Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm tại chợ trung tâm trên địa bàn tỉnh an giang từ nay đến năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.2 KB, 24 trang )

Giải pháp nâng cao hiệu quả quản ỉý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
phẩm tại chợ trung tâm trên địa bàn tỉnh AG từ nay đến năm 2015

LỜI MỞ ĐẦU
Khi mức sống được nâng lên thì con người rất quan tâm đến sức khỏe, vì vậy
trong quá trình ăn uống hàng ngày con người rất chú trọng đến những loại thực phẩm
đảm bảo an toàn vệ sinh. Trong khi đó, hiện nay, tiêu thụ thực phẩm của người tiêu
dùng chủ yếu từ các hệ thống phân phối truyền thống (chợ) và hiện đại (siêu thị, trung
tâm thương mại). Đối với siêu thị, trung tâm thương mại việc đầu tư cơ sở hạ tầng,
cũng như trang thiết bị bảo quản đáp ứng yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm
(VSATTP).
Thời gian qua, công tác truyền thông về VSATTP đã có tác dụng tích cực, nhận
thức của người kinh doanh có chuyển biến, đa số các hộ kinh doanh đều có ý thức
chấp hành các qui định về VSATTP. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều điều bất cập và có khả
năng tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro về mức độ lây nhiễm, nhất là những mặt hàng thực
phẩm tươi sống như rau xanh, thủy hải sản, ... Nguyên nhân chính là do công tác quản
lý nhà nước còn có những hạn chế yếu kém dẫn đến có những hàng hóa chưa kiểm tra
được về nguồn gốc, xuất xứ, chất bảo quản, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, ... trước
khi đưa vào lưu thông tại chợ, mặt khác những người kinh doanh tại chợ cũng chưa
thật sự quan tâm và thậm chí có một số hộ kinh doanh cũng chưa biết đến các quy định
về VSATTP. Về cơ sở vật chất phục vụ cho kinh doanh hàng thực phẩm, ngoài các
chợ được đầu tư xây mới hoặc nâng cấp, cải tạo có thiết kế, trang bị đáp ứng yêu cầu
VSATTP, còn thì đa số các chợ (nhất là chợ nông thôn) đã xuống cấp, cơ sở vật chất
còn cũ kỷ, hư hỏng, sử dụng bằng vật liệu khó đảm bảo vệ sinh (như quầy, sạp bằng
gỗ, sắt rỉ sét, ...) hoặc người dân bày bán hàng thực phẩm trên rỗ, mẹt, thậm chí bán
ngay trên nền chợ, ... đã ảnh hưởng rất lớn về đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.
Từ thực trạng trên, để quản lý tốt về vệ sinh an tonà thực phẩm nhằm đảm bảo
sức khỏe, quyền lợi của người tiêu dùng góp phần nâng cao phục vụ văn minh thương
mại, giảm đến mức thấp nhất thiệt hại do thực phẩm không đảm bảo an toàn cũng như
do ngộ độc thực phẩm gây ra trong quá sử dụng thực phẩm tại chợ thì việc cần làm
như thể nào để khắc phục vấn đề, chúng ta cần nghiên cứu để có giải pháp thỏa đáng.


Nhưng do thời gian và khả năng có hạn nên đề tài bản thân chưa thể có những giải
pháp thật hữu hiệu để giải quyết hết vấn đề an toàn thực phẩm của các chợ trên địa bàn
tỉnh An Giang mà thực hiện có lộ trình, thực hiện thí điểm ở một số chợ trước mắt tập
trung ở các chợ trung tâm với mốc thời gian từ nay đến 2015 nên đề tài chỉ dừng lại
nghiên cứu “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
phẩm tại chợ trung tâm trên địa bàn tỉnh An Giang từ nay đến năm 2015”.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN TOÀN
VỆ SINH THỰC PHẨM
1.1. Khái quát chung về an toàn vệ sinh thực phẩm:
1.1.1. An toàn vệ sinh thực phẩm là gì?
1


Giải pháp nâng cao hiệu quả quản ỉý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
phẩm tại chợ trung tâm trên địa bàn tỉnh AG từ nay đến năm 2015

An toàn vệ sinh thực phẩm là tất cả điều kiện, biện pháp cần thiết từ khâu sản
xuất, chế biến, bảo quản, phân phối, vận chuyển cũng như sử dụng nhằm bảo đảm cho
thực phẩm sạch sẽ, an toàn, không gây hại cho sức khỏe, tính mạng người tiêu dùng.
Vậy, vệ sinh an toàn thực phẩm là công việc đòi hỏi sự tham gia của nhiều ngành,
nhiều khâu có liên quan đến thực phẩm như nông nghiệp, thú y, cơ sở chế biến thực
phẩm, y tế, người tiêu dùng.
1.1.2. Sự cần thiết phải bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm:
Đối với sức khỏe, bệnh tật: Trước mắt, thực phẩm là nguồn cung cấp
chất dinh dưỡng cho sự phát triển của cơ thể, đảm bảo sức khỏe con người nhưng đồng
thời cũng là nguồn có thể gây bệnh nếu không đảm bảo vệ sinh. Không có thực phẩm
nào được coi là có giá trị dinh dưỡng nếu nó không đảm bảo vệ sinh.
Về lâu dài thực phẩm không những có tác động thường xuyên đối với sức khỏe
mỗi con người mà còn ảnh hưởng lâu dài đến nòi giống của dân tộc. Sử dụng các thực

phẩm không đảm bảo vệ sinh trước mắt có thể bị ngộ độc cấp tính với các triệu chứng
ồ ạt, dễ nhận thấy, nhưng vấn đề nguy hiểm hơn nữa là sự tích lũy dần các chất độc hại
ở một số cơ quan trong cơ thể sau một thời gian mới phát bệnh hoặc có thể gây các dị
tật, dị dạng cho thế hệ mai sau. Những ảnh hưởng tới sức khỏe đó phụ thuộc vào các
tác nhân gây bệnh. Những trẻ suy dinh dưỡng, người già, người ốm càng nhạy cảm với
các bệnh do thực phẩm không an toàn nên càng có nguy cơ suy dinh dưỡng và bệnh tật
nhiều hơn.
Sự tác động đến kinh tế và xã hội: Đối với nước ta cũng như nhiều
nước đang phát triển, lương thực thực phẩm là một loại sản phẩm chiến lược, ngoài ý
nghĩa kinh tế còn có ý nghĩa chính trị, xã hội rất quan trọng.
Vệ sinh an toàn thực phẩm nhằm tăng lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Để cạnh tranh trên thị trường quốc tế, thực phẩm không những cần được sản xuất, chế
biến, bảo quản phòng tránh ô nhiễm các loại vi sinh vật mà còn không được chứa các
chất hóa học tổng hợp hay tự nhiên vượt quá mức quy định cho phép của tiêu chuẩn
quốc tế hoặc quốc gia, gây ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng.
Những thiệt hại khi không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm gây nên nhiều
hậu quả khác nhau, từ bệnh cấp tính, mạn tính đến tử vong. Thiệt hại chính do các
bệnh gây ra từ thực phẩm đối với cá nhân là chi phí khám bệnh, phục hồi sức khỏe, chi
phí do phải chăm sóc người bệnh, sự mất thu nhập do phải nghỉ làm, ... Đối với nhà
sản xuất, đó là những chi phí do phải thu hồi, lưu giữ sản phẩm, hủy hoặc loại bỏ sản
phẩm, những thiệt hại do mất lợi nhuận do thông tin quảng cáo, ... và thiệt hại lớn nhất
là mất lòng tin của người tiêu dùng. Ngoài ra, còn có các thiệt hại khác như phải điều
tra, khảo sát, phân tích, kiểm tra độc hại, giải quyết hậu quả, ...
Do vậy, vấn đề đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm để phòng các bệnh gây ra từ
thực phẩm có ý nghĩa thực tế rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế và xã hội, bảo
vệ môi trường sống của các nước đã và đang phát triển, cũng như nước ta. Mục tiêu
2


Giải pháp nâng cao hiệu quả quản ỉý nhà nước về vệ sinh an toàn thực

phẩm tại chợ trung tâm trên địa bàn tỉnh AG từ nay đến năm 2015

đầu tiên của vệ sinh an toàn thực phẩm là đảm bảo cho người ăn tránh bị ngộ độc do
ăn phải thức ăn bị ô nhiễm hoặc có chất độc; thực phẩm phải đảm bảo lành và sạch.
1.2.
a)

Nội dung quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm:
Hệ thống quản lý:
Tại tuyến Trung ương, công tác quản lý ATTP được giao cho 3 Bộ quản lý: Bộ
Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Công Thương. Tại Bộ Y tế, Cục
An toàn vệ sinh thực phẩm được thành lập để giúp Bộ Y tế thực hiện chức năng quản
lý nhà nước về VSATTP (theo Nghị định 79/2008/NĐ-CP). Tại Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, do tính chất đa ngành, để bao quát toàn bộ quá trình sản xuất
nông lâm thủy sản, công tác quản lý chất lượng, VSATTP nông lâm thủy sản hiện nay
được phân công cho nhiều đơn vị thuộc Bộ thực hiện như Cục Quản lý Chất lượng
Nông lâm sản và Thủy sản, Cục Chăn nuôi, Cục Trồng trọt, Tổng cục Thủy sản, Cục
Thú y, Cục Bảo vệ thực vật và Cục Chế biến Thương mại Nông lâm thủy sản và Nghề
muối. Tại Bộ Công Thương, công tác quản lý ATTP giao cho Vụ Khoa học Công nghệ
làm đầu mối.
Tại tuyến tỉnh, thực hiện Nghị định 79/2008/NĐ-CP của Chính phủ, đến nay đã
có 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thành lập Chi cục An toàn vệ sinh thực
phẩm (ATVSTP) trực thuộc Sở Y tế với trung bình khoảng 11 biên chế hành chính;
47/63 tỉnh đã thành lập Chi cục Quản lý chất lượng Nông lâm sản và Thuỷ sản, các địa
phương còn lại có Phòng Quản lý chất lượng nông lâm thủy sản thuộc Sở Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm đầu mối tổ chức các nhiệm vụ quản lý chất
lượng, an toàn thực phẩm.
Tại tuyến huyện, ước cả nước số người tham gia quản lý chất lượng ATTP là
1.949 người (trung bình là 3,0 người/huyện).
Tại tuyến cấp xã, ước cả nước số người tham gia quản lý chất lượng ATTP là

11.516 người (trung bình là 1,05 người/xã) (không chuyên trách) nên chưa được trả
lương vì hiện tại cấp xã/phường không được giao chức năng quản lý về ATTP.
b)

Thanh tra chuyên ngành vệ sinh an toàn thực phẩm:
Tại Trung ương đã thành lập Thanh tra Chi cục ATVSTP và Thanh tra Chi cục
Quản lý chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản. Tại tuyến tỉnh có Thanh tra Chi cục
ATVSTP với tổng số cán bộ là 171 người và Thanh tra Chi cục Quản lý chất lượng
Nông Lâm sản và Thủy sản với 1-3 cán bộ/tỉnh. Ngoài ra, trong Ngành nông nghiệp
còn có hệ thống thanh tra chuyên ngành về thú y, bảo vệ thực vật từ Trung ương đến
địa phương cũng góp phần vào công tác thanh tra, đảm bảo chất lượng an toàn thực
phẩm.
c)

Hệ thống kiểm nghiệm An toàn vệ sinh thực phẩm:
Thực hiện Nghị định 79/2008/NĐ-CP, mạng lưới kiểm nghiệm ATTP đang
được kiện toàn từ Trung ương đến địa phương. Theo thống kê của Cục An toàn vệ sinh
3


Giải pháp nâng cao hiệu quả quản ỉý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
phẩm tại chợ trung tâm trên địa bàn tỉnh AG từ nay đến năm 2015

thực phẩm, cả nước hiện có 72 cơ sở tham gia kiểm nghiệm ATTP trong ngành y tế.
Các trung tâm kiểm nghiệm thuộc lĩnh vực khoa học công nghệ, Nông nghiệp và phát
triển nông thôn đã tham gia tích cực vào công tác kiểm nghiệm thực phẩm.
Tuy nhiên, qua thực tế giám sát cho thấy, nhiều cơ sở kiểm nghiệm còn chưa
đáp ứng yêu cầu về hạ tầng, nhân lực được đào tạo, hóa chất, mẫu chuẩn, thiết bị hiện
đại có độ chính xác cao rất thiếu, đặc biệt là các la bô thuộc trung tâm y tế dự phòng
các tỉnh. Đáng chú ý là chưa có nhiều la bô đạt chuẩn ISO/IEC/17025 là yêu cầu thiết

yếu trong kiểm nghiệm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm.
d)

Quản lý chất lượng ATTP trong xuất khẩu, nhập khẩu thực phẩm:
Đối với xuất khẩu: Theo quy định hiện hành, việc quản lý chất lượng,
an toàn thực phẩm sản phẩm nông lâm thủy sản được thực hiện theo Thỏa thuận song
phương của Cơ quan thẩm quyền 2 nước, theo yêu cầu của nước nhập khẩu hoặc theo
quy định quản lý của Việt Nam trong từng thời kỳ (hay còn gọi là kiểm tra bắt buộc).
Các trường hợp còn lại, phần lớn nội dung chất lượng an toàn thực phẩm được thực
hiện theo cam kết nêu tại Hợp đồng thương mại giữa bên mua và bên bán, thường có
kết quả giám định bên thứ 3.
Đối với nhập khẩu: Việc quản lý các sản phẩm thực phẩm nhập khẩu
được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về an toàn thực phẩm, kiểm dịch
động thực vật cũng như các quy định về thương mại, hải quan. Đặc biệt, từ 01/9/2010,
các sản phẩm động vật (bao gồm cả thủy sản) xuất khẩu vào Việt Nam phải được sản
xuất tại các cơ sở có tên trong Danh sách được cơ quan thẩm quyền Việt Nam (thuộc
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) công nhận đủ điều kiện và được phép xuất
khẩu vào Việt Nam.
1.3 Những quy định của nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm:
Vệ sinh an toàn thực phẩm ảnh hưởng đến sức khỏe nhân dân và sự phát triển
của giống nòi. An toàn thực phẩm đang được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Chính
phủ, các Bộ Ngành và toàn xã hội. Từ đó, hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật đã
ra đời, tạo hành lang pháp lý cho công tác quản lý an toàn thực phẩm: Luật An toàn
thực phẩm số 55/2010/QH12 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khoá XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010 có hiệu lực thi hành
từ ngày 01 tháng 7 năm 2011 thay thế Pháp lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm số
12/2003/PL-UBTVQH11 là bước chuyển biến rõ nét, tích cực, thể hiện sự quan tâm
của Đảng, Nhà nước và Chính phủ đối với vấn đề an toàn thực phẩm. Theo sau Luật
An toàn thực phẩm là hàng loạt các Nghị định, Thông tư hướng dẫn đã ra đời: Nghị
định 38/2012/NĐ-CP Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật an toàn thực

phẩm được Chính phủ ban hành ngày 25 tháng 4 năm 2012 có hiệu lực thi hành kể từ
ngày 11 tháng 6 năm 2012; Thông tư 15/2012/TT-BYT, Thông tư 16/2012/TT-BYT,
Thông tư 19/2012/TT-BYT, Thông tư 26/2012/TT-BYT, Thông tư 30/2012/TT- BYT,
Nghị định 91/2012/NĐ-CP, Quyết định số 11/2006/QĐ-BYT ngày 09/3/2006 về việc
4


Giải pháp nâng cao hiệu quả quản ỉý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
phẩm tại chợ trung tâm trên địa bàn tỉnh AG từ nay đến năm 2015

ban hành quy định cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn vệ sinh thực phẩm đối
với cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm có nguy cơ cao; Quyết định số 80/2005/QĐBCT ngày 17/11/2005 về việc quy định mức thu, nộp, quan lý và sử dụng phí, lệ phí
quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm; Quyết định số 39/2005/QĐ-BYT ngày
28/11/2005 về việc ban hành Quy định về điều kiện vệ sinh chung đối với cơ sở sản
xuất thực phẩm; Thông tư số 32/2012/TT-BYT ngày 05/12/2012 quy định về điều kiện
an toàn thực phẩm đối với cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, kinh doanh thức ăn
đường phố; ... Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ngày càng chặt chẽ và hoàn thiện
là nền tảng vững chắc cho công tác quản lý an toàn thực phẩm.
Tóm lại: Bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm giữ vị trí quan trọng trong sự
nghiệp bảo vệ sức khỏe nhân dân, góp phần giảm tỷ lệ mắc bệnh, duy trì và phát triển
nòi giống, tăng cường sức lao động, học tập, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, văn hóa
xã hội và thể hiện nếp sống văn minh, đảm bảo an ninh chính trị và hội nhập quốc
tế, ... Chính vì vậy mà vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm thời gian qua luôn được sự
quan tâm của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, các Bộ Ngành và toàn xã hội bằng sự thông
qua việc ban hành nhiều chủ trương chính để điều hành quản lý và phân công trách
nhiệm quản lý chặt chẽ từ từ trung ương cho đến địa phương.
Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN TOÀN VỆ SINH THỰC PHẨM Ở
CÁC CHỢ TRUNG TÂM TRÊN


ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG VỪA QUA
2.1.

Đặc điểm tình hình:

2.1.1. Đặc điểm tình hình chung của tỉnh:
An Giang là tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu
Long, nơi đầu tiên dòng Mê Kông chảy vào địa phận Việt Nam, phía tây bắc giáp nước
bạn Campuchia (với đường biên giới dài 104 km), phía tây nam giáp tỉnh Kiên Giang,
phía nam giáp thành phố Cần Thơ và phía đông giáp tỉnh Đồng Tháp. Tổng diện tích
tự nhiên toàn tỉnh là 3.536,7 km2, chiếm 8,7% diện tích vùng đồng bằng sông Cửu
Long và bằng 1,1% diện tích cả nước. Tỉnh gồm thành phố tỉnh lỵ Long Xuyên, Châu
Đốc, 01 thị xã (Tân Châu) và 8 huyện, với 156 xã, phường và thị trấn. Dân số trung
bình tỉnh An Giang năm 2010 là 2.149.457 người, là tỉnh có số dân đông nhất trong
vùng đồng bằng sông Cửu Long và xếp thứ 4 toàn quốc (chỉ sau TP. Hồ Chí Minh, Hà
Nội và Đồng Nai).
Diện tích đất nông nghiệp của tỉnh vào khoảng 297.433,4 ha. Đất ở An Giang
được hình thành bởi sự kết hợp giữa biển và sông ngòi, nên rất đa dạng, không chỉ phù
hợp cho phát triển nông nghiệp mà còn thích hợp với một số loại cây công nghiệp
ngắn ngày. Với hệ thống sông ngòi dày đặc nên An Giang có nguồn nước ngọt dồi
dào, nguồn nước mặt phong phú cung cấp trực tiếp cho các hoạt động sản xuất và đời
sống dân cư. Với nguồn lợi thủy sản phong phú và đa dạng, An Giang có lợi thế hơn
5


Giải pháp nâng cao hiệu quả quản ỉý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
phẩm tại chợ trung tâm trên địa bàn tỉnh AG từ nay đến năm 2015

các tỉnh trong vùng về điều kiện khai thác và phát triển ngành nuôi trồng, chế biến
thủy hải sản. Các loại thủy hải sản chủ yếu gồm cá, tôm, cua, ... dù có trữ lượng hạn

chế, nhưng với diện tích mặt nước lớn, nguồn lợi thủy sản lại đa dạng về chủng loại
nên khai thác được quanh năm (trừ mùa bão, lũ, .). Nguồn khoáng sản chủ yếu bao
gồm các loại đá, cát, vật liệu trang trí, ... phân bố dàn trải trên toàn tỉnh, cát xây dựng
tập trung ở khu vực lòng các con sông, ngoài ra, còn có các loại khoáng sản có tiềm
năng chưa được khai thác như: Than bùn dùng để sản xuất phân hữu cơ; vỏ sò để sản
xuất xi măng trắng và làm phối liệu trong phân NPK; ...
- An Giang là một trong số 10 tỉnh có GDP lớn nhất cả nước. Năng lực cạnh
tranh của tỉnh năm 2010 tiếp tục nằm trong nhóm “Tốt” của Việt Nam (vị trí 14/63).
Giá trị tăng thêm (GDP) của An Giang tính đến năm 2010 là 16,8 ngàn tỷ đồng (theo
giá so sánh 1994), gấp 1,6 lần so với năm 2005; năm 2011 đạt 18,6 ngàn tỷ đồng, tăng
10,2% so năm 2010. Giá trị tăng thêm theo giá hiện hành là 47,2 ngàn tỷ đồng, gấp 2,5
lần so năm 2005; năm 2011 đạt 59,7 ngàn tỷ đồng, tăng 26,5% so năm 2010.
Giai đoạn 2006 - 2010, tăng trưởng GDP bình quân của tỉnh là 10,2%/năm, cao
hơn so với giai đoạn 2001-2005 (8,9%/năm). Xét theo ngành kinh tế, trong giai đoạn
2006 - 2010, khu vực dịch vụ tăng nhanh nhất với 13,2%/năm, tiếp đến là khu vực
công nghiệp - xây dựng (CN-XD) với 12,8%/năm và cuối cùng là khu vực nông, lâm,
ngư nghiệp tăng 3,8%/năm. Tốc độ tăng trưởng của hai ngành CN-XD và dịch vụ của
tỉnh là cao hơn so với mặt bằng chung của cả nước. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến
tích cực, theo hướng giảm dần tỷ trọng ngành nông, lâm, ngư nghiệp, tăng dần tỷ trọng
CN-XD và dịch vụ. Theo đó, ngành dịch vụ tăng đáng kể từ 49,3% năm 2005 lên
53,5% năm 2010, trong khi ngành nông, lâm, ngư nghiệp giảm tương ứng từ 38,5%
xuống còn 34,4%, ngành CN-XD cơ cấu chuyển dịch chậm và có chiều hướng ổn định
ở mức từ 12,3% còn 12%.
- Tốc độ tăng bình quân giá trị sản xuất (GTSX) khu vực nông, lâm, thủy sản
(giá so sánh 94) giai đoạn 2006 - 2010 là 5,4%/năm, trong đó, ngành nông nghiệp tăng
4,2%/năm, lâm nghiệp tăng 2,5%/năm và thủy sản tăng 10,7%/năm.
+ Trồng trọt: Từng bước chuyển sang nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá, gắn
với thị trường, nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm. Công tác nghiên cứu khoa
học, chuyển giao công nghệ, các giống cây trồng, vật nuôi có năng suất và hiệu quả
cao vào sản xuất, góp phần làm tăng đáng kể năng suất của các sản phẩm nông nghiệp.

Đặc biệt, sản lượng lúa của An Giang đã tăng nhanh, năm 2006 đạt 2.923 ngàn tấn,
năm 2008 là 3.519 ngàn tấn, năm 2010 đạt 3.659 ngàn tấn, đến năm 2011 đạt 3.857
ngàn tấn, chiếm tỷ trọng lớn trong sản lượng của vùng đồng bằng sông Cửu Long.
+ Chăn nuôi: Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi trong khu vực nông nghiệp có
xu hướng tăng chậm và tỷ trọng giảm đáng kể trong cơ cấu nông nghiệp, năm 2010 là
6,5% trong khi năm 2005 là 7,2%. Hiện nay, nhiều loại giống vật nuôi mới được đưa
vào chăn nuôi, hình thức chăn nuôi trang trại theo phương thức chăn nuôi công nghiệp
đang hình thành và ngày càng phát triển. Trong đó, chăn nuôi gia cầm đạt tốc độ tăng
6


Giải pháp nâng cao hiệu quả quản ỉý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
phẩm tại chợ trung tâm trên địa bàn tỉnh AG từ nay đến năm 2015

nhanh với mức bình quân giai đoạn 2006 - 2010 là 8,7%/năm, số lượng đàn heo lại có
xu hướng giảm (giảm mạnh vào các năm 2006 và 2007) với tốc độ âm -2,4%/năm, tuy
nhiên đã tăng nhẹ vào 2009 và 2010. Số lượng đàn trâu, bò vẫn giữ ở mức ổn định,
hàng năm sự tăng giảm không đáng kể.
+ Ngành thủy sản: Tốc độ tăng GTSX ngành thuỷ sản giai đoạn 20062010 đạt
bình quân 10,7 %/năm. Xét về tỷ trọng, GTSX thuỷ sản trong tổng GTSX ngành nông
lâm ngư nghiệp có xu hướng tăng, từ 16,5% năm 2005 lên 21% năm 2010 và năm
2011 chỉ còn 20,7%. Lĩnh vực nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh, sản lượng năm
2010 đạt 279.773 tấn, bằng 1,5 lần so năm 2005, năm 2011 đạt 295.216 tấn, tăng 5,5%
so năm 2010, góp phần đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu thủy sản của tỉnh. Thủy sản
vốn là mặt hàng có nhiều tiềm năng và lợi thế của tỉnh, tuy nhiên vẫn chưa được khai
thác xứng tầm, do tiến bộ khoa học, kỹ thuật chưa được áp dụng rộng rãi, nhất là ứng
dụng quy trình nuôi sạch, an toàn. Mặt khác, do khai thác quy mô nhỏ lẻ, bán chuyên
nghiệp, công cụ thô sơ, người dân không đăng ký hoạt động khai thác thuỷ sản theo
qui định, không tuân thủ theo mùa vụ, ... khiến nguồn lợi thủy sản tự nhiên cạn kiệt,
môi trường sinh sản bị thu hẹp.

Tỉnh có khả năng hợp tác phát triển một số lĩnh vực với các tỉnh, thành
phố trong vùng như liên kết khai thác du lịch, phát triển ngành chế biến nông sản, thủy
sản, đào tạo nhân lực cung cấp lao động cho các khu công nghiệp trong vùng, ... Trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, nhiều đề tài, kết quả nghiên cứu đã được
chuyển giao, ứng dụng có hiệu quả như: chọn tạo giống lúa, nếp, bắp, đậu các loại, cá
tra, cá lăng nha, cá leo, cá ngát; thu gom, xử lý chất thải rắn, lò gạch đứng ít ô
nhiễm, ... góp phần làm gia tăng năng suất, giá trị, chất lượng của sản phẩm. Đồng
thời, tỉnh cũng đã có các chương trình đầu tư, hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc
nghiên cứu, đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, sử dụng hệ thống
quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế để nâng cao năng lực cạnh tranh, giảm chi
phí sản xuất.
Tỉnh có thế mạnh về du lịch, bởi có nhiều di tích lịch sử, văn hóa, danh
lam thắng cảnh nổi tiếng như khu du lịch núi Sam, núi Cấm, lễ hội bà Chúa Xứ, khu
lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng (được xếp hạng di tích cấp quốc gia đặc biệt), làng
bè trên sông, du lịch mùa nước nổi, ... Bên cạnh đó, với lợi thế đất liền gần các danh
lam thắng cảnh của Campuchia và biên giới Thái Lan giáp Campuchia. Do vậy, khách
du lịch đến An Giang không chỉ để tham quan các phong cảnh thiên nhiên và các lễ hội
trong tỉnh mà còn để du lịch sang các nước
ASEAN khác.
2.1.2.
Đặc điểm tình hình về các chợ trung tâm:
Vị trí, địa điểm: Các chợ trung tâm trên địa bàn tỉnh An Giang thường
tập trung ở ven lộ của trung tâm của huyện, thị xã, thành phố. Bên cạnh đó, với đặc
điểm riêng có của vùng sông nước, một số chợ trung tâm nằm ven sông lạch.
7


Giải pháp nâng cao hiệu quả quản ỉý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
phẩm tại chợ trung tâm trên địa bàn tỉnh AG từ nay đến năm 2015


Hàng hóa
+ Về hàng hoá trao đổi chính: Các loại hàng hoá chủ yếu được trao đổi ở các
chợ nói chung và qua hệ thống chợ trung tâm nói riêng là hàng thực phẩm tươi sống,
nông sản khô, thực phẩm công nghệ, hàng tạp hoá và hàng may mặc,
+ Về quy mô và phạm vi trao đổi: Do nằm ở vị trí trung tâm nên quy mô tuơng
đối lớn trung bình khoảng 3.000 m2, có khoảng 200 điểm kinh doanh, phạm vi trao đổi
hàng hóa rộng lớn để phân phối hàng hóa cho toàn địa bàn huyện, thị, thành phố.
+ Về đối tượng tham gia trao đổi: Đối tượng chủ yếu tham gia trao đổi trên chợ
là các hộ tư thương, người sản xuất nhỏ bán trực tiếp, người tiêu dùng trên địa bàn, các
công ty tư nhân. Ngoài ra, còn có đội ngũ thương nhân trong và ngoài tỉnh ở các chợ
thực hiện các hoạt động thu gom, tích trữ và phát luồng hàng hoá đến các thị trường
tiêu thụ bên ngoài.
Phương thức giao dịch: Phương thức giao dịch chủ yếu là bán lẻ và bán
buôn.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật, dịch vụ hỗ trợ kinh doanh: Mặt bằng chợ được
đầu tư xây dựng kiên cố bằng xi măng, sắt thép như nhà lồng chợ. Các dịch vụ hỗ trợ
kinh doanh hầu như chưa phát triển, chủ yếu là các loại hình đơn giản như bốc vác, vận
chuyển, ... Có mặt bằng phạm vi chợ phù hợp với quy mô hoạt động của chợ và tổ
chức các dịch vụ tối thiểu tại chợ: Trông giữ xe, bốc xếp hàng hoá, kho bảo quản hàng
hoá, dịch vụ đo lường.
Toàn tỉnh hiện chỉ có 07 siêu thị và trung tâm thương mại, tập trung tại thành
phố Long Xuyên, thị xã Châu Đốc và thị xã Tân Châu; còn chợ truyền thống hiện có
282 chợ bố trí khắp các xã, phường trên địa bàn tỉnh. Thực tế, chợ là kênh phân phối
thực phẩm được nhiều người tiêu dùng lựa chọn phục vụ cho bữa ăn hàng ngày nhất.
2.1.3. Tình hình bảo đảm VSATTP tại các chợ trung tâm trên địa bàn
tỉnh:
* về nhận thức của thương nhân, người tiêu dùng và cán bộ quản ỉỷ chợ về việc
bảo đảm VSATTP trong các chợ:
Vấn đề VSATTP ngày càng được các ngành, các địa phương chú trọng
và xã hội đặc biệt quan tâm. Thời gian qua, các văn bản pháp luật về VSATTP ngày

càng hoàn thiện, chặc chẽ; các ngành chức năng thường xuyên kiểm tra, hướng dẫn
nghiệp vụ VSATTP cho các thương nhân, từng bước đã tác động đến nhận thức, cũng
như kiến thức về VSATTP của người sản xuất, người kinh doanh; điều kiện về cơ sở
vật chất ngày càng được cải thiện đã cơ bản đáp ứng yêu cầu giao lưu hàng hóa và bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Người tiêu dùng đã có nhận thức rõ và xác định tầm quan trọng của
công tác bảo đảm VSATTP nên có sự cảnh giác đối với những thông tin liên quan đến
hàng thực phẩm. Một bộ phận người tiêu dùng ở nông thôn còn nhận thức chưa cao,
chưa phân biệt được hàng đảm bảo VSATTP, hàng giả, hàng nhái, hàng không có
nguồn gốc rõ ràng, ... Do tập quán tiêu dùng dễ dãi vô tình đã tiếp tay cho các đối
8


Giải pháp nâng cao hiệu quả quản ỉý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
phẩm tại chợ trung tâm trên địa bàn tỉnh AG từ nay đến năm 2015

tượng sản xuất, chế biến kinh doanh hàng giả, hàng không đảm bảo VSATTP.
Việc tuyên truyền sâu rộng về VSATTP qua các phương tiện thông tin
đại chúng đã có tác dụng tích cực về nhận thức của người kinh doanh.
Sở Công Thương chủ trì, phối hợp các ngành chức năng tổ chức nhiều
lớp tập huấn về đảm bảo VSATTP nhằm nâng cao nhận thức và tăng cường năng lực
quản lý cho cán bộ quản lý chợ trong việc quản lý, hướng dẫn, kiểm tra vệ sinh an toàn
thực phẩm phù hợp với các tiêu chí qui định.
*
về tình hình thực hiện quy định của pháp luật và Nội quy chợ về VSATTP của
thương nhân kinh doanh trong chợ:
Thương nhân kinh doanh trong chợ tuy có chấp hành quy định của pháp luật và
Nội quy chợ về VSATTP nhưng vẫn chưa tuân thủ triệt để, nhất là việc thực hành vệ
sinh thực phẩm, như còn bày bán thực phẩm chín cạnh hàng thực phẩm tươi sống, còn
kinh doanh hàng hóa không đúng quy định về ghi nhãn, bán thịt gia súc, gia cầm chưa

qua kiểm tra thú y. Hàng thực phẩm chín không có tủ kính che đậy, nơi chế biến, các
bàn ăn và người chế biến thực phẩm chưa quan tâm thực hiện đúng tiêu chí về
VSATTP như sử dụng tạp dề, khẩu trang khi chế biến thực phẩm, không kiểm tra sức
khỏe định kỳ; sự hiểu biết về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm của những người tham
gia chế biến còn hạn chế. Một số hộ kinh doanh còn bày thịt gia súc, gia cầm vào
những mẹt nhỏ, vỏ bìa cattông đặt ngay dưới nền đất ẩm, không quan tâm tới vấn đề ô
nhiễm thực phẩm, ... Bên cạnh đó, vệ sinh môi trường ở các chợ cũng cũng là tác nhân
làm hạn chế việc đảm bảo VSATTP, do phần lớn cơ sở vật chất của chợ đã xuống cấp,
hệ thống xử lý nước thải và chất thải không đạt yêu cầu, gây ô nhiễm môi trường.
2.2.
Những kết quả đạt được và nguyên nhân trong công tác quản lý nhà
nước về an toàn vệ sinh thực phẩm:
2.2.1.

Kết quả:
*

Về chủ trương, quy định về việc bảo đảm VSATTTP:

Các văn bản chỉ đạo và qui định của tỉnh về VSATTP đã ban hành:
Luật An toàn thực phẩm đã được Quốc hội thông qua ngày 17 tháng 6 năm
2010 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2011. Đây là bước ngoặc quan trọng, thể
hiện sự quyết tâm của Đảng, Nhà nước đối với công tác quản lý về an toàn vệ sinh
thực phẩm và nằm trong hệ thống quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm từ Trung ương
đến địa phương. An Giang đã triển khai kế hoạch 5 năm và kế hoạch hoạt động chi tiết
của từng năm, thiết lập hệ thống quản lý và tổ chức thực hiện công tác ATVSTP từ
tỉnh đến huyện, xã. Toàn tỉnh có 16.324 cơ sở thực phẩm được phân cấp quản lý, trong
đó tỉnh quản lý 160, huyện quản lý 5.114 và xã quản lý 11.050 cơ sở. Uỷ ban nhân dân
tỉnh đã ban hành quyết định số 321/QĐ-UBND ngày 24/02/2009 về việc thành lập Chi
cục An toàn vệ sinh thực phẩm trực thuộc Sở Y tế tỉnh An Giang. Mạng lưới ATVSTP

triển khai ở 100% xã, phường.

9


Giải pháp nâng cao hiệu quả quản ỉý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
phẩm tại chợ trung tâm trên địa bàn tỉnh AG từ nay đến năm 2015

Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang đã ban hành Chỉ thị số 08/2007/CT- UBND
ngày 19/4/2007, về việc tăng cường công tác bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm;
Quyết định số 998/QĐ-UBND ngày 13/4/2007, về việc thành lập Ban điều hành công
tác bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm tỉnh An Giang; ... Ban điều hành bảo đảm công
tác ATVSTP đã xây dựng Quy chế tổ chức và hoạt động, giúp Ủy ban nhân dân tỉnh
trong công tác quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm. Tuy nhiên, tỉnh chưa
ban hành Quy định tiêu chuẩn về VSATTP trong chợ, để các Ban Quản lý chợ làm căn
cứ quản lý và điều hành hoạt động VSATTP tại chợ.
Tác động của hệ thống văn bản pháp luật (của Trung ương, của tỉnh) đối
với công tác VSATTP tại các chợ:
Thực hiện các văn bản pháp luật của Trung ương và của tỉnh đối với công tác
VSATTP tại các chợ, công tác tuyên truyền giáo dục đã có sự chuyển biến và nâng cao
trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội, đã góp phần làm thay đổi nhận
thức và hành vi của người tiêu dùng trong bảo đảm VSATTP. Công tác thanh tra, kiểm
tra được tăng cường, đã hạn chế đến mức thấp nhất các hành vi vi phạm pháp luật về
VSATTP. Hệ thống văn bản pháp luật của Trung ương, của tỉnh là hành lang pháp lý
để các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm chính đáng và người sử dụng
thực phẩm tại các chợ được hưởng quyền lợi, người tiêu dùng yên tâm hơn khi mua
sắm thực phẩm tại chợ. Hiện tại, cán bộ quản lý công tác VSATTP tại các chợ trên địa
bàn tỉnh đã được tăng thêm về nhân lực, nhiều cán bộ được cử tham gia các khóa đào
tạo do Sở Y tế, Sở Công Thương, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong tỉnh
tổ chức; một số Trung tâm Y tế huyện, thành phố cũng thành lập Ban An toàn vệ sinh

thực phẩm và phân công cán bộ phụ trách. Sự phối hợp chặt chẽ với các ban ngành,
đoàn thể trong công tác thanh, kiểm tra và công tác truyền thông về đảm bảo chất
lượng an toàn vệ sinh thực phẩm. Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội cũng như việc
đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp nên cơ sở vật chất các chợ trên địa bàn tỉnh ngày
càng được hoàn thiện, là điều kiện rất quan trọng nhằm nâng cao công tác VSATTP tại
các chợ.
* về cơ chế, chính sách và biện pháp của tỉnh về VSATTP:
Cơ chế, chính sách và biện pháp của tỉnh đã ban hành nhằm khuyến
khích tạo điều kiện để các chủ thể sản xuất, kinh doanh thực phẩm thực hiện tốt các
quy định về VSATTP:
Hiện nay trên địa bàn tỉnh, công tác về VSATTP được thực hiện theo Luật An
toàn thực phẩm; Căn cứ Nghị định số 38/2012/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2012 của
Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật an toàn thực phẩm; Thông tư số
47/2010/TT-BCT ngày 31/12/2010 của Bộ Công Thương quy định việc kiểm tra chất
lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm đối với sản phẩm thực phẩm trong quá trình sản xuất
thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ Công Thương; Thông tư số 15/2012/TT-BYT, ngày
12/9/2012 của Bộ Y tế về Quy định về điều kiện chung bảo đảm an toàn thực phẩm
đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm; Quyết định số 41/2005/QĐ-BYT của
10


Giải pháp nâng cao hiệu quả quản ỉý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
phẩm tại chợ trung tâm trên địa bàn tỉnh AG từ nay đến năm 2015

Bộ Y tế về việc ban hành Quy định điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm đối với cơ sở
kinh doanh, dịch vụ, phục vụ ăn uống.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và cơ chế, chính sách về VSATTP
(trong đó có chợ) trên địa bàn tỉnh:
Công tác tuyên truyền, phổ biến và tổ chức thực hiện các quy định của pháp
luật về VSATTP trong thời gian qua được thực hiện khá tốt, bám sát các chủ đề của

“Tháng hành động”, Tết Nguyên Đán, Tết Trung thu, các đợt có vấn đề về một số thực
phẩm và dịch bệnh xảy ra. Kết quả tuyên truyền từ năm 2006 đến 9 tháng đầu năm
2012:
Số
TT

Số „
lượng/Buổi

Hoạt động

Số người nghe/
Phạm vi bao phủ

1

Tổ chức Lễ phát động Tháng hành động
vì chất lượng VSATTP

257

199,214

2

Nói chuyện

2,457

400,639


3

Tập huấn chuyên môn

123

5,291

4

Tập huấn

925

29,531

5

Hội thảo

169

6,231

6

Phát thanh

48,773


10,570,223

7

257
48

0

8

Truyền hình
Báo viết

9

Băng ron, khẩu hiệu

5,305

0

27,474

0

2,612

0


23,299

0

Poster, áp phích
Băng đĩa
SP khác (bản tin, bài viết, . . . )
Nguồn: Chi cục VSATTP- Sở Y tế

0

Qua đó, cho thấy hoạt động tuyên truyền, giáo dục về VSATTP trên địa bàn
tỉnh ngày càng được tăng cường, các buổi lễ phát động tháng hành động vì chất lượng
VSATTP được tổ chức quy mô với sự hưởng ứng của các ban, ngành, đoàn thể cùng
đông đảo người dân và các cơ sở sản xuất, kinh doanh tham gia.
Tác động của cơ chế, chính sách đối với việc bảo đảm vệ sinh an toàn
thực phẩm tại các chợ trên địa bàn tỉnh:
Chi Cục vệ sinh an toàn thực phẩm- Sở Y tế đã thực hiện một số cuộc điều tra
kiến thức, thái độ, hành vi của nhân viên y tế, người sản xuất, kinh doanh thực phẩm,
dịch vụ ăn uống và người tiêu dùng. Kết quả như sau: Năm 2007, điều tra 598 người
tiêu dùng và 28 cán bộ quản lý ATVSTP, tỷ lệ người tiêu dùng nhận biết và lựa chọn
thực phẩm an toàn là trên 50%. Năm 2008, tỷ lệ người tiêu dùng lựa chọn người bán
hàng đúng 24,7%; lựa chọn nơi bán hàng đúng 35%, lựa chọn thức ăn an toàn là 52,2%
và gần 2/3 số cán bộ đã qua tập huấn về quản lý dịch vụ thức ăn đường phố. Năm
11


Giải pháp nâng cao hiệu quả quản ỉý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
phẩm tại chợ trung tâm trên địa bàn tỉnh AG từ nay đến năm 2015


2009, tỷ lệ người sản xuất thực phẩm có thái độ đúng khi tham gia đảm bảo ATVSTP
là 94,3%; có kiến thức đúng thực hiện các chính sách VSATTP là 64,4%; thực hành
đúng trong việc tiếp cận các thông tin về ATVSTP khi cần thiết là 80%. Năm 2010,
Chương trình ATVSTP đã thực hiện cuộc điều tra kiến thức, thái độ, thực hành ATVS
TP với tỷ lệ khá và trung bình Người sản xuất đạt 83%; người kinh doanh đạt 53% và
Người tiêu dùng đạt 89%.
Công tác kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật, cơ chế chính sách
về vệ sinh an toàn thực phẩm tại các chợ trên địa bàn tỉnh:
Việc thanh tra, kiểm tra về vệ sinh an toàn thực phẩm là một trong những công
việc được quan tâm hàng đầu, nhằm đảm bảo sức khỏe, quyền lợi tốt nhất cho người
tiêu dùng. Hàng năm, Sở Y tế và các ngành chức năng đã tiến hành thanh tra, kiểm tra
đột xuất các loại thực phẩm nguy cơ cao, kiểm tra định kỳ, kiểm tra theo chuyên đề,
lấy mẫu kiểm nghiệm và test nhanh. Trong đó, có kiểm tra tại các chợ, các cơ sở sản
xuất chế biến thực phẩm, các cơ sở kinh doanh, dịch vụ ăn uống, bếp ăn tập thể, ... Kết
quả, cơ sở thực phẩm thực hiện VSATTP đúng quy định qua từng năm như sau:

Số
TT
1
2

Loại hình
Cơ sở sản xuât
Kinh doanh thực phâm

3 Dịch vụ ăn uống.
Nguồn : Chi Cục VSATTP-Sở Y tế

Năm

2006

Năm
2007

Năm
2008

Năm
2009

67
62

74
69

57
56

66
62

Đơn vị tính: %
Năm
09
2011
tháng
2012
76

79
80
72
79
82

61

73

94

128

258

Năm
2010

77

81

Nhìn chung, công tác kiểm tra VSATTP đã có nhiều tiến bộ. Số lượt kiểm tra,
số mẫu kiểm nghiệm định kỳ và số test nhanh được thực hiện nhiều hơn.
Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong công tác bảo đảm
vệ sinh an toàn thực phẩm trong các chợ:
Thời gian qua, hoạt động liên ngành Y tế, Quản lý thị trường, Cảnh sát môi
trường và Thú y ... đã có sự phối hợp đồng bộ đi vào nề nếp và thường xuyên triển
khai thực hiện công tác VSATTP như tuyên truyền các quy định của pháp luật về

VSATTP, công tác kiểm tra và xử lý vi phạm theo kế hoạch của Ban Chỉ đạo liên
ngành VSATTP của tỉnh. Đặc biệt là trong công tác phòng chống ngộ độc thực phẩm,
thực phẩm không an toàn và nguồn thực phẩm gia súc, gia cầm trong mùa dịch bệnh.
Điều đó giúp cho việc kiểm tra được thực hiện thuận lợi, đi vào nề nếp và cơ sở thực
hiện an toàn thực phẩm nghiêm túc. Bên cạnh, công tác đảm bảo an toàn vệ sinh thực
phẩm còn được nhiều đoàn thể khác tham gia như Giáo dục, Phụ nữ, Văn hóa thông
tin, ... Từ đó tập hợp được một sức mạnh, tạo thuận lợi chuyển biến mạnh mẽ ý thức
tại các cấp, các ngành, ý thức của nhà sản xuất, kinh doanh.
2.2.2.
Nguyên nhân:
Xuất phát từ thực trạng thực phẩm bán trên thị trường đặc biệt là tại các
12


Giải pháp nâng cao hiệu quả quản ỉý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
phẩm tại chợ trung tâm trên địa bàn tỉnh AG từ nay đến năm 2015

chợ không đảm bảo vệ sinh ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng, ảnh hưởng đến
tình hình sản xuất.
Mức sống của người dân ngày càng cao nên họ rất khắc khe trong việc
chọn lựa hàng hóa khi mua sắm, khi hơn 80% nhu cầu mua sắm hàng ngày của người
dân đều thông qua chợ; vì vậy vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm luôn được quan tâm
chú trọng của các ngành các cấp nhằm bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng, thúc đẩy sản
xuất phát triển.
Chuyển dần hình thức kinh doanh theo hướng văn minh hiện đại, kinh
doanh của thời kỳ hội nhập.
Sự quan tâm và chỉ đạo sâu sát, có sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả của
cấp các ngành trong công tác đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm tại các chợ.
Thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về VSATTP được các ngành,
các cấp xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm.

2.3.
Những hạn chế và nguyên nhân của công tác quản lý nhà nước về an
toàn vệ sinh thực phẩm:
2.3.1.
Hạn chế:
Đầu tư xây dựng chưa theo quy hoạch, chưa tính đến các yếu tố đặc thù
của sản xuất và tiêu dùng ở từng khu vực nên đã xảy ra tình trạng quá tải hoặc chợ
được xây dựng từ lâu đời, cơ sở hạ tầng đã xuống cấp. Các thương nhân kinh doanh
thực phẩm trong chợ chủ yếu là các hộ kinh doanh cá thể, mang tính nhỏ lẻ. Khi phát
hiện các thương nhân này vi phạm về công tác VSATTP thì chủ yếu là nhắc nhở, chưa
đủ sức răn đe các trường hợp vi phạm. Mức xử phạt không tính đến quy mô của cơ sở
kinh doanh, trị giá hàng hoá kinh doanh nên nhiều trường hợp không có khả năng thi
hành quyết định xử phạt.
An Giang là tỉnh có đường biên giới khá dài kể cả đường bộ và đường
thủy nên việc thanh, kiểm tra của các lực lượng chức năng trong công tác phòng chống
buôn lậu gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy một số sản phẩm như thịt gà, trứng gà và một
số thực phẩm khác nhập lậu vẫn còn bày bán trong chợ, khó kiểm soát. Điển hình như
chợ Tịnh Biên, qua kiểm tra của Lực lượng quản lý thị trường cho thấy chợ này là nơi
bán hàng nhập lậu từ Campuchia về nhiều nhất so với các chợ khác, các mặt hàng chủ
yếu là trứng, mỹ phẩm, xà bông các loại, ...
Cơ sở vật chất phục vụ công tác kiểm tra trên địa bàn còn thiếu, chưa
đáp ứng nhu cầu hiện tại. Công tác kiểm dịch trước khi đưa thực phẩm vào kinh doanh
mua bán chưa được quan tâm, kiểm tra kiểm soát chặt chẽ.
Công tác giám sát và quản lý nguồn gốc thực phẩm nông nghiệp (rau,
củ, quả, rượu, thủy sản khô, .) chưa chặt chẽ; công tác xử lý vi phạm chưa kịp thời,
chưa đủ mạnh để ngăn chặn các hành vi vi phạm (năm 2010, Quản lý thị trường phát
hiện, xử lý 106 vụ, với tiền phạt 192 triệu đồng; năm 2011 phát hiện, xử lý vi phạm 1
10 vụ, phạt tiền 21 5 triệu đồng; năm 2012 phát hiện xử lý vi phạm 115 vụ, với số tiền
13



Giải pháp nâng cao hiệu quả quản ỉý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
phẩm tại chợ trung tâm trên địa bàn tỉnh AG từ nay đến năm 2015

phạt là 262 triệu đồng. Vi phạm chủ yếu là kinh doanh thực phẩm quá hạn sử dụng, sử
dụng hóa chất độc hại trong bảo quản thực phẩm, sản phẩm không rõ nguồn gốc, ....).
Tỷ lệ thực phẩm ô nhiễm ở các chợ còn cao, tiềm ẩn nhiều nguy cơ xảy ra ngộ độc
thực phẩm và bệnh lây truyền qua đường thực phẩm, .
2.3.2.
Nguyên nhân:
Tỉnh chưa có chính sách ưu đãi để thu hút, khuyến khích doanh nghiệp
vào đầu tư cơ sở hạ tầng, kinh doanh khai thác chợ. Tập trung đầu tư dàn trải thiếu
trọng tâm trọng điểm cho những chợ dẫn đến hạ tầng chợ yếu kém, không đảm bảo vệ
sinh an toàn thực phẩm.
Tập quán tiêu dùng, kinh tế còn kém phát triển, kiến thức về ATVSTP
còn hạn chế và công tác quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm tại chợ chưa
thật sự hiệu quả.
Lực lượng cán bộ quản lý, cán bộ thanh tra chuyên ngành rất mỏng lại
phân tán, việc xử lý vi phạm chưa kiên quyết. Tính thống nhất, đồng bộ trong quản lý
an toàn vệ sinh thực phẩm còn chưa cao.
Kinh phí đầu tư cho công tác quản lý chất lượng ATTP ở mức quá thấp;
trang thiết bị kiểm nghiệm còn thiếu và lạc hậu; thiếu các phương tiện kiểm tra cơ
động và trang thiết bị kiểm tra nhanh.
An Giang là tỉnh có đường biên giới khá dài kể cả đường bộ và đường
thủy nên việc thanh, kiểm tra của các lực lượng chức năng trong công tác phòng chống
buôn lậu gặp rất nhiều khó khăn.
Các cơ quan có thẩm quyền chưa thực thi nghiêm túc chế tài đối với
những đối tượng vi phạm
Ý thức chấp hành pháp luật về quản lý chất lượng ATTP và trách nhiệm
của người sản xuất, kinh doanh thực phẩm đối với cộng đồng còn chưa cao.

Chưa có chính sách đãi ngộ cho cán bộ làm công tác an toàn vệ sinh
thực
phẩm.
2.4.
Những kinh nghiệm:
Các văn bản pháp lý cũng như các chủ trương của Đảng và Nhà nước về
công tác an toàn vệ sinh thực phẩm tại chợ ban hành kịp thời và được các ngành, các
cấp quan tâm, tích cực triển khai thực hiện nên tình trạng vi phạm các quy định về an
toàn vệ sinh thực phẩm đã được hạn chế với những hoạt động: tuyên truyền tuyên
truyền, phổ biến, cảnh báo nguy cơ về VSATTP trên các phương tiện thông tin đại
chúng được thực hiện thường xuyên, đã góp phần nâng cao được nhận thức, ý thức của
người dân đối với việc đảm bảo VSATTP, đã tạo sự chuyển biến về nhận thức của nhà
quản lý, người sản xuất kinh doanh, người tiêu dùng; tỉnh đã thành lập các đoàn kiểm
tra liên ngành để kiểm tra công tác chỉ đạo vệ sinh an toàn thực phẩm tại các địa
phương. Qua kiểm tra, kiểm soát đã phát hiện và xử lý nghiêm theo quy định của pháp
14


Giải pháp nâng cao hiệu quả quản ỉý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
phẩm tại chợ trung tâm trên địa bàn tỉnh AG từ nay đến năm 2015

luật đối với các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu thực phẩm không
đảm bảo VSATTP trên địa bàn tỉnh, góp phần giảm thiểu nguy cơ ngộ độc thực phẩm.
Song song với công tác tuyên truyền, kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm
tại chợ để nâng cao ý thức của người dân, phải không ngừng đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ
tầng chợ để tạo nên môi trường kinh doanh văn minh trong đó hàng hóa được đảm bảo
an toàn vệ sinh, quyền lợi cùa người tiêu dùng được quan tâm bảo
vệ.
Tình trạng an toàn vệ sinh thục phẩm tại các chợ đã được cải thiện từng
bước nên cần có nhiều hoạt động tích cực hơn nữa cho công tác an toàn vệ sinh thực

phẩm tại chợ.
Cùng với công tác quản lý nhà nước, phải có sự tham gia phối hợp của
người tiêu dùng, ở chỗ người tiêu dùng phải tạo sức ép đối với người sản xuất kinh
doanh bằng cách thận trọng khi chọn mua thực phẩm.
Đẩy mạnh công tác xã hội hoá trong đầu tư xây dựng và quản lý chợ.
Chú trọng nâng cao trình độ đội ngũ quản lý chợ.
Tóm lại:
Công tác bảo đảm VSATTP tại các chợ trung tâm trên địa bàn tỉnh đã được các
cấp chính quyền, các ngành chức năng quan tâm và tổ chức triển khai đạt hiệu quả,
tình trạng vi phạm các quy định của pháp luật về VSATTP đã được hạn chế. Thông
qua công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định về đảm bảo VSATTP, nhận thức về
vệ sinh an toàn thực phẩm trong các hộ kinh doanh,
người quản lý và một bộ phận người tiêu dùng đã được nâng lên một bước....................
Bên cạnh, các lực lượng chức năng thường xuyên triển khai công tác kiểm tra, xử lý
hành vi vi phạm góp phần hạn chế tình trạng vi phạm các quy định của pháp luật về
VSATTP tại các chợ.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được trong công tác quản lý nhà nước về
chợ ATVSTP còn những hạn chế nên vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm tại các chợ
trung tâm còn là vấn đề lo lắng của người tiêu dùng, là niềm chăn trở, băng khoăn của
những người có trách nhiệm, những nhà quản lý.
Chương 3
MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI AN TOÀN VỆ SINH THỰC PHẨM Ở CÁC CHỢ
TRUNG TÂM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG TỪ NAY ĐẾN NĂM 2015
3.1. Mục tiêu:
Nâng cao nhận thức và tăng cường trách nhiệm, năng lực quản lý cho
cán bộ, nhân viên Ban quản lý chợ, các doanh nghiệp kinh doanh chợ trong việc quản
lý, hướng dẫn, kiểm tra về vệ sinh an toàn thực phẩm trong phạm vi chợ.
Nâng cao hiểu biết và ý thức chấp hành các quy định của nhà nước về
hoạt động sản xuất, kinh doanh vệ sinh an toàn thực phẩm của các hộ kinh doanh tại

15


Giải pháp nâng cao hiệu quả quản ỉý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
phẩm tại chợ trung tâm trên địa bàn tỉnh AG từ nay đến năm 2015

chợ, góp phần bảo vệ sức khỏe và quyền lợi người tiêu dùng thực phẩm trên địa bàn
tỉnh.
Tăng cường sự phối hợp của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc
bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm nói chung, an toàn vệ sinh thực phẩm tại các chợ
trung tâm nói riêng.
Phấn đấu đến năm 2015, các chợ trung tâm trên địa bàn tỉnh An Giang
đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường và văn minh thương mại.
Cải thiện điều kiện cơ sở vật chất chợ, áp dụng các tiêu chuẩn kinh tế kỹ
thuật vào xây dựng và thiết kế chợ, tăng cường công tác quản lý vệ sinh môi trường và
vệ sinh an toàn thực phẩm, nâng cao trình độ văn minh thương nghiệp trên chợ. Đảm
bảo 100% số chợ trung tâm trên địa bàn tỉnh An Giang đạt tiêu chuẩn về môi trường và
vệ sinh an toàn thực phẩm.
Chủ động trong việc bảo vệ sức khỏe và quyền lợi người tiêu dùng thực
phẩm. Tổ chức lại hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh theo hướng văn minh và
hiện đại để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Nâng cao tính cạnh tranh với mô hình kinh doanh hiện đại nhằm bảo tồn
bản sắc truyền thống trong kinh doanh thương mại.
Nâng cao ý thức về an toàn vệ thực phẩm giữa đơn vị kinh doanh và đơn
vị sản xuất, chế biến và phân phối sản phẩm. Đẩy mạnh lưu thông hàng hóa sản xuất
trong nước, cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu.
Trật tự, kỷ cương trên thị trường được khôi phục đáng kể; hoạt động
buôn lậu, kinh doanh hàng giả, hàng không bảo đảm chất lượng, kinh doanh trái
phép, ... bước đầu bị kiềm chế, góp phần bảo vệ sự tăng trưởng của sản xuất, hiệu quả
của kinh doanh thương mại và lợi ích của người tiêu dùng.

3.2.
Giải pháp:
Thực trạng về vệ sinh an toàn thực phẩm trên các chợ trung tâm của tỉnh An
Giang đang đặt ra cho vai trò quản lý của nhà nước nhiều yêu cầu cấp bách cần phải
giải quyết, từ việc hình thành ý thức của toàn xã hội đến việc đề ra các giải pháp đồng
bộ để xây dựng một môi trường kinh doanh sạch đẹp, văn minh. Cụ thể là:
3.2.1 Nhóm giải pháp về tuyên truyền, phổ biến quy định của pháp luật về
vệ sinh an toàn thực phẩm:
Phổ biến, tuyên truyền các văn bản pháp luật và các qui định trong sản
xuất, kinh doanh về VSATTP qua báo, đài truyền thanh, đài phát thanh - truyền hình.
Tập huấn kiến thức chuyên môn về VSATTP cho các đối tượng là cán
bộ quản lý chuyên ngành của Sở Công Thương, cán bộ của các Phòng Kinh tế, Phòng
Kinh tế - Hạ tầng các huyện, thị, thành phố, cán bộ Ban Quản lý chợ, hộ kinh doanh
thực phẩm tại chợ.

16


Giải pháp nâng cao hiệu quả quản ỉý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
phẩm tại chợ trung tâm trên địa bàn tỉnh AG từ nay đến năm 2015

3.2.2. Nhóm giải pháp về xây dựng vùng nguyên liệu cung cấp nông, thủy sản
đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm:
a)
Xây dựng các cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm và thủy sản tập trung
theo hướng an toàn sinh học để cung cấp cho chợ:
Tổ chức sản xuất theo hướng gắn kết các khâu từ sản xuất chế biến đến
tiêu thụ sản phẩm; phát huy vai trò của các tổ nhóm, hợp tác xã, hộ trang trại. Xã hội
hoá các hình thức đào tạo nghề, kỹ thuật chăn nuôi, thú y.
Chuyển đổi mạnh mẽ chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán sang chăn nuôi tập

trung, trang trại. Nuôi trong hàng rào ngăn cách, không chăn thả tự do, đảm bảo an
toàn sinh học. Giảm chăn nuôi nông hộ nhỏ lẻ tại các vùng đông dân cư.
Tổ chức lại sản xuất chăn nuôi cho phù hợp đặc điểm sinh thái và lợi thế
từng vùng nhằm khai thác tối đa tiềm năng của các loại vật nuôi, đảm bảo phát triển ổn
định, lâu dài, bền vững, an toàn sinh học và bảo vệ môi trường:
+ Đối với chăn nuôi gia súc: Tập trung tổ chức sản xuất giống chất lượng cao;
phát triển chăn nuôi trang trại, quy mô công nghiệp theo hướng an toàn sinh học.
+ Đối với chăn nuôi gia cầm: Chăn nuôi gia cầm tập trung, công nghiệp an toàn
sinh học có kiểm soát chặt chẽ.
+ Đối với nuôi thủy sản: Tập trung vào vật nuôi phù hợp điều kiện địa phương
và nhu cầu thị trường, không sử dụng các loại hoá chất kháng sinh độc hại cấm sử
dụng trong nuôi trồng thuỷ sản, áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật vào sản xuất, kiểm
soát tốt quá trình sản xuất, đảm bảo sản phẩm an toàn cho người tiêu dùng.
Tuyên truyền, hướng dẫn người chăn nuôi thực hiện tốt quy trình chăn
nuôi đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm để có nguồn thịt sạch cung cấp vào các hệ
thống phân phối, trong đó có chợ.
b)
Quy hoạch vùng sản xuất rau an toàn để cung cấp cho chợ:
Tập trung quy hoạch phát triển vùng sản xuất rau an toàn cho toàn tỉnh thành
vùng sản xuất hàng hoá ứng dụng công nghệ cao. Nhà nước hỗ trợ và khuyến khích
các cơ sở sản xuất rau an toàn theo Viet GAP, GLOBALGAP, tạo ra nhiều sản phẩm
rau an toàn đảm bảo sức khoẻ cho người tiêu dùng và cộng đồng. Cần chú ý đến công
nghệ bảo quản sau thu hoạch để nâng giá trị thương phẩm, đảm bảo chất lượng sạch.
Bên cạnh đó, phải có sự kết nối cung ứng - tiêu thụ sản phẩm giữa các đơn vị đã được
cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất rau an toàn với các vựa, chợ đầu mối nơi
tập trung cung cấp sản phẩm cho các chợ trên địa bàn.
c)
Quy hoạch các khu giết mổ gia súc, gia cầm tập trung đảm bảo vệ sinh an
toàn thực phẩm:
Trên cơ sở quy hoạch các khu giết mổ gia súc, gia cầm tập trung trên địa bàn

tỉnh, cần rà soát lại quy hoạch để điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực
tế, đảm bảo đủ lượng gia súc gia cầm giết mổ phục vụ nhu cầu về thực phẩm an toàn
cho nhân dân trong vùng.
17


Giải pháp nâng cao hiệu quả quản ỉý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
phẩm tại chợ trung tâm trên địa bàn tỉnh AG từ nay đến năm 2015

3.2.3.
Nhóm giải pháp về phòng chống dịch bệnh cây trồng, vật nuôi:
a)
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trước khi sản phẩm lưu thông
tại chợ.
Đơn vị quản lý chợ thường xuyên kiểm tra trong và ngoài khu vực chợ
về nguồn gốc sản phẩm, về các thông tin liên quan đến sản phẩm. Khi phát hiện trường
hợp vi phạm, cần có sự phối hợp chặc chẽ với cơ quan chức năng để xử lý theo đúng
quy định pháp luật.
Khi phát hiện ra các sản phẩm không đảm bảo vệ sinh an toàn thực
phẩm, cần thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin để người tiêu dùng biết,
lựa chọn. Những sản phẩm vi phạm phải được thu hồi, tiêu hủy theo quy định hiện
hành của pháp luật.
b)
Tăng cường áp dụng tiến bộ khoa học trong phòng chống dịch, bệnh
cây trồng, vật nuôi trước khi đưa sản phẩm ra thị trường tiêu thụ:
*
Đối với cây trồng:
Xây dựng mô hình sản xuất cây giống rau đảm bảo chất lượng: Nhằm
mục đích cung cấp cây giống rau sạch bệnh, có chất lượng cao trên địa bàn các vùng
quy hoạch. Từ đó giúp giảm chi phí trong sản xuất đặc biệt là lượng thuốc bảo vệ thực

vật/vụ rau, rút ngắn được thời gian sản xuất trên đồng ruộng và tăng độ đồng đều về
chất lượng sản phẩm khi thu hoạch để đưa vào tiêu thụ.
Xây dựng mô hình sản xuất các loại rau ăn lá, rau ăn củ, quả và rau gia
vị với cơ cấu hợp lý trong điều kiện nhà lưới và ngoài tự nhiên có áp dụng các tiến bộ
kỹ thuật mới trong sản xuất rau an toàn.
Các mô hình này sẽ được đầu tư thường xuyên, hàng năm thông qua việc hỗ trợ
xây dựng các chương trình nghiên cứu, thử nghiệm và mô hình khuyến nông trên địa
bàn. Mục tiêu nhằm tạo ra các mô hình điểm thực sự hiệu quả kinh tế để cho người dân
học tập và làm theo, từ đó nhân rộng diện tích ra toàn vùng.
*
Đối với vật nuôi:
Tăng cường các biện pháp thú y tại các cơ sở chăn nuôi tập trung và nuôi phân
tán tại các thôn, xã. Kiểm soát chặt chẽ khâu lưu thông tiêu thụ thực phẩm, các chợ bán
buôn trước khi đưa sản phẩm bán lẻ đến người tiêu dùng.
3.2.4.
Nhóm giải pháp về chính sách khuyến khích, hỗ trợ đối với các chủ
thể tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng đảm bảo tiêu chí chợ vệ sinh an toàn thực
phẩm:
a)
Huy động triệt để nguồn vốn tham gia đầu tư:
Ngân sách Trung ương: Tập trung hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, một số
trang thiết bị, dụng cụ phục vụ kinh doanh thực phẩm tại chợ hỗ trợ đầu tư xây dựng
hệ thống cấp, thoát nước, hệ thống chiếu sáng khu vực kinh doanh hàng thực phẩm,
hàng ăn uống, ...
+ Ngân sách tỉnh hỗ trợ: Đầu tư xây dựng mới, nâng cấp cải tạo chợ; hệ thống
18


Giải pháp nâng cao hiệu quả quản ỉý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
phẩm tại chợ trung tâm trên địa bàn tỉnh AG từ nay đến năm 2015


xử lý nước thải và rác thải, môi trường, phòng chống cháy nổ trong khu vực chợ.
Nghiên cứu đề xuất các chính sách hỗ trợ về vốn, cây con giống nhằm khuyến khích
người nông dân trồng rau an toàn, người chăn nuôi, giết mổ đúng qui trình, hợp vệ sinh
bảo đảm quyền lợi và sức khỏe người tiêu dùng.
+ Vốn huy động xã hội: Đóng mới quầy, tủ, mua sắm trang thiết bị phục vụ kinh
doanh, các điều kiện để tổ chức tuyên truyền triển khai chủ trương của nhà nước, của
tỉnh đến các thương nhân kinh doanh thực phẩm tại chợ.
b)
Hỗ trợ thông qua vay vốn ngân hàng với lãi suất ưu đãi: Nhà nước cần
có cơ chế hỗ trợ lãi suất vay ngân hàng đối với phần vốn đầu tư cho chợ vệ sinh an
toàn thực phẩm, với lãi suất vay 0%, thời gian vay không quá 3 năm. Hỗ trợ các hộ
trong việc tiếp cận, giao dịch với các cơ quan nhà nước để giải quyết những vấn đề liên
quan đến hoạt động kinh doanh đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
c)
Khen thưởng kịp thời nhằm động viên các cá nhân, đơn vị có thành tích
xuất sắc trong việc xây dựng chợ đảm bảo các yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm.
3.2.5.
Nhóm giải pháp về nâng cao hiệu quả sự phối hợp giữa các cơ quan
quản lý nhà nước có liên quan về công tác vệ sinh an toàn thực phẩm tại các chợ:
a)
Tăng cường công tác thông tin về VSATTP giữa các cấp, các ngành:
Huy động các cơ quan thông tin đại chúng của tỉnh và các địa phương
tham gia vào công tác tuyên truyền về đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm thường
xuyên và tăng cường trong các đợt định kỳ như lễ, tết dưới nhiều hình thức như phát
thanh, truyền hình, băng rôn, pano, áp phích, tờ rơi, ...
Tuyên truyền các quy định của pháp luật, kiến thức vệ sinh an toàn thực
phẩm cho người sản xuất, kinh doanh thực phẩm và người tiêu dùng nhằm nâng cao ý
thức chấp hành các quy định của nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm.
b)

Tổ chức tốt các đoàn kiểm tra liên ngành kiểm tra vệ sinh an toàn thực
phẩm tại các chợ trên địa bàn:
Thực hiện tốt công tác chỉ đạo, các kế hoạch thanh, kiểm tra của Ban chỉ
đạo liên ngành về vệ sinh an toàn thực phẩm của Trung ương, của tỉnh.
Thường xuyên tổ chức triển khai kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện các
quy định đảm bảo an toàn thực phẩm đối với các chợ trên địa bàn. Xử lý nghiêm và
thực hiện việc công bố các hành vi vi phạm các quy định về chất lượng, an toàn thực
phẩm, cạnh tranh không lành mạnh, ... nhất là đối với các tổ chức, cá nhân kinh doanh
chế biến, ảnh hưởng đến sức khỏe của cộng đồng.
Các ngành chức năng như: Sở Y tế, Sở Công Thương, Sở Nông nghiệp
và phát triển Nông thôn chủ động tham mưu cho tỉnh ra các quyết định thanh tra, kiểm
tra đảm bảo phù hợp với các quy định hiện hành của pháp luật.
c)
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình các cấp, các ngành làm tốt
chức năng quản lý nhà nước về VSATTP:
Bên cạnh thực hiện công tác vệ sinh an toàn thực phẩm theo quy định chung
19


Giải pháp nâng cao hiệu quả quản ỉý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
phẩm tại chợ trung tâm trên địa bàn tỉnh AG từ nay đến năm 2015

của Trung ương, của tỉnh. Các cơ quan chức năng cần tiếp tục tăng cường công tác
tham mưu, hướng dẫn công tác vệ sinh an toàn thực phẩm theo chức năng quản lý của
ngành. Chỉ đạo các phòng, ban, các đơn vị thuộc ngành đẩy mạnh công tác tuyên
truyền cũng như công tác thanh, kiểm tra để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Xây dựng và ban hành các văn bản nhằm nâng cao vai trò, trách nhiệm của hệ
thống các cơ quan quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm trên cơ sở tăng
cường sự phối hợp liên ngành, trong đó ngành y tế là cơ quan chịu trách nhiệm chính.
d)

Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo về vệ sinh an toàn thực phẩm của
chính quyền các cấp tại địa phương:
Đẩy mạnh việc phân cấp, nâng cao vai trò trách nhiệm của các địa
phương, các Ban Quản lý chợ trong công tác đảm bảo an toàn thực phẩm tại các chợ.
Để nâng cao được nhận thức của người dân về tầm quan trọng của vệ
sinh an toàn thực phẩm đối với sức khỏe con người, chính quyền các cấp tại địa
phương cần giao cho một cơ quan chính trong việc tham mưu cho việc thực hiện chợ
mô hình an toàn thực phẩm.
Thành lập đội kiểm tra liên ngành vệ sinh an toàn thực phẩm thường
xuyên duy trì hoạt động thanh tra, kiểm tra tại địa phương. Cùng với việc đẩy mạnh
tuyên truyền, chính quyền địa phương chỉ đạo đội liên ngành tăng cường kiểm tra các
thương nhân hoạt động chế biến, kinh doanh thực phẩm và dịch vụ ăn uống tại các
chợ, đồng thời xử lý nghiêm hành vi vi phạm về vệ sinh an toàn thực phẩm.
3.2.6.
Nhóm giải pháp bồi dưỡng, đào tạo nhằm nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực:
a)
Lựa chọn nội dung phù hợp với từng đối tượng, mở các lớp tập huấn
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực:
Tăng cường công tác hướng dẫn, tập huấn nghiệp vụ cho các thương
nhân tại chợ, coi đây là điều kiện quan trọng, không thể thiếu để nâng cao nhận thức
của mọi cán bộ quản lý và thương nhân kinh doanh tại chợ. Nhằm tạo điều kiện để các
thương nhân kinh doanh thực phẩm được cấp giấy chứng nhận kiến thức vệ sinh an
toàn thực phẩm, góp phần bổ sung thêm kiến thức đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Thông qua các lớp tập huấn, cán bộ, người lao động trong các Ban quản lý chợ
và thương nhân kinh doanh tại chợ được trang bị những kiến thức cơ bản về công tác
vệ sinh an toàn thực phẩm phục vụ công tác quản lý cũng như trong trong chế biến
thực phẩm, các yếu tố làm cho thực phẩm không an toàn; hướng dẫn các cách thực
hành, lựa chọn thực phẩm an toàn. Ngoài ra, các thương nhân còn được tìm hiểu các
văn bản qui định về điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm, quy định xử phạt đối với các

thương nhân kinh doanh thực phẩm không đảm bảo vệ sinh, ... để chủ động phòng
ngừa, góp phần hạn chế ngộ độc thực phẩm và các bệnh lây truyền qua thực phẩm.
Thời gian tập huấn, hướng dẫn có thể dài, ngắn khác nhau song cần bố trí nội
dung phù hợp với độ tuổi, trình độ tiếp thu và không làm ảnh hưởng đến thời gian bán
20


Giải pháp nâng cao hiệu quả quản ỉý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
phẩm tại chợ trung tâm trên địa bàn tỉnh AG từ nay đến năm 2015

hàng của thương nhân.
b) Quan tâm tổ chức cho đơn vị quản lý chợ và các hộ kinh doanh đi khảo
sát thực tế công tác vệ sinh an toàn thực phẩm tại một số chợ trong và


o





1







o


ngoài tỉnh:
Để tăng cường công tác quản lý chợ cũng như nâng cao chất lượng đảm bảo vệ
sinh an toàn thực phẩm trong các chợ trung tâm trên địa bàn tỉnh, cần tạo điều kiện cho
đơn vị quản lý chợ và các hộ kinh doanh đi học tập kinh nghiệm, khảo sát thực tế công
tác vệ sinh an toàn thực phẩm tại một số chợ trong và ngoài tỉnh.
3.2.7. Nhóm giải pháp xử lý các hành vi vi phạm quy định pháp luật về vệ
sinh an toàn thực phẩm hiện hành:
a) Xử lý các hành vi vi phạm quy định pháp luật về VSATTP theo quy
định:
Công tác đảm bảo VSATTP trong những năm qua ở nước ta đã từng bước được
hoàn thiện về hệ thống văn bản quản lý, tổ chức bộ máy, năng lực cán bộ và nguồn lực
tài chính nhằm đáp ứng các đòi hỏi, bức xúc của xã hội. Tuy nhiên, công tác đảm bảo
vệ sinh an toàn thực phẩm hiện đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức mà
đặc biệt là tình hình vi phạm pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn diễn biến hết
sức phức tạp, xảy ra ở hầu hết các lĩnh vực. Xử lý các hành vi vi phạm quy định pháp
luật về vệ sinh an toàn thực phẩm là một trong những nhiệm vụ quan trọng để tăng
cường công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm tại các chợ trên địa bàn tỉnh hiện
nay.
Các hành vi vi phạm thường gặp như: Sản xuất, kinh doanh các loại nông sản
có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật vượt quá giới hạn cho phép; sản xuất, kinh doanh
thực phẩm đã bị biến chất, nhiễm bẩn, có tạp chất lạ hoặc nhiễm các chất độc hại có
nguy cơ gây ảnh hưởng đến sức khoẻ con người; sản xuất, kinh doanh thực phẩm có
ký sinh trùng gây bệnh không được phép có trong thực phẩm hoặc vượt quá giới hạn
cho phép; sản xuất, kinh doanh thực phẩm có sử dụng các chất phụ gia thực phẩm, các
vi chất dinh dưỡng, các chất hỗ trợ chế biến không được phép sử dụng hoặc sử dụng
không đúng liều lượng, giới hạn quy định hoặc không rõ nguồn gốc xuất xứ, ... Để xử
lý được những vi phạm này, trước hết cần tăng cường đội ngũ cán bộ thanh kiểm tra có
đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có đạo đức nghề nghiệp để tăng cường cho lĩnh
vực này.

b)
Xử lý các hành vi vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm theo
nội quy chợ đã được phê duyệt:
Vi phạm thường gặp là không giữ gìn vệ sinh chung, phóng uế, xả rác, đổ nước,
chất thải, xác động vật chết, thức ăn ôi thiu bừa bãi trong phạm vi chợ; bán hàng kém
phẩm chất, ... Để ngăn ngừa các vi phạm về quy định của nội quy chợ, cần xây dựng
đội ngũ những người làm công tác quản lý chợ có trình độ hiểu biết pháp luật và hiểu
biết về công tác quản lý chợ nói chung, công tác vệ sinh an toàn thực phẩm nói riêng.
21


Giải pháp nâng cao hiệu quả quản ỉý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
phẩm tại chợ trung tâm trên địa bàn tỉnh AG từ nay đến năm 2015

Có chế độ đãi ngộ hợp lý để giúp đội ngũ này yên tâm và hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao.
KẾT LUẬN
1.
Kết luận:
Vệ sinh an toàn thực phẩm nói chung và tại các chợ trung tâm nói riêng đang
gây nhiều lo lắng cho người tiêu dùng. Vì vậy, xuất phát từ những lo ngại đó mà đề tài
“Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về vệ an toàn thực phẩm tại chợ trung
tâm trên địa bàn tỉnh An Giang từ nay đến năm 2015” được hình thành để đi sâu
nghiên cứu tìm hiểu thực trạng vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm tại các chợ trên địa
bàn tỉnh An Giang trong thời gian qua để qua đó có những giải pháp để người tiêu
dùng an tâm khi chọn mua thực phẩm tại chợ.
Bố cục của đề tài được đưa ra với các chương, mục rất chi tiết, trình tự, đầy đủ
nội dung và rất logic, như từ khái quát chung về quản lý nhà nước về để làm rõ an toàn
vệ sinh thực phẩm là gì, sự cần thiết phải đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, nhà
nước quản lý an toàn vệ thực phẩm bao gồm nội dung gì, ... Đồng thời, từ hiện trạng,

đề tài đã đề ra mục tiêu, các nhóm giải pháp hỗ trợ thực hiện đạt mục tiêu: Cải thiện
điều kiện cơ sở vật chất chợ, áp dụng các tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật vào xây dựng và
thiết kế chợ, tăng cường công tác quản lý vệ sinh môi trường và vệ sinh an toàn thực
phẩm, nâng cao trình độ văn minh thương nghiệp trên chợ. Đảm bảo 100% số chợ
trung tâm trên địa bàn tỉnh An Giang đạt tiêu chuẩn về môi trường và vệ sinh an toàn
thực phẩm; chủ động trong việc bảo vệ sức khỏe và quyền lợi người tiêu dùng thực
phẩm. Tổ chức lại hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh theo hướng văn minh và
hiện đại để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế;.. Cho nên thông qua đề tài “Giải pháp
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về vệ an toàn thực phẩm tại chợ trung tâm trên địa
bàn tỉnh An Giang từ nay đến năm 2015” sẽ tạo được sự chuyển biến về nhận thức
trong kinh doanh cũng như sự ủng hộ từ phía người tiêu dùng, cùng với việc xây dựng
lại hạ tầng chợ với các quầy kinh doanh thực phẩm khang t rang, vệ sinh, sạch sẽ, góp
phần thực hiện tốt công tác VSATTP tại chợ. Các hộ kinh doanh được nâng cao kiến
thức và trách nhiệm trong kinh doanh về VSATTP, đặc biệt là trong bảo quản và bày
bán thực phẩm.
Vì vậy, với hiệu quả mang lại đó, tin rằng người tiêu dùng An Giang không còn
lo lắng vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm tại các chợ nữa khi các chợ an toàn vệ sinh
thực phẩm ở chợ trung tâm được nhân rộng trên địa bàn toàn tỉnh. Tuy nhiên, việc tiếp
tục thực hiện xây dựng chợ an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn toàn tỉnh đòi hỏi
phải có lộ trình, nguồn vốn, nguồn nhân lực. Đây là vấn đề cần được sự quan tâm và
hỗ trợ của các Bộ ngành Trung ương, của UBND tỉnh và các Sở ban ngành, các huyện,
thành phố trong thời gian tới.
2.
Đề xuất, kiến nghị:
2.1. Đối với UBND tỉnh:
Hàng năm bố trí ngân sách để hỗ trợ đầu tư xây dựng các chợ nằm trong kế
22


Giải pháp nâng cao hiệu quả quản ỉý nhà nước về vệ sinh an toàn thực

phẩm tại chợ trung tâm trên địa bàn tỉnh AG từ nay đến năm 2015

hoạch.
2.2.

Đối với Bộ Công Thương:
Đề nghị Bộ sớm ban hành quy định điều kiện kinh doanh thực phẩm tại
các chợ đáp ứng nhu cầu người người tiêu dùng.
Đề nghị Bộ có tổng kết, giới thiệu mô hình chợ vệ sinh an toàn
thực phẩm để các tỉnh học tập kinh nghiệm.
Đề nghị Bộ tiếp tục hỗ trợ kinh phí Chương trình mục tiêu quốc
gia VSATTP cho An Giang xây dựng hạ tầng chợ đảm bảo VSATTP.
Nhằm nâng cao nhận thức của người kinh doanh thực phẩm tại chợ; tăng
cường trách nhiệm, năng lực quản lý cho các đối tượng quản lý chợ trong công tác
quản lý, giám sát, hướng dẫn về vệ sinh an toàn thực phẩm trong phạm vi chợ. Đề nghị
hàng năm Bộ có hỗ trợ kinh phí từ chương trình mục tiêu quốc gia về vệ sinh an toàn
thực phẩm Ngành Công Thương cho Sở Công Thương để thực hiện các hoạt động:
+ Tập huấn công tác VSATTP cho cán bộ quản lý chợ, các hộ kinh doanh trong
chợ.
+ Tổ chức cho cán bộ quản lý chợ và các hộ kinh doanh thực phẩm, ăn uống đi
thực tế về công tác vệ sinh an toàn thực phẩm tại một số mô hình chợ đảm bảo
VSATTP trong và ngoài tỉnh để học tập và rút kinh nghiệm.
+ Hỗ trợ một phần cho hoạt động chợ nhằm đảm bảo VSATTP như: Xây dựng
lô sạp kinh doanh theo tiêu chí, trang bị tủ kính cho hộ kinh doanh thực phẩm chín,
trang bị một số thiết bị đơn giản để kiểm nghiệm nhanh thực phẩm, nguồn nước sử
dụng trong kinh doanh ăn uống tại các chợ theo định kỳ.
2.3.

Đối với Bộ Y tế:
Đẩy mạnh công tác thông tin và giáo dục - truyền thông về VSATTP tại

cộng đồng. Đẩy mạnh việc thanh kiểm tra các văn bản qui phạm pháp luật
VSATTP.

Tổ chức kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định về VSATTP và
đánh giá thực hiện kế hoạch hàng năm.
Hỗ trợ An Giang thực hiện các chứng nhận an toàn vệ sinh thực phẩm
nông sản, đánh giá thực trạng tồn dư hoá chất bảo vệ thực vật trong nông sản, rau.
Ban hành Quy định, các tiêu chí chung về chợ đảm bảo an toàn vệ sinh
thực phẩm để địa phương làm căn cứ quản lý.
2.4.

Đối với Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
Trong kế hoạch phân bổ vốn hàng năm có bố trí kinh phí hỗ trợ đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng các chợ thực hiện theo mô hình chợ vệ sinh an toàn thực phẩm

23


Giải pháp nâng cao hiệu quả quản ỉý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
phẩm tại chợ trung tâm trên địa bàn tỉnh AG từ nay đến năm 2015

2.5.

Đối với Bộ Tài chính:
Tiếp tục hỗ trợ kinh phí cho việc nhân rộng mô hình chợ bảo đảm vệ sinh an
toàn thực phẩm trong chương trình mục tiêu quốc gia ATVSTP hàng năm.
2.6.

Đối với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn:
Chỉ đạo việc xây dựng và thực hiện các chương trình, đề án, dự án sản

xuất thủy hải sản, nông sản đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
-________________________________________________ Xây dựng và hoàn
thiện các cơ chế chính sách, các văn bản quy phạm pháp luật, quy chuẩn kỹ thuật liên
quan đến quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm nông sản, thủy hải sản. Có hướng dẫn về
mặt chuyên ngành đối với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về các giải pháp
sản xuất, nuôi trồng và sản xuất các sản phẩm thực phẩm bảo đảm vệ sinh an toàn thực
phẩm để cung ứng nguồn hàng cho các chợ./. _________________

24



×