Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

BAI GIANG CHE DO PK VIET NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.9 KB, 28 trang )

CHƯƠNG 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ XÁC LẬP CHẾ
ĐỘ PHONG KIẾN VIỆT NAM THẾ KỈ X – XV.
1.1. Khái niệm “chế độ phong kiến”.
1.1.1. Khái niệm
- Về mặt thuật ngữ, PK nghĩa là phong tước, kiến địa. Chuyển ngữ từ chữ
Feodalite – trong tiếng la tinh nghĩa là “lãnh địa cha truyền con nối”.
Thể chế trong thời PK phần đông là chế độ QCCChế, trong đó mọi quyền lực,
chi phối các hoạt động trong xã hội gần như tuyệt đối tập trung vào tay Vua hay Hội
đồng nhà Vua lãnh đạo.
Chế độ QChủ thường dùng hình thức phân phong đất đai để truyền nối và
chiếm hữu đất đai.
- Các định nghĩa khác:
. Chế độ QC là thể chế trong đó đứng đầu Nhà nước (NN) là Vua, hay Nữ
Hoàng, Quốc vương.
. Thể chế và chđộ QC ngày nay là chđộ QC Lập hiến, theo đó mọi quyền
lực chi phối các hoạt động trong XH không còn tập trung trong tay nhà Vua
hay Nữ hoàng. Họ chỉ là người lãnh đạo tinh thần, còn mọi quyền lực chi
phối mọi hoạt động trong XH do Quốc hội, nghị viện, thủ tướng do người
dân bầu ra lãnh đạo.
. Hiện nay trên thế giới có 44 quốc gia tồn tại hình thức Nhà nước QC.
VD: Ở TQ thời Tây Chu, Vua đem đất đai phân phong cho bà con để kiến
lập các nước chư hầu gọi là “PK thân thích”.
 Như vậy, CĐPK là chế độ QCCC, đứng đầu là Vua – nắm giữ mọi
quyền hành, thâu tóm mọi quyền lực, kìm hãm sự phát triển mọi tư tưởng tiến
bộ của nhân dân, luôn đặt mọi quyền lợi của mình lên cao, XH thường phân chia
ra nhiều giai cấp – tầng lớp khác nhau.
 Vua là người trị vì cao nhất. Tự phong là thay trời hành đạo, trong quan hệ
Vua – tôi “Quân sử thần tử, thần bất tử bất trung”;đối với phụ nữ thì Tam tòng tứ
đức, công dung ngôn hạnh “Xuất giá tòng phu; xuất gia tòng phụ; phu tử tòng tử”.
 CĐPK mọc lên từ nền văn minh nông nghiệp, trải hàng chục ngàn năm,
nay đã hết vai trò lịch sử khi loài người chuyển sang nền văn minh công nghiệp. Do


quá trình tàn lụi kéo dài, CĐPK vẫn để lại những tàn dư, biến tướng, kể cả trá hình,


nhất là ở phương Đông. Đó là nơi CĐPK tồn tại quá lâu, hơn nữa nó bị lật đổ không
phải bằng sự lớn mạnh của GCTS. Do vậy sự xoá bỏ khó mà triệt để, nhất là nền
kinh tế tiểu nông.
1.1.2. Nguyên nhân ra đời
- Chiến tranh giữa các thị tộc, trong đó có 1 thị tộc lớn mạnh thôn tính các thị tộc
khác và thành lập quốc gia.
- Những tiến bộ về kỹ thuật sản xuất và công cụ lao động, làm cho diện tích gieo
trồng mở rộng, năng suất tăng, dẫn đến XH biến đổi sâu sắc.
. Quan lại và một số nông dân giàu tập trung nhiều của cải, tước đoạt thêm
nhiều ruộng đất, biến thành giai cấp địa chủ.
. Nông dân bị phân hoá:
Một bộ phận giàu biến thành GC bóc lột.
Một bộ phận vẫn giữ ruộng đất để cày cấy, có nghĩa vụ nộp thuế, đi lao
dịch biến thành nông dân tự canh.
Số còn lại là nông dân rất nghèo, không có hoặc có ít ruộng đất, phải
nhận đất của địa chủ để cày cấy, nộp hoa lợi cho địa chủ, gọi là tá điền hay nông dân
lĩnh canh.
Như vậy, quan hệ bóc lột của quý tộc đối với nông dân công xã nhường chỗ
cho quan hệ bóc lột địa tô của địa chủ đối với nông dân lĩnh canh.
1.1.3.Tổ chức bộ máy nhà nước
- Đứng đầu là Vua (Hoàng đế) có quyền lực tuyệt đối.
- Ở TW: có hệ thống quan văn quan võ, Thừa tướng và Thái uý.
- Ở điạ phương: chia thành quận huyện, Thái thú, huyện lệnh.
- XH chia thành 4 đẳng cấp: sĩ (quan lại), nông, công, thương (thương nhân).
- Hệ thống chính trị: phân quyền hay tập quyền.
- Cơ sở kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, dựa trên sản xuất nhỏ của nông dân,
giai đoạn cuối kinh tế hàng hoá phát triển, kết cấu kinh tế xã hội TBCN ra đời.

1.1.4. Địa vị và quyền lực nhà Vua
Địa vị:
- Các triều đại PK VN, gần 9 thế kỉ (939 – 1858) từ các triều Ngô, Đinh,
Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ, Hậu Lê, Mạc, Tây Sơn, Nguyễn với các vị Vua nổi tiếng như


Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Lê Lợi.... đồng thời cũng xuất hiện không ít các vị Vua
hoang tàn, bạo ngược như Lê Uy Mục, Lê Tương Dực...
- Vua được coi là Thiên Tử (con Trời), đại diện cho Thượng đế để cai trị
dân, thay Trời hành đạo. Mọi ý chí, mệnh lệnh của Vua đều phải tuân theo, đồng thời
các vị Vua cũng thường đại diện cho dân trước Thượng đế như lập đàn tế trời, cầu
xin mùa màng tươi tốt, mưa thuận gió hoà để người dân có cuộc sống ấm no,
hạnh phúc.
- Địa vị và chứa năng làm Vua là do Trời định sẵn, nếu Vua hoang tàn,
bạo ngược thì bị lật đổ và ngược lại.
- Trong CĐPK Vua được xem chỉ đứng dưới 1 người là Trời, trên muôn
người.
 Địa vị của Vua bao trùm lên toàn bộ đất nước.
Quyền lực: Vua nắm vương quyền và thần quyền
Vương quyền:
. Lập pháp – pháp luật
. Hành pháp – đứng đầu hành chính quốc gia, có quyền bổ nhiệm,
thưởng phạt, thăng chức, lương bổng...
. Tư pháp: có quyền quyết định cao nhất đối với bất kì vụ án nào.
. Quân sự: đứng đầu quân đội, Tổng tư lệnh quân đội, ban hành
các chính sách quân sự như nhà Lý – ngụ binh ư nông – Tĩnh vi nông, động vi binh.
. Ngoại giao
. Kinh tế: sở hữu cao nhất về ruộng đất, ban hành các chính sách
kinh tế như Lê sơ: Lộc điền, quân điền.
Thần quyền:

. Lễ nghi tôn giáo, là chủ tế - Tế trời đất = Tế Nam giao, thần dân
chỉ được thờ cúng tổ tiên.
. Phong thần, phong chức danh.
Đặc quyền riêng:
. Không được phạm đến tên nhà Vua và những người thân.


. Những gì thuộc về nhà Vua đều cao quí nên phải dùng những từ hoa mỹ như
Long sàn, Long thể, Hoàng bào...màu vàng là màu y phục của Vua, từ thời Lý Cao
Tông trở đi, chỉ nhà Vua mới được mặc áo vàng thêu rồng và tram cài tóc bằng vàng.
. Nhà Vua có quyền được thần thánh hoá, tương truyền khi mới sinh ra Lý Thái Tổ -“
2 lòng bàn chân xuất hiện 2 chữ Vương.
1.1.5. Những yếu tố kìm chế và hạn chế quyền lực nhà Vua
Kiềm chế: bổn phận thân dân của nhà Vua – xuất phát từ quan điểm ý
trời được thể hiện qua lòng dân nên Vua muốn thực hiện được ý của mình, thì phải
thân dân, quan tâm đến đời sống nhân dân như Mạnh Tử “Dân vi quí, xã tắc thứ
chi, quân vi khinh”; Lê Lợi “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”.
Hạn chế:
-

Các tập quán chính trị: có sức sống mảnh liệt, qua các đời Vua mặc dù
có thay đổi hình thức, cách tiến hành. Nhưng Vua sau phải tôn trọng
những tập quán, quy tắc xử sự truyền thống như truyền ngôi trọng con

-

trai, con trưởng.
Phương thức nghị định: tức là các vị Vua trước khi ra quyết định quan
trọng phải tham khảo ý kiến của Hội đồng trong triều như Hội nghị


-

Bình Than, Diên Hồng...
Chế độ khoa cử: phải tôn trọng và tuân theo chế độ khoa cử, không tuỳ
tiện muốn cho bất kì ai làm quan, mà phải căn cứ vào sự đỗ đạt. Vd :

-

1075 Lý Nhân Tông mở khoa thi đầu tiên tuyển nhân tài.
Chế độ tự quản làng xã: làng xã luôn mang tính tự quán, tự trị cao mà
nhà Vua phải tôn trọng.

1.1.6. Những điểm khác nhau giữa địa vị và quyền lực nhà Vua PK phương
Đông và Nhà nước PK phương Tây
So với phương Tây, mức độ tập trung quyền lực của Vua phương Đông
cao hơn rất nhiều. Thậm chí, ở phương Tây Vua không hề nắm trong tay thần
quyền mà còn bị lệ thuộc khá nhiều vào thần quyền do các tầng lớp giáo sĩ,
tăng lữ nắm giữ và không được thần thánh hoá.
Vd: ở Ấn Độ, nhà vua không được nắm giữ thần quyền vì đây là quốc
gia đa tôn giáo.


Ở TQ, địa vị và quyền lực của Vua cũng khác, VN không đạt đến trình
độ cao, cực đoan, chuyên chế so với phương Đông.
1.1.7. Tư tưởng dân chủ trong CĐPK
Tư tưởng tôn dân:
-

Lý Công Uẩn dời đô, đưa ra nhận định “Muốn mưu việc lớn, tính kế
muôn đời cho con cháu thì trên phải vâng mệnh trời, dưới theo ý dân”;

kế sách “ngụ binh ư nông”; đặt lầu chuông trong thành Thăng Long để

-

dân chúng có oan....
Nhà Trần: già làng có vai trò quan trọng; nhân dân đoàn kết đánh thắng
giặc Nguyên – Mông ba lần.
Trần Hưng Đạo có kế sách giữ nước “khoan thư sức dân làm kế gốc rễ

bền, ấy là thiết sách giữ nước”.
Nguyễn Trãi trong Bình Ngô Đại Cáo “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”,
vì vậy đã đánh thắng giặc Minh (Ví dân như nước, có tác dụng chở thuyền
nhưng cũng có sức mạnh lật thuyền”.
- Mọi quyết sách không thể không tính đến mối quan hệ làng – nước, lợi
-

ích của nhân dân.
Nhân dân có khả năng tạo ra sự đối trọng với nhà cầm quyền.

Dân chủ công xã:
-

Là động lực quan trọng để duy trì và phát huy truyền thống yêu nước,

-

đoàn kết, bất khuất chống giặc ngoại xâm.
Hạn chế là trói buộc con người, con người không tự giải phóng mình.
Như vậy từ xa xưa trong suốt thời kì PK, nước ta đã có truyền thống


dân chủ, không chỉ dừng lại ở học thuyết tư tưởng mà được thực hiện
hoá trong cách tổ chức.
Nhân dân có khả năng tạo ra sức mạnh đối trọng bằng bạo động về
chính trị.
Dân chủ trong CĐPKVN LÀ DÂN CHỦ CÔNG XÃ.
1.2. Đặc điềm chế độ phong kiến phương Đông
1.2.1. Các đặc điểm chủ yếu của chế độ phong kiến
Giai cấp địa chủ phong kiến nắm quyền sở hữu phần lớn ruộng đất (gồm cả sở
hữu tư nhân và sở hữu nhà nước) và tiến hành bóc lột địa tô (dưới nhiều hình thức: tô
lao dịch, tô sản phẩm, tô tiền hay những hình thức kết hợp) đối với nông dân không có
hay có ít ruộng đất (dưới những hình thức và mức độ lệ thuộc khác nhau).


Xã hội phân hoá thành những giai cấp và đẳng cấp khác nhau.
Hệ thống chính trị có thể là phân quyền cát cứ hay tập quyền theo chính thể
quân chủ.
Cơ sở kinh tế chủ yếu là nông nghiệp dựa trên sản xuất nhỏ của nông dân.
Phong kiến phản ánh hình thức truyền nối và chiếm hữu đất đai của chế độ
quân chủ thời xưa, trong thời quân chủ chuyên chế. Tuy nhiên, trong thời hiện tại, thể
chế về chế độ quân chủ thời nay là chế độ quân chủ lập hiến, cho nên phong kiến chỉ
phản ánh một giai đoạn, một thời kỳ của chế độ quân chủ.
Hay nói cách khác chế độ phong kiến có 6 đặc điểm nổi bật như sau:
- Quyền lực thuộc về một người (hoặc một nhóm người) luật pháp đại diện cho
ý chí của giai cấp thống trị và bảo vệ lợi ích của giai cấp này. Giai cấp thống trị đứng
trên Luật pháp, có một vùng cấm dành riêng cho họ.
- Quyền định đoạt và sở hữu đất đai thuộc về một nhóm người có chức có
quyền, người dân không có quyền sở hữu đất đai.
- Trong chế độ phong kiến nhân dân bị phân chia thành nhiều giai cấp khác
nhau, nhằm mục đích kìm hãm sự đoàn kết của cộng đồng dân tộc để thuận tiện cho
việc cai trị, dùng giai cấp này để trị giai cấp kia.

- Là chế độ “Cha truyền con nối”: Những chức tước quan trọng và bổng lộc do
một (hoặc một nhóm người) có quyền tùy ý quyết định bổ nhiệm, ban phát theo ý họ
(hoặc do mua quan bán chức) chứ không xuất phát từ nguyện vọng của dân.
- Thần thánh hóa lãnh tụ: Chế độ phong kiến sinh ra một số sản phẩm tinh thần
có vai trò chi phối cách hành xử của dân chúng. Vua chúa hay các lãnh tụ được coi là
Thần thánh, những cá nhân lỗi lạc hoặc những lực lượng siêu nhiên dễ bị biến thành
thần thánh, được đặt lên bệ thờ, hoặc đưa vào lăng tẩm. Ý của giai cấp thống trị là ý
Trời, cấm người dân lên tiếng phản biện. Bày tỏ ý kiến khác với lãnh đạo là coi là
chống đối chế độ, phê bình, phê phán lãnh đạo là tội khi quân chỉ có một con đường là
chết.
- Học thuyết và chủ nghĩa bị biến thành “đạo” và đạo này là chính đạo, mọi thứ
đạo hay tôn giáo khác đều là tà đạo và cần phải tiêu diệt.
1.2.2. So sánh CĐPK phương Đông và CĐPK phương Tây


Trong từng nước và từng khu vực, chế độ phong kiến mang những đặc điểm
riêng của những loại hình khác nhau. Do đó trong vài thập kỷ gần đây, các nhà sử học
và các nhà nghiên cứu có những quan niệm rất khác nhau về chế độ phong kiến.
Chính vì vậy, đã có những cuộc tranh luận về những đặc điểm cũng như sự tồn tại của
chế độ phong kiến ở nhiều nước, nhất là ở phương Đông.
Tại phương Tây (châu Âu), đặc điểm cơ bản của chế độ phong kiến là kinh tế
lãnh địa, giai cấp lãnh chúa và nông nô, hệ thống đẳng cấp dựa trên quan hệ lãnh chúa
- chư hầu, tình trạng cát cứ kéo dài.
Thời Trung cổ, ở phương Tây (như Pháp chẳng hạn) CĐPK khác phong kiến
Trung Hoa. Thời đó vua chúa của phương Tây suy nhược, các rợ ở chung quanh
thường xâm lấn, cướp phá các thành thị, đôi khi cả kinh đô nữa, rồi rút lui. Các gia
đình công hầu thấy sống ở kinh đô không yên ổn, triều đình không che chở được cho
mình, phải dắt díu nhau về điền trang của họ, xây dựng những đồn luỹ kiên cố, chung
quanh có hào; họ đúc khí giới, tuyển quân lính để chống cự với giặc. Nông dân ở
chung quanh đem ruộng đất tặng lãnh chúa hoặc sung vào quân đội của lãnh chúa để

được lãnh chúa che chở. Do đó mà một số lãnh chúa khá mạnh, đất rộng, quân đông,
họ hợp lực nhau đem quân cứu triều đình, được phong tước cao hơn, có khi lấn áp
nhà vua nữa, và sau triều đình phải tốn công dẹp họ để thống nhất quốc gia. Nguyên
nhân thành lập chế độ phong kiến.
Tại phương Đông, kinh tế lãnh địa và quan hệ lãnh chúa - nông nô không phát
triển, chế độ quân chủ tập quyền ra đời sớm và tồn tại lâu dài, bên cạnh sở hữu tư
nhân còn có sở hữu nhà nước về ruộng đất, kinh tế địa chủ với quan hệ địa chủ - tá
điền chiếm ưu thế.
Sự khác biệt giữa phương Tây và phương Đông nhiều đến mức độ làm cho một
số nhà sử học tỏ ý nghi ngờ hoặc phủ nhận sự tồn tại của chế độ phong kiến ở phương
Đông.
Theo ý kiến của nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê, phong kiến của phương
Đông và phương Tây thực chất không giống nhau.
 Giống nhau:
-

Kinh tế:
Nông nghiệp là chính, bên cạnh thủ công nghiệp và buôn bán nhỏ.
Tư liệu sản xuất chính là ruộng đất.


Lực lượng sản xuất chính là nông dân.
Đặc điểm cơ bản là tự cung tự cấp.
- Xã hội:
Tất cả ruộng đất, con người đều là của cải và thuộc quyền sở hữu của nhà
Vua.
Hai giai cấp cơ bản và cũng là mâu thuẫn cơ bản là chủ đất và người làm
thuê.
Phân chia đẳng cấp là đặc điểm tiêu biểu.
- Chính trị:

Bộ máy nhà nước đứng đầu là vua, giúp vua là các quan lại.
Chế độ chính trị, đi từ phân quyền sang tập quyền, là đỉnh tột cùng của
CĐPK.
- Tư tưởng: cả hai đều lấy tôn giáo làm cơ sở lí luận cho sự thống trị của
mình.
Vd: Trung Quốc – Khổng giáo
Ấn Độ - Hồi giáo
Châu âu – Thiên chúa giáo
 Khác nhau:
- Xã hội:
Phương Đông: GCTT là địa chủ, quý tộc; GCBT là nông dân tá điền.
Phương Tây: GCTT là quý tộc, tăng lữ, lãnh chúa (cấu kết với nhau
bóc lột nông nô tàn bạo và khắc nghiệt hơn S/V phương Đông); GCBT

-

là nông nô.
PĐ: mâu thuẫn ít hơn nên CĐPK tồn tại lâu dài 25 thế kỉ.
PT: mâu thuẫn nặng nề và gay gắt hơn, tồn tại gắn hơn 10 thế kỉ.
Chính trị:
PĐ: chế độ quân chủ xuất hiện sớm hơn; chuyển biến từ phân quyền
sang tập quyền diễn ra sớm thời Tần Thuỷ Hoàng.
PT: chế độ quân chủ xuất hiện muộn hơn khoảng 1000 năm; tập quyền
diễn ra trễ thế kỉ XIV, nhà vua nhờ sự giúp đỡ của thị dân mới dẹp được

-

cát cứ của lãnh chúa.
Tư tưởng:
PT: sự can thiệp của tăng lữ vào hệ thống chính trị là rõ ràng và chặt

chẽ hơn.
PĐ: tầng lớp này không mang tính công khai và rất ít nơi nào trở thành
giai cấp thống trị.

1.3. Những biểu hiện của quá trình phong kiến hoá của chế độ phong kiến Việt
Nam.


1.3.1. Hoàn thành độc lập dân tộc và thống nhất quốc gia (từ họ Khúc đến nhà
Tiền Lê).
- Sau khi đoạt chức Tiết độ sứ từ tay bọn xâm lược 905, đặt nhà Đường vào sự việc đã
rồi, nhà Đường buộc phải thừa nhận chức Tiết độ sứ.
- Khúc Thừa Dụ bắt tay tổ chức lại đất nước trên tinh thần độc lập tự chủ. Sau khi qua
đời, con là Khúc Hạo lên ngôi đã cố gắng xây dựng một chính quyền dân tộc thống
nhất từ TW đến địa phương.
 Ông là nhà cải cách lớn đầu tiên trong LSVN, mở ra 1 thời kì phát triển mới của
XHVN mà các triều đại sau sẽ hoàn thành.
-Tiếp theo là với chiến thắng của Ngô Quyền 938 đã đè bẹp hoàn toàn ý chí xâm lược
của quân Nam Hán, xác lập vững chắc nền độc lập lâu dài của dân tộc.
- Năm 939 Ngô Quyền xưng vương, xây dựng triều đình riêng. Tổ chức triều đình do
vua đứng đầu, mặc dù còn sơ sài nhưng đã là triều đình xây dựng theo thể chế của
1 vương triều quân chủ độc lập, bộ máy chính quyền đã mang tính tập quyền,
tuy chưa cao.
 Đây là biểu hiện đầu tiên của quá trình PK hoá của CĐPKVN.
-

Sau khi Ngô Quyền mất, đất nước diễn ra loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ
Lĩnh đã dẹp tan và lập ra triều Đinh – tên nước là Đại Cồ Việt, chính

-


quyền ở TW và các địa phương được sắp xếp lại có quy củ hơn trước.
Công cuộc xây dựng đất nước đang được tiến hành thì 979 Đinh Tiên
Hoàng bị Đỗ Thích ám hại để cướp ngôi, con là Đinh Toàn mới 6 tuổi

-

lên ngôi thay cha. Nghe tin đó, nhà Tống liền đưa quân sang xâm lược.
Trước tình thế nguy ngập, các quan đồng lòng cử Lê Hoàn lên ngôi để

-

lãnh đạo cuộc kháng chiến, lập ra triều Tiền Lê 980.
Sau chiến thắng chống Tống, Lê Hoàn (Lê Đại Hành) cho chấn chỉnh lại

-

tổ chức bộ máy nhà nước.
Sau khi Lê Hoàn qua đời, các con giành giật ngôi vua, cuối cùng Lê
Long Đĩnh lên làm vua nhưng hung tàn, bạo ngược, nhân dân oán giận
nên khi Long Đĩnh mất, triều đình đưa người thuộc dòng họ khác là Lý
Công Uẩn lên ngôi, hiệu là Lý Thái Tổ, mở ra một triều đại mới.

1.3.2. Xây dựng đất nước thời Lý – Trần – Hồ (1010 – 1407).
1.3.2.1. Tổ chức nhà nước dưới thời Lý


- Sau khi lên ngôi Lý Thái Tổ cho dời đô từ Hoa Lư đến Đại La, đổi tên
là thành Thăng Long (Hà Nội ngày nay).
- 1054 đổi tên nước là Đại Việt và là quốc hiệu được sử dụng lâu dài

trong thời kì PK nước ta.
- Triều đình bắt đầu xây dựng nhà nước theo lối chính quy, đứng đầu là
Vua với danh xưng Hoàng đế, dưới Vua có chức Tướng công, Tam thái...
- 1042 ban hành bộ luật Hình thư nhằm chính quy hoá một bước tổ
chức nhà nước.
- Quân đội được tổ chức phiên chế chặt chẽ, chính sách “ngụ binh ư
nông”.
- Về kinh tế: chăm lo phát triển kinh tế; ruộng đất thuộc sở hữu tối cao
của nhà Vua nhưng do làng xã trực tiếp quản lí, chia cho nông dân cày cấy và
nộp tô thuế cho nhà nước.
- Về văn hoá: chăm lo mở mang học tập và thi cử, 1070 cho dựng Văn
Miếu để thờ Khổng Tử; 1075 mở khoa thi đầu tiên để chọn nhân tài; 1076 mở
trường Quốc Tử giám – chọn con em quan lại vào học.
1.3.2.2. Đại Việt hùng mạnh dưới vương triều Trần (1225 – 1400).
- Tổ chức nhà nước: trên nền tảng vững chắc thời Lý, nhà Trần tiếp tục
công cuộc tiếp tục công cuộc dựng nước và giữ nước, đứng đầu triều đình vẫn
là Hoàng đế nhưng khác với triều Lý, các vua Trần đặt lệ nhường ngôi sớm cho
con và tự mình xưng là Thái Thượng hoàng, cùng con trông nom việc nước.
- Tiếp tục thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông”, tiến hành cuộc kháng
chiến chống Mông – Nguyên.
- Về kinh tế:
Khuyến khích các vương triều, công chúa, quý tộc mộ người đi
khẩn hoang.
Nhà nước chăm lo đê điều, kênh máng, nhiều vua Trần đích thân
đi xem việc đắp đê.
-

Về văn hoá: chăm lo phát triển giáo dục, Quốc Tử giám được mở rộng
và thâu nhận 1 số con em ngoài quý tộc vào học.



Như vậy nhà Trần tồn tại hơn 150 năm, cuối TK XIV đất nước lâm
vào rối ren, nhân đó Hồ Quý Ly có thanh thế trong triều, đã lấn dần
quyền lực của nhà Trần, 1400 phế truất vua Trần, lập ra triều Hồ.
1.3.2.3. Nước Đại Ngu thời Hồ
- Cho đổi quốc hiệu là Đại Ngu.
- Tổ chức bộ máy nhà nước vẫn giống như triều Trần nhưng có đặt thêm
1 số chức quan, các đơn vị hành chính vẫn giữ nguyên.
- Những cải cách của Hồ Quý Ly:
Chính sách hạn điền: trừ đại vương và trưởng công chúa, còn tất
cả mọi người chỉ được chiếm hữu dưới 10 mẫu.
Chính sách hạn nô: quy định quý tộc quan lại, tuỳ theo phẩm
tước cao thấp, chỉ được phép nuôi 1 số gia nô nhất định.
Tăng sự đóng góp của giai cấp hữu sản, giảm nhẹ cho dân nghèo.
Ai có ruộng thì nộp thuế, không có thì miễn.
Mở trường ở các phủ huyện và chọn người hay chữ vào dạy, đưa
toán vào nhà trường, dịch Tứ thư, Ngũ kinh thành chữ Nôm làm tài liệu học
tập.
 Mục đích cải cách:
Củng cố và tăng cường chế độ chuyên chế tập quyền.
Giải quyết các mâu thuẫn kinh tế, xã hội do cuộc khủng hoảng
đặt ra.
Tuy nhiên công cuộc cải cách đang được tiến hành thì nhà Minh xâm
lược và đô hộ nước ta. Với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn 1418 – 1428 thắng
lợi, mở ra 1 trang mới trong LS phát triển của đất nước.
Nền độc lập dân tộc được khôi phục, mưu đồ xâm lược và đô hộ của PK
phương Bắc hoàn toàn bị đè bẹp, đó là thắng lợi cơ bản để nhân dân ta đẩy
mạnh công cuộc xây dựng đất nước dưới thời Lê sơ.

CHƯƠNG 2: ĐỈNH CAO CỦA CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN VIỆT

NAM (THẾ KỈ XV – XVI)


2.1. Quan hệ sản xuất PK củng cố và phát triển đỉnh cao.
Nhà Lê thực hiện những chính sách gì trong kinh tế? (nông nghiệp,
thủ công nghiệp và thương nghiệp).
 Nông nghiệp:
Sau 20 năm bị phong kiến nhà Minh đô hộ, nền KT bị tàn phá nghiêm
trọng.
Sau khi lên ngôi, Lê Thái Tổ ban hành nhiều chính sách tích cực nhằm
phục hồi và phát triển KT:
-

Tịch thu ruộng đất bị bỏ hoang, ruộng đất của giặc Minh và tai sai đem
giao cho các làng xã quản lí và nhập thành ruộng công, chia cho dân cày

-

cấy.
Tù binh, tội nhân được tổ chức đi khai phá lập đồn điền.
Khẩn hoang được đẩy mạnh, nhất là ven biển và trung du.

Những chính sách trên đem lại kết quả gì?
- Giữa TK XV, hầu hết ruộng đất bỏ hoang được khôi phục.
- Chính sách ruộng đất hoàn chỉnh với chế độ quân điền và lộc điền.
- Ruộng đất nhà nước và làng xã được tăng cường bảo vệ.
Đối với ruộng đất tư hữu, nhà Lê có những chính sách gì?
- Tạo điều kiện cho ruộng đất tư hữu của địa chủ phát triển như miễn thuế, hợp
pháp hoá việc chiếm đoạt ruộng đất sau 20 năm.
Ngoài ra nhà Lê còn:

- Chăm lo công tác đê điều, thuỷ lợi thông qua 2 chức quan là Hà đê sứ và
Khuyến nông sứ.
- Tu bổ, kiểm tra đê điều hàng năm, đắp thêm một số đê mới.
- Cấm giết trâu bò bừa bãi.
- Hàng năm ra chiếu khuyến nông để động viên nhân dân SX.
- Chính sách “ngụ binh ư nông” được thực hiện triệt để.
Với những chính sách trên đả đem lại kết quả gì?
- Nền nông nghiệp nhanh chóng được phục hồi.
- Nạn mất mùa, đói kém ít xảy ra.
- Nhiều năm được mùa to.
- Đời sống nông dân tương đối ổn định


“Đời Vua Thái Tổ, Thái Tông
Thóc lúa đầy đồng, trâu chẳng buồn ăn”
 Thủ công nghiệp:
Trong thủ công nghiệp, dưới thời Lê sơ đạt được những thành tựu
gì?
- Loại hình TCN gia đình được mở rộng.
- Nhiều nghề thủ công như dệt vải, đan lát, dệt chiếu... phổ biến trong từng hộ
gia đình.
- Trình độ sản xuất của thợ thủ công được nâng cao.
- Số làng nghề xuất hiện ngày càng nhiều.
- Mở những xưởng thủ công Nhà nước gọi là Cục Bách công – chuyên đúc
tiền, đóng thuyền, sản xuất vũ khí.
- Ở miền núi, các nghề khai mỏ đồng, sắt, vàng bạc cũng phát triển.
 Thương nghiệp:
- Nội thương:
+ Lưu thông buôn bán mở rộng.
+ Chợ địa phương phát triển mạnh.

+ Ở mỗi xã hoặc vài xã gần nhau có chợ chung, họp vào 1 số ngày nhất
định trong tháng, gọi là chợ phiên.
+ Ban hành lệ họp chợ.
+ Không tiêu tiền giấy rách nát, dùng tiền đồng.
+ Các đơn vị đo lường thống nhất.
 Nội thương khá phát triển.
- Ngoại thương: có phần thu hẹp so với trước, vì sợ các thương nhân nước
ngoài nhòm ngó nên nhà Lê đã thi hành chính sách hạn chế và kiểm soát chặt chẽ
đối với ngoại thương.
 QHSXPK thời Lê sơ củng cố và phát triển đỉnh cao.

2.2. Nhà nước Lê sơ – Đỉnh cao của mô hình nhà nước quân chủ,
chuyên chế quan liêu.
2.2.1. Bộ máy chính quyền


Kiện toàn bộ máy nhà nước quân chủ tập trung, mang tính quan liêu chuyên
chế. Đến thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497), nó đạt tới đỉnh cao, trở thành một nhà
nước toàn trị, cực quyền. Đây là một bước ngoặt lịch sử, một sự chuyển đổi mô hình,
từ nền quân chủ quý tộc thời Lý - Trần mang đậm tính Phật giáo, màu sắc Đông Nam
Á sang một nền quân chủ quan liêu Nho giáo Đông Á.
Trong thiết chế quân chủ tuyệt đối thời Lê sơ, vai trò của nhà vua đã được
đẩy lên rất cao với chủ nghĩa "tôn quân". Theo đó, nhà vua là "con Trời". Người giữ
mệnh Trời, thay Trời trị dân; các ấn tín của vua đều khắc chữ "Thuận thiên thừa vận",
"Đại thiên hành hóa".
Hoàng đế là người chủ tế duy nhất trong các buổi tế lễ (tế Trời, tế Tôn miếu, tế
Khổng Tử), là Tổng chỉ huy quân đội (Lê Thánh Tông đích thân cầm quân đi đánh
Champa).
Hoàng đế trực tiếp điều khiển triều đình. Quyền lực của các quý tộc cũng bị
hạn chế, không được lập quân vương hầu.

Lê Thánh Tông bỏ lệ ban Quốc tính. Thời Lê sơ, một số công thần có uy tín và
quyền lực cao đã bị nghi kỵ và lần lượt bị giết hại, như Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn
Xảo, Lê Khả, Lê Sát, Lưu Nhân Chú và Nguyễn Trãi.
Bộ máy quan liêu hành chính và chuyên môn cũng được kiện toàn
từng bước. Năm 1471, Lê Thánh Tông đã tiến hành một đợt cải cách hành chính lớn
nhằm tăng cường sự kiểm soát chỉ đạo của Hoàng đế đối với các triều thần, tăng
cường sự ràng buộc, kiểm soát lẫn nhau trong giới quan liêu, tăng cường tính hiệu lực
và hiệu quả của bộ máy quan lại.
Trong triều đình, dưới quyền điều khiển trực tiếp của nhà vua là 6 bộ: Lại,
Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công, đứng đầu là Thượng thư.
Về mặt hành chính, Lê Thái Tổ chia nước thành 5 đạo. Lê Thánh Tông đã
cải tổ lại, chia thành 13 đạo.
Riêng kinh thành Thăng Long được chia thành 36 phường.
2.2.2. Quân đội
Quân đội thời Lê sơ là một quân đội mạnh, được huấn luyện kỹ, có nhiều
kinh nghiệm chiến đấu. Sau cuộc kháng chiến chống Minh thắng lợi, Lê Lợi có 35 vạn
quân, sau khi cho giải ngũ, còn 10 vạn.


Quân đội được chia thành cấm binh và ngoại binh. Lê Thái Tổ chia quân
thành 5 phiên. Cũng như thời Lý - Trần, nhà Lê đã áp dụng chính sách "ngụ binh ư
nông", cho quân lính thay phiên về làm ruộng.
Vũ khí, ngoài giáo mác, cung tên, có hỏa pháo và hỏa đồng.
Chế độ tập luyện quy củ.

Lực lượng quân đội không chỉ hoàn thành sứ mệnh bảo vệ độc lập dân
tộc mà còn tạo điều kiện thuận lợi thực hiện đường lối đối ngoại vừa mềm dẻo
vừa cứng rắn nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia và giao hảo với các nước láng
giềng.
2.2.3. Luật pháp

Trong việc trị nước, bên cạnh lễ giáo, các vua thời Lê sơ rất chú trọng đến
việc chế định pháp luật.
Lê Thánh Tông nói: "Pháp luật là phép công của nhà nước, vua cùng quan đều
phải theo".
Đến thời Hồng Đức, Lê Thánh Tông đã cho ban hành bộ luật thành văn hoàn
chỉnh, gồm 722 điều, được gọi là Quốc triều hình luật hay Bộ luật Hồng Đức, sẽ được
duy trì và bổ sung ở các thế kỷ sau.
Về hình thức, đó là bộ luật hình sự nhưng thực chất là bộ luật tổng hợp, có các
điều khoản về điền sản, dân sự, hôn nhân gia đình...
Nội dung cơ bản của Bộ luật là bảo vệ vương quyền, chế độ quan liêu, trật
tự đẳng cấp, gia đình phụ hệ gia trưởng và ý thức hệ Nho giáo.
Bộ luật mang tính đẳng cấp, có mô phỏng luật Trung Quốc, nhưng đã lưu ý
đến những tập quán cổ truyền mang tính dân tộc.
Quyền lợi của phụ nữ đã được chú trọng trong việc thừa kế gia tài và xét xử
ly hôn, được coi là tiến bộ hơn so với luật Trung Quốc đương thời.

Quốc triều hình luật – nội dung rất rộng, bao gồm:
- Luật Hình sự
- Hành chính
- Tố tụng
- Dân sự


- Quân đội
- Luật quốc tế
 Nội dung nhằm bảo vệ quyền thống trị của Nhà nước tập quyền
chuyên chế, bảo vệ quyền lợi của GC địa chủ nhưng cũng tiến bộ hơn so với
thời đại thể hiện ở tinh thần nhân đạo, khoan dung, tôn trọng quyền lợi phụ nữ...
còn có nhiều nét mới khiến nhiều luật gia phương Tây hết sức khâm phục.
2.2.4. Củng cố chính quyền dân tộc

Với lòng tự hào dân tộc, các vua thời Lê sơ đã không ngừng củng cố, phát
triển quốc gia dân tộc thống nhất.
Lê Thánh Tông nói: "Quyết không để một tấc đất, một thước sông của Thái
Tổ lọt vào tay kẻ khác".
Thi hành chính sách hòa hoãn nhưng kiên quyết với nhà Minh trong vấn đề
biên giới, phát triển lãnh thổ về phía tây và phía nam.
Năm 1471, Lê Thánh Tông đánh Cham pa, lập thừa tuyên Quảng Nam. Từ đó
các nước trong khu vực (như Xiêm La, Miến Điện) đều đến triều cống.
Để khống chế các tù trưởng thiểu số, triều đình nhà Lê đã áp dụng những
biện pháp kết hợp trấn áp với phủ dụ.
Nhà vua cũng cho điều tra và lập sổ hộ tịch, khảo sát địa hình, lập bản đồ
hành chính quốc gia (bản đồ Hồng Đức năm 1469), đề cao, tôn vinh truyền thống dân
tộc và các danh nhân lịch sử - văn hoá. Ở thế kỷ XV, Đại Việt đã trở thành một quốc
gia có uy thế trong khu vực Đông Nam Á.

 Như vậy Đại Việt thế kỉ XV là quốc gia hùng mạnh bậc nhất ở
ĐNA. Tổ chức chính quyền là tổ chức quân chủ TW tập quyền lần đầu
tiên trong LSVN, mang tính quy mô và chặt chẽ: chế độ QC chuyên chế
quan liêu.
2.3. Tư tưởng Nho giáo – Cơ sở cho hệ tư tưởng và đạo đức phong kiến
2.3.1. Sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam thời Bắc thuộc
- Thời gian: từ thời Tây Hán (trước CN), nhưng từ thời Đông Hán mới có tài liệu nói
về vấn đề này.


- Mục đích: đào tạo những người giúp việc cho chính quyền thực dân; cải đổi phong
tục, tập quán của nhân dân ta.
- Hệ quả: một bộ phận làm việc cho chính quyền đô hộ; phần lớn học là để kiếm thêm
kiến thức, không chịu hợp tác với chính quyền đô hộ, tham gia khởi nghĩa chống Bắc
thuộc.

Như vậy từ phản ứng đến tiếp thu, xa lạ đến gần gũi, từ công cụ của kẻ xâm
lược biến thành công cụ chống xâm lược của nhân dân thuộc địa, Nho giáo đã thấm
dần vào xã hội Việt Nam và trở thành hệ tư tưởng chính trị của giai cấp thống trị.
2.3.2. Sự phát triển bước đầu của Nho giáo ở Việt Nam thời Lí – Trần.
Chính quyền Khúc, Dương, Ngô, Đinh, Tiền Lê – Nho giáo chưa phát triển
đáng kể, nền giáo dục khoa cử Nho học chưa ra đời.
Thời Lý:
Lập Văn Miếu 1070
Mở trường Quốc Tử giám 1076 đào tạo Nho sĩ thì giới nghiên cứu Nho
học ra đời và ngày càng lớn mạnh.
Mục đích: củng cố nhà nước tập quyền và trật tự xã hội phong kiến nên
tư tưởng Nho học sớm được các nhà chính trị vận dụng, biểu hiện như: chiếu dời đô
1010 của Lý Công Uẩn; Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt.
Nho giáo giành được một chỗ đứng nhất định trong xã hội lúc bấy giờ vì nó
cung cấp cho nhà cầm quyền một hệ thống lí luận và những bài học kinh nghiệm.
Thời Trần, ảnh hưởng Nho giáo mạnh mẽ và sâu sắc vì:
-

Sự mở rộng của giáo dục và khoa cử Nho học
Để giành thắng lợi cho hệ tư tưởng của mình, các nhà Nho đã công kích
Phật giáo, phê phán các biểu hiện thoái hoá trong đạo đức của một số tăng

-

sư.
Hạn chế: Nho giáo đã bộc lộ tư tưởng giáo điều nên xuất hiện xu hướng
chống giáo điều và muốn sửa chữa, uốn nắn những nguyên lý, tín điều
của Nho giáo, tiêu biểu là Hồ Quý Ly.

Hồ Quý Ly tiếp thu Nho giáo có phê phán như đánh giá lại Khổng Tử, hoài

nghi một số điểm trong sách Luận ngữ và phê phán Tống Nho.
2.3.3. Sự thịnh đạt của Nho giáo ở Việt Nam thời Lê Sơ.
Vì sao Nho giáo thịnh đạt thời Lê sơ?


-

Nhà Lê thành lập trên cơ sở Nho giáo thắng thế, chiếm giữ vai trò chính

-

thống.
Yêu cầu xây dựng nhà nước TW tập quyền chuyên chế quan liêu nên phải

-

sử dụng triệt để Nho giáo.
Nhà Lê sơ đã làm gì để củng cố Nho giáo trong nhân dân?
Ban hành “24 điều giáo huấn” để củng cố quan hệ Nho giáo trong gia đình,
tông tộc, xóm thôn
Nho giáo thịnh đạt đưa đến hệ quả gì?

-

Giáo dục và khoa cử được đề cao.
Cách thi và hệ thống học vị hoàn chỉnh.
Một số định lệ mới được đặt ra như lệ xướng danh, lệ vinh quy và lệ khắc

-


bia Tiến sĩ ở Văn Miếu.
Số người đi học và đi thi khá đông.
Nhiều khoa thi Hội ở Kinh đô số sĩ tử lên đến 4 -5 nghìn người.
Nho giáo thấm nhuần sâu sắc trong tầng lớp trí thức và quan liêu.
Ăn sâu trong đời sống chính trị quốc gia.
Phật, Đạo giáo chỉ còn là các tôn giáo dân gian.
Quan trọng nhất là, đường lối trị nước của Nho giáo đã đem lại sự thịnh trị
cho triều Lê “nhà Nam, nhà Bắc đều no đủ, lừng lẫy cùng ca khúc thái
bình”.

Sự độc tôn Nho giáo đưa đến hậu quả gì? Tạo mầm cho xu hướng kinh viện
phát triển, tuy nhiên thời Lê sơ còn có một xu hướng Nho giáo thực tiễn – đặt niềm tin
ở dân tộc, lấy con người, lấy nhân dân làm gốc – đại diện là NGUYỄN TRÃI.
2.3.4. Sự suy yếu của Nho giáo ở Việt Nam thời Lê mạc – Lê Trung hưng
Nguyên nhân suy yếu của Nho giáo?
-

Giai cấp thống trị nhà Lê thối nát, thối hoá, làm cho ý thức trung quân bị
lung lay, nội chiến bùng phát, cuối cùng là phế truất Vua. Hệ tư tưởng Nho

-

giáo kéo dài.
Mạc Đăng Dung cướp ngôi, làm cho nhiều nhà Nho phải suy nghĩ và lựa
chọn:
. Phù Lê chống Mạc
. Hợp tác với Mạc
. Không hợp tác với thế lực nào, mà lấy việc trau dồi văn chương, ẩn dật
làm vui – Nguyễn Bỉnh Khiêm.


Nho giáo thời này có gì khác so với thời Lê sơ?
-

Không còn thuần nhất như thời Lê sơ.


-

Kết hợp với các luồng tư tưởng khác như:
. Với tư tưởng Lão – Trang, tiêu biểu là Nguyễn Bỉnh Khiêm
. Với Đạo giáo, có Nguyễn Dữ.
. Với Phật giáo, có Ngô Thời Nhậm.
. Với Pháp gia, có Lê Quý Đôn

Xu hướng lớn của Nho giáo trong thời kì này?
“Tam giáo đồng nguyên”
2.3.5. Sự phục hưng của Nho giáo ở Việt Nam dưới triều Nguyễn
Những chính sách của nhà Nguyễn nhằm phục hưng Nho giáo?
-

Triều Nguyễn chấn chỉnh lại giáo dục và Minh Mạng ban hành “10 điều

-

huấn dụ”.
Lịch sử đặt ra cho Nho giáo 3 nhiệm vụ lớn cần giải quyết:
. Cuộc đấu tranh giữa chính – tà đạo.
. Duy tân – thủ cựu.
. Chiến – hoà.
Nếu giải quyết được thì chứng minh được sức sống của Nho giáo, còn

không thì nước mất, dân làm nô lệ, cả giai cấp thống trị triều Nguyễn chấm
dứt vai trò lịch sử. Cuối cùng hệ tư tưởng Nho giáo ở Việt Nam sụp đổ.

CHƯƠNG 3: SỰ KHỦNG HOẢNG CỦA CHẾ ĐỘ PHONG
KIẾN VIỆT NAM.
3.1. Biểu hiện của sự khủng hoảng trên các phương diện: kinh tế, chính trị, xã
hội.
Cuộc khủng hoảng bắt đầu ở Đàng Ngoài
3.1.1. Kinh tế suy thoái, đời sống nhân dân ngày càng cực khổ
Sau khi chiến tranh Trịnh Nguyễn chấm dứt, xã hội Đàng Ngoài trở lại yên
bình nhưng chính sách phong thưởng và ban cấp ruộng đất cho công thần, quan tướng,
theo đó là tình trạng chấp chiếm ruộng đất của giai cấp địa chủ, cường hào; tệ tham
nhũng; chính sách ức thương… đưa đất nước dần dần đi vào khủng hoảng.
Sự chiếm đoạt ruộng đất của GC địa chủ:
Nhà nước chỉ đánh thuế ruộng đất công.
Bọn cường hào địa chủ địa phương tìm mọi cách chiếm đoạt ruộng tư của dân
và còn lũng đoạn ruộng đất công vốn đã bị nhà nước cắt xén rất nhiều.


Cuối XVII đầu XVIII đã xảy ra 9 -10 nạn đói lớn, hình thành hàng loạt địa chủ
lớn có hàng trăm mẫu ruộng, thậm chí có người có đến 3000 mẫu. Tình hình căng
thẳng đến mức phải kêu lên “Ruộng đất rơi hết vào nhà hào phú, còn dân nghèo thì
không có một miếng đất cắm dùi”.
Ở miền thượng du “bọn quyền thế làm văn khế giả để chiếm ruộng nên dân
muốn cày cấy mà không có đất”. Nông dân nghèo bỏ làng đi lưu tán ngày càng nhiều,
cuộc sống của họ “ngày càng khốn khổ tiều tuỵ”.
Ruộng công còn lại không nhiều, 1711 chúa Trịnh cho sửa chữa và bổ sung
phép quân điền thời Hồng Đức nhưng không có tác dụng đáng kể.
Một hiện tượng đáng lưu ý là do hậu quả của chiến tranh, nhiều người đã cúng
ruộng đất tư của mình cho làng hay cho các chùa để được thờ cúng sau khi chết. Làng

xã trở thành chủ một số diện tích ruộng đất đáng kể. Tình hình gia tăng và chiếm ưu
thế của ruộng tư, 1722 chúa Trịnh thực hiện cải cách chế độ tô thuế, bắt đầu đánh thuế
ruộng tư, tuy nhiên lại miễn thuế ruộng tư cho quan lại theo thứ bậc.
Ruộng tư của địa chủ, quan lại tiếp tục tăng, cuộc sống của nông dân vẫn khổ
cực, đối kháng giai cấp trở nên quyết liệt.
Thuế khoá nặng nề, quan lại tham nhũng:
Bộ may quan lại thời Lê – Trịnh đầu XVIII không còn như trước nữa, số lượng
quan lại tăng, bộ máy cồng kềnh…
Nhu cầu chi tiêu tăng lên trong khi đói kém liên miên, nhân dân không nộp
được thuế phải bỏ làng đi lưu tán ngày càng nhiều.
Nhà nước đặt lệ mua bán quan chức để thu thóc, tiền.
Sự suy đồi của khoa cử như mua quan bán tước, ai nộp 3 quan thì được miễn
khảo hạch để vào thi Hương, kết quả là hàng loạt quan lại tham nhũng, dốt nát…
Trong xã thôn, tệ tham nhũng ngày càng trầm trọng, bọn cường hào, địa chủ
mặc sức hà hiếp, đục khoét nhân dân không ai ngăn được.
Ngoài ra các Chúa cũng góp thêm phần làm khổ nhân dân bằng xây dựng các
công trình.
Đời sống nhân dân sa sút nghiêm trọng:
Do bất lực trong việc quản lí và bảo vệ các công trình thuỷ lợi, nhà nước đành
phải bỏ mặc cho quan lại địa phương thu tiền của dân, tha hồ nhũng nhiễu, hạch sách


nhân dân, tham ô, vơ vét tiền của….lụt lội, mất mùa liên tiếp xảy ra, đói kém liên
mien.
Nạn đói kéo dài trầm trọng, ngoài ra chính sách thuế thổ sản của nhà nước cũng
là một nguyên nhân đẩy nhân dân đến cực khổ.
Làng xóm điêu tàn, kinh tế suy sụp, sức sản xuất bị tàn phá. Người nông dân
lưu tán hoặc chết đói, tha phương cầu thực. Cuối cùng khi không còn cách nào tự cứu
nữa “tức nước vỡ bờ”, họ đành nổi dậy cầm giáo mác, gậy gộc chống lại nhà nước
PK, GC địa chủ cường hào.

3.1.2. Phong trào nông dân bùng lên rầm rộ
Những cuộc khởi nghĩa đầu tiên:
Cuối XVII – đầu XVIII, nông dân nhiều nơi nổi dậy cướp phá các nhà giàu
nhưng cuối những năm 30 do hậu quả của các nạn đói nên các cuộc khởi nghĩa liên
tiếp xảy ra.
Các cuộc khởi nghĩa đầu tiên của nhà sư Nguyễn Dương Hưng, mặc dù thất bại
nhưng cuộc đấu tranh của nông dân vẫn tiếp tục ngày càng mảnh liệt.
Phong trào nông dân bùng lên rầm rộ:
Từ cuối 1739 các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra rầm rộ khắp Đàng Ngoài như
khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu, Hoàng Công Chất, Lê Duy Mật...
Trong khi các chúa Nguyễn ra sức đàn áp phong trào nông dân nên hầu hết các
phong trào đều thất bại.
Những cuộc khởi nghĩa tiêu biểu:
-

Khởi nghĩa của Nguyễn Danh Phương (1740 – 1751).
Khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu (1741 – 1751).
Khởi nghĩa của Hoàng Công Chất (1739 – 1769).
Nổi dậy của Lê Duy Mật (1738 – 1770).

Nhận xét chung:
Là lần đầu tiên trong LSVN bùng lên phong trào nông dân rộng khắp, rầm rộ
và kéo dài hàng chục năm. Không chỉ lôi cuốn nông dân nghèo ở miền xuôi mà còn
lôi cuốn hàng vạn dân tộc ít người.
Các cuộc khởi nghĩa không chỉ bao gồm nông dân nghèo mà còn có những tri
thức Nho học, quan lại nhỏ.


Mục tiêu đấu tranh chưa phải là đòi ruộng đất, đòi lật đổ CĐPK mà chỉ mới đòi
“Ninh dân”, “lấy của nhà giàu chia cho người nghèo”.

Phong trào có tính chất phân tán nên triều đình đã bẻ đũa từng chiếc, cuối cùng
đi đến thất bại.
Mặc dù thất bại nhưng đó là hồi chuông báo động của khủng hoảng của CĐPK
đàng Ngoài, chuẩn bị tiền đề cho thắng lợi của phong trào Tây Sơn sau này.
Cuộc khủng hoảng ở Đàng Trong:
Giữa TK XVIII, đàng Trong cũng bắt đầu khủng hoảng
Chấp chiếm ruộng đất thường xuyên xảy ra, có người đem bán hoặc cầm cố, bỏ
hoang, số còn lại bị bọn nhà giàu xâm chiếm khiến người nghèo không có mảnh đất
cắm dùi, cho nên người giàu càng giáu, người nghèo càng nghèo.
Ơ Gia Định, đất đai rộng lớn, trù phú, người ít nhưng phần lớn nằm trong tay
địa chủ, nông dân nghèo vẫn phải cày thuê cuốc mướn hoặc đi khai hoang ở các vùng
xa.
Chế độ tô thuế nặng nề và phiền phức “hàng năm có 100 thứ thuế mà trưng thu
thì phiền phức, gian lận, nhân dân khổ vì nỗi một cổ hai tròng”.
Thương nghiệp, thủ công nghiệp cũng sút kém dần so với trước, ngoại thương
kém phát triển do thuyền bè nước ngoài đến thưa thớt mà sự hạch sách càng cao. Các
đô thị như Hội An, Thanh Hà, Bến Nghé cũng tàn lụi dần.
Nội bộ chính quyền phân chia bè cánh, đói kém xảy ra, 1752 một nạn đói lớn
xảy ra, dân bị đói rất nhiều “gạo đắt như vàng”, xác chết chồng chất lên nhau. Vì vậy
nông dân đã nổi dậy đấu tranh, cuộc khởi nghĩa lớn nhất là cuộc khởi nghĩa của chàng
Lía. Nghĩa quân đánh giết bọn cường hào, lấy của cải phân phát cho dân nghèo, nghĩa
quân bị đàn áp, Lía chết nhưng hình ảnh của anh mãi khắc sâu trong lòng nhân dân
“Chiều chiều én liệng Truông Mây
Cảm thương chú Lía bị vây trong thành”
Chế độ PK Đàng Trong bước vào giai đoạn suy tàn, chuẩn bị cho một cuộc
khởi nghĩa nông dân vĩ đại làm rung chuyển cả đất nước.
3.2. Phong trào nông dân khởi nghĩa.
Đỉnh cao nhất của phong trào nông dân TK XVIII là phong trào Tây Sơn
Quá trình chuẩn bị:



Tổ tiên của 3 anh em Tây Sơn là người họ Hồ ở Nghệ An, trong cuộc phân
tranh Trịnh – Nguyễn, tổ tiên Tây Sơn đã bị cưỡng ép vào Nam và định cư ở Tây Sơn,
dần dần họ đã có cuộc sống ổn định.
Nhờ gia đình khá giả, cả 3 anh em đều được học hành và trưởng thành – cũng
là lúc bộ máy chính quyền họ Nguyễn đang trên đường suy vong, mâu thuẫn XH gay
gắt. Nhận lấy lòng dân oán giận, hơn nữa bản thân bị chèn ép nên Nguyễn Nhạc cùng
Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ ráo riết chuẩn bị khởi nghĩa.
Quá trình chuẩn bị rất công phu:
Bằng những biện pháp khôn khéo, NNhạc tạo ra được sự đồng lòng nhất
trí trong đa số đồng bào bị áp bức ở vùng Tây Sơn.
Chiêu tập các bậc anh hùng hào kiệt bốn phương, có cả địa chủ, hào
phú, thương nhân...trong thời gian ngắn đã quy tụ được hàng ngàn người.
Chuẩn bị khẩu hiệu đấu tranh: “đánh đổ quyền thần Trương Phúc Loan
và ủng hộ Hoàng Tôn Dương”, nêu cao khẩu hiệu “lấy của nhà giàu chia cho người
nghèo”. Đó là khẩu hiệu chiến lược và xuyên suốt toàn bộ quá trình phát triển của
phong trào Tây Sơn
Đến 1771 công việc chuẩn bị đã tạm ổn, NNhạc phát lệnh khởi nghĩa.
Các giai đoạn phát triển:
Giai đoạn thứ nhất: khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ và nghĩa quân Tây Sơn chiến
đấu với nhiệm vụ chủ yếu là lật nhào toàn bộ cơ đồ thống trị của họ Nguyễn ở Đàng
Trong. Gồm 3 chặng
Chặng 1: 1771 – 1774 - Tây Sơn giành thắng lợi và làm chủ toàn bộ miền đất
từ Phú Yên đến hết Quảng Nam.
Chặng 2: 1774 – 1776
1774 quân Trịnh chiếm Phú Xuân, chúa Nguyễn chạy vào Gia Định.
1775 quân Trịnh đánh vào Quảng Nam, Tây Sơn tạm thời hoà hoãn với Trịnh
để đối phó với chúa Nguyễn. Sau khi yên mặt Bắc, Tây Sơn 5 lần tấn công vào Gia
Định.
Chặng 3: 1776 – 1784 – Tây Sơn 5 lần tấn công vào Gia Định và đều giành

được thắng lợi. Nhưng đã bộc lộ 2 hạn chế: các lãnh tụ Tây Sơn bị phong kiến hoá


quá sớm; đánh giá sai vị trí chiến lược quan trọng của Gia Định, thiếu quyết tâm và kế
hoạch giữ vững vùng đất này.
Giai đoạn thứ hai 1784 - 1789: Tây Sơn đồng thời thực hiện 2 nhiệm vụ lớn
khác nhau. Một là, tiếp tục đẩy mạnh và mở rộng quy mô của cuộc đấu tranh chống
GCPK trên cả nước. Hai là, đảm nhận sứ mệnh lịch sử bảo vệ độc lập dân tộc. Có
mấy vấn đề nổi bật sau:
Tấn công ra Bắc, tiêu diệt họ Trịnh
Đánh bại quân Xiêm, Thanh.
Giai đoạn thứ 3: 1789 – 1801 Tây Sơn tồn tại với 3 hệ thống chính quyền khác
nhau.
Cải cách của Quang Trung:
Về chính trị:
-

Trấn áp bọn phản loạn, giữ vững yên bình cho đất nước.
Chuẩn bị dời đô từ Phú Xuân ra Nghệ An
Xây dựng bộ máy chính quyền mới.
Về quân sự:
Xây dựng đội quân hùng hậu với nhiều loại vũ khí tối tân, có cả đại bác.
Để tuyển quân, cho lập sổ hộ khẩu và quy định cứ 3 suất đinh tuyển một

-

suất lính.
Về kinh tế:
1789 xuống chiếu khuyến nông, cấm các làng xã bỏ ruộng hoang.
Huỷ bỏ chính sách ức thương

Thủ công nghiệp được chăm lo phát triển.
Về tài chính:
Chế độ thuế khoá đơn giản
Giảm bớt 1 số thuế.
Về văn hoá, giáo dục:
Ban chiếu lập học – mở trường học đến tận cấp xã, những đền chùa nào

-

hoang phế thì sử dụng làm nhà trường.
Chuẩn bị kế hoạch giáo dục nhằm gạt bỏ lối học sáo rỗng.
Thải hồi những chức tước và học vị do mua bán mà có
Đề cao chữ Nôm và đưa chữ Nôm lên địa vị chữ viết chính thức của quốc

-

gia.
Về đối ngoại: Đối với nhà Thanh, thực hiện chính sách uyển chuyển.
Chính sách bang giao vừa mềm dẻo vừa kiên quyết có tác dụng bước
đầu khôi phục lại uy danh cho đất nước.


3.3. Nhà Nguyễn – Triều đại cuối cùng đưa chế độ phong kiến Việt Nam khủng
hoảng và tan rã.
3.3.1. Chính trị
Tổ chức bộ máy nhà nước:
-

Năm 1802, Gia Long xây dựng nhà nước theo chế độ quân chủ chuyên chế,


-

trung ương tập quyền với mức độ chuyên chế cao hơn.
“Lệ tứ bất” được thực hiện – không lập hoàng hậu, không đặt tể tướng,
không lấy trạng nguyên, không phong vương cho người ngoài họ. Nhà Vua

-

nắm quyền phê chuẩn mọi việc.
1831 – 1832 nhằm thống nhất phân chia các đơn vị hành chính, Minh Mạng

-

thực hiện cuộc cải cách hành chính.
Ban đầu, quan lại chủ yếu là những người tham gia chống Tây Sơn, có cả
người Pháp, một số cựu thần nhà Lê. Về sau, qua các kì thi, những người đỗ

-

đạt được đưa vào làm quan.
Quan lại hưởng lương theo phẩm hàm, mặc dù lương bổng đầy đủ nhưng
quan lại thời Nguyễn vẫn giữ nguyên tệ tham nhũng, hối lộ “dân chúng vô
cùng đói khổ, vua quan bóc lột thậm tệ, công lí là món hàng mua bán”.
Minh Mạng kêu lên “Quan lại coi pháp luật như hư văn, xoay sở nhiều

-

vành, chỉ cốt lấy tiền, không được thì buộc tội”.
Nhân dân thì bất bình than thở:
“Con ơi Mẹ bảo con này

Cướp đêm là giặc cướp ngày là quan”
Luật pháp và quân đội:
Trong những năm đầu, Gia Long cho quan tham khảo luật Hồng Đức, soạn

-

ra 15 điều để ban hành.
1811 Nguyễn Văn Thành được lệnh soạn thảo bộ luật mới trên cơ sở tham

-

khảo bộ Đại Thanh luật lệ.
1815 bộ luật Hoàng Triều luật lệ được ban hành.
Quân đội xây dựng nghiêm chỉnh gồm 3 thứ quân là thân binh, cấm binh và

-

điền binh. Được trang bị một số súng tay, nhiều loại chiến thuyền
Chế độ binh dịch khá nặng nề.

Chính sách đối ngoại
Đối với các nước láng giềng:
Đối với nhà Thanh:


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×