Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Khóa luận khám nghiệm hiện trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.15 KB, 51 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Những năm qua kinh tế Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ, những
lợi ích mà kinh tế đem lại cho đời sống xã hội là không thể phủ nhận xong cũng
cần quan tâm đến mặt trái của nó. Cùng với tăng trưởng kinh tế, những vấn đề
về xã hội cũng cần được quan tâm, một trong số đó là vấn đề tội phạm. Điều này
thể hiện ở việc gia tăng tội phạm không chỉ về số lượng mà còn xuất hiện rất
nhiều loại tội phạm mới. Mặt khác, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật,
tội phạm còn gia tăng với xu hướng sử dụng các công cụ phương tiện và phương
thức phạm tội ngày càng tinh vi hơn. Điều này khiến cho công tác điều tra tội
phạm trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Việc tội phạm sử dụng các thành tựu
khoa học tiên tiến trên thế giới vào hành vi phạm tội của mình đòi hỏi công tác
điều tra, khám phá tội phạm cũng cần đổi mới về phương tiện và cách thức tiến
hành điều tra.
Chính vì vậy, đã đến lúc công tác khám nghiệm hiện trường nói riêng và
công tác điều tra tại hiện trường nói chung cần được quan tâm đúng mức. Hiện
nay, khám nghiệm hiện trường thường không được coi trọng so với các hoạt
động điều tra khác. Nhiều quan điểm cho rằng, hiệu quả của công tác điều tra
phá án phụ thuộc nhiều vào việc hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng...
Trong khi đó, hiện trường lại là nơi lưu giữ nguồn chứng cứ vật chất quan trọng
đối với bất kỳ một vụ việc mang tính hình sự nào. Mỗi hành vi được thực hiện
đều gây ra những tác động lên thế giới vật chất xung quanh. Do đó, dù muốn
hay không thì một hành vi phạm tội được thực hiện cũng sẽ để lại những dấu
vết. Điều này vô cùng quan trọng vì tội phạm ngày càng trở nên tinh vi và
chuyên nghiệp hơn, chỉ có những chứng cứ xác thực, mà một số lượng không
nhỏ, thu được tại hiện trường mới giúp khám phá sự thật vụ án.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu nhằm tìm ra những giải pháp tăng
cường hiệu quả công tác khám nghiệm hiện trường nói riêng và công tác điều tra
khám phá tội phạm nói chung là cần thiết. Để làm được điều này, cần nghiên
1



cứu có hệ thống hoạt động khám nghiệm hiện trường nhằm thấy được những
thành tựu cũng như tồn tại thiếu sót, trên cơ sở đó đưa ra những đề xuất tích cực
giúp hoàn thiện hệ thống lý luận cũng như nâng cao hiệu quả công tác khám
nghiệm hiện trường trên thực tế. Chính vì vậy, việc lựa chọn nghiên cứu đề tài
“Khám nghiệm hiện trường” là phù hợp với thực tiễn hiện nay.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng: đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về công tác
khám nghiệm hiện trường và thực trạng của công tác này tại Việt Nam thời gian
qua. Đồng thời, đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác này
trong thực tế.
* Phạm vi nghiên cứu:
Về mặt lý luận, đề tài nghiên cứu khái niệm, vai trò của công tác khám
nghiệm hiện trường đối với thực tiễn điều tra hình sự, trình tự cơ bản của khám
nghiệm hiện trường cũng như những yêu cầu pháp lí đặt ra đối với hoạt động
này.
Về mặt thực tiễn, đề tài khảo sát, nghiên cứu thực trạng công tác khám
nghiệm hiện trường trong thời gian từ 2001 đến nay.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu có hệ thống các vấn đề lý luận về khám nghiệm hiện trường
và thực tiễn công tác khám nghiệm hiện trường thời gian qua tại Việt Nam.
Khẳng định tầm quan trọng của khám nghiệm hiện trường trong điều tra hình sự.
Bên cạnh đó, đề cập tới những hạn chế, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm phát
huy hơn nữa vai trò của khám nghiệm hiện trường.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của CN Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật cũng
như những quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể gồm: phân tích, tổng hợp,
so sánh, thống kê... được sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài.


2


5. Cấu trúc đề tài
Cấu trúc khóa luận gồm ba phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết
luận.
Phần nội dung gồm ba chương:
- Chương I: Một số vấn đề lý luận cơ bản về khám nghiệm hiện trường.
- Chương II: Trình tự khám nghiệm hiện trường.
- Chương III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của
khám nghiệm hiện trường.

3


CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KHÁM NGHIỆM
HIỆN TRƯỜNG
1. Khái niệm hiện trường và phân loại hiện trường
1.1. Khái niệm
“Hiện trường” là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh
vực khác nhau của đời sống kinh tế, xã hội. Từ điển Tiếng Việt – Nhà xuất bản
khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội năm 1997 viết: “Hiện trường là nơi xảy ra
sự việc”. Đây là một khái niệm có tính khái quát chung nhất cho các loại hiện
trường. Khái niệm này đã chỉ rõ những thuộc tính cơ bản của hiện trường. Đó là:
- Thứ nhất, hiện trường là “nơi”, đó là sự tồn tại của một địa điểm trong
không gian xác định, ở đó xảy ra một sự việc, hiện tượng và sự việc hiện tượng
đó được kéo dài trong một khoảng thời gian nhất định.
- Thứ hai, phải có sự việc xảy ra, những sự việc này mang tính chất bất

kỳ, ngẫu nhiên. Điều đó có nghĩa là mỗi sự việc, hiện tượng, quá trình nào đó
xảy ra trong hiện thực khách quan thì đều phải có hiện trường.
Trong điều tra hình sự nói riêng cũng như trong tố tụng hình sự nói
chung, nhận thức một cách đúng đắn và đầy đủ khái niệm “hiện trường” có ý
nghĩa quan trọng trong công tác điều tra, xét xử và phòng ngừa tội phạm.
Điều 150 Bộ luật tố tụng hình sự (Bộ luật TTHS) quy định: “Điều tra viên
tiến hành khám nghiệm nơi xảy ra, nơi phát hiện tội phạm nhằm phát hiện dấu
vết của tội phạm, vật chứng và làm sáng tỏ các tình tiết có ý nghĩa đối với vụ
án...” Theo quy định này của Bộ luật TTHS, hiện trường được hiểu là nơi xảy ra,
nơi phát hiện tội phạm. Tuy nhiên, khoản 2, Điều 150 Bộ luật TTHS cũng quy
định “khám nghiệm hiện trường có thể tiến hành trước khi khởi tố vụ án hình
sự...”. Có nghĩa là việc khám nghiệm hiện trường có thể tiến hành trước khi xác
định có hay không có hành vi phạm tội và khám nghiệm hiện trường trong giai
đoạn tố tụng này giúp cho cơ quan có thẩm quyền thu thập những tài liệu quan
trọng nhằm xác định có hành vi phạm tội xảy ra hay không, trên cơ sở đó quyết
4


định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Do đó, trên thực tế sẽ tồn tại
trường hợp khám nghiệm hiện trường đã được thực hiện nhưng sau đó lại có
quyết định không khởi tố vụ án hình sự, tức là không có tội phạm, cũng có nghĩa
là hiện trường đã được khám nghiệm trước đó không phải là “nơi phát hiện tội
phạm” theo như quy định của Bộ luật TTHS. Để khắc phục tình trạng này, khoa
học điều tra hình sự đưa ra khái niệm “hiện trường” bao quát và toàn diện hơn.
Hiện trường theo quan điểm của khoa học điều tra hình sự được khái niệm
như sau: “hiện trường là nơi xảy ra, nơi phát hiện các vụ phạm tội hoặc vụ việc
mang tính hình sự”. Khái niệm này bao hàm hai nội dung:
Thứ nhất, khái niệm chỉ rõ hình thức tồn tại của hiện trường với tư cách là
một địa điểm cụ thể có một khoảng không gian xác định và tồn tại trong khoảng
thời gian nào đó. Hiện trường gồm hai loại địa điểm đó là nơi xảy ra và nơi phát

hiện ra vụ phạm tội hoặc vụ việc mang tính hình sự.
- Nơi xảy ra vụ việc là nơi mà quá trình diễn biến của các vụ phạm tội hay
vụ việc mang tính hình sự đã để lại những dấu vết, vật chứng trên đó. Nơi xảy ra
vụ việc có thể là: nơi chuẩn bị, nơi tiến hành, nơi che giấu hành vi phạm tội
- Nơi phát hiện vụ việc có thể chính là nơi xảy ra tội phạm hay các vụ
việc mang tính hình sự hoặc không là nơi xảy ra nhưng có thể là nơi tìm thấy
được các dấu vết, vật chứng có liên quan đến vụ việc đó. Trong trường hợp nơi
phát hiện vụ việc khác nơi xảy ra vụ việc, đó có thể là:
+ Nơi phát hiện ra dấu vết trong vụ phạm tội hoặc vụ việc mang tính hình
sự.
+ Nơi phát hiện ra công cụ, phương tiện phạm tội.
+ Nơi bắt giữ tội phạm đang trên đường vận chuyển: tức là hành vi được
quy định trong cấu thành tội phạm đã hoàn thành rồi nhưng trên đường lưu
thông vận chuyển thì bị phát hiện, bắt giữ.
Thứ hai, hiện tượng vật chất xảy ra trong không gian hiện trường là các
vụ phạm tội hoặc những vụ việc mang tính hình sự.
- Các vụ phạm tội: được quy định tại Điều 8 Bộ luật Hình sự: “Tội phạm
là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người
5


có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ
chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân,
xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.”
- Những vụ việc có tính hình sự là những hành vi có dấu hiệu của tội
phạm nhưng chưa xác định được đầy đủ bốn yếu tố cấu thành tội phạm. Ví dụ
những sự cố kỹ thuật bất thường, những vụ chết người không tự nhiên.v.v...,

những trường hợp này vẫn cần tiến hành khám nghiệm hiện trường để xác định
đúng nguyên nhân của sự việc, từ đó quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án
hình sự.
Như vậy, khoa học điều tra hình sự đã xây dựng được một khái niệm về
hiện trường tương đối hoàn chỉnh, đảm bảo khoa học. Điều này rất có ý nghĩa
đối với công tác khám nghiệm hiện trường, giúp cơ quan điều tra thu thập đầy
đủ chứng cứ, tài liệu phục vụ cho các bước điều tra tiếp theo.
1.2. Phân loại hiện trường
Hiện trường của các vụ việc đã xảy ra có nhiều loại khác nhau, nó đa dạng
về hình thức, phong phú về chủng loại. Mục đích của sự phân loại hiện trường
nhằm giúp cho quá trình bảo vệ và khám nghiệm hiện trường được kịp thời,
nhanh chóng, phục vụ tốt cho quá trình điều tra làm rõ sự việc xảy ra.
Có thể dựa vào một số căn cứ sau để phân loại hiện trường:
* Căn cứ vào địa điểm xảy ra vụ việc, hiện trường được chia thành các
loại:
- Hiện trường trong nhà. Đó là hiện trường được che chắn hay bao bọc
xung quanh bởi các loại vải, phông bạt, mái che, tường nhà v.v...(có mái che
chắn bên trên hay được bao bọc xung quanh mà không kể đến chất liệu của mái
che là tường vôi, vải dù hay mái rạ v.v...).
- Hiện trường ngoài trời. Đó là hiện trường không được che chắn, bảo vệ
bởi bất cứ một loại mái che nào.
6


- Hiện trường trên các phương tiện giao thông.
Cách phân loại này có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định các đặc điểm về
sự hình thành, tồn tại và biến đổi của dấu vết trên mỗi loại hiện trường. Nếu là
hiện trường ngoài trời thì hệ thống dấu vết sẽ bị biến đổi rất nhanh bởi các yếu
tố tự nhiên như mưa, nắng, gió, độ ẩm, thời gian... các yếu tố sinh vật và con
người. Loại hiện trường này cần được bảo vệ chu đáo, cẩn thận bằng các biện

pháp thích hợp tránh để hiện trường bị xáo trộn, có thể khoanh vùng không cho
mọi người đi lại tại khu vực đó hoặc dùng bạt hay vải che để che đậy hiện
trường.v.v... Nếu hiện trường trong nhà thì các dấu vết ít bị ảnh hưởng bởi các
yếu tố tự nhiên, sinh vật nhưng lại bị ảnh hưởng rất lớn bởi con người, đặc biệt
là thủ phạm và người thân thủ phạm do họ tìm mọi cách để xóa dấu vết và phi
tang vật chứng hoặc do chính nạn nhân do không biết đã vô tình làm xáo trộn
hiện trường. Do vậy, khi nhận được tin báo lực lượng điều tra cần đến ngay
hiện trường, yêu cầu mọi người ra khỏi khu vực hiện trường không cho ai ra
vào đó cho đến khi lực lượng khám nghiệm tiến hành khám nghiệm xong.
Như vậy, đối với mỗi loại hiện trường cần có cách thức bảo vệ, thu lượm
phù hợp và hiệu quả.
* Căn cứ vào nội dung và tính chất của vụ việc xảy ra, hiện trường được
chia thành: hiện trường có người chết, hiện trường trộm, hiện trường súng đạn,
hiện trường cháy nổ-sự cố kỹ thuật, hiện trường tai nạn giao thông.v.v...
Phân loại hiện trường theo cách này giúp cơ quan điều tra xác định được
nơi và loại dấu vết tồn tại trên hiện trường cũng như xác định được những loại
dấu vết nào cần được phát hiện và thu luợm, đồng thời giúp cho công việc thống
kê tội phạm được nhanh chóng. Dấu vết bao giờ cũng được hình thành theo quy
luật nhất định phù hợp với tính chất của sự việc xảy, ví dụ: khi cơ quan điều tra
xác định hiện trường một vụ án mạng mà nạn nhân bị tử vong do bị trúng đạn thì
dấu vết cần phải tìm kiếm là vỏ đạn rơi lại tại hiện trường... hay hiện trường của
các vụ trộm thường có các dấu vết vân tay, dấu giày dép, các dấu vết của dụng
cụ phá cửa... Đây sẽ là những định hướng cho các cán bộ điều tra trong quá trình
khám nghiệm hiện trường.
7


* Căn cứ vào diễn biến của sự việc xảy ra: Một hiện trường có thể được
quy tụ lại ở một địa điểm, nhưng cũng có thể có nhiều địa điểm khác nhau, đó
chính là những bộ phận của hiện trường. Số lượng những bộ phận của hiện

trường nhiều hay ít phần lớn phụ thuộc vào diễn biến hành vi của kẻ phạm tội,
do đó được chia thành: nơi chuẩn bị thực hiện hành vi phạm tội, nơi thực hiện
hành vi phạm tội, nơi che giấu hành vi phạm tội.
* Căn cứ vào tình trạng của hiện trường mà chia hiện trường thành hai
loại: hiện trường còn nguyên vẹn và hiện trường đã bị xáo trộn.
- Hiện trường còn nguyên vẹn là hiện trường từ khi phát hiện triển
khai công tác bảo vệ đến khi khám nghiệm các dấu vết vật chứng chưa bị
thay đổi, xáo trộn (hiểu theo nghĩa tương đối), do đó chưa ảnh hưởng tới dấu
vết về độ chính xác và đầy đủ.
- Hiện trường bị xáo trộn là hiện trường từ khi phát hiện triển khai công
tác bảo vệ đến khi khám nghiệm, các dấu vết, vật chứng đã bị biến đổi, mất mát.
Nguyên nhân của sự xáo trộn là do sự tác động của tự nhiên, sinh vật, con
người... dẫn đến những thông tin thu thập được tại hiện trường bị sai lệch. Thực
tế cho thấy hiện trường các vụ trộm thường hay bị xáo trộn do chủ nhà thường
kiểm tra lại tài sản còn lại của mình sau khi bị mất trộm. Điều này đã làm mất đi
những dấu vết quan trọng mà thủ phạm đã để lại tại hiện trường.
Cách phân loại này có ý nghĩa chủ yếu trong khi đánh giá các dấu vết thu
được trên mỗi loại hiện trường, từ đó nhận định về đối tượng gây án. Do vậy,
những dấu vết thu được ở hiện trường bị xáo trộn cần phải được phân tích thận
trọng và chính xác trong khi sử dụng chúng làm chứng cứ.
2. Vai trò của khám nghiệm hiện trường trong điều tra hình sự
“Khám nghiệm hiện trường là biện pháp điều tra được tiến hành tại hiện
trường nhằm phát hiện, ghi nhận, thu lượm, bảo quản, nghiên cứu, đánh giá
dấu vết, vật chứng của các vụ phạm tội hoặc vụ việc có tính hình sự đã xảy ra.”
(1)

Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Khoa học điều tra hình sự, Nxb Công an
nhân dân, H. 2005, Tr. 63.
(1)


8


Khi bọn tội phạm thực hiện hành vi phạm tội của mình, nó không chỉ xâm
hại đến một khách thể nhất định được pháp luật bảo vệ mà còn tác động vào môi
trường xung quanh, gây ra những biến đổi. Những biến đổi này được phản ánh
lại trong môi trường vật chất xung quanh với tính cách là một chỉnh thể, đó
không chỉ là các phản ánh nhận thức được thể hiện qua lời khai nhân chứng, tố
giác... mà còn được phản ánh bằng những thay đổi vật chất như: dấu vết chân,
tay, dày, dép... Hơn nữa, hiện trường và thủ phạm có mối quan hệ tương hỗ lẫn
nhau, chúng tác động lẫn nhau đồng thời phản ánh lẫn nhau. Cả hai vừa là cái
phản ánh, vừa là cái được phản ánh. Có nghĩa là trong quá trình thực hiện tội
phạm, thủ phạm đã gây nên những biến đổi vật chất, những biến đổi này được
phản ảnh tại hiện trường qua các dấu vết. Bên cạnh đó, thủ phạm cũng chịu sự
tác động trở lại của hiện trường, tức là kẻ phạm tội cũng mang theo những dấu
vết của hiện trường như: đất, sơn, dầu mỡ, mảnh kính... Do vậy, chỉ khi nào
nhận thức được rằng hiện trường và tội phạm phản ảnh lẫn nhau thì khi đó mới
xác định được một cách toàn diện ý nghĩa hình sự của hiện trường, đó là nguồn
duy nhất cung cấp các chứng cứ vật chất phục vụ cho công tác điều tra xét xử.
Việc thu thập chứng cứ phải đáp ứng được ba yêu cầu cơ bản đối với
chứng cứ: tính khách quan; tính liên quan và tính hợp pháp. Quá trình thu thập
và bảo quản các dấu vết, vật chứng, các tin tức tài liệu phải được thực hiện đúng
theo quy định tại Điều 75 - Bộ luật TTHS và các quy định khác của bộ luật này,
có như vậy các chứng cứ thu được mới có giá trị chứng minh.
Công tác khám nghiệm hiện trường có một số nhiệm vụ cụ thể sau:
- Ghi nhận vị trí, trạng thái, quang cảnh chung của hiện trường;
- Phát hiện, ghi nhận, thu lượm, bảo quản các loại dấu vết, vật chứng liên
quan đến sự việc đã xảy ra;
- Lập và hoàn chỉnh các văn bản của hồ sơ khám nghiệm hiện trường;
- Phát hiện những sơ hở, thiếu sót của ta mà bọn tội phạm thường lợi dụng

và đề xuất các biện pháp phòng ngừa tích cực.
Những chứng cứ, tài liệu thu thập tại hiện trường có vai trò quan trọng
trong việc đưa ra một số nhận định về các vấn đề cơ bản như: quá trình diễn biến
9


của sự việc, nội dung, tính chất của nó; có thể biết được phương thức, thủ đoạn
hoạt động, công cụ, phương tiện phạm tội; thời gian xảy ra sự việc, số lượng
người thực hiện và đặc điểm của chúng. Những kết quả đó đã giúp cho lực
lượng điều tra có những định hướng đúng trong quá trình điều tra vụ án, không
để lọt tội phạm hay bắt sai người vô tội, từ đó đưa ra những quyết định tiếp theo
giúp giải quyết vụ án chính xác, triệt để.
Ví dụ: Vụ án Lương May Khăm sinh năm 1982 và Lương Thị Sằn sinh
năm 1981, đều là người dân tộc Thái, đều trú tại bản Piêng Hòm, xã Phà Đánh,
huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An bị giết, cướp vào ngày 25/12/2005.
Nội dung vụ việc: Ngày 25/12/2005 Lương May Khăm và Lương Thị Sằn
đi hái củi nhưng không thấy về. Gia đình tổ chức đi tìm và phát hiện Lương May
Khăm đang bị thương nặng, Lương Thị Sằn đã chết trên đồi thuộc bản Piêng
Hòm xã Phà Đánh huyện Kỳ Sơn. Lương May Khăm được đưa đi cấp cứu và đã
chết vào lúc 19h30phút ngày 26/12/2005. Qua công tác khám nghiệm hiện
trường thu được 01 chiếc gậy gỗ kích thước 67×7cm, trên gậy có dính một số
vết màu nâu sẫm nghi máu đã khô và 01 sợi tóc (dạng tóc người). Kiểm tra
tài sản, đồ vật mà hai người mang theo thấy mất 02 đôi bông tai bằng vàng.
Đó là cơ sở để điều tra viên nhận định đây là vụ án giết người, cướp của.
Khoanh vùng các đối tượng nghi vấn và đã nhanh chóng bắt được thủ phạm
là người cùng bản khi đối tượng đang trên đường trốn chạy sang Lào. (1)
Ngoài ra, kết quả khám nghiệm hiện trường còn đóng vai trò là bước đệm
để cơ quan điều tra quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Ví dụ:
ngày 14/10/2005, trực ban PC21 Công an Hải Phòng nhận được tin báo tại
mương nước thuộc xã Đại Bản, huyện An Dương, Hải Phòng có một xác chết là

nam giới. Nhận định ban đầu là nạn nhân bị đánh và ngã xuống nước chết. Hiện
trường vẫn còn lưu lại vết màu nâu đỏ dính trên lá chuối cạnh bờ mương nghi là
máu. Nhưng khi tiến hành khám nghiệm hiện trường, đoàn khám nghiệm đã kết
luận nạn nhân do say rượu, hoặc một loại chất kích thích nào đó đã ngã xuống
mương nước dẫn đến ngạt nước chết và dấu vết màu nâu đỏ dính trên lá chuối
(1)

Nguồn: Công an tỉnh Nghệ An, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Kết luận điều tra - PC14.
10


tại bờ mương nước không phải là máu mà chỉ là nước bã trầu. Từ kết quả khám
nghiệm hiện trường và các nhận định khác, cơ quan điều tra quyết định không
khởi tố vụ án hình sự. (1)
Bằng công tác khám nghiệm hiện trường, lực lượng điều tra cần thu lượm
toàn bộ những gì tội phạm để lại để từ đó có thể tiến hành truy nguyên tội phạm.
Đối với nhiều vụ án thủ phạm thường tìm mọi cách thủ tiêu chứng cứ, lẩn trốn
hoặc ngoan cố không chịu khai báo. Do vậy, chỉ khi đưa ra được những chứng
cứ không thể chối cãi, bọn chúng mới chịu nhận tội. Hiện nay, dấu vết vân tay là
một trong số những loại dấu vết có khả năng truy nguyên cao. Qua việc tra cứu
tàng thư CMND, cơ quan điều tra có thể xác định chính xác đối tượng để lại dấu
vết tại hiện trường vụ án. Đồng thời, dấu vết vân tay còn giúp cơ quan điều tra
xác định tung tích nạn nhân, từ đó tiến hành những nghiệp vụ điều tra tiếp
theo.Ví dụ như vụ án Lương Văn Luận sinh năm 1979 trú tại xã Khe Bố, huyện
Tương Dương, tỉnh Nghệ An bị đánh chết ngày 04/01/2003.
Nội dung vụ việc: Ngày 10/01/2003 quần chúng nhân dân phát hiện 01
xác chết trôi dạt vào bờ sông Lam thuộc địa bàn xã Lạng Khê, huyện Con
Cuông, tỉnh Nghệ An. Mặc dù tử thi đang ở thời kỳ phân hủy mạnh nhưng qua
công tác khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi đã xác định nạn nhân
chết do vết đánh ở đầu gây chấn thương sọ não. Sau khi bị đánh chết nạn nhân

mới bị vứt xuống sông. Qua tiến hành lăn tay và tra cứu tàng thư chứng minh
nhân dân đã xác định nạn nhân là Lương Văn Luận sinh năm 1979 trú tại xã Khe
Bố, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An, từ đó giúp cơ quan điều tra xác minh,
khoanh vùng các đối tượng nghi vấn nhanh chóng tìm ra thủ phạm là Lương
Khắc Nhật, là bố đẻ của nạn nhân. Nhật khai do có mâu thuẫn với con nên tối
ngày 04/01/2003 đã dùng gậy đánh vào đầu Lương Văn Luận. Sau khi Luận
chết, để che dấu tội ác Nhật đã vứt xác nạn nhân xuống sông. (2)
Tóm lại, hoàn thành những nhiệm vụ cụ thể đặt ra, công tác khám nghiệm
hiện trường cung cấp các chứng cứ vật chất cho việc giải quyết vụ án. Điều này
Nguồn: Công an Thành phố Hải Phòng, Cơ quan Cảnh sát điều tra, phòng kỹ thuật hình sự
PC21, hồ sơ khám nghiệm hiện trường.
(2)
Nguồn: Công an tỉnh Nghệ An, Cơ quan Cảnh sát điều tra, kết luận điều tra - PC14.
(1)

11


có ý nghĩa to lớn đối với công tác điều tra xét xử, không chỉ nhằm mục đích phát
hiện tội phạm mà còn phòng ngừa tội phạm hiệu quả.
3. Phương pháp khám nghiệm hiện trường
Phương pháp khám nghiệm hiện trường là cách thức tiến hành hoạt động
phát hiện, thu lượm dấu vết, vật chứng để lại trên hiện trường của các vụ án hình
sự. Nội dung của phương pháp khám nghiệm hiện trường thể hiện:
- Tổ chức lực lượng khám nghiệm;
- Sử dụng những phương tiện khám nghiệm có hiệu quả và phù hợp
với hiện trường;
- Trình tự thực hiện các công việc khám nghiệm để không những thu
lượm đầy đủ những dấu vết, vật chứng ở hiện trường, kể cả dấu vết ẩn và vi vết
mà còn đảm bảo những thông tin chứa đựng trong các dấu vết, vật chứng, vi vết

không bị mất hoặc bị sai lệch, phục vụ tốt cho hoạt động điều tra vụ án.
Do đó, khi lựa chọn những phương pháp cụ thể để khám nghiệm các loại
hiện trường khác nhau cần căn cứ vào một số yếu tố sau để xác định:
- Kết quả của quá trình quan sát hiện trường;
- Đặc điểm cấu trúc của từng hiện trường cụ thể;
- Hiện trường được bảo vệ hay đã bị xáo trộn nhiều;
- Tính chất của việc xảy ra;
- Lực lượng, phương tiện sử dụng trong khám nghiệm;
- Kinh nghiệm chuyên môn và thực tế khám nghiệm hiện trường của
điều tra viên.
Để đạt được kết quả tốt trong công tác khám nghiệm hiện trường, trước
hết người chủ trì khám nghiệm phải biết đánh giá tình hình hiện trường, tìm cơ
sở và điểm xuất phát để xác định phương pháp khám nghiệm hiện trường cụ thể
cho phù hợp với loại hiện trường phải khám nghiệm. Có thể sử dụng riêng rẽ
từng phương pháp khám nghiệm cụ thể, song cũng có thể sử dụng nhiều phương
pháp khám nghiệm cụ thể cho một hiện trường. Việc sử dụng riêng rẽ hay tổng
hợp các phương pháp khám nghiệm cụ thể là tùy thuộc vào từng hiện trường cụ

12


thể; phụ thuộc vào những dụng cụ, phương tiện và lực lượng khám nghiệm cụ
thể để quyết định cho phù hợp, đảm bảo sự tối ưu cho công tác khám nghiệm.
Khi khám nghiệm hiện trường có thể sử dụng một số phương pháp sau:
3.1. Phương pháp khám nghiệm hiện trường theo khu vực (phương
pháp chia ô)
Phương pháp khám nghiệm chia ô, chia khu vực là phương pháp tiến hành
chia hiện trường ra thành ô, khu vực khác nhau, sau đó tiến hành khám nghiệm
từng ô, từng khu vực, tạo điều kiện tiến hành khám nghiệm một cách hệ thống,
tỷ mỷ, tránh để sót lọt các dấu vết, vật chứng.

Phương pháp này thường được áp dụng đối với những hiện trường rộng,
có cấu trúc phức tạp, ta dựa vào những điều kiện tự nhiên, sẵn có của hiện
trường như tường, hàng rào, lối đi v.v... để phân chia cho hợp lý, thuận tiện cho
việc khám nghiệm hiện trường và căn cứ vào đó để khám nghiệm dứt điểm từng
khu vực.
Việc phân chia hiện trường thành các khu vực tạo điều kiện cho việc
khám nghiệm một cách hệ thống và tỷ mỷ, tránh bỏ sót dấu vết. Song để khắc
phục nhược điểm của việc khám nghiệm từng khu vực độc lập với nhau, toàn bộ
quá trình khám nghiệm phải được tổ chức thống nhất và kết quả khám nghiệm
phải được đánh giá trong mối liên quan chặt chẽ trong tổng thể của hiện trường.
3.2. Phương pháp khám nghiệm hiện trường dựa vào phương thức gây án
đã được nhận định
Phương pháp khám nghiệm này được áp dụng khi thông qua phân tích
tình hình hiện trường và những thông tin thu được đi đến nhận định về diễn biến
của vụ việc bao gồm:
- Đường vào hiện trường của thủ phạm, vị trí đột nhập với những dấu vết
dễ nhận thấy;
- Quá trình vận động của thủ phạm trong hiện trường;
- Những hành động của thủ phạm trong quá trình gây án.

13


Những nhận định này là cơ sở để xác định trình tự những nơi cần khám
nghiệm và trình tự việc sử dụng các phương pháp phát hiện, thu lượm và bảo
quản dấu vết.
Điểm bắt đầu khám nghiệm thường là đường vào hiện trường và vị trí đột
nhập của thủ phạm với những dấu vết đã rõ. Hiện trường được khám nghiệm lần
lượt dựa vảo mối quan hệ nhân quả giữa quá trình hành động của thủ phạm với
những dấu vết để lại và mối quan hệ giữa các dấu vết với nhau. Xuất phát từ

những dấu vết đã được phát hiện để nhận định khả năng tồn tại của các dấu vết,
vật chứng khác là phản ánh vật chất về quá trình hành động của thủ phạm, đặc
biệt là những dấu vết ẩn và vi vết.
Phương pháp này có ưu điểm là sử dụng hợp lý những phương pháp,
phương tiện và lực lượng khám nghiệm để đạt được hiệu quả cao. Do dựa vào
phương thức gây án của thủ phạm và mối quan hệ giữa các dấu vết với nhau,
phương pháp khám nghiệm này có cơ sở để phát hiện được những dấu vết ẩn và
vi vết. Để xác định mối liên quan giữa các dấu vết, vật chứng với nhau và giữa
chúng với hành động phạm tội. Từ đó còn có cơ sở để xác định giá trị của những
dấu vết, vật chứng đã thu được. Bên cạnh đó, yếu tố chủ quan trong việc nhận
định phương thức gây án của thủ phạm là nhược điểm của phương pháp này.
Hơn nữa, khi tập trung khám nghiệm những nơi đã nhận định là có dấu vết sẽ
dẫn đến bỏ qua hoặc khám nghiệm thiếu tỷ mỷ những nơi khác, từ đó dễ bỏ sót
dấu vết, vật chứng ở những nơi đó.
Cần chú ý những hiện trường lớn hoặc quá phức tạp thường khó nhận
định quá trình hành động của thủ phạm trong toàn bộ khu vực hiện trường hoặc
chỉ có thể nhận định được ở từng khu vực nhất định. Do đó, việc áp dụng
phương pháp khám nghiệm này phải kết hợp với những phương pháp khám
nghiệm khác.
3.3. Phương pháp khám nghiệm theo hình xoáy ốc từ ngoài vào trung tâm
hoặc từ trung tâm ra ngoài
Phương pháp khám nghiệm theo hình xoáy ốc là phương pháp được tiến
hành khám nghiệm từ ngoài vào trung tâm hoặc từ trung tâm ra ngoài theo hình
14


xoáy ốc, có thể thuận chiều kim đồng hồ cũng có thể ngược chiều kim đồng hồ.
Phương pháp này thường được áp dụng đối với những hiện trường rộng, ngoài
trời.
- Phương pháp khám nghiệm theo hình xoáy ốc từ trong ra ngoài được áp

dụng khi đã xác định được trung tâm của hiện trường, tức là nơi tập trung nhiều
dấu vết, vật chứng. Ví dụ, nơi có xác chết đối với hiện trường có tử thi hay nơi
bắt đầu cháy nổ đối với hiện trường các vụ cháy, nổ...
- Phương pháp khám nghiệm theo hình xoáy ốc từ ngoài vào trung tâm
được áp dụng với hiện trường khó xác định vùng trung tâm hiện trường.
3.4. Phương pháp khám nghiệm theo đường song song
Phương pháp này thường được sử dụng với hiện trường rộng, tương đối
bằng phẳng, không có ranh giới tự nhiên để phân chia thành khu vực ví dụ như
hiện trường các vụ tai nạn giao thông, cháy nổ, khẩu hiệu, truyền đơn phản
động... Việc khám nghiệm được tiến hành theo các đường thẳng song song, lần
lượt cho đến hết toàn bộ hiện trường.
Sơ đồ:

3.5. Phương pháp khám nghiệm theo cách cuốn chiếu
Phương pháp này được áp dụng để khám nghiệm những hiện trường
tương đối băng phẳng, có chiều ngang không rộng, có thể tiến hành khám
nghiệm dàn hết mặt bừng từ đầu này đến đầu kia.
Sơ đồ:

15


Các phương pháp khám nghiệm trên trừ phương pháp khám nghiệm hiện
trường theo khu vực có ưu điểm là toàn bộ diện tích của hiện trường được khám
nghiệm có hệ thống, tỷ mỷ, có thể phát hiện được hầu hết những dấu vết, vật
chứng và đặc điểm dễ thấy ở hiện trường. Tuy nhiên những phản ánh này không
nhất thiết phải là dấu vết, vật chứng có liên quan đến hành động phạm tội. Muốn
xác định được mối liên quan này phải xem xét chúng trong mối quan hệ với
nhau, với dấu vết đã được xác định là của thủ phạm và với lời khai của sự chủ,
nạn nhân hoặc nhân chứng khác. Từ đó có thể nhận định về diễn biến của sự

việc và tìm ra những cơ sở khách quan để đánh giá về quá trình gây án.
Nhược điểm của bốn phương pháp này là thường phải sử dụng nhiều lực
lượng và phương tiện, đồng thời hiệu quả đạt được không cao. Do thiếu cơ sở để
nhận định về quá trình gây án của thủ phạm, nên hầu hết các trường hợp đều
không thể đánh giá và kết luận ngay tại chỗ về nguyên nhân và quá trình hình
thành dấu vết, vật chứng, về mối liên quan giữa các dấu vết, vật chứng với nhau
và với lời khai. Từ đó thiếu cơ sở để nhận định về khả năng tồn tại của các dấu
vết ẩn, vi vết, vì vậy thường bỏ sót những dấu vết này.
Khi khám nghiệm theo các phương pháp này cần lưu ý là không được bỏ
qua những dấu vết hoặc vật chứng nào đã tìm thấy. Như vậy ở đây phải thu
lượm tất cả các dấu vết, vật chứng đã phát hiện được, nếu bỏ sót có thể để mất đi
những chứng cứ có giá trị.

16


CHƯƠNG II
TRÌNH TỰ KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG
1. Chuẩn bị khám nghiệm hiện trường
1.1. Chuẩn bị trước khi đến hiện trường
1.1.1. Chuẩn bị lực lượng
Lực lượng khám nghiệm là lực lượng được tổ chức theo quyết định của
Giám đốc Công an các Tỉnh và Thành phố, hoặc chỉ huy Công an cấp Quận,
huyện phù hợp với tính chất của sự việc xảy ra và theo đúng luật định.
Lực lượng khám nghiệm bao gồm:
1. Người chỉ huy lực lượng khám nghiệm là Thủ trưởng hay Phó thủ
trưởng cơ quan điều tra. Tùy theo vụ việc xảy ra thuộc diện phân cấp quản lí của
cấp nào thì lãnh đạo cấp đó chỉ huy (Huyện, Tỉnh, Trung ương...).
2. Các điều tra viên trực tiếp thụ lí vụ án và các trợ lý điều tra.
3. Cán bộ kĩ thuật chuyên môn trong ngành Công an. Tùy từng loại vụ

việc cụ thể mà huy động cán bộ kĩ thuật chuyên môn cho phù hợp với tính chất
sự việc xảy ra như: cán bộ kỹ thuật hình sự, Cảnh sát phòng cháy chữa cháy,
Cảnh sát giao thông, Cảnh sát sử dụng chó nghiệp vụ .v.v...
4. Cán bộ kĩ thuật chuyên môn ngành ngoài được triệu tập theo quy định
của BLTTHS, phù hợp với tính chất của sự việc xảy ra và theo yêu cầu điều tra
như: bác sĩ pháp y (trong các vụ có người chết), các giám định viên thuộc
chuyên môn kĩ thuật như kĩ sư cháy nổ, sự cố kĩ thuật...
Các nhà chuyên môn là người có kiến thức sâu về một lĩnh vực riêng, một
nhành khoa học, kỹ thuật nhất định. Nhà chuyên môn phải được cấp bằng về
lĩnh vực chuyên môn đó và có kiến thức chuyên sâu thực sự được cơ quan Nhà
nước, tổ chức xã hội thừa nhận. Các giám định viên nếu được Cơ quan điều tra
mời tham dự việc khám nghiệm hiện trường thì họ tham gia với tư cách của nhà
chuyên môn, không phải với tư cách là người giám định.
Khoa học càng phát triển thì việc ứng dụng những thành tựu của nó vào
lĩnh vực lỹ thuật hình sự để chế tạo ra những dụng cụ, phương tiện cũng như
17


những phương pháp, biện pháp mới để khai thác tối đa các thông tin dấu vết của
hiện trường phục vụ tốt hơn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Tuy nhiên,
bọn tội phạm cũng luôn tìm cách sử dụng những thành tựu mới vào hoạt động
phạm tội. Do vậy, để có kiến thức chuyên sâu đánh giá nguyên nhân, tính chất,
diễn biến của vụ việc xảy ra cũng như khai thác tối đa các thông tin dấu vết tại
hiện trường, cần phải mời các nhà chuyên môn, nhất là những loại hiện trường
gắn với các chuyên ngành hẹp như các vụ cháy, nổ trong các cơ sở công nghiệp;
nổ hạt nhân; cháy nổ tàu hỏa, tàu thủy, tàu bay; cháy nổ trong hầm lò... cần phải
xác định tai nạn hay cố ý hủy hoại tài sản...
Việc mời nhà chuyên môn tham dự việc khám nghiệm hiện trường phải
xuất phát từ yêu cầu thực tế của từng hiện trường và đây là quy định của tố tụng
hình sự đòi hỏi cả nhà chuyên môn và Điều tra viên khi tiên hành khám nghiệm

phải nghiêm chỉnh chấp hành. Cơ quan điều tra trưng cầu nhà chuyên môn tham
dự khám nghiệm phải thể hiện bằng văn bản. Trong đó phải nêu khái quát nội
dung vụ việc xảy ra, thời gian, địa điểm, hậu quả và những yêu cầu đặt ra cần trả
lời làm sáng tỏ đói với nhà chuyên môn khi tham dự khám nghiệm hiện trường.
Nhà chuyên môn có thể được mời tham dự khám nghiệm ngay từ đầu. Trong
trường hợp do thông tin ban đầu về vụ việc xảy ra không đầy đủ Cơ quan điều
tra không mời nhà chuyên môn nhưng trong quá trình khám nghiệm, nếu những
vấn đề xảy ra tại hiện trường mà Điều tra viên chưa đủ kiến thức chuyên môn để
kết luận, nếu thấy cần thiết thì tạm ngừng việc khám nghiệm hiện trường và cho
mời nhà chuyên môn phù hợp để giúp cho việc khám nghiệm hiện trường đạt
yêu cầu đề ra.
5. Người chứng kiến, đại diện Viện kiểm sát theo quy định tại khoản 2 Điều 150 - Bộ luật TTHS.
Việc có mặt đại diện Viện kiểm sát trong thành phần lực lượng khám
nghiệm hiện trường là bắt buộc. Đây là một điểm mới của Bộ luật TTHS 2003,
quy định này đã khắc phục được thiếu sót của Bộ luật TTHS 1988. Sự có mặt
của Kiểm sát viên đảm bảo công tác khám nghiệm có được tính khách quan,
chính xác, từ đó tạo thuận lợi cho việc đánh giá, tổng hợp chứng cứ.
18


Khoản 2 - Điều 150 - Bộ luật TTHS quy định: “... Trong mọi trường hợp,
trước khi tiến hành khám nghiệm, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm
sát cùng cấp biết. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc khám nghiệm hiện
trường. Khi khám nghiệm, phải có người chứng kiến; có thể để cho bị can,
người bị hại, người làm chứng và mời nhà chuyên môn tham dự việc khám
nghiệm.”
Như vậy, vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động khám nghiệm hiện
trường được xác định là chủ thể kiểm sát các hoạt động khám nghiệm của Cơ
quan điều tra và Điều tra viên, đảm bảo cho hoạt động khám nghiệm hiện trường
tuân thủ các quy định của pháp luật, đảm bảo hiệu quả của hoạt động khám

nghiệm. Kiểm sát viên có thể tham gia vào hoạt động khám nghiệm với các nội
dung cụ thể như: thành phần tham gia khám nghiệm hiện trường; chủ thể tiến
hành khám nghiệm hiện trường; các thủ tục và phương tiện tiến hành khám
nghiệm hiện trường; sử dụng kết quả của khám nghiệm hiện hiện trường vào
hoạt động điều tra vụ án...
1.1.2. Chuẩn bị phương tiện
Phương tiện kĩ thuật hỗ trợ cho quá trình khám nghiệm phải đầy đủ và
phù hợp với quá trình sử dụng tùy theo tính chất của sự việc xảy ra. Thông
thường, các loại phương tiện sau cần được chuẩn bị phục vụ cho công tác khám
nghiệm hiện trường:
- Phương tiện kĩ thuật dùng để khám nghiệm của cán bộ kĩ thuật hình sự
như: vali khám nghiệm, máy ảnh, các loại đèn (đèn pha, đèn chiếu xiên...);
- Phương tiện giao thông phục vụ quá trình đi lại;
- Phương tiện thông tin liên lạc;
- Chó nghiệp vụ (khi thấy cần thiết);
- Các loại phương tiện hỗ trợ khác...
1.2. Chuẩn bị khi đến hiện trường
Lúc đến hiện trường, lực lượng khám nghiệm phải nắm được sơ bộ tình
hình qua lực lượng bảo vệ hiện trường. Lực lượng khám nghiệm hiện trường cần

19


thu thập mọi thông tin, dữ liệu và ý kiến đánh giá cần thiết để có thể hiểu được
vụ án, sau đó mới có thế vào hiện trường. Các công việc cần làm bao gồm:
- Nghe lực lượng bảo vệ hiện trường báo cáo và kiểm tra lại toàn bộ công
tác bảo vệ hiện trường, bổ sung các biện pháp cần thiết;
- Gặp gỡ, trao đổi với cơ quan chủ quản hoặc Chính quyền địa phương để
nắm về: quá trình diễn biến của sự việc, tình hình an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội, những tin tức, tài liệu liên quan đến sự việc xảy ra. Ngoài ra còn yêu

cầu cơ quan hoặc Chính quyền địa phương giúp đỡ trong quá trình khám nghiệm
và điều tra tại hiện trường;
- Lựa chọn người đại diện chính quyền địa phương hoặc cơ quan, xí
nghiệp tham gia khám nghiệm và người chứng kiến cuộc khám nghiệm, giải
thích về quyền và nghĩa vụ cho họ;
- Nắm toàn bộ tình hình hiện trường thông qua: lực lượng bảo vệ, nạn
nhân, người làm chứng, cán bộ kĩ thuật khác, người đại diện Chính quyền hoặc
cơ quan nơi xảy ra sự việc về một số vấn đề sau:
+ Thời gian sự việc xảy ra;
+ Phạm vi hiện trường đã được khoanh vùng bảo vệ;
+ Điều kiện địa lí, khí hậu, nhiệt độ, thời tiết... trước trong và sau khi xảy
ra sự việc;
+ Các phương tiện bảo vệ;
+ Di biến động của người và xe cộ quanh phạm vi hiện trường;
+ Đối tượng bị xâm hại, mức độ hậu quả;
+ Kết quả của công tác đã tiến hành trên hiện trường;
+ Những biến đổi và phương pháp xử lí...
- Họp lực lượng khám nghiệm, bước đầu phân công nhiệm vụ cho các lực
lượng tham gia. Xác định cho các thành viên bảo đảm yêu cầu pháp luật nghiệp vụ khi tiến hành công tác của mình và phải giữ bí mật.
2. Tiến hành khám nghiệm hiện trường
Công tác khám nghiệm hiện trường được tiến hành qua hai bước: quan sát
hiện trường và khám nghiệm tỉ mỉ.
20


2.1. Quan sát hiện trường (khám nghiệm sơ bộ)
Quan sát hiện trường là việc nắm, bao quát vị trí, trạng thái chúng của
hiện trường, cũng như các dấu vết, vật chứng, các đồ vật, tử thi... ở hiện trường.
Thực chất của hoạt động này là sự nghiên cứu, phân tích, khái quát để đi đến
nhận thức ban đầu của cán bộ điều tra tại hiện trường về tình trạng hiện trường

và diễn biến của sự việc trên cơ sở trực tiếp thụ cảm và tư duy. Trên cơ sở đó đề
ra phương án tối ưu cho việc lựa chọn chiến thuật, kĩ thuật và phương pháp tìm,
thu lượm dấu vết, vật chứng; cũng như mọi tin tức, tài liệu có liên quan đến sự
việc xảy ra.
Đối tượng để quan sát bao gồm: toàn bộ địa hình, đồ vật, sự vật, dấu vết,
vật chứng, tử thi... và các hiện tượng có trên hiện trường.
Giai đoạn này chủ yếu các cán bộ điều tra sử dụng mắt thường và một số
phương tiện hỗ trợ thông dụng như: ống nhòm, kính lúp, đèn pin... để quan sát
toàn bộ khung cảnh hiện trường.
Khi quan sát cần lựa chọn một vị trí đứng cho thích hợp để xác định và
ghi nhận được toàn bộ phạm vi hiện trường, vị trí các dấu vết, vật chứng, đồ vật,
tử thi... Quá trình quan sát phải hạn chế sự đi lại trên hiện trường để không làm
hư hỏng các dấu vết, vật chứng. Nên chọn lối đi vào hiện trường là những nơi
không có dấu vết, vật chứng. Đối với những dấu vết do quá trình đi lại khi quan
sát hiện trường để lại phải đánh dấu để tránh nhầm lẫn khi thu lượm.
Tiến hành quan sát từ xa đến gần, từ toàn bộ đến bộ phận, từ chung
đến riêng, có trọng tâm, trọng điểm. Sự xuất hiện của dấu vết, vật chứng là
một tổ hợp, một chỉnh thể thống nhất và là kết quả của sự tác động qua lại
giữa hiện trường - thủ phạm - phương tiện công cụ gây án. Do đó, điều tra
viên cần phải phân tích, xem xét mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của thủ
phạm với dấu vết, vật chứng tồn tại ở hiện trường.
Mục đích của công tác quan sát là nắm được toàn bộ trạng thái chung
của hiện trường; vị trí của các dấu vết, vật chứng đã nhìn thấy rõ nhất, vị trí
và sự sắp xếp các đồ vật trên hiện trường, tử thi... kể cả sự thay đổi về kết
cấu của các vật thể. Đồng thời xác định được phạm vi cụ thể của hiện trường
21


để bảo vệ và khám nghiệm cũng như chiến thuật tìm – thu dấu vết, vật
chứng và tin tức, tài liệu có liên quan đến sự việc xảy ra.

Trong giai đoạn quan sát hiện trường, những công việc mà lực lượng
khám nghiệm cần thực hiện bao gồm:
- Đặt số cho dấu vết, vật chứng, tử thi...;
- Tiến hành các hoạt động ghi nhận mang tính chất chung nhất như: chụp
ảnh toàn cảnh, ảnh định hướng, phác họa sơ đồ hiện trường để ghi nhận lại vị trí
và trạnh thái ban đầu của hiện trường trước khi khám nghiệm...
Kết thúc quá trình quan sát, cán bộ điều tra – khám nghiệm phải đưa ra
được một số kết luận nhằm phục vụ cho quá trình khám nghiệm tỉ mỉ và các
hoạt động chiến thuật khác xuất phát từ hiện trường. Bao gồm:
- Phạm vi của hiện trường, vùng trung tâm và các vùng kế cận;
- Phải tăng cường lực lượng, phương tiện như thế nào cho quá trình bảo
vệ và khám nghiệm hiện trường tại hiện trường cụ thể;
- Lựa chọn được phương pháp, biện pháp, chiến thuật hợp lí nhất cho quá
trình tìm – thu lượm dấu vết, vật chứng và những tin tức, tài liệu có liên quan
trực tiếp tại hiện trường. Xác định các biện pháp kĩ thuật và phương tiện kĩ thuật
cho quá trình tìm – thu dấu vết, vật chứng;
- Thông qua hệ thống dấu vết, vật chứng nhìn thấy rõ nhất tại hiện trường,
xác định lối vào – ra của thủ phạm trên hiện trường, cũng như quá trình diễn
biến của hành vi phạm tội;
- Bố trí từng việc cụ thể trong quá trình khám nghiệm sao cho phù hợp với
điều kiện của từng hiện trường cụ thể;
- Giữ nguyên, thay đổi hay bổ sung vẫn đề gì cho công tác bảo vệ hiện
trường;
- Xác định chất lượng của dấu vết nguồn hơi nhằm huy động và sử dụng
chó nghiệp vụ truy vết đạt kết quả.
- Trong trường hợp phát hiện được dấu vết nóng, phải tập trung nghiên
cứu, phân tích ngay nhằm thu lượm được những thông tin cần thiết phục vụ cho
việc truy bắt thủ phạm ngay tại hiện trường;
22



- Xác định được nhiệm vụ cụ thể cho các lực lượng làm việc trên hiện
trường, đảm bảo sự trao đổi thường xuyên tin tức, tài liệu giữa các lực lượng.
Kết quả quan sát hiện trường có ảnh hưởng tới giai đoạn sau này của quá
trình khám nghiệm. Thông qua quan sát hiện trường, cán bộ điều tra sẽ quyết
định chiến thuật khám nghiệm, chiến thuật tìm – thu dấu vết. Một chiến thuật tốt
sẽ đảm bảo cho một kết quả khám nghiệm chính xác và đầy đủ.
2.2. Khám nghiệm tỉ mỉ
Khám nghiệm tỉ mỉ là một bộ phận then chốt của quá trình khám nghiệm
tại hiện trường nhằm khai thác thông tin từ những phản ánh vật chất cụ thể. Là
bước vận dụng tổng hợp những tri thức, chiến thuật, kĩ thuật với sự hỗ trợ của
các phương tiện kĩ thuật để phát hiện, thu thập, phân tích, đánh giá toàn bộ
những phản ánh vật chất về một vụ việc cụ thể tại hiện trường, nhằm rút ra
những chứng cứ chứng minh về các tình tiết của một vụ việc mang tính hình sự
đã xảy ra.
Mục đích của giai đoạn này là phát hiện, ghi nhận, thu lượm và đánh giá
sơ bộ tất cả các dấu vết, vật chứng tồn tại ở hiện trường và tạo cơ sở cho việc
thu thập các mẫu so sánh.
Nhiệm vụ của giai đoạn này là nghiên cứu chi tiết tỉ mỉ hiện trường dưới
sự hỗ trợ của các phương tiện kĩ thuật, nhằm phát hiện ra tất cả các dấu vết, vật
chứng, trên cơ sở đó sử dụng các phương tiện kĩ thuật thích hợp nhằm thu lượm
tốt các dấu vết, vật chứng.
Đòi hỏi đặt ra đối với những cán bộ làm công tác khám nghiệm hiện
trường là phải làm việc thật sự khoa học, các công việc phải được tiến hành trên
cơ sở có kế hoạch khoa học, đồng thời phải đảm bảo yêu cầu trọng tâm, đồng
bộ. Làm việc với tinh thần tập thể nhưng phải phát huy tính độc lập suy nghĩ và
tinh thần tích cực, chủ động sáng tạo của từng cá nhân.
Dấu vết tồn tại ở hiện trường rất đa dạng và phong phú, có khi rất nhỏ bé
mà mắt thường không thể nhìn thấy được (vi vết). Hơn nữa, không phải lúc nào
cũng nhận thấy ngay được dấu vết, vật chứng mà phải qua quá trình xem xét tỉ

mỉ, hệ thống toàn bộ hiện trường mới phát hiện được chúng. Do đó, việc tìm
23


kiếm dấu vết, vật chứng trên hiện trường là một công việc hết sức khó khăn,
phức tạp. Vì vậy, khi phát hiện được một dấu vết, vật chứng nào đó cần phải
phân tích, đánh giá chúng, tìm mối liên hệ giữa chúng với những dấu vết, vật
chứng khác, mối liên hệ logic này được xuyên suốt trong quá trình tìm – thu dấu
vết, vật chứng tại hiện trường.
Một hệ thống dấu vết nhất định được tạo ra trong một phương thức, thủ
đoạn hoạt động nhất định, hay nói một cách khác, mỗi một phương thức thủ
đoạn hoạt động nhất định của bọn tội phạm đều gây ra và để lại hiện trường một
hệ thống dấu vết đặc trưng cho nó. Vì vậy, trong khi tìm kiếm dấu vết, vật
chứng, điều tra viên cần phải tính xem sẽ gặp những loại dấu vết, vật chứng
nào? ở đâu?... Có những trường hợp nếu biết rõ nạn nhân chết vì bị bắn thì sẽ
hướng cho nhân viên khám nghiệm hiện trường đi tìm đầu đạn hay vỏ đạn ở
hiện trường. Ví dụ, vụ án anh Sơn trú tại ấp Tân Thuận, xã Tân Tiến, Bình
Phước bị cướp - giết ngày 26/1/2006.
Nội dung vụ việc: Ngày 09/02/2006, hai xác chết được phát hiện trên đất
nước Campuchia gần địa bàn huyện Lộc Linh, tỉnh Bình Phước. Qua khám
nghiệm ban đầu nhận định nạn nhân bị chết do bị bắn, hiện trường là nơi không
dân cư, đường xá đi lại rất khó khăn và có nhiều đơn vị bộ đội và công an tỉnh
bạn đóng tại khu vực này. Từ nhận định về nguyên nhân chết của nạn nhân, các
điều tra viên tiến hành tìm kiếm và thu lượm được năm vỏ đạn tại hiện trường.
Qua giám định xác minh năm vỏ đạn này và những đầu đạn trên cơ thể hai nạn
nhân là của cùng một khẩu súng (loại AK - loại súng mà các lực lượng bộ đội
biên phòng hay sử dụng).
Ngày 11/02/2006, chị Nguyễn Thị Huệ trú tại ấp Tân Thuận, Tân Tiến,
Bình Phước đã xác nhận một trong hai nạn nhân là anh Sơn, chồng của chị,
người còn lại là bạn của anh Sơn, hai người thường cùng nhau đem tiền qua biên

giới buôn bán thuốc lá lậu. Sự việc: ngày 26/01/2006, anh Sơn cùng rủ anh Huy
(là người cùng huyện) qua biên giới mua thuốc lá của một người Campuchia để
mang về bán lại tại Việt Nam. Đi qua địa bàn huyện Lộc Linh, qua biên giới, hai
anh bị bắn chết và bị cướp toàn bộ số tiền mang theo. Lực lượng công an Việt
24


Nam đã hỗ trợ lực lượng công an Campuchia khám nghiệm hiện trường và điều
tra vụ án trên. Qua những vỏ đạn tìm được tại hiện trường và đầu đạn tìm được
trên người nạn nhân, công an hai nước đã xác định khẩu súng là của Ensa Gôn,
lính bảo vệ biên giới của Campuchia. Qua điều tra được biết Gôn cùng một
nhóm lính bảo vệ biên giới nữa thường xuyên bỏ doanh trại đi buôn bán hàng
lậu với người Việt Nam kiếm lời. Do đã quen biết với anh Sơn và biết được thói
quen của anh Sơn (thường giấu tiền trên mũ) và thời gian, con đường anh Sơn
hay đi, Gôn rủ Phia giết và cướp tài sản của anh Sơn trên đường anh Sơn qua
biên giới mua bán thuốc lá lậu. (1)
Ngoài ra, trường hợp hiện trường bị xáo trộn có thể phải dựng lại theo sự
trình bày của người biết việc nhằm kết hợp kết quả phân tích, nghiên cứu, đánh
giá các dấu vết, vật chứng đã phát hiện được với tình trạng hiện trường được xây
dựng lại mà rút ra nhận xét xác đáng về diễn biến của sự việc, hành động của thủ
phạm.
Mặt khác, đối với hiện trường thiếu dấu vết hay dấu vết tồn tại ở những
nơi mâu thuẫn với phương thức gây án, đây là những dấu hiệu quan trọng để có
thể đặt ra được những giả thuyết về sự giả tạo hiện trường, đánh lạc hướng quá
trình điều tra tại hiện trường. Ví dụ như đối với hiện trường có người chết, các
điều tra viên cần chú ý
tới tình trạng hiện trường trong mối quan hệ với tư thế, dáng điệu của nạn nhân
cũng như các dấu vết khác... Mặt khác, các đồ vật do những người không liên
quan đến sự việc xảy ra vứt lại, hoặc bỏ quên ở hiện trường cũng có thể gây
nhầm lẫn đối với các cán bộ điều tra và do đó công tác điều tra cũng có thể bị

lạc hướng...
Trong khi củng cố và tiến hành thu lượm tất cả những dấu vết, vật chứng
phải đảm bảo những yêu cầu kĩ thuật và tính pháp lí của nó, đảm bảo những dấu
vết thu được tại hiện trường có thể trở thành chứng cứ được tòa án chấp nhận
khi tiến hành xét xử vụ án. Do đó, cần phải tính toán những dấu vết xét thấy cần

(1)

Nguồn: www.vtc.com.vn
25


×