Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Nghiên cứu khoa học lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam từ nửa sau thế kỉ XIX đến đầu thế kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.35 KB, 32 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ giai đoạn
tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, giai cấp tư sản nhiều nước đã
tiến hành những cuộc xâm lược các nước thuộc địa, những cuộc khai thác thuộc
địa này trở thành nhu cầu sống còn đối với các nước đế quốc. Chính vì lẽ đó, các
nước phương Tây đua nhau xâm lược các vùng đất ở Châu Á, Châu Phi và Châu
Mỹ Latinh, trong đó có cả Đông Nam Á.
Từ cuối thế kỷ XIX trở đi, ở khu vực các nước Đông Nam Á liên tục diễn
ra nhiều cuộc đấu tranh với nhiệm vụ chủ yếu là giải phóng dân tộc. Xuất phát
từ những điều kiện chủ quan và khách quan của tình hình khu vực cũng như trên
thế giới, phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á thời kỳ này diễn ra theo
nhiều xu hướng khác nhau. Đặc biệt là ở Việt Nam từ nửa sau thế kỉ XIX đến
đầu thế kỉ XX đã diễn ra nhiều xu hướng cải cách khác nhau nhằm đưa nước nhà
thoát khỏi tình cảnh bị xâm lược.
Nghiên cứu vấn đề này sẽ giúp chúng ta nhận thức một cách sâu sắc về tinh
thần yêu nước, truyền thống độc lập tự chủ của Việt Nam trong suốt tiến trình
của lịch sử. Đó cũng là hành động thiết thực để góp phần nhỏ bé về việc tìm
hiểu lịch sử văn hóa nước nhà nói riêng và văn hoá khu vực nói chung, nhất là
trong giai đoạn hiện nay, khi mà Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (viết tắt là
ASEAN) đang ngày cành khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế.
Vì những lý do trên, tác giả xin chọn đề tài Tư tưởng chính trị Việt Nam từ
nửa sau thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích
Nhằm hệ thống lại các sự kiện lịch sử và nội dung chính yếu của các cuộc
cải cách từ nửa sau thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX, đem đến cái nhìn logic và
khoa học hơn về giai đoạn này của lịch sử Việt Nam. Bên cạnh đó cũng khẳng
định được tinh thần yêu nước, anh dũng, bất khuất của dân tộc ta. Chứng minh
rằng ý chí quyết tâm đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc thời nào cũng mạnh
mẽ và vô cùng sôi nổi.


3. Phương pháp nghiên cứu

1


Với đặc trưng vốn có của khoa học lịch sử, để có thể hệ thống hóa tài liệu,
khái quát lại nội dung đề tài nên trong quá trình nghiên cứu chủ yếu sử dụng hai
phương pháp: Phương pháp lịch sử và phương pháp lô-gic.
Ngoài ra, còn một số phương pháp khác như: Đối chiếu, so sánh, thống
kê… cũng được sử dụng bổ trợ trong quá trình nghiên cứu.
4. Kết cấu
A. Phần mở đầu
B. Nội dung
CHƯƠNG 1: Hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam tử nửa
sau thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX.
1.1.
1.2.

Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Bối cảnh Quốc tế
CHƯƠNG 2: Những tư tưởng cải cách nổi bật.

2.1.
2.1.1.
2.1.2.
2.1.3.
2.2.

Tư tưởng cải cách theo khuynh hướng phong kiến.
Tư tưởng cải cách trên lĩnh vực kinh tế của Đặng Huy Trứ

Tư tưởng cải cái về chính trị của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch
Tư tưởng cải cách bằng bạo động vũ trang
Phong trào Cần Vương (1885 – 1896)
Khởi nghĩa nông dân Yên Thế (1883 – 1913)
Tư tưởng cải cách theo khuynh hướng dân chủ tư sản.
2.2.1: Phan Bội Châu
2.2.2: Phan Châu Trinh
2.2.3: Nguyễn Thái Học
CHƯƠNG 3: Nguyễn Ái Quốc tìm đường giải phóng dân tộc và phát triển
phong trào theo khuynh hướng cách mạng vô sản.
3.1. Nền tảng tư tưởng - lí luận của tư tưởng Hồ Chí Minh
3.2. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng giải phóng dân tộc theo
khuynh hướng vô sản của Hồ Chí Minh giai đoạn đầu thế kỉ XX
C. Kết luận
D. Tài liệu tham khảo
B. NỘI DUNG

2


CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ
TỪ NỬA SAU THẾ KỶ XIX ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XX
Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
Trong nước, chính quyền triều Nguyễn đã từng bước khuất phục trước sự

1.1.

xâm lược của tư bản Pháp, lần lượt ký kết các hiệp ước đầu hàng, thừa nhận sự
bảo hộ của thực dân Pháp trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Chính quyền nhà
Nguyễn lúc bấy giờ không còn đủ sức để lãnh đạo kháng chiến bảo vệ độc lập

dân tộc trước nguy cơ xâm lược của thực dân pháp. Năm 1958, thực dâm Pháp
xâm lược nước ta, biến Việt nam từ một quốc gia phong kiến độc lập thành một
nước thuộc địa nửa phong kiến. Chúng thi hành các chính sách áp bức, bóc lột
cực kì dã man, thâm độc về kinh tế, văn hóa và xã hội. Thực dân Pháp ngày
-

càng mở rộng quy mô khai thác, vơ vét tài nguyên khoáng sản ở nước ta.
Về nông nghiệp
Nông nghiệp Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược là một nước
phong kiến độc lập với một nền nông nghiệp lạc hậu, trì trệ. Triều đình phong
kiến vẫn tiếp tục ra sức vơ vét, bóc lột nhân dân cả nước trong khi nông nghiệp
bị bỏ bê, các công tác đinh điền, đê điều, thủy lợi đều bị sao nhãng, nạn vỡ đê,
mất mùa xay ra thường xuyên.

-

Về công, thương nghiệp
Công nghiệp và thương nghiệp bị kìm hãm ngặt nghèo bởi các chính sách
“bế quan tỏa cảng”, “trọng nông ức thương”,… Kết quả là nền tài chính của
triều đình nhà Nguyễn ngày một thiếu hụt, đời sống nhân dân ngày càng sa sút.

-

Văn hóa – giáo dục
Tư tưởng Nho gia đã lỗi thời và không phù hợp với hoàn cảnh lịch sử mới
nhưng vẫn được áp dụng. Việc khoa cử bị bỏ bê, khiến cho nạn mua quan bán
chức hoành hành. Văn hóa suy đồi, nhất là ở tầng lớp quý tộc và vua quan ăn
chơi sa đọa, áp bức nhân dân.
3



-

Xã hội
Xã hội nảy sinh mâu thuẫn sâu sắc giữa tầng lớp nông dân với tầng lớp địa
chủ phong kiến, giữa nân dân Việt Nam với quân xâm lược Pháp. Dẫn đến bùng
nổ hàng loạt các cuộc khởi nghĩa như khởi nghĩa của Tuần Vĩnh (Hà Đông); Đỗ
Văn Đạo, Nguyễn Văn Năm (Phúc Yên); Lê Văn Khuông, Đỗ Chuyên, Nguyễn
Nhiễm, Nguyễn Văn Đài (Bắc Ninh); Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Huy
Điển (Nghệ An, Hà Tĩnh)…
Tóm lại, cuối thế kỷ XIX, mặc dù triều đình phong kiến nhà Nguyễn đã ký
các Hiệp ước Hác-măng (Harmand) năm 1883 và Pa-tơ-nốt (Patenôtre) năm
1884, đầu hàng thực dân Pháp, song phong trào chống thực dân Pháp xâm lược
vẫn diễn ra theo những khuynh hướng khác nhau: khuynh hướng phong kiến,
khuynh hướng dân chủ tư sản, khuynh hướng vô sản.

1.2.

Bối cảnh Quốc tế
Từ nửa sau thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX, thế giới có nhiều sự kiện quan
trọng tác động mạnh mẽ đến sự chuyển biến của cách mạng Việt Nam. Thời
gian này, hầu hết các nước tư bản chủ nghĩa chuyển từ giai đoạn tự do cạnh
tranh sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Do đó, chúng đẩy mạnh quá trình xâm
lược thuộc địa sang các nước phương Đông. Việt Nam cũng không nằm ngoài
quỹ đạo xâm lược của các nước đế quốc.
Ngày 1/8/1914, Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. Cuộc chiến tranh
này gây ra những hậu quả đau thương cho nhân dân các nước (khoảng 10 triệu
người chết và 20 triệu người tàn phế do chiến tranh), đồng thời cũng đã làm cho
chủ nghĩa tư bản suy yếu và mâu thuẫn giữa các nước tư bản đế quốc càng tăng
thêm. Tình hình đó đã tạo điều kiện cho phong trào đấu tranh chống đế quốc ở

các nước nói chung.
Đến giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát
triển mạnh đặt ra yêu cầu phải có một hệ thống lý luận khoa học với tư cách là
vũ khí tư tưởng của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư
4


bản. Trong hoàn cảnh đó, chủ nghĩa Mác ra đời, về sau được Lênin phát triển và
trở thành chủ nghĩa Mác - Lênin. Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga giành
được thắng lợi, nhà nước Xô Viết dựa trên nền tảng liên minh công - nông dưới
sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvích Nga ra đời. Thắng lợi của Cách mạng Tháng
Mười mở ra một thời đại mới, "thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải
phóng dân tộc". Cuộc cách mạng này đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh
của giai cấp công nhân, nhân dân các nước và là một trong những động lực ra
đời của nhiều đảng cộng sản. Đồng thời một số cuộc cách mạng ở Châu Á như
cải cách Duy Tân của Nhật Bản, cách mạng Tân Hợi của Trung Quốc đã gây
ảnh hưởng lớn tới Việt Nam.

5


CHƯƠNG 2: CÁC TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ NỔI BẬT
2.1.

Các tư tưởng chính trị theo xu hướng phong kiến
Trước tình cảnh khó khăn của nước nhà, một số quan lại và sĩ phu tiến bộ
đã mạnh dạn đưa ra nhiều đề nghị đổi mới về các mặt đối nội, đối ngoại, về kinh

tế cũng như về chính trị - xã hội của đất nước.
2.1.1. Tư tưởng cải cách trên lĩnh vực kinh tế của Đặng Huy Trứ

Đặng Huy Trứ (1825 – 1874), là một nhà cải cách, ông tổ nghề nhiếp ảnh
và là người đầu tiên đưa kĩ nghệ đóng tàu của phương Tây vào Việt Nam. Đặng
Huy Trứ là người đầu tiên trực tiếp tổ chức và thực hiện canh tân đất nước trên
lĩnh vực buôn bán kinh doanh, lĩnh vực mà hệ tư tưởng phong kiến không hề coi
trọng. Ông mở nhiều hiệu buôn, khuyến khích tổ chức giao lưu hàng hóa trong
cả nước, tổ chức khai thác, xuất cảng thiếc và nông sản ra nước ngoài, nhằm mở
rộng tài chính cho quốc gia. Đồng thời ông luôn đặt vấn đề đạo đức của người
làm kinh tế lên hàng đầu, đặc biệt với những người làm việc trong bộ máy nhà
nước phải luôn giữ được “đạo tâm”, lo toan làm giàu cho đất nước, lợi ích công
tư thỏa đáng, trung thành và ngay thẳng.
Ông cũng trình bày tư tưởng của mình về cái khổ, cái nhục của người dân
mất nước, từ đó ông ủng hộ phái “chủ chiến” và “canh tân”. Trong tư tưởng
canh tân ông luôn đề cao việc học tập kinh nghiệm của các nước Trung Quốc,
Ba Tư, Triều Tiên, Nhật Bản.
Điểm nổi bật trong tư tưởng của ông là là canh tân dựa vào dân và làm lợi
cho dân. Tuy nhiên, điểm hạn chế của ông là vẫn chưa thoát khỏi ý thức hệ Nho
giáo, vẫn tôn sùng vua Tự Đức – ông vua bảo thủ, nhu nhược, chủ hòa với giặc.
Nối tiếp tư tưởng của Đặng Huy Trứ, năm 1868 Trần Đình Túc và Nguyễn
Huy Tế xin mở cửa biển Trà Lý (Nam Định), Đinh Văn Điền xin mở rộng khai
khẩn ruộng hoang và khai mỏ, phát triển việc buôn bán với nước ngoài, chấn
chỉnh lại quân đội. Năm 1872, Viện Thương Bạc xin mở ba cửa biển Đà Nẵng
(miền Trung), Ba Lạt, Đồ Sơn (miền Bắc) để mở rộng thông thương với nước
ngoài.
2.1.2. Tư tưởng cải cách về chính trị của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch

6


Đáng chú ý hơn cả là các đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ (1830 –
1871), còn được gọi là Thần Lân, là một danh sĩ, kiến trúc sư và đặc biệt là một

nhà cải cách xã hội cuối thế kỉ XIX. Nguyễn Trường Tộ đã liên tiếp gửi lên triều
đình Huế 58 bản điều trần (theo tập hợp của Linh mục Nguyễn Bá Cần) đề xuất
canh tân xây dựng đất nước trên đủ mọi lĩnh vực như chấn chỉnh bộ máy quan
lại, phái triển công thương nghiệp và tài chính, chỉnh đốn quân đội, mở rộng
ngoại giao, cải tổ giáo dục.
- Về chính trị: Ông trình bày những chiến lược cơ bản, về những thế lớn
phân và hợp trong thiên hạ ("Thiên hạ phân hợp đại thế luận", 1863) và đề xuất
"Kế ly gián giữa Anh và Pháp" (1866). Không hề ảo tưởng về dã tâm của thực
dân Pháp, nhưng ông rất sáng suốt chủ trương tạm hòa hoãn với Pháp, gợi ý với
nhà vua về lợi ích lớn của việc "Mở rộng quan hệ với Pháp và các nước khác"
(1871)...
- Về nội chính: Ông đề nghị triều đình tinh giản bộ máy chính quyền, nên
có chính sách đối với những nho sinh để họ không thể dựa vào chút chữ nghĩa,
trốn tránh nghĩa vụ đối với nước nhà. Ngoài ra, muốn cho đội ngũ viên chức giữ
được thanh liêm thì phải tạo điều kiện cho họ làm giàu chính đáng...
- Về tài chính: Ông đề nghị sắp đặt lại hệ thống thuế khóa cho thật công
bằng hợp lý, phải đo đạc lại ruộng đất, kê khai nhân khẩu, tăng thuế người giàu
và hàng xa xỉ ngoại nhập, đánh thuế thật nặng vào những tệ nạn như cờ bạc,
rượu chè...
- Về kinh tế: Ông đề nghị chấn hưng "nông, công, thương nghiệp" để làm
cho dân giàu nước thịnh, bằng những hành động cụ thể như: tổ chức khai hoang,
bảo vệ rừng, thành lập các đoàn tàu đem hàng nông sản đi bán, cử người thăm
dò tài nguyên, khai thác mỏ, thành lập các cơ sở sản xuất công nghệ và đào tạo
thợ kỹ thuật…Và phải chú ý đến việc làm mới và tu bổ đường bộ và đường
thủy....
- Về học thuật: Ông đề nghị cải cách "việc học, việc thi" để chọn được
nhân tài hữu ích. Đáng chú ý là việc ông đề nghị đem các môn khoa học vào
7



trong chương trình học, nhất quyết phải dùng quốc văn (chữ Nôm) để dạy học
và soạn sách, kể cả trong các giấy tờ hành chính...
- Về ngoại giao: Ông chủ trương quan hệ mềm mỏng với Pháp, và không
chỉ có Pháp mà còn phải đặt ngoại giao với nhiều nước khác như Anh, Tây Ban
Nha...
- Về quân đội: Ông đề nghị tăng cường vũ trang nhằm tăng chất lượng của
quân đội, như tổ chức lại đội ngũ, cho quân lính được học tập các binh pháp
mới, mua sắm tàu thuyền và vũ khí, xây dựng phòng tuyến cả ở thành thị lẫn
nông thôn, đề phòng quân Pháp xâm lược lan ra cả nước...
Bên cạnh đó, ông còn đề nghị cải cách về các mặt khác như văn hóa, tôn
giáo, bảo tồn di tích lịch sử, v.v... Tuy nhiên, phần lớn những đề nghị của ông đã
không được nghe theo do tầm nhìn hạn hẹp của triều đình nhà Nguyễn và hạn
chế của thời đại. Các bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ đã nói lên rất rõ tấm
lòng yêu nước thiết tha của ông.
Tuy chưa có ý thức thay thế thể chế phong kiến bằng một thể chế dân chủ,
bởi tình thế đất nước chưa cho phép làm điều đó, nhưng tư tưởng của ông đã
tiến rất gần các nhà tư tưởng tiến bộ của phương Tây. Có thể nói, ông đã gợi ra
cho người lãnh đạo đất nước những cách nghĩ, cách nhìn cởi mở và táo bạo mà
hàng thế kỷ về sau vẫn đáng để suy gẫm. Tóm lại, ông quả là một con người có
trí thông minh, nhìn xa thấy rộng, có khả năng ứng dụng vào thực tế vốn liếng
tri thức uyên bác cũng như những điều mình tâm huyết. Tiếc thay, vì bối cảnh
lịch sử đất nước lúc bấy giờ còn hạn chế do đó ông đã không thực hiện được
những cải cách của mình, nhưng những tư tưởng của ông đã "làm chứng về tấm
lòng của một con người, về vận hội của một đất nước".
Tiếp nối tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch (1852 – 1895)
đã nghiên cứu sâu sắc các tác phẩm của ông và phát triển tư tưởng canh tân lên
một bước. Ông nhiều lần gửi lên triều đình các bản điều trần xác định kẻ thù
đang rất mạnh, cũng như Nguyễn Trường Tộ ông cho rằng cần phải hòa, nhưng
8



chỉ là tạm thời, cuối cùng phải quyết chiến mới giành lại đất nước và để chiến
đấu nhất định phải canh tân, cải cách. Việc canh tân này phải nhờ sự viện trợ từ
nước ngoài, tiếp thu khoa học tiến bộ của nước ngoài. Trước tình hình cấp bách
của đất nước ông đề nghị những cải cách cụ thể và sắc đáng về chấn hưng dân
trí, khai dân trí, bảo vệ đất nước, đặc biệt tập trung vào vấn đề quốc phòng. Qua
bản điều trần đã cho thấy ông sớm thấm nhuần tư tưởng canh tân của lão tiền bối
Nguyễn Trường Tộ. Nó như một tiếng chuông cảnh tỉnh tiếp theo cho vua quan
thời ấy, nhất là sau khi 6 tỉnh Nam Kỳ đã lọt vào tay thực dân Pháp với hòa ước
Giáp Tuất (1874), nhưng tiếc thay, vua quan nhà Nguyễn vẫn cứ chủ trương
nhượng bộ thực dân Pháp và mặt khác muốn cầu viện nước láng giềng Trung
Quốc, không tiếp thu những tư tưởng cải cách lúc bấy giờ. Là một nhà nho yêu
nước, tuy tư tưởng vẫn chưa thoát khỏi ý thức hệ nho giáo, tôn sùng chế độ quân
chủ chuyên chế, nhưng ông có những cống hiến nổi bật là có tư tưởng lý luận về
mối quan hệ giữa tự lực tự cường và tranh thủ sự viện trợ từ nước ngoài.
Nhìn chung tất cả các cuộc cải cách đều xuất phát từ tinh thần yêu nước,
mong muốn cải tổ để nước nhà giàu mạnh có thể đương đầu với sự tấn công dồn
dập từ chủ nghĩa tư bản phương Tây. Tuy nhiên, những tư tưởng cải cách này
không được triều đình áp dụng hoặc áp dụng một cách hời hợt, thiếu quan tâm,
khiến cho tình trạng nước ta rơi vào bế tắc. Biến việc nước ta rơi vào tay thực
dân Pháp từ không tất yếu trở thành tất yếu.
2.1.3. Tư tưởng cải cách bằng bạo động vũ trang
- Phong trào Cần Vương (1885 – 1896)
Hai hiệp ước Hác-măng (1883) và Pa-tơ-nốt (1884) được kí kết đã đánh
dấu sự đầu hàng của triều Nguyễn trước tư bản Pháp, đánh dấu sự sụp đổ hoàn
toàn của mô hình nhà nước phong kiến độc lập Việt Nam. Nhưng trong triều
đình Huế vẫn còn một số người yêu nước như Tôn Thất Thuyết (1839 – 1913).
Sau khi vua Tự Đức mất (1883), Tôn Thất Thuyết ráo riết xây dựng lực lượng
chờ ngày sống mái với quân thù, ông còn cương quyết phế truất và trừ khử các
ông vua triều Nguyễn mới lên ngôi đã bộc lộ rõ tư tưởng thân Pháp, như Dục

Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc, để cuối cùng đưa Vua Hàm Nghi Lên ngôi lúc còn
nhỏ tuổi. Ngày mùng 13/7/1885, Tôn Thất Thuyết lấy danh nghĩa Vua Hàm
9


Nghi, đã hạ chiếu Cần Vương lần thứ nhất. Sau đó Tôn Thất Thuyết lại đưa
Hàm Nghi vượt qua nước Lào đến Ấu Sơn (Hương khê, Hà Tĩnh). Tại đây Hàm
Nghi lại xuống chiếu Cần Vương lần hai ngày 20/9/1885.
Hai tờ chiếu này đã tập trung tố cáo âm mưu xâm lược và tội ác của thực
dân Pháp trên dất nước ta, đồng thời kêu gọi văn thân sĩ phu và nhân dân cả
nước đứng lên kháng chiến giúp vua bảo vệ đất nước. Hưởng ứng chiếu Cần
Vương, nhân dân ta ở khắp nơi, dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu, văn thân yêu
nước – những người có chung một nỗi đau mất nước với quần chúng nhân dân
lao động, nên đã tự động đứng về phía nhân dân chống Pháp xâm lược.
Thông qua chiếu Cần Vương có thể thấy tư tưởng chính trị của Tôn Thất
Thuyết là xuất phát từ lòng yêu nước nồng nàn, ông đã biết kết hợp sức dân
trong kháng chiến. Mặc dù diễn ra với danh nghĩa Cần Vương, thực tế đây là
phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta. Tôn Thất Thuyết nhận thấy rõ
để giành được quyền độc lập thì phải bằng con đường đấu tranh bạo lực, bởi thế
ông lãnh đạo phong trào Cần Vương bùng nổ rộng khắp cả nước, bao gồm nhiều
cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ (khởi nghĩa Bãi Sậy, khởi nghĩa Ba Đình, khởi nghĩa
Hùng Lĩnh, khởi nghĩa Hương Khê, khởi nghĩa Phan Đình Phùng,…) Tôn Thất
Thuyết đã biết liên kết lực lượng nhân dân cả nước cùng đứng lên khởi nghĩa,
dùng chính tinh thần đoàn kết của nhân dân để chống lại thế giặc. Tuy nhiên ông
vẫn đi theo con đường phong kiến, không nhận ra con đường cứu nước là con
đường cách mạng vô sản nên phong trào cuối cùng đi vào bế tắc và dần lụi tắt.
Đối với những nhà nghiên cứu lịch sử đều đánh giá cao nhân cách Tôn Thất
Thuyết, trân trọng tấm lòng yêu nước nhiệt thành của ông, song vẫn chê trách
sai lầm của ông về ảo tưởng cầu viện nhà Thanh chống Pháp.
- Phong trào nông dân Yên Thế (1884 – 1913)

Trong phong trào dân tộc cuối thế kỉ XIX, song song với các cuộc đấu
tranh Cần Vương còn có các cuộc đấu tranh tự phát của đồng bào và nhân dân
miền núi. Theo bước chân xâm lược của thực dân Pháp, phong trào kháng chiến
của nhân dân ta nổ ra rồi lan rộng từ đồng bằng đến trung du, miền núi. Trong
đó, nổi bật nhất là phong trào nông dân Yên Thế, đây là phong trào đấu tranh vũ
10


trang lớn và kéo dài nhất trong số các phong trào chống Pháp cuối thế kỉ XIX
kéo dài tới hơn mười năm đầu thế kỉ XX chủ yếu do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo.
Hoàng Hoa Thám sinh năm 1858 tại tỉnh Hưng Yên trong một gia đình
yêu nước. Cha mẹ và nhiều người trong gia tộc ông đã tham gia các cuộc khởi
nghĩa chống Pháp vào nửa đầu thế kỷ XIX ở miền Bắc Việt Nam. Bản thân
Hoàng Hoa Thám cũng lặn lội khắp các vùng rừng núi của một số tỉnh thành
Bắc Bộ, cùng nghĩa quân chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược dưới ngọn
cờ khởi nghĩa của những nhà yêu nước, gây cho giặc nhiều thiệt hại. Khởi nghĩa
Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo đã nhận được sự ủng hộ của đông đảo
nhân dân, trong đó có cả các dân tộc ít người ở miền núi, diễn ra tại nhiều tỉnh
thành Bắc Bộ. Qua 10 năm đầu chiến đấu với nghĩa quân Yên Thế, từ năm 1884
đến năm 1894 quân Pháp xâm lược phải chịu những thiệt hại không nhỏ. Năm
1909, quân Pháp tấn công vào căn cứ Yên Thế, nghĩa quân của Hoàng Hoa
Thám bị thiệt hại nặng nề.
Phương thức tác chiến của nghĩa quân là lối đánh du kích, lấy ít đánh
nhiều, thường đánh những trận nhỏ, dựa vào địa hình hiểm trở và công sự dã
chiến để đánh gần, đánh nhanh, rút nhanh. Trong quá trình tồn tại phong trào đã
phần nào kết hợp được yêu cầu độc lập dân tộc với nguyện vọng dân chủ, bước
đầu giải quyết được yêu cầu ruộng đất cho nông dân. Khởi nghĩa Yên Thế, dưới
sự lãnh đạo của Hoàng Hoa Thám là phong trào đấu tranh lớn nhất của nông dân
những năm cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Sự tồn tại bền bỉ, dẻo dai của phong
trào đã nói lên tiềm năng, ý chí và sức mạnh to lớn của nông dân. Nhưng nông

dân chỉ có thể trở thành lực lượng cách mạng thật sự khi được giai cấp tiên tiến
dẫn đường. Cũng như các nhà lãnh đạo khác thời kì bấy giờ tư tưởng lãnh đạo
của Hoàng Hoa Thám còn “mang nặng cốt cách phong kiến” (Hồ Chí Minh),
nên không đủ sức chống chọi trước sự tấn công lâu dài của kẻ thù, chưa dẫn dắt
được nông dân vào con đường cách mạng nên cuối cùng phong trào đã đi vào
thất bại. Tuy nhiên, lối đánh du kích rút ra từ phong trào là một lối đánh chủ
động, sáng tạo và thông minh, lối đánh này đã được áp dụng rất phổ biến nhất là
trong cách mạng Việt Nam sau này.
11


Mặc dù chiến đấu rất anh dũng, nhưng cuối cùng các phong trào yêu nước
đều bị dập tắt. Sự thất bại này chứng tỏ hệ tư tưởng phong kiến không thể giúp
nhân dân ta thoát khỏi kiếp nô lệ. Nó hoàn toàn bất lực trước nhiệm vụ của lịch
sử đề ra. Bởi những tư tưởng chính trị ở cuối thế kỉ XIX đã không động chạm
đến vấn đề cơ bản lúc bấy giờ của xã hội Việt Nam là giải quyết hai mâu thuẫn
cơ bản là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn
giữa nông dân với địa chủ phong kiến. Triều đình lúc đó đang trên miệng hố suy
vong, đối lập với nhân dân nên trước sau đều ngoan cố cự tuyệt mọi đề nghị cải
cách lớn, nhỏ, thủ tiêu những tiền đề mới. Đó chính là trách nhiệm lớn lao của
nhà Nguyễn trước lịch sử dân tộc.
2.2.

Những tư tưởng cải cách theo khuynh hướng dân chủ tư sản
Sau khi dập tắt các phong trào nông dân, thực dân Pháp vội vã bắt tay vào
công cuộc khai thác thuộc địa. Dưới tác động của chương trình khai thác thuộc
địa lần thứ nhất, đã hình thành một nền sản xuất mới, của một xã hội mới, dù là
thuộc địa, nhưng đã khác xa với nền xã hội truyền thống trước kia. Mặc dù mục
tiêu của công cuộc khai thác thuộc địa là vơ vét sức người sức của nhân dân
Đông Dương nhưng cuộc khai thác của Pháp làm xuất hiện nền móng công

nghiệp thuộc địa mang yếu tố thực dân, thành thị theo hướng hiện đại ra đời,
bước đầu làm xuất hiện nền kinh tế hàng hoá, tính chất tự cung tự cấp của nền
kinh tế cũ bị phá vỡ. Đồng thời với quá trình khai thác thuộc địa các sách Tân
Văn, Tân thư, Tân báo do Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu viết được đưa vào
Việt Nam đã cổ vũ các sĩ phu tiên tiến hướng theo lý tưởng các cuộc vận
động Duy tân của Trung Quốc, của Nhật Bản. Tư tưởng chính trị dân chủ tư sản
phương Tây của Rút-xô (Rousseau), Môngtetxkiơ (Montesquieu) được giới
thiệu với sĩ phu Việt Nam, cộng với ảnh hưởng của cuộc biến Pháp từ ngoài vào,
tư tưởng tư sản bắt đầu xuất hiện. Cũng như ở Trung Quốc, trào lưu tư tưởng chỉ
có thể thâm nhập vào nước ta khi nền kinh tế mới, kinh tế tư bản dần dần xuất
hiện, nhưng trào lưu tưu tưởng mới chưa thể thông qua giai cấp tư sản dân tộc
lúc bấy giờ chưa hình thành mà lại thông qua một số sĩ phu tiến bộ trong giai

12


cấp phong kiến có xu hướng tư sản hóa. Đó là tư tưởng của Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh, phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, Quốc Dân Đảng…
2.2.1. Phan Bội Châu và phong trào Đông Du
Ở Việt Nam các sĩ phu yêu nước nhận thấy không thể nào tự lực đánh đuổi
Pháp nếu không trông vào viện trợ nước ngoài. Vì thế không thể nào không
hướng về Nhật Bản, một nước “đồng văn, đồng chủng” và đã tiến hành cải cách
thành công. Khi bàn về vấn đề cầu viện, Tiểu La Nguyễn Hàm đã khẳng định:
“Vậy thì bây giờ muốn tìm ngoại viện không gì bằng sang Nhật là hơn cả”
Do đó phong trào sang Nhật cầu học, phong trào Đông Du rất sôi nổi, kéo
dài từ năm 1904 đến 1908 đã có vai trò quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt
Nam đầu thế kỉ XX. Phong trào có mục đích kêu gọi thanh niên Việt Nam ra
nước ngoài (Nhật Bản) học tập, chuẩn bị lực lượng chờ thời cơ cho việc giành
lại độc lập cho nước nhà. Lực lượng nòng cốt cổ động và thực hiện phong trào
là Duy Tân hội và Phan Bội Châu.

Phan Bội Châu vốn tên là Phan Văn San sau đổi thành Phan Bội Châu.
sinh ngày 26 tháng 12 năm 1867 tại làng Đan Nhiễm, xã Nam Hòa, huyện Nam
Đàn, tỉnh Nghệ An. Ông có hiệu là Hải Thụ, về sau đổi là Sào Nam, Phan Bội
Châu còn có nhiều biệt hiệu và bút danh khác như Thị Hán, Phan Giải San, Sào
Nam Tử, Hạo Sinh, Hiếu Hán… Cha ông là Phan Văn Phổ, mẹ là Nguyễn Thị
Nhàn. Phan Bội Châu đã từng bôn ba khắp nước Việt Nam kết giao với các nhà
yêu nước như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Nguyễn
Thượng Hiền, Nguyễn Hàm (tức Tiểu La Nguyễn Thành), Đặng Nguyên
Cẩn, Ngô Đức Kế, Đặng Thái Thân, Hồ Sĩ Kiện, Lê Huân, Nguyễn Quyền, Võ
Hoành, Lê Đại...
Ông được biết đến như là ngọn cờ của phong trào yêu nước chống Pháp
đầu thế kỷ XX, là một nhà nho danh tiếng của xứ Nghệ, thuộc thế hệ cuối cùng
của các sĩ phu Cần Vương, được giác ngộ tư tưởng mới đã đi đầu trong phong
trào dân tộc suốt 20 năm đầu thế kỷ XX. Ông để lại nhiều tác phẩm văn chương
và báo chí giàu nhiệt huyết cách mạng như: Bình Tây thu Bắc, Tân Việt Nam,
Việt Nam quốc sử khảo, Hải ngoại huyết thư, Xã hội chủ nghĩa… Qua các tác
13


phẩm này đã thể hiện rõ tư tưởng chính trị của ông là dùng lực lượng vũ trang để
lật đổ đế quốc Pháp, nhờ ngoại viện để khôi phục độc lập, chủ trương thiết lập
nhà nước quân chủ (tư sản), sau đó ông chuyển sang tư tưởng cộng hòa.
Về nhiệm vụ cách mạng, theo ông đó là cách mạng dân tộc dân chủ tư sản.
Phan Bội Châu chỉ rõ: “Được gọi là một nước thì phải có nhân dân, đất đai,
chính quyền”, nay nước ta bị Pháp chiếm, nhiệm vụ hàng đầu là phải lấy lại
nước, giữa Việt Nam và Pháp không thể có thỏa hiệp được, giành lại chính
quyền là trung tâm của các vấn đề. Ông mong muốn “giữa đô thành nước ta đặt
một tòa nghị viện lớn”, dân bầu nghị viện, nghị viện khiển trách và trừng phạt
vua tệ, quan hư. Ở đây ông chưa nhận thức được bản chất của chế độ đại nghị tư
sản phương tây, cho rằng đây là chính quyền của nhân dân. Điểm tiến bộ là ông

luôn coi trọng nhân dân, lấy dân làm đầu. Theo ông nhân dân có quyền khởi
nghĩa, có quyền đánh đổ chế độ quân chủ độc đoán, theo chế độ vua có mà vẫn
có dân chủ. “Vua phải lấy dân làm trời, dân chính là trời của kẻ đứng đầu cai trị
nước”. Đến năm 1912, khi Việt Nam Quang Phục Hội ra đời ông dứt khoát
tuyên bố sẽ lập nền cộng hòa dân chủ.
Về lực lượng cách mạng, Phan Bội Châu chia ra những hạng người có khả
năng làm cách mạng là: Các nhà hào phú, quan lại tại chức, con các nhà quyền
quý, giáo đồ Thiên Chúa giáo, binh sĩ, bồi bếp, phụ nữ, con em nhà bị giặc tàn
sát và học sinh hải ngoại… Như vậy, ông đã không phân chia được công nhân,
nông dân, dân nghèo thành thị, dân miền núi, miền xuôi…
Về phương thức thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ tư sản của Phan
Bội Châu chủ yếu lấy phương thức bạo động vũ trang để giành độc lập. Tuy
nhiên, cùng với việc bạo động vũ trang, Phan Bội Châu cũng coi trọng việc vận
động duy tân đất nước, cải cách chính trị, kinh tế, văn hóa để tự cường dân tộc.
Chính vì vậy, vào cuối tháng 4 năm 1904 Hội Duy Tân được thành lập với mục
đích "Cốt sao khôi phục được Việt Nam, lập ra một chính phủ độc lập, ngoài ra
chưa có chủ nghĩa gì khác cả". Nhiệm vụ trước mắt của Hội được đề ra trong
ngày thành lập là: phát triển thế lực của Hội về người và về tài chính; chuẩn bị
bạo động và phương án hành động sau khi bạo động được tiến hành; xuất dương
14


sang Nhật cầu viện. Chính nhờ cương lĩnh đó mà phong trào Ðông Du ra đời
vào cuối tháng 7/1905.
Tháng 9 năm 1908, do sự cấu kết Nhật - Pháp, Nhật ra lệnh trục xuất du
học sinh và tháng 2 năm 1909, cụ Phan Bội Châu và Cường Ðể bị trục xuất về
nước (Cường Để tên là Nguyễn Phúc Đan, là cháu đích tôn 4 đời của vua Gia
Long. Năm 1906, ông trốn sang Nhật và cùng với Phan Bội Châu cổ động phong
trào Đông Du. Là một hoàng thân nhà Nguyễn, ông có tư tưởng quân chủ lập
hiến và nhận làm người lãnh đạo Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội. Ông mất

ngày 6 tháng 4 năm 1951, tại Tokyo, Nhật Bản). Sau đó Phan Bội Châu nương
náu ở Thái Lan rồi sang Trung Quốc hoạt động, lập Việt Nam Quang Phục Hội
(1912) với tôn chỉ duy nhất là đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục nước Việt
Nam. Năm 1925, ông bị bắt và giam lỏng ở Huế đến cuối đời, phong trào Ðông
Du tan rã.
Cuộc đời hoạt động của Phan Bội Châu đã trải qua nhiều khuynh hướng
chính trị, lúc đầu ông theo phong trào Cần Vương, sau sang quân chủ lập hiến
với chủ trương cách mạng dân chủ tư sản và cuối cùng chịu ảnh hưởng của cách
mạng vô sản… Đó là quyết tâm tìm đường lối và cách thức cứu nước của tầng
lớp sĩ phu ái quốc đầu thế kỉ XX, đồng thời phản ánh quy luật vận động lịch sử
đấu tranh của dân tộc.
Thất bại của phong trào Ðông Du đem lại cho người dân yêu nước Việt
Nam một bài học quý báu: Nhật và Pháp đều là hai nước đế quốc, đã là đế quốc
thì dù cho da vàng hay da trắng, đồng văn đồng chủng hay không, thì cũng có
bản chất như nhau. Vì thế muốn cứu nước thì không thể chỉ trông chờ vào sự
viện trợ từ nước ngoài, đặc biệt là ở Nhật.
Nhưng quan trọng hơn, trong con đường cứu nước của mình, chúng ta thấy
ở Phan Bội Châu để lại cho thời sau 2 nội dung quan trọng:
Một là, việc thành lập Hội Duy Tân, nếu như ban đầu (cuối tháng 5 năm
1904) chỉ là "cốt sao khôi phục được Việt Nam, lập ra một chính phủ độc lập,
ngoài ra chưa có chủ trương gì khác cả" tức chỉ là một nhóm có tính chất cá
nhân, thì đến đầu năm 1906 khi Duy Tân hội có cương lĩnh "Khôi phục nước
Việt Nam, lập thành nước quân chủ lập chiến" và cho đến tháng 2 năm 1912 với
15


việc ra đời của Việt Nam Quang phục hội : "Ðánh đuổi giặc Pháp, khôi phục
nước Việt Nam, thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Việt Nam" đã cho chúng ta
thấy rằng tổ chức của Phan Bội Châu đã tiến tới gần một chính đảng thực sự. Ðó
là lý luận và thực tế của việc lập ra một đảng cách mạng hiện đại, cương lĩnh về

một nước Việt Nam độc lập, ban đầu theo chế độ quân chủ, sau chuyển sang dân
chủ dân tộc. Ðây là một nội dung mới so với phong trào Cần Vương, so với hoạt
động của Hoàng Hoa Thám hay các tổ chức hội kín ở Nam kỳ lúc bấy giờ.
Hai là, với phong trào Ðông Du, đây là một mốc quan trọng trong quá trình
cứu nước của ông. Có thể nói rằng Phan Bội Châu là người đầu tiên biết nhìn ra
biển tức là không bị bó hẹp như các thế hệ trước đó mà đã phóng tầm nhìn ra
ngoài và trước cả người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rời bến Nhà
Rồng tháng 6 năm 1911.
Mặc dù chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn, nhưng phong trào
Đông Du được coi là một trong những phong trào yêu nước mạnh mẽ nhất của
nhân dân Việt Nam đầu thế kỷ XX, đặc biệt nhiều thanh niên du học của trào
lưu này đã trở thành những hạt nhân của các phong trào cách mạng tiếp theo
trong công cuộc giải phóng dân tộc.
Sự thất bại của Phan Bội Châu và sự thất bại của các phong trào do ông
khởi xướng do nhiều nguyên nhân nhưng quan trọng hơn hết là có nhiều yếu tố
lịch sử và thời đại đã vượt qua tầm nhìn của ông. Nhưng sự nghiệp mà ông để
lại như hàng lớp con người yêu nước, các cơ sở cách mạng ở Hàng Châu, Quảng
Ðông, Quảng Tây, Thái Lan. Là những nền tảng cơ bản để Nguyễn Ái Quốc tiếp
thu và nâng nó lên tầm cao mới vào những năm 20 của thế kỷ XX.
2.2.2. Phan Châu Trinh
Phan Châu Trinh sinh ngày 9 tháng 9 năm 1872, người làng Tây Lộc,
huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ (nay thuộc xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh),
tỉnh Quảng Nam, hiệu là Tây Hồ Hy Mã, tự là Tử Cán. Ông nổi tiếng học giỏi,
năm 27 tuổi, được tuyển vào trường tỉnh và học chung với Trần Quý
Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Đình Hiến, Phan Quang, và Phạm Liệu.

16


Trong lúc phong trào Đông Du và những hoạt động của Duy Tân hội diễn

ra sôi nổi thì Phan Châu Trinh và một số sĩ phu yêu nước khác như Huỳnh Thúc
Kháng, Trần Quý Cáp… chủ trương tiến hành một phong trào Duy Tân nhằm
vận động cải cách kinh tế, văn hoá, xã hội và gắn liền với việc động viên lòng
yêu nước, căm thù giặc, đấu tranh cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị của ngoại
xâm.
Trong số các sỹ phu đương thời và cả sau này, Phan Châu Trinh là người
thấy rõ nhất những nhược điểm của xã hội và con người Việt Nam. Ông chủ
trương phải thay đổi từ gốc rễ bằng cách nâng cao trình độ trí tuệ và đạo đức của
người Việt, phát triển kinh tế - văn hóa, học những tư tưởng tiến bộ của Phương
Tây, từ bỏ phong tục tập quán lạc hậu... Ông cho rằng Việt Nam phải phát triển
kinh tế và giáo dục để tự lực tự cường, hội nhập vào thế giới văn minh rồi mưu
cầu độc lập chứ không cầu viện ngoại bang dùng bạo lực giành độc lập. Chỉ như
vậy mới bảo đảm Việt Nam sẽ có một nền độc lập chân chính, lâu bền về chính
trị lẫn kinh tế trong quan hệ với ngoại bang cũng như nhân dân sẽ được hưởng
độc lập và tự do cá nhân trong quan hệ với nhà nước.
Năm 1908, ông bị bắt, bị kết án tù rồi đày đi Côn Đảo. Năm 1911, ông bị
đưa sang Pháp, nhưng vẫn hoạt động phong trào yêu nước Việt kiều. Năm 1925,
ông về nước tiếp tục tuyên truyền tư tưởng cải cách, tư tưởng ôn hòa. Năm
1926, ông đột ngột qua đời tại Sài Gòn.
Cuộc đời ông đã có nhiều đóng góp không nhỏ cho công cuộc cách mạng
của đất nước, của dân tộc. Ông để lại nhiều tác phẩm văn thơ có giá trị tư tưởng
như: “Thư gửi Toàn quyền Bộ”, “Tỉnh quốc hồn ca”, “Trung kỳ dân biểu thủy
mạt Ký”, “Xăng tế thi tập”, “Gia nhân kì ngộ”…
Tư tưởng chính trị nổi bật của Phan Châu Trinh là đấu tranh ôn hòa, công
khai, với phương châm "tự lực khai hóa" và tư tưởng dân quyền, Phan Châu
Trinh cùng Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp đi khắp tỉnh Quảng Nam và các
17


tỉnh lân cận để vận động cuộc duy tân. Khẩu hiệu của phong trào lúc bấy giờ

là: Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Phương thức hoạt động của phong
trào là bất bạo động, công khai hoạt động nhằm khai hóa dân tộc, giáo dục ý
thức công dân - tinh thần tự do, xây dựng cá nhân độc lập - tự chủ - có trách
nhiệm với bản thân và xã hội, thay đổi tận gốc rễ nền văn hóa - tâm lý - tính
cách - tư duy - tập quán của người Việt. Phổ biến các giá trị của nền văn minh
phương Tây như pháp quyền - dân quyền - nhân quyền - dân chủ - tự do - bình
đẳng - bác ái, cải cách trên mọi lĩnh vực. Phong trào thực hiện mục tiêu cải tạo
con người và xã hội Việt Nam bằng cách khuyến khích cải cách giáo dục (bỏ lối
học từ chương, phát động phong trào học Quốc ngữ), mở mang công thương
nghiệp, chấn hưng công nghệ, bỏ mê tín dị đoan, thay đổi tập quán (cắt tóc ngắn,
cắt ngắn móng tay)... Chính trong thời gian này, ông viết bài Tỉnh quốc hồn ca,
kêu gọi mọi người duy tân theo hướng khai minh và phát triển thực nghiệp.
Để thực hiện các mục tiêu trên, Phan Châu Trinh yêu cầu chính quyền
thuộc địa sửa đổi chính sách cai trị hiện hành để có thể giúp nhân dân Việt Nam
từng bước tiến đến văn minh (ỷ Pháp cầu tiến bộ). Tuy vậy, ông đề cao phương
châm “Tự lực khai hoá”, vận động những người cùng chí hướng thức tỉnh dân
chúng, tuyên truyền tư tưởng dân quyền, vận động mở trường học theo lối mới,
hô hào phát triển công, nông, thương nghiệp, cải cách phong tục, chống lề thói
phong kiến cổ hủ.
Đối với đường lối hoạt động cứu nước của Phan Bội Châu (ông gặp Phan
Bội Châu vào khoảng tháng 7 năm 1904 và sau đó trở thành đôi bạn thân thiết),
Phan Châu Trinh rất hoan nghênh việc bạn và tổ chức của bạn (Duy Tân hội) đã
vận động được một số học sinh ra nước ngoài học tập và phổ biến những tài liệu
tuyên truyền giáo dục quốc dân trong nước. Song, ông phản đối chủ trương bạo
động và tư tưởng bảo hoàng của Phan Bội Châu.
Về đường lối cứu nước, Phan Châu Trinh thẳng thắn và kiên trì bảo vệ
quan điểm của mình là chưa đặt việc khôi phục chủ quyền quốc gia, độc lập dân
tộc thành một nhiệm vụ trước mắt, mặc dù ông rất đau xót cảnh người Pháp
18



ngược đãi người Việt Nam. Mặt khác, Phan Châu Trinh còn phản đối việc dùng
vũ lực để giành độc lập dân tộc cũng như cầu viện bên ngoài, theo ông: “Bất bạo
động, bạo động tắc tử, bất vọng ngoại, vọng ngoại giả ngu”. Ông cho rằng
không cần hô hào chống Pháp, chỉ nên đề xướng dân quyền, khi nào dân đã giác
ngộ được quyền lợi của mình, bấy giờ mới có thể dần dần mưu tính đến việc
khác. Ông cho rằng chỉ cần học giỏi thì Pháp sẽ coi trọng người Việt Nam và
trao trả quyền độc lập cho dân tộc ta. Như vậy, ông không những nhận định sai
lầm về bản chất của đế quốc mà còn nhận định sai lầm về bản chất và khả năng
độc lập của dân tộc. Ông đề xuất tư tưởng “ỷ Pháp cầu tiến”, “Pháp – Việt đề
huề”, nghĩa là chủ trương cải lương, thỏa hiệp với thực dân Pháp.
Ông cũng kịch liệt chống vua quan tham nhũng thối nát, cho rằng nếu đấu
tranh giành độc lập mà không đập tan nền quân chủ thì hạnh phúc giành được
cũng không phải của nhân dân. Phan Châu Trinh đã chỉ đề cao một mâu thuẫn
giữa nhân dân và chế độ quân chủ phong kiến mà không nhìn thấy mâu thuẫn
giữa chính quốc với thuộc địa. Còn với Phan Bội Châu ông lại chỉ nhìn thấy
mâu thuẫn thứ hai mà không coi trọng giải quyết mâu thuẫn thứ nhất. Chính vì
điểm hạn chế này tư tưởng cải cách của hai ông cuối cùng đều không thành
công.
So với các nhà tư tưởng canh tân, Phan Châu Trinh tiến bộ hơn, ông đã
nhìn thấy được vai trò của người dân trong phong trào chấn hưng đất nước. Vì
vây, một trong những nội dung quan trọng nhất của tư tưởng dân chủ Phan Châu
Trinh là: khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Đây là cống hiến xuất sắc của
Phan Châu Trinh trong quá trình chuyển biến tư tưởng chính trị của dân tộc. Có
thể thấy, trong tư tưởng và hành động của Phan Châu Trinh bao giờ cũng hướng
đến nhân dân. Phan Châu Trinh đã nhận thức được nguyên nhân căn bản tại sao
Việt Nam bị thực dân xâm lược. Đó là do dân tộc chúng ta đã tụt hậu về mặt tri
thức so với các dân tộc khác hàng thế kỷ, hay nói cách khác, Việt Nam đã đi sau
các dân tộc phương Tây khác một thời đại: Khi Việt Nam còn ở nền kinh tế
nông nghiệp thì các nước phương Tây đã làm kinh tế công nghiệp và đang tiến

nhanh lên kinh tế tri thức. Ông đã thấy được rất xa là phát triển dân tộc quan
19


trọng không kém độc lập dân tộc. Nếu có độc lập dân tộc mà người dân bị bưng
bít thông tin, ngu muội so với các dân tộc khác thì sớm hay muộn, chúng ta sẽ
lại bị phụ thuộc hoàn toàn vào ngoại bang. Muốn cứu dân tộc, không còn con
đường nào khác là phải đuổi kịp về mặt tri thức, đưa dân tộc lên ngang tầm thời
đại với các dân tộc khác. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể cùng sinh tồn và cạnh
tranh với họ. Tư tưởng khai dân trí thực sự làm cho dân tộc thay đổi tư duy cũ
kỹ để vươn lên tầm nhận thức mới cao hơn, phù hợp hơn với sự phát triển của
thời đại. Quan điểm của Phan Châu Trinh đã đánh thức cơn ngủ mê của xã hội
phong kiến lúc bấy giờ. Với trí tuệ thông minh, nhạy cảm với sự biến đổi của
thời cuộc ông đã nhận thức được Nho giáo đã hết vai trò lịch sử, trở thành lực
cản cho sự tồn vong và phát triển của dân tộc, nó không còn là hệ tư tưởng phù
hợp với sự phát triển của thời đại bấy giờ. Hạn chế lớn nhất trong tư tưởng của
Phan Châu Trinh chính là vẫn bế tắc về con đường cách mạng, chưa nhận thức
đầy đủ bản chất của chủ nghĩa đế quốc, không thấy rõ sự cấu kết với nhau của
đế quốc và phong kiến, chưa phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân, mặc dù các ông đã ít nhiều đề cập đến vai trò cách mạng của giai cấp công
nhân. Ông không thấy rõ những mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam, quy
luật tất yếu của cách mạng Việt Nam.
Mặc dù có những hạn chế nhất định, nhưng tư tưởng và hoạt động của Phan
Châu Trinh đã góp phần quan trọng tạo nên một bước chuyển trong tư duy của
dân tộc Việt Nam, đó là làm cuộc vận động từng bước về tư tưởng từ chế độ
quân chủ sang chế độ dân chủ, từ tư duy phong kiến sang tư duy thời cận-hiện
đại. Tư tưởng dân chủ tư sản mặc dầu không chứng tỏ được sức sống của mình
nhưng nó là khâu trung gian, là bước chuyển rất quan trọng. Bởi vì hệ tư tưởng
tư sản đã bị thời đại vượt qua và cũng không còn đáp ứng đầy đủ yêu cầu của
cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh về hai

phương diện thành công và thất bại, ưu điểm và nhược điểm… đã để lại cho
cách mạng Việt Nam những bài học qúi giá trong tiến trình cách mạng.
Giai đoạn hiện nay, đất nước Việt Nam không những cần có độc lập dân
tộc, mà phải giàu mạnh, dân chủ và văn minh. Chính yêu cầu đó của lịch sử đã
20


khẳng định vai trò quan trọng của phong trào duy tân đổi mới và cải cách. Phan
Châu Trinh là người phát biểu một cách dõng dạc và rõ ràng nhất những sự hủ
bại của hệ thống quan lại và đưa ra những yêu cầu cải cách hệ thống quan lại và
những quan hệ chính trị lúc đương thời. Không những thế, ông còn làm sáng tỏ
vấn đề dân quyền về mặt lý thuyết và ra sức cổ vũ tuyên truyền cho sự thực hiện
dân chủ và dân quyền trong thực tiễn. Những nội dung cơ bản tư tưởng dân chủ
của Phan Châu Trinh là một đóng góp to lớn không những cho phong trào đổi
mới và cải cách mà cả cho sự phát triển của lịch sử tư tưởng Việt Nam đầu thế
kỷ XX.
2.2.3: Nguyễn Thái Học
Nguyễn Thái Học (1902–1930) là một nhà cách mạng Việt Nam, ông có
chủ trương dùng vũ lực lật đổ chính quyền thực dân Pháp, giành độc lập cho
Việt Nam. Ông là một trong số những người sáng lập Việt Nam Quốc dân
đảng và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930. Cuộc khởi nghĩa thất bại,
ông bị thực dân Pháp bắt và chém đầu ngày 17 tháng 6 năm 1930 tại Yên Bái.
Trong hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ ông hoàn toàn thất vọng về con đường
cải cách của chính quyền thuộc địa, Nguyễn Thái Học và các đồng chí của ông
đi đến quyết định là: con đường duy nhất để mở ra cơ hội phát triển cho dân tộc
Việt Nam chỉ có thể là con đường dùng vũ trang lật đổ chế độ thực dân Pháp và
chế độ phong kiến, thành lập một nước Việt Nam độc lập với thể chế cộng hòa
và thiết lập một nền dân chủ trên toàn cõi Đông Dương.
Năm 1927, Nguyễn Thái Học và một số đồng chí đưa ra quyết định thành
lập một đảng cách mạng bí mật, dùng vũ lực lật đổ thực dân Pháp. Đảng này

mang tên Việt Nam Quốc Dân Đảng, và chi bộ đảng đầu tiên mang tên là "Chi
Bộ Nam Đồng Thư Xã", do ông làm chi bộ trưởng. Dưới sự lãnh đạo của ông,
Việt Nam Quốc Dân Đảng bắt đầu phát triển rất nhanh chóng để kết nạp tầng
lớp trí thức, giáo viên, nông dân, công chức, binh sĩ trong guồng máy cai trị với
mục đích dùng bạo động lật đổ chính quyền thực dân Pháp, thành lập một chế độ
cộng hòa dân chủ độc lập trên toàn cõi Việt Nam. Đến đầu năm 1929, Việt Nam
Quốc Dân Đảng đã thành lập được 120 chi bộ tại Bắc kỳ với 1500 đảng viên.
21


Nguyễn Thái Học đã thực hiện một cuộc cách mạng thay chế độ quân chủ
và thuộc địa bằng một thể chế dân chủ tiến bộ. Ông đã lĩnh hội những khuyết
điểm và ưu điểm từ chế độ phong kiến đến chế độ thuộc địa, từ chủ nghĩa Xã
Hội đến Nguyên Tắc Tam Dân, từ phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục của Phan
Châu Trinh đến phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, và đặc biệt là sự hình
thành của nền Dân chủ của Hoa Kỳ vào năm 1787, và thể chế Cộng hoà ở Pháp
vào năm 1789. Mặc dù chống Pháp nhưng ông rất thích đọc và nghiên cứu cuộc
cách mạng của các nước phương Tây. Bên cạnh đó, vì đã sống và sinh hoạt
trong một môi trường là sinh viên, tiếp xúc với nền văn minh tây học nên khái
niệm Dân chủ tiến bộ đã sớm được hình thành trong tư tưởng của Nguyễn Thái
Học.
Cuộc tổng Khởi Nghĩa Yên Bái và sách lược Dân Chủ Hoá Đông Dương là
các sự kiện quan trọng trong lịch sử đấu tranh cận đại của dân tộc Việt Nam.
Trong khi các quốc gia tiến bộ đang hô hào và cổ võ sách lược Dân Chủ Hoá
Toàn Cầu, có thể nhắc đến sự đóng góp xương máu của dân tộc Việt Nam và
của nhà cách mạng, người anh hùng Nguyễn Thái Học trong việc cổ vũ phong
trào Dân Chủ của nhân loại. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân
Đảng tuy thất bại nhưng thực sự là một dấu son chói lọi trong lịch sử đấu tranh
giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Với tư cách là người sáng lập và lãnh đạo
Việt Nam Quốc dân Đảng, Nguyễn Thái Học thực sự là một trong những người

tiêu biểu nhất thuộc lớp trí thức Tây học sớm dấn thân, xả thân cứu nước trong
nửa đầu thế kỷ XX. Tấm gương hy sinh dũng cảm của ông trở thành một nguồn
động viên, cổ vũ mạnh mẽ các thế hệ thanh niên trí thức yêu nước trong cuộc
đấu tranh gian khổ, ác liệt lâu dài vì độc lập và tự do của Tổ quốc sau này.
Nguyễn Thái Học "không thành công" nhưng đã thực sự "thành nhân". Ông
được Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam công nhận là liệt sĩ
(24/2/1976) và tên của ông được đặt cho một trong những con phố lớn tại Hà
Nội.

22


Nhìn chung, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở
Việt Nam đã diễn ra liên tục, sôi nổi, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với
những hình thức đấu tranh phong phú, thể hiện ý thức dân tộc, tinh thần chống
đế quốc của giai cấp tư sản Việt Nam, nhưng cuối cùng đều thất bại vì giai cấp
tư sản Việt Nam rất nhỏ yếu cả về kinh tế và chính trị nên không đủ sức giương
cao ngọn cờ lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bên cạnh đó, các giai cấp
lãnh đạo phong kiến và tư sản với những ngọn cờ tư tưởng của họ đều đã lỗi
thời. Do vậy, họ không có một đường lối lãnh đạo đúng đắn, không có phương
pháp đấu tranh thích hợp.
Sự tồn tại của khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam nằm trong quy
luật vận động của lịch sử. Nó tồn tại là tất yếu và sự thất bại của nó là do đặc
điểm lịch sử, đặc điểm xã hội Việt Nam quy định. Tất cả đều chịu sự chi phối
của quy luật vận động phát triển và có kế thừa, không thể phủ định sạch trơn.
Bên cạnh mặt hạn chế hẳn còn những mặt tích cực khác, cũng như bên cạnh sự
thất bại, không đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi cuối cùng nhưng cũng
không vì thế mà phủ nhận vai trò tích cực, tính tiến bộ của khuynh hướng dân
chủ tư sản ở Việt Nam trong phong trào giải phóng dân tộc. Vì nó đặt cơ sở xã
hội cho sự tiếp thu tư tưởng mới-tư tưởng vô sản tiếp thu từ chủ nghĩa MácLênin, một tư tưởng tiến bộ của thời đại để thay đổi vận mệnh đất nước. Nhờ có

sự tồn tại khuynh hướng dân chủ tư sản mới chuẩn bị được tiền đề cho sự vận
động sang một khuynh hướng mới, khuynh hướng vô sản. Dân chủ bấy giờ được
xác định là một trong hai nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Trong công cuộc
xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, dân chủ càng được xem là mục
tiêu, là động lực cho sự công bằng, đoàn kết tạo nên sức mạnh dân tộc, thành
công cho công cuộc đổi mới. Tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân muốn thực hiện
được nhất định phải chú ý đến vấn đề dân chủ. Điều đó cũng có nghĩa là một
tiềm năng kinh tế hôm nay, một môi trường chính trị ổn định hôm nay là thành

23


quả của sự kế thừa, phát triển tư tưởng dân chủ trong khuynh hướng dân chủ tư
sản cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.

CHƯƠNG 3: NGUYỄN ÁI QUỐC TÌM ĐƯỜNG GIẢI PHÓNG DÂN
TỘC VÀ PHÁT TRIỂN PHONG TRÀO YÊU NƯỚC THEO KHUYNH
HƯỚNG VÔ SẢN
3.1. Nền tảng tư tưởng – lí luận của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh
Lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời đã hình thành nên những giá trị
truyền thống hết sức đặc sắc và cao quý của dân tộc Việt Nam, trở thành tiền đề
tư tưởng lí luận xuất phát góp phần hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là
truyền thống yêu nước, kiên cường, bất khuất, tinh thần tương thân tương ái, ý
thức cố kết cộng đồng... đặc biệt, chủ nghĩa yêu nước là tư tưởng, tình cảm cao
quý và thiêng liêng nhất. Chính sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước đã thúc giục
người thanh niên Nguyễn Tất Thành quyết chí ra đi tìm đường cứu nước, tìm
kiếm những gì hữu ích cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân
Việt Nam.
Bên cạnh đó là sự kết hợp hài hòa giữa tinh hoa văn hóa nhân loại phương

Tây và Phương Đông trong tư tưởng của Người. Hồ Chí Minh biết chắt lọc
những gì tinh túy nhất trong các học thuyết triết học, hoặc các tư tưởng của các
nhà triết học phương Đông như Quản Tử, Mặc Tử, Lão Tử... Người biết tiếp thu
các mặt tích cực của Nho giáo và của Phật giáo.
Cùng với những tư tưởng triết học phương Đông Hồ Chí Minh còn tiếp thu
nền văn hóa dân chủ và cách mạng phương Tây. Người đã sớm làm queen với
nền văn hóa của nhiều nước trên thế giới, tìm hiểu các cuộc cách mạng ở Pháp
và Mĩ, Người tiếp thu các tư tưởng về tự do, bình đẳng, bác ái qua các tác phẩm
24


của các nhà khai sáng như Vonte (Voltaire), Rútxô (Rousso), Môngtexkiơ
(Montésquieu)...
Trên hành trình cứu nước, Hồ Chí Minh đã tự biết làm giàu trí tuệ của mình
bằng vốn trí tuệ của thời đại, tinh hoa văn hóa Đông và Tây, vừa tiếp thu vừa có
chọn lọc để từ tầm cao tri thức của nhân loại mà suy nghĩ, lựa chọn, kế thừa và
đổi mới, vận dụng và phát triển những tri thức ấy trong điều kiện, hoàn cảnh
Việt Nam lúc bấy giờ. Vai trò quan trọng nhất trong việc hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh là sự tiếp nhận và tìm hiểu chủ nghĩa Mác – lênin. Thế gới quan và
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin đã giúp Hồ Chí Minh tổng kết
kiến thức và rút ra kinh nghiệm thực tiễn để tìm ra con đường cứu nước. Từ đó
Hồ Chí Minh đã biết chắt lọc và tiếp thu để vận dụng sáng tạo thành tư tưởng
Hồ Chí Minh phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam.
3.2. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng giải phóng dân tộc theo
khuynh hướng vô sản của Hồ Chí Minh nửa đầu thế kỉ XX
Trước yêu cầu cấp bách phải tìm một con đường cứu nước mới, bằng trí tuệ
thiên tài và nhãn quan chính trị sắc bén, tháng 6 năm 1911 Nguyễn ái Quốc đã
lên con tàu Amiral Latouche-Tréville, tìm đường sang các nước phương Tây,
nơi có khoa học - kỹ thuật phát triển và những tư tưởng dân chủ tự do, bình
đẳng, bác ái, xem họ làm như thế nào và tìm hiểu thực chất cuộc sống của những

người dân các nước tư bản chủ nghĩa, để rồi sau khi hiểu rõ bản chất của bọn đế
quốc và tìm ra con đường cứu nước sẽ trở về nước giúp đồng bào ta cởi ách
xiềng xích nô lệ.
Với tên gọi Văn Ba, Người đã qua nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là các
nước tư bản phát triển như Mỹ, Pháp, Anh. Người nghiên cứu những lý luận và
khảo sát thực tiễn các cuộc cách mạng đã có trên thế giới như cách mạng Mỹ,
cách mạng Pháp, đồng thời tham gia lao động và đấu tranh trong hàng ngũ giai
cấp công nhân và nhân dân lao động thuộc đủ các màu da. Người nhận thấy các
25


×