Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Các giải pháp đẩy mạnh thu hút khách du lịch nhật bản của công ty du lịch DV tây hồ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (437.74 KB, 20 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Du lịch ngày nay đã trở thành một hiện tƣợng quan trọng của đời sống hiện
đại. Số lƣợng ngƣời đi du lịch ngày càng tăng. Điều này thể hiện ở số liệu của
Tổ chức du lịch thế giới, hàng năm có khoảng 3 tỉ ngƣời đi du lịch.
Dòng ngƣời du lịch đông đảo đã có ảnh hƣởng không nhỏ đến nền kinh tế
của nhiều nƣớc và góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển.
Ngày nay ngành công nghiệp du lịch đã và đang đƣợc coi là “con gà đẻ
trứng vàng” là “ngành công nghiệp không ống khói” hay là ngòi nổ để phát triển
kinh tế. Đây là sự khẳng định chung của các nhà kinh tế trên toàn cầu đối với sự
đóng góp đáng kể của ngành kinh doanh du lịch trong quá trình phát triển kinh
tế. Đối với nƣớc ta du lịch trở thành một ngành kinh tế quan trọng trong cơ cấu
kinh tế chung của cả nƣớc đem lại hiệu quả kinh tế rất cao, thể hiện năm 1997,
đóng góp của ngành du lịch vào ngân sách Nhà nƣớc là 840 tỉ đồng.
Hơn thế nữa du lịch đã trở thành ngành đem lại nguồn thu ngoại tệ quan
trọng. Giải quyết công ăn việc làm cho hàng ngàn ngƣời lao động và làm thay
đổi bộ mặt xã hội. Trong kinh doanh du lịch yếu tố quan trọng đó là nguồn
khách. Đó là nhân tố mang tính sống còn của hoạt động kinh doanh du lịch.
Không có khách thì hoạt động du lịch trở nên vô nghĩa.
Khách du lịch đến với công ty Du lịch dịch vụ Tây Hồ có nhiều quốc tịnh,
trong đó có khách du lịch Nhật Bản. Do đó nghiên cứu thị trƣờng khách du lịch
Nhật Bản để đƣa ra các giải pháp đẩy mạnh thu hút khách du lịch Nhật Bản rất
có ý nghĩa đối với công ty. Nó góp phần làm cho hoạt động kinh doanh du lịch
của công ty có hiệu quả hơn.
Qua sự phân tích trên em đã chọn đề tài:
“CÁC GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH THU HÚT KHÁCH DU LỊCH
NHẬT BẢN
CỦA CÔNG TY DU LỊCH DỊCH VỤ TÂY HỒ”
Với đề tài này em muốn tìm hiểu thị trƣờng khách Nhật Bản, các giải pháp
thu hút khách và kiến nghị nhằm hoàn thiện - một số giải pháp thu hút khách du
lịch Nhật Bản.


1


Sau đây là kết cấu bài gồm:
CHƢƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KHÁCH DU LỊCH
VÀ CÁC GIẢI PHÁP THU HÚT KHÁCH.
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG KHÁCH DU LỊCH NHẬT BẢN TẠI
CÔNG TY DU LỊCH DỊCH VỤ TÂY HỒ.
CHƢƠNG III:
CÁC GIẢI PHÁP THU HÚT KHÁCH CỦA CÔNG
TY DU LỊCH DỊCH VỤ TÂY HỒ.
Bài viết còn nhiều thiếu sót, điều kiện tài liệu còn hạn chế. Em mong đƣợc
sự góp ý của giáo viên TS Võ Quế. Cán bộ của Trung tâm du lịch của Du lịch
dịch vụ Tây Hồ và các thầy cô giáo trong Khoa Du lịch - trƣờng Đại học Kinh tế
Quốc dân.

2


CHƢƠNG I
MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KHÁCH DU LỊCH
VÀ CÁC GIẢI PHÁP THU HÚT KHÁCH
I-/

KHÁI NIỆM VỀ KHÁCH DU LỊCH.

1-/ Khái niệm về khách du lịch.
Mặc dầu là ngành du lịch ra đời muộn hơn so với một số ngành kinh tế
khác nhƣng hoạt động du lịch đã có từ xa xƣa, tại các nƣớc Ai Cập cổ đại, Hy
Lạp, La mã đã xuất hiện một số hình thức du lịch nhƣ du lịch công vụ của các

phái viên Hoàng Đế, du lịch thể thao qua các Olymipic, các cuộc hành hƣơng
của các tín độ tôn giáo, du lịch chữa bệnh của giới quý tộc. Ngày nay, trên toàn
thế giới, du lịch đã trở thành nhu cầu không thể thiếu đƣợc trong đời sống văn
hoá - xã hội và hoạt động du lịch đang đƣợc phát triển ngày một mạnh mẽ hơn.
Trong các chuyến du lịch con ngƣời không chỉ dừng lại ở việc nghỉ ngơi, giải trí
mà còn phải đƣợc thoả mãn các nhu cầu khác, do vậy mà con ngƣời đi du lịch
với nhiều mục đích khác nhau: đi tham quan danh lam thắng cảnh, đi nghỉ, chữa
bệnh, tìm hiểu lịch sử văn hoá, công vụ.
Số lƣợng khách đi du lịch trên thế giới tăng lên đáng kể: từ 25 triệu lƣợt
ngƣời vào những năm 1950 đến năm 1995 số lƣợt khách tăng lên trên 500 triệu.
Còn ở Việt Nam lƣợng khách du lịch quốc tế tăng lên đáng kể. Tính đến
năm 1996 lƣợng khách vào Việt Nam đã tăng gần bằng một số nƣớc trong khu
vực có ngành du lịch phát triển nhƣ Thái Lan, Singapore.
Hoạt động du lịch đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, đƣợc coi là ngành
“xuất khẩu vô hình” đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn. Tốc độ tăng thu nhập của
ngành d cao, đƣợc coi là ngành “xuất khẩu vô hình” đem lại nguồn thu ngoại tệ
lớn. Tốc độ tăng thu nhập của ngành du lịch vƣợt xa nhịp độ tăng của nhiều
ngành kinh tế khác. Ngƣời ta thống kê trên toàn thế giới: năm 1950 thu nhập
ngoại tệ về du lịch quốc tế chỉ chiếm 2,1 tỉ USD và con số này đạt 338 tỷ USD
vào năm 1994.
Để cho ngành du lịch hoạt động và phát triển thì “khách du lịch” là nhân tố
quyết định. Chúng ta biết rằng nếu không có hoạt động của khách du lịch thì các
nhà kinh doanh du lịch cũng không thể kinh doanh đƣợc. Không có khách thì
hoạt động du lịch trở nên vô nghĩa.
3


Đứng trên góc độ thị trƣờng “cầu du lịch” chính là khách du lịch, còn
“cung du lịch” chính là các nhà cung cấp sản phẩm du lịch. Vậy khác du lịch là
gì và họ cần nhu cầu gì?

Do vậy đã có nhiều khái niệm khác nhau về khách du lịch của các tổ chức
và các nhà nghiên cứu để xác định rõ hơn khách du lịch là ai sau đây là một số
khái niệm về khách du lịch:
+ Nhà kinh tế học ngƣời Áo - Jozep Stemder - định nghĩa: “Khách du lịch
là những người đặc biệt, ở lại theo ý thích ngoài nơi cư trú thường xuyên, để
thoả mãn những nhu cầu cao cấp mà không theo đuổi mục đích kinh tế”.
+ Nhà kinh tế ngƣời Anh - Olgilvi khẳng định rằng: “Để trở thành khách
du lịch cần có hai điều kiện sau: thứ nhất phải xa nhà một thời gian dưới một
năm; thứ hai là phải dùng những khoản tiền kiếm được ở nơi khác”.
+ Định nghĩa khách du lịch có tính chất quốc tế đã hình thành tại Hội nghị
Roma do Liên hợp quốc tổ chức vào năm 1963: “Khách du lịch quốc tế là người
lưu lại tạm thời ở nước ngoài và sống ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ
trong thời gian 24h hay hơn”.
+ Theo pháp lệnh du lịch của Việt Nam (Điều 20): Khách du lịch gồm
khách du lịch nội địa và khách du lịch quốc tế (*).
Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam và ngƣời nƣớc ngoài cƣ trú tại
Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
Khách du lịch quốc tế là ngƣời nƣớc ngoài, ngƣời Việt Nam định cƣ ở
nƣớc ngoài vào Việt Nam đi du lịch và công dân Việt Nam, ngƣời nƣớc ngoài
cƣ trú tại Việt Nam ra nƣớc ngoài du lịch.
Ngoài ra còn có các định nghĩa khác về khách du lịch nhƣ định nghĩa của
Hội nghị du lịch quốc tế về du lịch ở Hà Lan 1989: “Khách du lịch quốc tế là
những người đi hoặc sẽ đi tham quan một nước khác, với các mục đích khác
nhau trong khoảng thời gian nhiều nhất là 3 tháng nếu trên 3 tháng, phải được
cấp giấy phép gia hạn. Sau khi kết thúc thời gian tham quan, lưu trú, du khách
bắt buộc phải rời khỏi đất nước đó để trở về hoặc đến nước khác; Khách du lịch
nội địa là những người đi xa nhà với khoảng cách ít nhất là 50 dặm vì các lý do
khác nhau trừ khả năng thay đổi chỗ làm việc trong khoảng thời gian cùng ngày
hoặc qua đêm”.


4


2-/ Phân loại khách du lịch.
Ngoài việc nhận thức rõ về định nghĩa khách du lịch quốc tế việc nghiên
cứu cần có sự phân loại chính xác, đầy đủ. Đó là điều thuận lợi cho việc nghiên
cứu, thống kê các chỉ tiêu về du lịch cũng nhƣ định nghĩa. Sau đây là một số
cách phân loại khách du lịch.
+ Uỷ ban thông lệ Liên hợp quốc đã chấp nhận các phân loại sau, các định
nghĩa chính của các phân loại:
Khách tham quan du lịch là những cá nhân đi đến một đất nƣớc khác ngoài
nơi ở thƣờng xuyên của họ trong một khoảng thời gian không quá 12 tháng với
mục đích chủ yếu không phải kiếm tiền trong phạm vi lãnh thổ mà họ đến.
Khách du lịch quốc tế là tất cả những khách du lịch đã ở lại đất nƣớc mà họ
đến ít nhất là một đêm.
Khách tham quan trong ngày là tất cả những khách tham quan mà không ở
lại qua đêm tại đất nƣớc mà họ đến.
Khách quá cảnh là khách không rời khỏi phạm vi khu vực quá cảnh trong thời
gian chờ đợi giữa các chuyến bay tại sân bay hoặc tại các khu vực nhà ga khác.
+ Theo định nghĩa khách du lịch của pháp lệnh du lịch ban hành ngày 8/2/1999.
Khách du lịch có hai loại:
- Khách du lịch nội địa (*).
- Khách du lịch quốc tế (*).
Bên cạnh các phân loại này còn có các cách phân loại khác.
+ Phân loại khách du lịch theo nguồn gốc dân tộc:
Cơ sở của việc phân loại này xuất phát từ yêu cầu của nhà kinh doanh du
lịch cần nắm đƣợc nguồn gốc khách. Qua đó mới hiểu đƣợc mình đang phục vụ
ai? họ thuộc dân tộc nào? để nhận biết đƣợc tâm lý của họ để phục vụ họ một
cách tốt hơn.
+ Phân loại khách du lịch theo độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp:

Cách phân loại này sẽ cho phép nhà cung cấp khám phá ra các yêu cầu cơ
bản và những đặc trƣng cụ thể về khách du lịch.
+ Phân loại khách theo khả năng thanh toán:

5


Xác định rõ đối tƣợng có khả năng thanh toán cao hay thấp để cung cấp
dịch vụ một cách tƣơng ứng.
Đây chỉ là một số tiêu thức phân loại khác du lịch. Mỗi một tiêu thức đều
có những ƣu nhƣợc điểm riêng khi tiếp cận theo một hƣớng cụ thể. Cho nên cần
phối hợp nhiều cách phân loại khi nghiên cứu khách du lịch. Khi nghiên cứu
khái niệm và phân loại khách du lịch cho phép chúng ta từng bƣớc thu thập một
cách đầy đủ, chính xác các thông tin về khách du lịch. Tạo tiền đề cho việc
hoạch ra các chính sách chiến lƣợc kế hoạch Marketing của doanh nghiệp. Các
doanh nghiệp nghiên cứu thị trƣờng khách du lịch để phân đoạn thị trƣờng,
nhằm hƣớng vào một đoạn thị trƣờng cụ thể, nghiên cứu một nhóm khách cụ thể
về các đặc điểm của khách để kinh doanh một cách hiệu quả hơn.
3-/ Các yếu tố ảnh hƣởng đến khách du lịch.
Con ngƣời luôn muốn tìm hiểu thế giới bên ngoài, tới những nơi, những
vùng mà mình chƣa đặt chân tới, xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu đi du
lịch càng cao, ƣớc muốn của con ngƣời là vô tận. Chẳng hạn muốn nâng cao tầm
hiểu biết, hay muốn đƣợc thƣởng thức chiêm ngƣỡng, hay vui chơi giải trí. Dẫn
tới việc khách du lịch đi với nhiều động cơ khác nhau, mục đích khác nhau:
+ Động cơ về thể lực: động cơ này thôi thúc con ngƣời nghỉ ngơi về mặt
thể xác, tinh thần nhƣ thƣ giãn giải trí hoặc các hoạt động khác liên quan đến
việc tăng sức khoẻ con ngƣời.
+ Động cơ về văn hoá giáo dục: là những đòi hỏi của con ngƣời muốn hiểu
biết về những nơi xa lạ, thƣởng thức âm nhạc nghệ thuật, mỹ thuật, phong tục tập
quán của các dân tộc, tôn giáo, nghệ thuật cổ truyền, những món ăn truyền thống.

+ Động cơ về giao tiếp: động cơ này thúc đẩy con ngƣời gặp gỡ, giao lƣu,
mở rộng các mối quan hệ bạn bè, đồng nghiệp ngƣời thân.
+ Động cơ về thân thế, địa vị, uy danh: động cơ này thuộc về bản ngã của
con ngƣời, muốn đƣợc mọi ngƣời chú ý và tôn trọng tới mình.
Việc xác định động cơ đi du lịch là vấn đề cần thiết để biết đƣợc mục đích của
chuyến đi, nó chịu ảnh hƣởng bởi các nhân tố sau. Các nhân tố này đã đƣợc thống
kê lại thành tám nhân tố ảnh hƣởng đến hoạt động du lịch của khách du lịch.
+ Nhân tố kinh tế: đây là nhân tố quyết định, bởi vì không có tiều thì chúng
ta không thể đi du lịch. Vấn đề thu nhập của khách có ảnh hƣởng tới số lƣợng
cũng nhƣ cơ cấu nhu cầu của họ. Thu nhập cao là yếu tố cần thiết cho việc đi du

6


lịch. Ở các nƣớc phát triển thu nhập cao dẫn tới việc đi du lịch nhiều, chi tiêu
trong chuyến đi nhiều.
+ Nhân tố nhân khẩu: đặc điểm của dân cƣ ảnh hƣởng tới nhu cầu của
khách du lịch nhƣ độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn, số lƣợng ngƣời trong
nhóm, gia đình.
+ Điều kiện tự nhiên: khí hậu có tác động lớn tới quyết định lựa chọn sản
phẩm du lịch của khách du lịch, hình thức đi du lịch và lựa chọn cả điểm du lịch
mà họ cảm thấy thuận lợi.
+ Nhân tố văn hoá xã hội: những thay đổi trong văn hoá, thay đổi hệ thống
các quan niệm xã hội tác động tới động cơ đi du lịch của cá nhân.
+ Mức giá: thể hiện ở một đồng tiền, tỉ giá giữa các đồng tiền khi có sự
biến động dẫn đến khả năng thanh toán cho hoạt động của du khách cũng bị ảnh
hƣởng dẫn đến ảnh hƣởng tới nhu cầu của khách du lịch.
+ Khả năng vận động của khách du lịch: khả năng di chuyển của khách du
lịch bằng các phƣơng tiện giao thông. Cùng với sự phát triển của hệ thống giao
thông tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại của du khách đã ảnh hƣởng rất lớn

tới động cơ đi du lịch của du khách.
+ Những quy định của Chính phủ: những quy định của Chính phủ về du
lịch và các ngành có liên quan đã ảnh hƣởng tới việc thu hút khách.
+ Hệ thống thông tin đại chúng: nhân tố này ảnh hƣởng đến thông tin lựa
chọn sản phẩm nào phù hợp với bản thân mình.
4-/ Ý nghĩa của việc nghiên cứu nguồn khách.
Hàng hoá sản xuất ra là để bán cho những ngƣời có nhu cầu tiêu dùng.
Trong du lịch cũng vậy, khi khách du lịch mua nhiều hàng hoá dịch vụ thì các
doanh nghiệp du lịch ngày càng phát triển do bán đƣợc nhiều sản phẩm, thu
nhập ngày càng cao là tiền đề cho sự phát triển của doanh nghiệp, còn nếu ít
khách hoặc không có khách thì hoạt động du lịch trở nên đình trệ, thất thu. Điều
này chứng tỏ, khách hàng đóng một vai trò quan trọng trong việc kinh doanh.
“Khách hàng là thƣợng đế” - các doanh nghiệp đặc khách hàng lên vị trí cao hơn
bởi vì doanh nghiệp chỉ bán đƣợc những cái mà khách hàng cần. Do vậy muốn
kinh doanh có hiệu quả thì các nhà kinh doanh du lịch phải chú trọng hơn nữa
đến khách du lịch, xác định đƣợc vị trí của khách trong chiến lƣợc kinh doanh
của doanh nghiệp.

7


Muốn tiêu thụ đƣợc nhiều sản phẩm, dịch vụ thì điều cốt lõi là phải làm sao
gợi thị hiếu ham muốn của khách hàng chứ không nhƣ trƣớc đây sản xuất để đáp
ứng sự thiếu thốn của hàng hoá cho ngƣời tiêu dùng, và bắt thị trƣờng chấp nhận
sản phẩm của mình, bất chấp chất lƣợng nhƣ thế nào, giá đắt hay rẻ. Bây giờ
trong cơ chế thị trƣờng các doanh nghiệp đã biết đáp ứng sự mong đợi của
khách hàng. Để thu hút đƣợc khách hàng thì các doanh nghiệp phải sản xuất ra
các sản phẩm có chất lƣợng đảm bảo, giá cả hợp lý có tính thẩm mỹ cao.
Vậy ta phải hiểu đƣợc vai trò quan trọng của khách hàng đối với kinh
doanh du lịch nhƣ thế nào? Thông qua đó, tiến hành việc nghiên cứu về khách

du lịch. Khi tiến hành nghiên cứu khách, cần phải nghiên cứu khách về các
phƣơng diện nhu cầu, sở thích của khách, nguồn gốc khách, nghề nghiệp, giới
tính, độ tuổi, đặc điểm tâm lý của khách du lich, trình độ văn hoá,... Để từ đó
hiểu đƣợc những nhu cầu của khách, những yêu cầu của khách, tránh gây phiền
hà cho khách, đƣa ra sản phẩm dịch vụ phù hợp với nhu cầu và yêu cầu của
khách.
Vì vậy việc nghiên cứu khách du lịch có ý nghĩa rất lớn đối với các doanh
nghiệp kinh doanh du lịch, là yếu tố dẫn đến sự thành công trong kinh doanh.
II-/ NHU CẦU TRONG DU LỊCH.
1-/ Khái niệm nhu cầu du lịch.
Nhu cầu du lịch cũng là một loại nhu cầu của con ngƣời. Trong sự phát triển
không ngừng của nền sản xuất xã hội thì du lịch là một đòi hỏi tất yếu của ngƣời
lao động, nó đã trở thành một hoạt động cốt yếu của con ngƣời và của xã hội hiện
đại. Du lịch đã trở thành một nhu cầu của con ngƣời khi trình độ kinh tế, xã hội và
dân trí đã phát triển. Nhƣ vậy nhu cầu du lịch là một loại nhu cầu đặc biệt và tổng
hợp của con ngƣời, nhu cầu này đƣợc hình thành trên nền tảng của nhu cầu sinh
lý (sự đi lại) và nhu cầu tinh thần (nghỉ ngơi, giải trí, tự khẳng định, giao tiếp).
Nhu cầu này phát sinh là kết quả tác động của lực lƣợng sản xuất trong xã hội và
trình độ sản xuất xã hội, khi mà trình độ sản xuất xã hội càng cao thì mối quan hệ
xã hội càng hoàn thiện thì nhu cầu du lịch càng trở nên gay gắt.
Nhu cầu du lịch của con ngƣời phụ thuộc vào các điều kiện: thiên nhiên,
kinh tế, chính trị, xã hội.
Ở một số quốc gia phát triển thì việc đi du lịch đã trở thành phổ biến, là
nhu cầu quan trọng nhất trong đời sống. Tuy vậy nhu cầu này ở những nƣớc
nghèo đang đƣợc xếp vào hạng thứ yếu vì mức sống của họ còn thấp.
8


Xu hƣớng nhu cầu du lịch ngày càng tăng khi mà các điều kiện kinh tế của
họ ngày càng ổn định hơn, thu nhập ngày càng tăng, thời gian nhàn rỗi nhiều.

2-/ Nhu cầu của khách du lịch.
Khi nghiên cứu các nhu cầu của khách du lịch ngƣời ta nhận thấy rằng: hầu
nhƣ tất cả các dịch vụ đều cần thiết ngang nhau thoả mãn các nhu cầu phát sinh
trong chuyến hành trình và lƣu lại của khách du lịch.
Trong nhu cầu du lịch có các nhu cầu:
+ Nhu cầu đặc trƣng.
+ Nhu cầu thiết yếu.
+ Nhu cầu bổ sung.
Trong các loại nhu cầu trên thì nhu cầu thiết yếu là nhu cầu đòi hỏi sự tồn
tại của con ngƣời, nhu cầu đặc trƣng là nhu cầu cảm thụ cái đẹp và giải trí đây là
nhu cầu dẫn đến quyết định du lịch của du khách. Nhu cầu bổ sung là nhu cầu
phát sinh thêm trong chuyến hành trình. Trong du lịch nhu cầu thiết yếu cho
khách du lịch là vận chuyển, lƣu trú và ăn uống, nhu cầu đặc trƣng là nhu cầu
thẩm mỹ. Nhu cầu bổ sung là các nhu cầu xuất hiện trong chuyến đi nhƣ mua
sắm, giải trí, thể thao,... Đối với các nhu cầu này khó có thể xếp hạng, thứ bậc
mà nó phát sinh trong khách du lịch. Tuy vậy nhu cầu vận chuyển, ăn uống, lƣu
trú là rất quan trọng đối với khách du lịch nhƣng nếu đi du lịch mà không có cái
gì để gây ấn tƣợng, giải trí, tiêu khiển, không có các dịch vụ khác thì không gọi
là đi du lịch đƣợc không. Ngày nay đi du lịch với nhiều mục đích khác nhau
trong cùng một chuyến đi, do vậy mà các nhu cầu cần đƣợc đồng thời thoả mãn.
Sau đây ta xét riêng từng nhu cầu của khách du lịch:
a/ Nhu cầu thiết yếu gồm:
* Nhu cầu vận chuyển:
Nhu cầu vận chuyển trong du lịch đƣợc hiểu là sự tất yếu phải di chuyển
trong chuyến đi từ nơi ở thƣờng xuyên đến điểm du lịch nào đó và ngƣợc lại và
sự di chuyển của khách trong thời gian khách lƣu lại ở điểm du lịch, chúng ta
biết rằng hàng hoá dịch vụ du lịch không vận chuyển đƣợc đến điểm khách ở,
mà muốn tiêu dùng sản phẩm du lịch thì khách phải rồi chỗ ở thƣờng xuyên của
mình đến điểm du lịch thƣờng cách xa chỗ ở của mình, nơi tạo ra các sản phẩm
du lịch, và điều kiện tiêu dùng du lịch. Do nơi ở thƣờng xuyên cách xa điểm du

lịch cho nên dịch vụ vận chuyển xuất hiện khi con ngƣời muốn đi du lịch thì
9


phải tiêu dùng dịch vụ vận chuyển. Do đó điều kiện tiên quyết của du lịch là
phƣơng tiện và cách thức tổ chức vận chuyển du lịch.
* Nhu cầu lưu trú và ăn uống.
Nhu cầu lƣu trú và ăn uống cũng là nhu cầu thiết yếu nhƣng trong khi đi du
lịch nhu cầu này khác hơn so với nhu cầu này trong đời sống thƣờng nhật. Khi
đi du lịch thì nhu cầu này cũng cần phải đƣợc đáp ứng, dẫn đến phát sinh ra dịch
vụ lƣu trú và ăn uống. Nhu cầu lƣu trú ăn uống trong du lịch đƣợc thoả mãn cao
hơn, những nhu cầu này không những thoả mãn đƣợc nhu cầu sinh lý mà còn
thoả mãn đƣợc nhu cầu tâm lý khác.
Khi sử dụng các dịch vụ này khách du lịch sẽ đƣợc cảm nhận những nét
đặc trƣng của kiểu phong cách kiến trúc và tập quán ăn uống ở điểm du lịch nào
đó, cảm nhận đƣợc bản sắc văn hoá, nền văn minh của cộng đồng ngƣời ở đó.
Trong đồ ăn thức uống thì thể hiện đƣợc hƣơng vị và kiểu cách của các món ăn
đặc sản.
Tâm lý của khách du lịch là khi đến điểm du lịch là có một cảm giác thoải
mái, thƣ giãn cho nên trong lƣu trú cần phải bố trí thế nào để cho khách có một
cảm giác mới lạ thích thú để cho tinh thần của họ đƣợc thƣ giãn, trong ăn uống
phải lựa chọn những dịch vụ đem lại cho khách những cảm giác ngon lành. Làm
cho họ có các giảm mình đang đƣợc hƣởng thụ những cái ngon, cái đẹp. Không
làm cho họ cảm thấy sự mong đợi này không thành hiện thực, nên hy vọng
hƣởng thụ thành nỗi thất vọng.
Trong kinh doanh du lịch thì việc tổ chức lƣu trú và ăn uống là hết sức
quan trọng, đóng vai trò quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp; khâu tổ
chức ăn uống và lƣu trú có chất lƣợng cao đƣợc thể hiện ở năng lực chuyên
môn, nghiệp vụ, phong cách giao tiếp, thái độ phục vụ vì nó tạo ra tâm lý tốt cho
khách du lịch.

* Nhu cầu đặc trưng:
Đây là nhu cầu đặc trƣng trong du lịch - về bản chất đây là nhu cầu thẩm
mỹ của con ngƣời. Cảm thụ giá trị thẩm mỹ bằng các dịch vụ tham quan, giải trí,
tiêu khiển tạo nên cái gọi là cảm tƣởng du lịch trong con ngƣời. Con ngƣời ai
cũng muốn biết cái mới lạ, giật gân. Cảm nhận và đánh giá đối tƣợng phải đƣợc
tai nghe mắt thấy, tay sờ, mũi ngửi mới cảm thấy thoả đáng.

10


Nhu cầu cảm thụ cái đẹp, giải trí và tiêu khiển đƣợc khơi dậy từ ảnh hƣởng
đặc biệt của môi trƣờng sống và làm việc trong nền văn minh công nghiệp. Sự
căng thẳng “stress” đã làm cho chúng ta cần thiết phải nghỉ ngơi, tiêu khiển, gặp
gỡ lãng quên, giải thoát trở về với thiên nhiên.
Khi tham quan, giải trí chúng ta tìm đến các giả trí thẩm mỹ mà thiên nhiên ban
tặng hoặc do chính đồng loại tạo ra ở nơi du lịch là nơi mà khách du lịch tìm thấy.
Khi tổ chức thoả mãn nhu cầu tham quan giải trí chúng ta cần phải tổ chức
những Tour độc đáo, hấp dẫn, lôi cuốn đƣợc đông đảo khách du lịch. Nội dung
tham quan, giải trí, phải đảm bảo tính khoa học, đạt đƣợc giá trị thẩm mỹ, đảm
bảo thƣ giãn cả mặt thể chất lẫn tinh thần.
c. Nhu cầu bổ sung.
Nhu cầu về một số hàng hoá dịch vụ khác trong chuyến đi đã làm phát sinh
ra các dịch vụ bổ sung trong chuyến. Các dịch vụ này phát sinh xuất phát từ các
yêu cầu đa dạng nhƣ yêu cầu về hàng hoá, lƣu niệm; các dịch vụ thông tin, liên
lạc, hộ chiếu, visa, đặt chỗ mua vé,...
Khi tiến hành cách dịch vụ này cần phải đảm bảo các yêu cầu thuận tiện,
không mất nhiều thời gian, chất lƣợng của dịch vụ phải đảm bảo, giá cả công
khai.
Trong chuyến đi phát sinh nhiều nhu cầu bổ sung, các nhu cầu này làm cho
chuyến hành trình trở nên hoàn thiện hơn, thuận tiện hơn, hấp dẫn hơn bởi các

dịch vụ bổ sung.
Đa dạng hoá các loại dịch vụ, tổ chức phục vụ tốt các dịch vụ tốt là yếu tố
để có thể lƣu khách lại lâu hơn và chi tiêu nhiều hơn.
III-/ MỘT SỐ GIẢI PHÁP THU HÚT KHÁCH DU LỊCH.
1-/ Chính sách sản phẩm.
Chính sách sản phẩm là phƣơng thức kinh doanh có hiệu quả trên cơ sở
thoả mãn nhu cầu của thị trƣờng và thị hiếu của khách hàng trong từng thời kỳ
kinh doanh. Trong chính sách sản phẩm thì chất lƣợng sản phẩm là yếu tố quan
trọng đáp ứng đƣợc nhu cầu đòi hỏi của khách. Chính sản phẩm là làm cho sản
phẩm của doanh nghiệp luôn có sức sống trên thị trƣờng, hấp dẫn đƣợc thị
trƣờng.

11


Chính sách sản phẩm gồm: chính sách chủng loại, chính sách hoàn thiện và
đổi mới sản phẩm, chính sách đổi mới chủng loại.
- Chính sách chủng loại sản phẩm: trong kinh doanh các doanh nghiệp
thƣờng không kinh doanh một loại sản phẩm mà kinh doanh hỗn hợp nhiều loại
sản phẩm, lựa chọn chủng loại sản phẩm thích hợp với thị trƣờng, đáp ứng đƣợc
nhu cầu nhiều đối tƣợng khách hàng.
- Chính sách hoàn thiện và đổi mới sản phẩm: mỗi một chủng loại sản phẩm
đều có một chu kỳ sống. Khi nó vƣợt qua đỉnh cao của chu kỳ thì bắt đầu có sự
suy thoái. Khi đó chúng ta phải đổi mới sản phẩm. Còn từ khi giới thiệu sản phẩm
trên thị trƣờng thì ngày càng phải hoàn thiện để tạo sự hấp dẫn đối với khách
hàng. Việc đổi mới và hoàn thiện sản phẩm là làm cho sản phẩm thoả mãn tốt hơn
nhu cầu của thị trƣờng, kéo dài đƣợc chu kỳ sống của sản phẩm. Trong đổi mới
và hoàn thiện sản phẩm phải đổi mới và hoàn thiện chất lƣợng và hình dáng.
- Chính sách đổi mới chủng loại: chính sách này hƣớng vào việc phát triển
một số sản phẩm dịch vụ mới cho thị trƣờng hiện tại hay phát triển một số sản

phẩm mới cho thị trƣờng mới. Việc đổi mới, cải tiến sản phẩm dịch vụ bám sát
nhu cầu khách hàng thƣờng làm cho khối lƣợng tiêu thụ tăng, có nhiều khách
tiêu thụ hơn, giữ đƣợc thị phần và có khả năng mở rộng thị trƣờng mới.
2-/ Chính sách giá:
Giá là một trong các nhân tố tác động mạnh đến tâm lý khách hàng cũng
nhƣ nhu cầu của khách hàng về sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp. Nó quyết
định chủ yếu đến mức lợi nhuận mà doanh nghiệp thu đƣợc. Do đó khi xây dựng
chiến lƣợc sản phẩm cần phải định ra một chính sách giá phù hợp. Tuỳ theo chu
kỳ sống của sản phẩm, những thay đổi về mục tiêu chiến lƣợc kinh doanh của
doanh nghiệp, tuỳ theo sự vận động của thị trƣờng, và chi phí kinh doanh, tuỳ
theo thời vụ của mùa du lịch và tuỳ theo chính sách giá của các đối thủ cạnh
tranh mà doanh nghiệp kinh doanh đƣa ra chính sách giá của mình, sử dụng từng
mức giá phù hợp với từng giai đoạn kinh doanh cụ thể để lôi cuốn khách hàng.
3-/ Chính sách phân phối:
Chính sách phân phối là phƣơng thức thể hiện cách mà các nhà doanh
nghiệp cung ứng các sản phẩm dịch vụ. Nó là tổng hợp các biện pháp, thủ thuật
nhằm đƣa sản phẩm dịch vụ đến tay ngƣời tiêu dùng chính sách phân phối có vai
trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nó chịu ảnh hƣởng
của chính sách giá và chính sách sản phẩm. Mục tiêu của chính sách này là đảm

12


bảo bán đƣợc nhiều sản phẩm dịch vụ với chất lƣợng tốt, chi phí thấp nhằm đạt
hiệu quả kinh doanh cao. Khi xây dựng chính sách phân phối phải căn cứ vào
đặc điểm của sản phẩm dịch vụ và đặc điểm khách hàng.
Nội dung quan trọng của chính sách phân phối sản phẩm là lựa chọn kênh
phân phối. Trong kinh doanh du lịch thì các nhân tố ảnh hƣởng đến sự lựa chọn
kênh phân phối và doanh nghiệp kinh doanh có thể lựa chọn các kênh phân phối.


13


SƠ ĐỒ: KÊNH PHÂN PHỐI SẢN PHẨM DU LỊCH

éại lý
chi nhỏnh
điểm bỏn

Sản
phẩm
du
lịch

Cụng ty
lữ hành
du lịch

éại lý
du lịch
bỏn buụn

éại lý
du lịch
bỏn lẻ

1

Khỏch


2

du
3

lịch

4
5
6
7

Hầu hết các kênh phân phối trong du lịch đều đƣợc thực hiện thông qua các
công ty lữ hành. Thông qua các kênh phân phối nhà sản xuất tiêu thụ đƣợc nhiều
sản phẩm, có thêm nhiều khách hàng và thị trƣờng mới, bởi vì thông qua các
công ty, đại lý lữ hành khác nhau của công ty để bán hàng.
4-/ Chính sách xúc tiến bán hàng và quảng cáo:
a. Quảng cáo:
Là việc sử dụng các phƣơng tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền về sản
phẩm hoặc cho ngƣời trung gian hoặc cho ngƣời tiêu dùng cuối cùng trong một
thời gian và không gian cụ thể. Để việc quảng cáo có chất lƣợng cao thì nó phải
đạt đƣợc các yêu cầu nhƣ: lƣợng thông tin cao, hợp lý, đảm bảo tính pháp lý,
tính nghệ thuật, phù hợp với kinh phí quảng cáo. Mục đích của quảng cáo là gây
dựng đƣợc hình ảnh về sản phẩm và dịch vụ của công ty trong khách hàng, gây
đƣợc ấn tƣợng cho họ và kích thích họ mua hàng.
+ Quảng cáo là phƣơng tiện đắc lực cho cạnh tranh bán hàng. Đảm bảo
đƣợc hiệu quả trong quảng cáo cần phải thiết lập một chính sách quảng cáo, sau
đây là các bƣớc để thiết lập một chính sách quảng cáo:
- Xác định mục tiêu: mục tiêu của quảng cáo là để tăng sự nhận biết về
mẫu, nhãn sản phẩm, tăng sự hồi tƣởng của khách hàng về sản phẩm gây đƣợc

ấn tƣợng mạnh của sản phẩm đối với khách hàng kích thích họ mua hàng.

14


- Xác định chƣơng trình quảng cáo: khi xác định chƣơng trình quảng cáo
thì doanh nghiệp cần tiến hành nghiên cứu thị trƣờng nghiên cứu sản phẩm, xem
xét các phƣơng tiện truyền tin.
- Xác định chi phí: ngân sách dành cho quảng cáo thƣờng đƣợc xác định
theo khả năng tài chính của doanh nghiệp. Đối với sản phẩm mới và thị trƣờng
mới thì chi phí quảng cáo nhiều hơn và quảng cáo nhiều hơn.
- Phƣơng thức tiến hành: quảng cáo hàng ngày, liên tục quảng cáo định kỳ,
phƣơng tiện quảng cáo có thể là các phƣơng tiện thông tin đại chúng hay các ấn
phẩm quảng cáo.
b. Xúc tiến bán hàng:
Là biện pháp tiếp tục để tác động vào tâm lý khách hàng, nắm bắt đƣợc nhu
cầu và phản ứng của khách hàng về các dịch vụ của công ty. Và có thể thu hút
đƣợc khách hàng nhiều hơn.
Hình thức xúc tiến bán có thể là các phần thƣởng, quảng cáo tại chỗ, mua
sắm thông qua hội nghị khách hàng, hội chợ triển lãm.

15


CHƢƠNG II
THỰC TRẠNG KHÁCH DU LỊCH NHẬT BẢN TẠI
CÔNG TY DU LỊCH - DỊCH VỤ TÂY HỒ
I-/

MỘT SỐ LỢI THẾ CỦA CÔNG TY CÓ LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ

THU HÚT KHÁCH DU LỊCH.

1-/ Quá trình hình thành và phát triển của công ty Du lịch - dịch vụ Tây Hồ.
Vào những năm đầu thập kỷ 90 khi mà Liên Xô đã tan rã thì nguồn viện trợ
cho chúng ta cũng bị cắt giảm thậm chí không còn. Trƣớc tình hình đó để giảm
bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nƣớc, đảm bảo cho Đảng và Nhà nƣớc hoạt
động. Cùng với sự bùng nổ về du lịch của thập kỷ 90, dẫn đến nhu cầu về du
lịch tăng lên. Trƣớc tình hình đó ngày 12/1/1989 đã thành lập công ty Dịch vụ
sản xuất Hồ Tây. Ban đầu công ty kinh doanh chủ yếu là nhà đất, dịch vụ giải
khát, kinh doanh du lịch quốc tế, xuất nhập khẩu, vận chuyển.
Từ năm 1989 đến 1995 tốc độ phát triển khá mạnh. Uỷ ban Tài chính TW
quyết định thành lập Tổng công ty 91 gồm năm thành viên:
+ Công ty dệt may xuất nhập khẩu Việt An.
+ Công ty xây dựng Trƣờng An.
+ Công ty xuất nhập khẩu Tƣờng An.
+ Công ty giải khát Ba Đình.
+ Công ty dịch vụ Tây Hồ.
Công ty Du lịch - dịch vụ Tây Hồ đƣợc UBND Thành phố Hà Nội cấp giấy
phép kinh doanh số 2002/UBND ngày 1/7/95. Trụ sở của công ty tại số 1 Tây
Hồ phƣờng Quảng An - Tây Hồ - Hà Nội. Và Trung tâm Du lịch của công ty đặt
tại 107 - Quán Thánh.
Công ty Du lịch - dịch vụ Tây Hồ là một thành viên hạch toán độc lập của
Tổng công ty Hồ Tây, trực thuộc Ban Tài chính quản trị TW.
Hoạt động chủ yếu của công ty là:
+ Kinh doanh khách sạn nhà hàng.
+ Kinh doanh lữ hành.

16



+ Dịch vụ vận chuyển.
+ Kinh doanh dịch vụ bổ sung.
+ Dịch vụ cho thuê nhà.
Trung tâm lữ hành là mảng kinh doanh hạch toán phụ thuộc vào công ty.
2-/ Cơ cấu tổ chức quản lý của trung tâm lữ hành, chức năng nhiệm vụ
của các phòng ban.
Hội đồng quản trị TCT Hồ Tõy

Cụng ty Du lịch - Dịch vụ Tõy Hồ

Ban giỏm đốc cụng ty

Trung tõm lữ hành

Ban giỏm đốc Trung tõm

éại diện
Múng Cỏi

éiều hành
Tour

Hƣớng
dẫn viờn

Hành chớnh
văn phũng

a. Cơ cấu tổ chức quản lý của trung tâm du lịch được tổ chức theo cơ cấu
trực tuyến: Các bộ phận có quan hệ với nhau bình đẳng, hợp tác, thống nhất

trên tổng thể công ty và trung tâm. Chịu sự chỉ đạo trực tiếp duy nhất từ ban
giám đốc trung tâm, các ban chức năng có trách nhiệm thực thi các nhiệm vụ
đƣợc giao và làm cố vấn cho giám đốc trung tâm về lĩnh vực của mình. Đồng
thời có trách nhiệm phối hợp thực hiện công việc trong các ban.
b. Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban: là kinh doanh du lịch lữ hành
quốc tế và nội địa, bên cạnh đó còn có các dịch vụ khác nhƣ hộ chiếu, visa. Tổ
chức các Tour du lịch quốc tế. Trung tâm lữ hành có cơ cấu tổ chức một bộ máy
17


khá hoàn chỉnh gồm có ban giám đốc; bộ phận điều hành; bộ phận hƣớng dẫn;
hành chính văn phòng và đại diện Móng Cái.
- Ban giám đốc trung tâm có hai ngƣời gồm một giám đốc và một phó giám
đốc chịu trách nhiệm điều hành trung tâm. Chịu sự chỉ đạo của giám đốc công
ty. Giám đốc trung tâm là phó giám đốc của công ty và còn chịu trách nhiệm chỉ
đạo công tác thị trƣờng. Ban giám đốc chỉ đạo hoạt động của trung tâm và quản
lý hoạt động của văn phòng đại diện Móng Cái.
- Bộ phận điều hành có nhiệm vụ thiết lập các Tour du lịch Inbound và
Outbound, trình lên ban giám đốc, đồng thời tổ chức điều hành các Tour đó.
- Bộ phận hƣớng dẫn có nhiệm vụ hƣớng dẫn khách du lịch theo các Tour
mà trung tâm tổ chức mỗi khi có điều động của bộ phận điều hành thông qua
bán giám đốc của trung tâm.
- Bộ phận hành chính văn phòng: có nhiệm vụ quản lý lƣu giữ các công
văn, thƣ, điện tín từ các nơi gửi đến, đồng thời tổ chức làm dịch vụ hộ chiếu,
visa và các dịch vụ liên quan đến xuất nhập cảnh cho khách du lịch.
- Đại diện Móng Cái: thay mặt cho công ty giao dịch ký kết các hợp đồng
du lịch với các đối tác và trực tiếp với khách du lịch. Thu gom khách du lịch gửi
về trung tâm.
Sự phân chia thành các bộ phận trong trung tâm lữ hành chỉ mang tính
tƣơng đối, do đặc điểm đặc thù của trung tâm có ít ngƣời, công việc của từng bộ

phận không thƣờng xuyên. Có những lúc một số bộ phận bị quá tải bởi công
việc chồng chất nên trong quá trình thực hiện công việc các chức năng không
đƣợc tách bạch mà có sự kết hợp, phối hợp thực hiện. Các nhân viên có thể hỗ
trợ giúp đỡ lẫn nhau. Nhân viên hƣớng dẫn có thể kiêm cả điều hành và ngƣợc
lại.
3-/ Đặc điểm lao động ở trung tâm lữ hành.
a. Cơ cấu giới tính của lao động tại trung tâm lữ hành.
Tỉ lệ lao động nam nữ trong trung tâm là 5 nam và 5 nữ, nam và nữ chiếm
tỷ lệ bằng nhau và bằng 50% trên tổng số lao động của trung tâm. Đây là một cơ
cấu hợp lý của trung tâm. Các vị trí trong trung tâm rất phù hợp cơ cấu giới tính
của trung tâm. Ở bộ phận hành chính văn phòng có 1 nữ, bộ phận điều hành
Tour và phòng hƣớng dẫn có 7 ngƣời gồm 3 nam, 4 nữ. Có thể nói đây là cơ cấu
rất phù hợp với một trung tâm lữ hành.

18


b. Cơ cấu lao động theo độ tuổi.
Trung tâm có một đội ngũ nhân viên trẻ với độ tuổi trung bình là 29 trong
đó chủ yếu là từ độ tuổi 25-35. Cơ cấu độ tuổi của các bộ phận là khá hợp lý.
Thể hiện ở nhân viên của từng bộ phận từ ban giám đốc đến các bộ phận hƣớng
dẫn, điều hành, hành chính văn phòng đều còn rất trẻ từ 22-35 tuổi. Đây là độ
tuổi thích hợp với những công việc đòi hỏi sự khéo léo, khôn ngoan, khả năng
ứng xử, nhanh nhẹn, hoạt bát khi trực tiếp tiếp xúc với khách. Ngoài ra công
việc này đòi hỏi phải có thể hình. Trong các ban có ngƣời lớn ít và ngƣời nhiều
tuổi hơn để có sự bổ sung kinh nghiệm của ngƣời đi trƣớc và sự nhiệt tình của
tuổi trẻ trong công việc.
c. Trình độ học vấn và trình độ ngoại ngữ.
Trình độ học vấn của lao động tại trung tâm lữ hành là cao. Toàn bộ các lao
động trong trung tâm lữ hành đều có trình độ đại học và trên đại học. Trình độ

chuyên môn nghiệp vụ chƣa cao, chỉ có một số ít là có trình độ đại học đúng
chuyên ngành du lịch thì đều ở các vị trí chủ chốt nhƣ ban giám đốc, còn các
phòng ban khác có số không đúng với chuyên môn của họ bởi trong số đó có
một số tốt nghiệp đại học ngoại ngữ (2 ngƣời), không đúng với chuyên ngành du
lịch. Đây là vấn đề bất hợp lý đối với trung tâm. Trung tâm cần có những ngƣời
có năng lực thực sự về nghiệp vụ du lịch.
Trình độ ngoại ngữ: nhìn chung trong trung tâm mọi ngƣời đều biết tiếng
Anh. Có thể nói tỉ lệ biết ngoại ngữ của lao động tại trung tâm là cao (100%). Tỉ
lệ có trình độ B và C tiếng Anh chiếm đa số. Trình độ đại học là 3 ngƣời, trong
đó có hai ngƣời tốt nghiệp đại học Ngoại ngữ khoa Anh - Trung, một số ít ngƣời
biết tiếng Trung nhƣng giao tiếp còn kém trừ hai ngƣời tốt nghiệp khoa Anh Trung nói trên. Hầu nhƣ không có ngƣời nào biết tiếng Nhật. Trình độ ngoại ngữ
của trung tâm còn hạn chế bởi vì khách của trung tâm chủ yếu là khách Pháp,
Trung Quốc, Nhật Bản,... do đó cần khuyến khích công nhân viên học ngoại ngữ
đặc biệt là tiếng Trung, Nhật để có thể giao tiếp trực tiếp với khách Trung và
khách Nhật.
4-/ Những lợi thế khác của trung tâm lữ hành.
a. Trung tâm lữ hành là một mảng kinh doanh trong công ty Du lịch - dịch
vụ Tây Hồ nằm trong Tổng công ty Hồ Tây. Công ty Du lịch - dịch vụ Tây Hồ
trực thuộc Ban Tài chính quản trị Trung ƣơng, là cơ quan của Đảng nên có
những lợi thế nhất định nhƣ sự quan tâm chỉ đạo của Nhà nƣớc đối với công ty,

19


sự đầu tƣ vốn cho công ty. Là cơ quan của Đảng nên trong hoạt động kinh doanh
có nhiều thuận lợi nhƣ việc ký kết với các đối tác nƣớc ngoài cũng nhƣ các công
ty khác trong nƣớc. Trung tâm lữ hành là một phòng trong công ty Du lịch - dịch
vụ Tây Hồ nên nó cũng có những thuận lợi trong việc ký kết với các công ty lữ
hành nƣớc ngoài.
b. Điều kiện kinh doanh:

- Vị trí: trung tâm lữ hành có trụ sở nằm ở 107 đƣờng Quán Thánh nằm
giữa trung tâm thủ đô Hà Nội, là đầu mối của trung tâm chính trị, văn hoá, xã
hội của cả nƣớc, thuận lợi với đầu mối giao thông liên lạc trong nƣớc và quốc tế,
là nơi tập trung phần lớn các cơ quan ngoại giao, thƣơng mại và các tổ chức
quốc tế, điều này đƣa lại những thuận lợi cho việc kinh doanh lữ hành nói riêng
và du lịch nói chung, cũng nhƣ việc tuyên truyền quảng cáo thu hút khách du
lịch.
- Cơ sở vật chất: trung tâm có một văn phòng đƣợc trang bị các tiện nghi
khá đầy đủ nhƣ bàn ghế, tủ, máy điều hoà, máy tính,... và có một máy Fax, điện
thoại. Nhìn chung cơ sở vật chất khá đầy đủ đảm bảo cho trung tâm hoạt động
bình thƣờng.
Trung tâm có bốn phòng: phòng giám đốc kiêm cả phòng hành chính, trong
phòng có hai bộ bàn, một bộ xa lông, một tủ đựng hồ sơ lƣu trữ của bộ phận
hành chính văn phòng. Hai bàn gồm có một của giám đốc và một của bộ phận
hành chính văn phòng. Một phòng đón tiếp khách gồm có một bộ bàn ghế xa
lông. Hai phòng còn lại là phòng làm việc của nhân viên.
Vốn kinh doanh của trung tâm: do trung tâm không phải là một đơn vị hạch
toán độc lập mà là một đơn vị hạch toán phụ thuộc vào công ty do đó mà nguồn
vốn của trung tâm cũng phụ thuộc vào công ty.
II-/ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TẠI TRUNG TÂM LỮ
HÀNH.
1-/ Kết quả kinh doanh của trung tâm trong năm 1998.
a. Kết quả kinh doanh cụ thể năm 1998:
* Số lƣợng khác mà trung tâm khai thác đƣợc là 521 tổng số khách trong
đó khách Inbound chiếm 357 khách và khách Outboud chiếm 137 khách.

20




×