Lại
Nguyên Ân biên soạn), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
7. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (2002), Văn học dân gian
Việt Nam, Nxb Giáo dục.
8. Vũ Ngọc Khánh (2007), Văn hóa dân gian người Việt, Nxb quân đội nhân dân.
9. Phan Ngọc (2006), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, H.
10. Nhiều tác giả (1997), Giảng văn văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, H.
11. Nhiều tác giả (2006), Người Việt- phẩm chất và thói hư tật xấu, Nxb Thanh
niên, báo Tiền phong, H.
12. Hoàng Phê (1998), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, H.
13. Đặng Đức Siêu (2007), Tinh hoa văn hóa phương Đông, Nxb Giáo dục, H.
14. Trần Ngọc Thêm (2006), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh.
15. Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, H.
16. Đỗ Lai Thúy (1997), Con mắt thơ, Nxb Giáo dục, H.
17. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (2010), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục,
H.

25


×