Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA QUYỀN CON NGƯỜI TRONG HIẾN PHÁP 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.98 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC..................................................................................................................1

1


A. Lời mở đầu
Thế giới càng văn minh và tiến bộ thì “quyền con người” ngày càng được xem
trọng và mở rộng hơn. Bởi khi con người sinh ra, ai cũng muốn mình được tự do,
hạnh phúc, được sống với những khát khao tươi đẹp, an lành. Ngày nay, điều ấy
không còn là mong muốn của riêng ai mà đã trở thành nhu cầu thiết yếu của toàn xã
hội. Chính vì vậy, việc “quyền con người” được pháp luật Nhà nước bảo đảm thực
hiện là rất chính đáng và cấp thiết, đặc biệt nó được ghi nhận trong Hiến pháp –
đạo luật cơ bản của một quốc gia. Đất nước ta đã trải qua lịch sử đấu tranh anh
dũng trường kì, xây dựng và phát triển đất nước cùng với các bản Hiến pháp năm
1946, 1959, 1980, 1992, và 2013. Trong mỗi giai đoạn lịch sử ấy, các bản Hiến
pháp đã ghi dấu lại sự tôn trọng và bảo vệ “quyền con người”. Trên cơ sở nhận
thức pháp lý ngày càng sâu sắc và thực hiện công ước quốc tế về “quyền con
người” mà Việt Nam của chúng ta đã kí kết hoặc tham gia, Hiến pháp 2013 một lần
nữa khẳng định việc thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ “quyền con người” một cách
mạnh mẽ, rõ ràng và hiện đại nhất so với các bản Hiến pháp trước đó.
Trên cơ sở tiếp thu bài học và tiếp cận tài liệu tham khảo, chúng em đã quyết
định chọn đề tài “Quyền con người trong Hiến pháp 2013 – Nội dung và ý nghĩa”
nhằm làm rõ về sự tiến bộ, đổi mới rõ ràng về vấn đề trên.

2


B. Nội dung
I. Những vấn đề chung
1. Khái niệm: quyền con người


a. Định nghĩa
Quyền con người được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và
khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các
thỏa thuận pháp lý quốc tế.
b. Đặc điểm
Tính phổ biến của quyền con người: tính phổ biến thể hiện ở chỗ quyền con
người là những quyền thiên bẩm, vốn có của con người và được thừa nhận cho tất
cả mọi người trên trái đất, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, giới tính, quốc tịch,
địa vị xã hội, giới tính.
Tính không thể chuyển nhượng: các quyền con người được quan niệm là các
quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm như quyền sống, quyền tự do và
mưu cầu hạnh phúc. Các quyền này gắn với cá nhân mỗi một người và không thể
chuyển nhượng cho bất kì người nào khác.
Tính không thể phân chia: các quyền con người gắn kết chặt chẽ với nhau,
tương hỗ lẫn nhau, việc tách biệt, tước bỏ hay hạn chế bất kì quyền nào đều tác
động tiêu cực đến giá trị nhân phẩm và sự phát triển của con người.
Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau: các quyền con người dù là các quyền dân
sự, chính trị hay các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa cũng đều có mối liên hệ và phụ
thuộc lẫn nhau.
2. Ghi nhận của thế giới về quyền con người
Quyền con người là thành tựu chung của loài người, kết quả của cuộc đấu tranh
gian khổ chống lại áp bức bất công vì tự do, bình đẳng, hạnh phúc, được ghi nhận
trong nhiều văn bản pháp lý.
3


a. Quyền con người trong hiến chương Liên hợp quốc
Là văn bản quốc tế quan trọng ghi nhân về quyền con người trong đó có điều
khoản bảo vệ và thực hiện “quyền con người cho tất cả mọi người”. Hiến chương
đặt nền móng đầu tiên thiết lập cơ chế pháp lý bảo vệ quyền con người trên thế

giới. Hiến chương kêu gọi tất cả các nước hành động phối hợp với Liên hợp quốc
để đạt được việc tôn trọng và thực hiện quyền con người trên thế giới.
b. Tuyên ngôn thế giới về quyền con người
Tuyên ngôn khẳng định rằng: Tất cả mọi người, không phân biệt, sinh ra đều
tự do, bình đẳng về phẩm giá và các quyền và nhấn mạnh các nguyên tắc cơ bản
của sự bình đẳng, không phân biệt trong việc hưởng các quyền tự do cơ bản. Mười
chín điều tiếp theo (từ điều 3 đến điều 21) quy định các quyên dân sự và chính trị
mà con người phải được hưởng. Bảy điều cuối (từ điều 22 đến điều 28) của Tuyên
ngôn đề cập đến các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa.
c. Quyền con người trong các bản hiến pháp tiến bộ
Trong “Tuyên ngôn độc lập” của Mỹ năm 1776 đã khẳng định rằng rẳng: “Tất
cả mội người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không
ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do
và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Trong “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của Pháp năm 1789 một lần
nữa khẳng định rằng: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải
luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Sự khác biệt xã hội chỉ có thể
được thiết lập trên cơ sở lợi ích chung”. Ngoài ra quyền con người đã được nhận
thức, ghi nhận trong nhiều tác phẩm - văn bản khác như: Bộ luật Hammurabi, Trụ
Cyrus, Hiến chương Magna Carta, các tài liệu tôn giáo,…
Như vậy, quyền con người tuy được ghi nhận trên thế giới theo nhiều cách
khác nhau nhưng tựu chung lại đều thể hiện được các quyền con người cơ bản,
thiêng liêng nhất, mang tính chính trị sâu sắc nhưng cũng thấm đẫm tính nhân
văn cao cả.
4


II. Quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam 2013
1. Nội dung
1.1 Vị trí quyền con người trong Hiến pháp 2013

Trong Hiến pháp 2013, quyền con người được quy định trong chương II:
“Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” gồm 36 điều (từ điều
14 đến điều 49), Hiến pháp đã dành 21 điều quy định về quyền con người. Điều đó
cho thấy Quyền con người có vai trò quan trọng trong bản Hiến pháp này.
1.2 Tách biệt rõ ràng quyền con người và quyền công dân
Tại khoản 1 Điều 14 Hiến pháp 2013 khẳng định “ Ở nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp
luật”. Quy định này thể hiện sự phát triển quan trọng về nhận thức và tư duy trong
việc ghi nhận quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp.
Hiến pháp năm 2013 đã có sự phân biệt giữa “quyền con người” và “quyền
công dân”. Theo đó, quyền con người được quan niệm là quyền tự nhiên vốn có
của con người từ lúc sinh ra. Còn quyền công dân, trước hết cũng là quyền con
người, nhưng việc thực hiện nó gắn với quốc tịch, tức là gắn với vị trí pháp lý của
công dân trong quan hệ với nhà nước. Hiến pháp 2013 đã sử dụng từ “mọi người”
khi thể hiện quyền con người và dùng từ “công dân” khi quy định về quyền công
dân. Còn Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) đã thừa nhận thuật ngữ "quyền
con người" thông qua quy định “…các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh
tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng và thể hiện ở các quyền quyền công dân và
được quy định trong Hiến pháp và pháp luật ” tại Điều 50. Tuy nhiên, Hiến pháp
này lại chưa phân biệt rạnh ròi được quyền con người với quyền công dân. Việc
không phân biệt một cách rõ ràng giữa quyền con người và quyền công dân có thể
sẽ dẫn đến việc thiếu hiểu biết về quyền con người như là quyền “của công dân
toàn cầu”, trong khi đó quyền công dân chỉ là quyền xác định trong một quốc gia.
5


Quyền con người có phạm vi chủ thể rộng hơn quyền công dân và được pháp luật
quốc tế bảo vệ bên cạnh pháp luật quốc gia.
1.3 Mở rộng nội hàm chủ thể quyền con người

Trong các bản Hiến pháp trước đây, đặc biệt là Hiến pháp 1992, nội hàm của
chủ thể quyền con người chỉ chủ yếu được dừng lại ở khái niệm chủ thể là “công
dân”, mà không phải là “mọi người”. Trong Hiến pháp 2013, các chủ thể quyền
được mở rộng từ việc chỉ thuộc về “công dân” đến “mọi người”, “tổ chức” hay
nhóm xã hội và cộng đồng, đặc biệt những nhóm dễ bị tổn thương như trẻ em,
thanh niên, người cao tuổi.
1.4 Ghi nhận và quy định một số quyền mới của con người
Quyền con người được ghi nhận trong Hiến pháp 2013 như: tại khoản 1
Điều 16 “ Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”; Điều 19 “Mọi người có
quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt
tính mạng trái pháp luật”; một số quyền con người là các quyền mang tính nhân
đạo cũng được Hiến pháp ta ghi nhận: “Người nước ngoài đấu tranh vì tự do độc
lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, dân chủ và hòa bình hoặc vì sự nghiệp khoa học
mà bị bức hại thì được nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho phép
cư trú”. (Điều 44) v.v.
Đồng thời Hiến pháp 2013 đã quy định một số quyền mới của con người
như: "Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân
và bí mật gia đình ..." (Điều 21); "Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã
hội" (Điều 34); "Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hoá,
tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa" (Điều 41); "Mọi
người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi
trường" (Điều 43); Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người, hiến xác (Điều 20) v.v.
Những quy định mới về quyền con người trong Hiếp pháp 2013 thể hiện một
bước tiến mới trong việc mở rộng và phát triển các quyền, phản ảnh kết quả của quá
trình đổi mới hơn 1/4 thế kỷ ở Việt Nam. Nội dung của các quyền con người, quyền
6


và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định trong các điều khác của Hiến pháp
năm 2013 phù hợp với các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là

thành viên, nhất là Công ước quyền con người về chính trị, dân sự và Công ước
quyền con người về kinh tế, văn hóa và xã hội năm 1966 của Liên hợp quốc. Đây
cũng chính là sự khẳng định cam kết mang tính hiến định của Nhà nước ta trước
Nhân dân và trước cộng đồng quốc tế về trách nhiệm tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ và
thúc đẩy quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam1
1.5 Xác định đầy đủ nghĩa vụ của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con
người
Trong khi Điều 50 Hiến pháp 1992 chỉ mới ghi nhận nghĩa vụ tôn trọng thì
Hiến pháp 2013 ghi nhận cả bốn nghĩa vụ của nhà nước về công nhận, tôn trọng,
bảo vệ và bảo đảm (thực hiện) quyền con người trong Điều 3 “Nhà nước bảo đảm
và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và đảm
bảo quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
có điều kiện phát triển toàn diện” và tại khoản 1 Điều 14 “ Ở nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân
sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo
Hiến pháp và pháp luật” tương tự như sự xác định ở Lời mở đầu củaTuyên ngôn
thế giới về quyền con người (năm 1948).
1.6 Quy định về hạn chế quyền con người và quy định nghĩa vụ, trách
nhiệm của mỗi người
Hiến pháp 2013, khoản 2 Điều 14 quy định: “Quyền con người, quyền công
dân chỉ bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, sức khỏa của cộng đồng”. Việc
quy định về hạn chế quyền là cần thiết để đảm bảo quyền con người. Theo nguyên
tắc này, từ nay không chủ thể nào, kể cả các cơ quan nhà nước được tùy tiện cắt xén,
1

Giáo sư Trần Ngọc Đường, Một số nội dung cơ bản của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992

7



hạn chế các quyền con người, quyền công dân đã được quy định trong Hiến pháp.
Cũng từ nguyên tắc này, các quy định liên quan đến các quyền bất khả xâm phạm
của con người, của công dân là các quy định có hiệu lực trực tiếp; chủ thể của các
quyền này được viện dẫn các quy định của Hiến pháp để bảo vệ các quyền của mình
khi bị xâm phạm. Các quyền, tự do cơ bản khác của con người, của công dân và
quyền được bảo vệ về mặt tư pháp cần phải được cụ thể hóa nhưng phải bằng luật do
Quốc hội - cơ quan đại diện quyền lực nhà nước cao nhất của nhân dân ban hành,
chứ không phải quy định chung chung “theo quy định pháp luật” như rất nhiều điều
của Hiến pháp năm 1992 quy định v.v.
Tại Điều 15 Hiến pháp 2013 đã quy định rằng: “Mọi người có nghĩa vụ tôn
trọng quyền của người khác. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không
được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác”. Bên cạnh việc quy định các quyền con người trong 21 điều luật, Hiến pháp
cũng dành 3 điều quy định về nghĩa vụ của con người. Đó là nghĩa vụ bảo vệ môi
trường (Điều 43), nghĩa vụ nộp thuế (Điều 47) và nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và
pháp luật Việt Nam (Điều 48). So với các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 không có
điều nào quy định về nghĩa vụ của con người. Chỉ đến Hiến pháp 1992, lần đầu tiên
trong lịch sử lập hiến Việt Nam có quy định: “Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam
phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam”. Như vậy, đến Hiến pháp 2013,
nghĩa vụ của con người đã được mở rộng hơn, điều đó cho thấy sự tiến bộ về mặt
nhận thức cũng như trách nhiệm của con người trong thời đại mới, con người thể
hiện tính dân chủ rộng rãi đã được hiến định.
2. Ý nghĩa của quyền con người trong Hiến pháp 2013
2.1 Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam đã đưa cách tiếp cận của
thế giới về nhân quyền
Về tên Chương, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, “quyền con người” đã trở
thành tên gọi của Chương thay vì gọi là “quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”
như Hiến pháp năm 1992 và các bản Hiến pháp trước đó.

8


Sự bổ sung cụm từ “quyền con người” là điểm nhấn quan trọng, có ý nghĩa rất
lớn trong bối cảnh xây dựng, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế; mang tính
chất kỹ thuật lập hiến và phản ánh tư duy phát triển, phù hợp với xu hướng của dân
tộc, thời đại và nhân loại. Tên Chương thể hiện sự xóa bỏ ranh giới giữa khái niệm
quyền con người và quyền công dân, điều đó khẳng định việc mở rộng chủ thể
quyền và mọi cá nhân, mọi người đều được hưởng. Thể hiện sự nỗ lực và cam kết
mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện các Công ước quốc tế về
quyền con người mà Việt Nam là thành viên.
2.2 Quyền con người được khẳng định mạnh mẽ
Hiến pháp 2013 đề cao nhân quyền như tổng hòa quyền con người và quyền
công dân, từ đó thể chế hóa quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ công dân, đồng thời
xác lập trách nhiệm bảo đảm những quyền đó được thực hiện trên thực tế của Nhà
nước. Hiến pháp sửa đổi khẳng định Nhà nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân, điều đó được thể hiện rõ trong khoản 1 Điều 14 Hiến pháp 2013
như đã trình bày ở trên.
Sự khẳng định mạnh mẽ về quyền con người còn được thể hiện ở nguyên tắc
hạn chế quyền con người (khoản 2 Điều 14). Như vậy, quyền con người, quyền
công dân là những quyền mà con người, công dân có toàn quyền định đoạt. Đây là
những quyền không thể bị tước đoạt. Chúng chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của
luật (chứ không phải là văn bản dưới luật) trong những trường hợp đặc biệt.
2.3 Bảo đảm thực thi quyền con người trong thực tế
Hiến pháp đã bổ sung một số quyền mới là thành tựu của gần 30 năm đổi mới
đất nước, thể hiện trách nhiệm ngày càng cao của Nhà nước trong việc bảo đảm
thực hiện quyền con người với những thiết chế, cơ chế hiệu lực, hiệu quả. Việc
Hiến định việc kiểm soát quyền lực, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (Khoản 3 Điều 2) chính là

tạo ra cơ chế ngăn ngừa chuyên quyền, lộng quyền, lạm quyền, quan liêu, tham
9


nhũng trong quá trình thực thi quyền lực: “Quyền con người, quyền công dân chỉ
được bảo đảm, bảo vệ có hiệu quả khi ngăn ngừa, kiểm soát được chuyên quyền,
lộng quyền, lạm quyền, quan liêu, tham nhũng”2
Tại Điều 3 Chương I, đã ghi nhận quan điểm, chính sách của Nhà nước Việt
Nam là công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người. Từ đây, đặt ra
nghĩa vụ của tất cả mọi chủ thể ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều
phải công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người.
Các quy định tại Chương III của Hiến pháp sửa đổi về chính sách phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường có vai trò rất
quan trọng đối với thực hiện quyền con người, quyền công dân. Đây chính là điều
kiện để bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân. Cũng lần đầu tiên
trong lịch sử lập hiến nước ta, Hiến pháp trực tiếp quy định nhiệm vụ của Chính
phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân về bảo vệ quyền con người, quyền
công dân – một nhiệm vụ hiến định. Việc quy định các quyền con người trong Hiến
pháp là rất quan trọng, vì đây là cơ sở pháp lý cao nhất để mọi người và mỗi công
dân được hưởng thụ và thực hiện cũng như bảo vệ quyền con người, quyền công
dân. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng hơn là các quyền đó phải được thực thi trong
thực tế. Trong cơ chế thi hành pháp luật hiện nay, nhiều quyền hiến định trong
Hiến pháp sửa đổi có thể vẫn sẽ là quyền hình thức nếu không được thể chế hóa
trong các luật cụ thể. Vấn đề này đặt ra trách nhiệm đối với các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, các tổ chức cần tuyên truyền, phổ biến sâu rộng các quy định của
Hiến pháp sửa đổi về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Đồng thời, rà soát các văn bản hiện hành từ góc độ phù hợp với các quy định của
Hiến pháp về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân để đề xuất
sửa đổi, bổ sung cần thiết; sớm soạn thảo và ban hành các đạo luật về báo chí, về


2

Theo PGS.TS Phạm Hữu Nghị/ Bảo đảm thực hiện quyền con người trong Hiến pháp 2013 – Thu Hằng/ Báo điện
tử Đảng Cộng Sản Việt Nam

10


tiếp cận thông tin, trưng cầu ý dân... để tạo hành lang pháp lý cho con người, công
dân thực hiện ngày càng tốt hơn, đầy đủ hơn các quyền của mình3.
2.4 Thể hiện sự văn minh, tiến bộ dân chủ
Như đã nói ở trên, việc thay đổi tên Chương còn thể hiện sự văn minh, tiến
bộ. “Dân chủ vừa là kết quả, vừa là điều kiện để đảm bảo quyền con người”. Hiến
pháp 2013 kế thừa và phát triển tư tưởng của Hiến pháp 1992 về quyền làm chủ của
nhân dân qua một loại các quy định lời nói đầu. Những quy định này đã cho chúng
ta thấy sự đảm bảo thực hiện của nhà nước của quyền dân chủ nhân dân, thức đẩy
sự phát triển quyền dân chủ nhân dân ở nước ta. Hiến pháp năm 2013 gồm 11
chương, 120 điều. So với hiến pháp 1992 giảm 1 chương, 27 diều, giữ nguyên 7
điều, bổ sung 12 điều mới và sửa đổi 101 điều. Đây là một sự thay đổi lớn, trong đó
sự thay đổi về quyền con người trong hiến pháp 2013 chứa đựng nhiều điểm mới
nhất như đã thể hiện ở mục trên.

C. Kết luận
Như vậy, Hiến pháp 2013 ra đời đã tạo ra một nền tảng pháp lý vững chắc
cho việc thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trên
thực tế. Những điểm mới và sự tiến bộ được quy định trong Hiến pháp về quyền
con người chính là sự tổng kết, chắt lọc từ thực tiễn gần 30 năm đổi mới của nước
ta, thực hiện những cam kết quốc tế và xuất phát từ những đòi hỏi của cuộc sống.
Đồng thời, đã thể chế hóa chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước
về quyền con người, coi con người là chủ thể, là động lực quan trọng của sự phát

triển đất nước trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm hướng đến mục
tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

3

Theo PGS.TS Phạm Hữu Nghị/ Nhân quyền – điểm nhấn trong Hiến pháp sửa đổi – Nguyễn Trần Minh Trí/ Báo
Nhân dân điện tử

11


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật về con người”; Đại học quốc gia
Hà Nội – khoa Luật; Nguyễn Đăng Dung – Vũ Công Giao – Lã Khánh Tùng
(đồng chủ biên); Nxb. CTQG; tr. 142
2. “Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam”; trường Đại học Luật Hà Nội; Nxb.
CAND; Hà Nội – 2015; tr. 247 , tr. 261
3. “Bình luận khoa học Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”;
Nxb. CTQG
4. Website:
5. Website:

12



×