Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

CÔNG TÁC KIỂM KÊ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 52 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
SỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

CÔNG TÁC KIỂM KÊ DI SẢN VĂN HÓA
PHI VẬT THỂ TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Đà Nẵng, tháng 12 năm 2015



MỤC LỤC ............................................................................................................ 1
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 2
1. Lý do kiểm kê................................................................................................. 2
2. Đối tượng và phạm vi kiểm kê ....................................................................... 2
a) Đối tượng kiểm kê: ..................................................................................... 2
b) Phạm vi kiểm kê ......................................................................................... 3
3. Phương pháp kiểm kê..................................................................................... 3
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CÔNG TÁC KIỂM KÊ DI SẢN VĂN
HÓA PHI VẬT THỂ ........................................................................................... 4
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ CHI TIẾT TỪNG LOẠI HÌNH DI SẢN VĂN
HÓA PHI VẬT THỂ ........................................................................................... 6
1. Nhận diện từng loại hình di sản văn hóa phi vật thể...................................... 6
a) Ngữ văn dân gian ........................................................................................ 6
b) Nghệ thuật trình diễn dân gian ................................................................... 8
c) Tập quán xã hội......................................................................................... 10
d) Lễ hội truyền thống................................................................................... 27
e) Nghề thủ công truyền thống...................................................................... 30
f) Tri thức dân gian ....................................................................................... 32
2. Một số di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu………………………………34
CHƯƠNG III: HIỆN TRẠNG VÀ GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT


THỂ..................................................................................................................... 39
1. Đánh giá thực trạng di sản văn hóa phi vật thể ............................................ 39
2. Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể ........................................................... 43
CHƯƠNG IV: GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN
VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ............................................................................... 46
1. Định hướng trong công tác bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng........................................................................................... 46
2. Các giải pháp cụ thể trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hóa phi vật thể đã được kiểm kê ...................................................................... 47


MỞ ĐẦU
1. Lý do kiểm kê
Văn hóa phi vật thể (hay văn hóa vô thể, văn hóa ẩn) là một bộ phận quan
trọng của một nền văn hóa, là sự kết tinh cao độ những giá trị mang bản sắc của
mỗi dân tộc, mỗi vùng miền. Văn hóa phi vật thể nằm trong trí nhớ con người và
thể hiện trong các hành động phong tục, tập quán, nếp sống, cách ứng xử, các
loại hình văn học nghệ thuật. Ngày nay, vai trò của văn hóa phi vật thể trở nên
quan trọng hơn, trước những thay đổi nhanh chóng, mang tính thời đại ở các
phương diện kinh tế - xã hội. Kinh nghiệm xây dựng và phát triển văn hóa – xã
hội ở nhiều nước cho thấy: dân tộc nào giữ được vốn văn hóa phi vật thể thì dân
tộc đó giữ được bản sắc văn hóa của mình.
Những năm gần đây, do hiểu được tầm quan trọng của di sản văn hóa phi
vật thể, Nhà nước ta đã có chủ trương đầu tư kinh phí và chất xám cho hoạt
động sưu tầm và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể. Điều này được cụ thể
hóa ở mục tiêu IV của Chương trình mục tiêu Quốc gia về văn hóa.
Trong công tác quản lý văn hóa – xã hội, việc nắm bắt được thực trạng
cũng như tiềm năng văn hóa nói chung, văn hóa phi vật thể nói riêng một cách
cụ thể và hệ thống sẽ đem lại căn cứ khoa học để các nhà quản lý có thể điều
chỉnh, tác động tích cực đến quá trình xây dựng đời sống văn hóa cho nhân dân

một cách hiệu quả hơn. Riêng đối với thành phố Đà Nẵng, vấn đề văn hóa phi
vật thể được đặt ra một cách cấp bách hơn. Là một thành phố có tốc độ phát
triển kinh tế, cũng như đô thị hóa nhanh nhất cả nước, Đà Nẵng đang phải đối
mặt với nhiều mặt trái không mong muốn của sự phát triển là những biến đổi,
tác động lớn đến diện mạo và cấu trúc của các giá trị văn hóa truyền thống.
Công tác kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể sẽ gi p các tổ chức, cá nhân
làm công tác uản lý di sản và các chủ thể văn hóa có thể nâng cao nhận thức về
di sản và tầm uan trọng của nó đối với các cá nhân và cộng đồng sở hữu, uản
lý. ên cạnh đó, có kế hoạch bảo vệ khẩn cấp đối với các di sản văn hoá phi vật
thể đang bị mất dần và lựa chọn các di sản tiêu biểu có giá trị để lập hồ sơ đề
nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật
thể cấp quốc gia.
2. Đối tượng và phạm vi kiểm kê
a) Đối tượng kiểm kê:
Đối tượng kiểm kê là những di sản văn hóa phi vật thể đang tồn tại trên
địa bàn quận Sơn Trà, bao gồm các loại hình di sản được uy định tại Thông tư
số
2 1 TT- V TTDL ngày 3 tháng năm 2 1 của ộ Văn hoá, Thể
thao và Du lịch. Cụ thể như sau:
- Ngữ văn dân gian;
- Nghệ thuật trình diễn dân gian;
2


- Tập quán xã hội;
- Lễ hội truyền thống;
- Nghề thủ công truyền thống;
- Tri thức dân gian.
Ưu tiên kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể đang bị mai một cần bảo vệ
khẩn cấp.

b) Phạm vi kiểm kê
Về phạm vi kiểm kê, chú trọng khảo sát điểm, lựa chọn các địa bàn được
đánh giá giàu trữ lượng di sản văn hóa ở quận Sơn Trà để triển khai kiểm kê.
3. Phương pháp kiểm kê
Phương pháp tiến hành kiểm kê: Thu thập, nghiên cứu và phân tích các tài
liệu hiện có (sách, báo, tạp chí, chuyên luận...) liên uan đến từng loại hình văn
hoá phi vật thể trên địa bàn; khảo sát điền dã; phỏng vấn, ghi chép, tư liệu hóa
các thông tin thu thập được trong uá trình điền dã; thống kê, phân loại và phân
tích tài liệu thu được tại thực địa từng địa phương (bảng, biểu phỏng vấn, băng
ghi âm, ghi hình...); đồng thời tổng hợp, so sánh, đối chiếu, tư liệu hóa, hệ thống
hóa, thư mục hóa các thông tin, các phiếu kiểm kê và các tài liệu, tư liệu có liên
uan đã thu thập được.

3


CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ CÔNG TÁC KIỂM KÊ DI SẢN
VĂN HÓA PHI VẬT THỂ
Với sự nỗ lực, cố gắng của toàn đội ngũ cán bộ kiểm kê và sự phối hợp
chặt chẽ, nhiệt tình tham gia của cán bộ Ph ng Văn hóa – Thông tin các uận,
cán bộ văn hóa các phường trên địa bàn quận Sơn Trà và đại diện chủ thể di sản
văn hoá, công tác kiểm kê đã đạt được một số kết quả khả quan. Tổng số phiếu
kiểm kê thu được là 28 phiếu. Trong các đối tượng kiểm kê, có nhiều di sản văn
hóa tồn tại như là một phức thể văn hóa với nhiều yếu tố, nhiều loại hình di sản
văn hóa cùng xuất hiện, dẫn đến việc phân chia về mặt loại hình có tính phức
tạp. Với những trường hợp đó, tùy vào tính chất trội của một mặt, một yếu tố
nào đó, để chúng tôi xếp chọn vào loại hình di sản văn hóa phù hợp nhất.
- Về loại hình ngữ văn dân gian
Ngữ văn dân gian là một bộ phận quan trọng của văn hóa dân gian, nó

vừa có tính bản địa sâu sắc, vừa có sự tiếp thu ảnh hưởng từ bên ngoài. Loại
hình này vốn hình thành, tồn tại thông qua hình thức truyền miệng và trí nhớ của
nhân dân, nay chỉ còn rải rác trong dân gian. Cùng với uá trình đô thị hóa đã và
đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, các câu ca dao, tục ngữ, câu đố, truyện dân
gian… đã bị mai một. Ngoài ra, dân cư trên từng địa bàn quận không ổn định, có
sự di cư của các bộ phận người lao động từ nơi khác đến, gây ra sự xáo trộn và
mất dần di sản văn hóa phi vật thể. Số phiếu thu được ở loại hình này chỉ có 03
phiếu.
- Về loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian
Nghệ thuật trình diễn dân gian là một trong những thành tố của di sản văn
hóa phi vật thể. Đó là hình thức hoạt động của con người thông qua âm thanh,
ngôn ngữ, diễn xướng… để chuyển tải một thông điệp nào đó đến khán giả.
Trong phạm vi kiểm kê, loại hình này thu được 02 phiếu, đó là: Hát bả trạo của
ngư dân ven biển và hát Bài chòi.
- Về loại hình tập quán xã hội
Đây là loại hình mang tính phổ biến nhất của di sản văn hóa phi vật thể
trên địa bàn quận Sơn Trà nói riêng và thành phố Đà Nẵng nói chung, bao gồm
các luật tục, hương ước, chuẩn mực đạo đức, nghi lễ và các phong tục khác.
Những phong tục tập quán xã hội này vừa mang những điểm chung vừa có nét
đặc trưng riêng của vùng đất, con người nơi đây.
Trong tập quán xã hội, tập trung chủ yếu vào nghi lễ cúng tế và các phong
tục trong lao động sản xuất, đời sống sinh hoạt của người dân lao động. Số phiếu
thu được ở loại hình này là 17 phiếu.
- Về loại hình lễ hội truyền thống
4


Trong đời sống tín ngưỡng và tâm linh của người Việt, đã từ lâu lễ hội
truyền thống chiếm một vị trí rất quan trọng trong sinh hoạt làng xã, nó biểu
hiện các giá trị xã hội của một cộng đồng. Lễ hội được tổ chức định kỳ hàng

năm và diễn ra một cách khá trang nghiêm, sùng kính.
Trên địa bàn quận Sơn Trà, chủ yếu là loại hình: Lễ hội tín ngưỡng ngư
nghiệp, số phiếu thu được về loại hình này là 03 phiếu.
- Về loại hình nghề thủ công truyền thống
Số phiếu kiểm kê thu được về nghề thủ công truyền thống là 01 phiếu.
- Về loại hình tri thức dân gian
Tri thức dân gian (c n được hiểu tương ứng với các thuật ngữ như tri thức
bản địa, tri thức địa phương), đó là toàn bộ những hiểu biết của cộng đồng về
thiên nhiên, đời sống con người, lao động sản xuất, y dược học cổ truyền, ẩm
thực, trang phục và các tri thức dân gian khác được tích lũy trong một thời gian
dài qua kinh nghiệm của bản thân cộng đồng đó. Số phiếu kiểm kê thu được là
02 phiếu, trong đó tập trung vào tri thức y học cổ truyền và tri thức về nghề
biển.

5


CHƯƠNG II
ĐÁNH GIÁ CHI TIẾT TỪNG LOẠI HÌNH DI SẢN
VĂN HÓA PHI VẬT THỂ
1. Nhận diện từng loại hình di sản văn hóa phi vật thể
a) Ngữ văn dân gian
- Ch

ện tình

i

t (Phường


ân Thái, uận Sơn Trà, Tp Đà Nẵng)

Chuyện kể rằng: Ngày xưa, vùng đất nơi đây c n rất hoang vu, dân chài
sống ven biển Sơn Trà gặp rất nhiều khó khăn trong việc đánh bắt cá trên biển.
Nhiều chuyến ra khơi của bà con ngư dân trở về tay trắng. Những con sóng dữ
luôn lật úp từng chiếc thuyền khi ra khơi. Chưa kể, mỗi năm bà con hứng chịu
hàng chục cơn bão biển càn quét vùng quê nghèo. Cuộc sống luôn diễn ra trong
sự nghèo khó, túng thiếu. Trong làng có một gia đình trẻ, chồng làm nghề chài
lưới, vợ ngày ngày lên n i đốn củi, chăm lo vườn tược. Họ sống với nhau rất
hạnh phúc, êm ấm. Thế rồi, vào một ngày cũng như thường lệ, người vợ ra bến
tiễn chồng cùng một số đàn ông trong làng lên tàu đi đánh cá. Chồng đi được vài
hôm, ở nhà, trời bỗng nhiên đổ mưa to, sấm chớp đùng đùng, những cơn gió làm
ngọn sóng tung lên cao trắng xóa. Đoán chuyện chẳng lành xảy ra với chồng,
người vợ đội mưa gió ra bến đợi chồng về. Nhưng nàng đợi ngày này qua ngày
khác mà chồng vẫn không trở lại. Trong nỗi đau khổ tột cùng khi người chồng
không bao giờ trở về, nàng đã tìm đến cái chết. Hiểu được nỗi đau khổ của nàng,
bụt đã hiện lên nói rằng sấm chớp là lẽ vô thường của cõi nhân sinh và khuyên
nàng nên bình tâm trở lại. Sau đêm gặp bụt tại bãi biển, nàng trở về nhà, thu xếp
quần áo rồi tìm đến ngôi chùa gần đó để đi tu. Có một điều lạ là, từ ngày bụt
xuất hiện trên bãi biển và nghe lại câu chuyện của người đàn bà trẻ, dân làng
liên tục được mùa cá, cuộc sống yên ấm, mưa thuận gió hòa. Biết ơn đôi vợ
chồng trẻ, người dân đặt tên bãi biển nơi nàng đứng chờ chồng là Bãi Bụt và
truyền tai nhau câu chuyện tình đẹp và thiêng liêng này.
Xung quanh khu du lịch Bãi Bụt còn có một tích khác kể lại rằng, vào thời
vua Minh Mạng, dân chài nơi đây đã phát hiện một tượng Phật trên bãi cát bèn
lập am thờ tự. Và rồi, Ngài Quán Thế Âm cứu khổ cứu nạn xuất hiện cứu con
người vượt kiếp trầm luân, sóng yên biển lặng, dân chài yên ổn làm ăn. Từ đó,
nơi đây có tên gọi là Bãi Bụt, hay còn gọi là Cõi Phật giữa chốn trần gian. Theo
quan niệm của người dân, “bãi” tức là bãi biển, “ ụt” tức là Phật.
Câu chuyện ẩn chứa giá trị nhân văn cao cả, đó là ngợi ca tình yêu, sự

chung thủy và ước nguyện của nhân dân về cuộc sống yên ấm, mưa thuận gió
hòa, sóng yên biển lặng, dân chài yên ổn làm ăn.
- Ch

ện tình Tiên Sa (Phường Thọ uang, uận Sơn Trà, Tp. Đà Nẵng)

ưa Sơn Trà là nơi có thắng cảnh tuyệt đẹp và ngày nào các nàng tiên
cũng xuống trần gian để tha hồ ngắm nhìn n i đồi hùng vĩ, biển xanh bao la, say
6


sưa nghe tiếng chim kêu, dừng chân sát bãi biển để nghe sóng vỗ, dõi theo cánh
bay của những con chim yến đi làm tổ, hướng về các bờ đá chênh vênh, thăm
những con suối thơ mộng bên chân n i, nước triều lên xuống đều đặn hàng triệu
năm bào m n và lau sạch những tảng đá chồng chất ven bờ, ngắm nhìn những
bãi cát v ng uanh bán đảo sạch sẽ và mịn màng… Khi đã thưởng thức mê say
vẻ đẹp của Sơn Trà các nàng tiên cởi những đôi cánh của mình ra để trên bờ,
trên những ghềnh đá và đắm mình xuống dòng xanh, mát lạnh của biển, các
nàng nô đùa với cảnh thiên nhiên sông nước. Khi chiều về các nàng tiên đắm
say, mê mẩn cảnh trần gian lưu luyến không muốn về.
Có một chàng trai chài lưới mình trần, ngực đỏ, khi nhìn thấy các nàng
tiên tắm, trong lòng cảm thấy xôn xao, rạo rực. Chưa bao giờ trong đời, người
thanh niên này lại thấy những người phụ nữ đẹp đến như vậy và cứ thế khi chiều
về, chàng lại ra nấp sau các ghềnh đá để lén ngắm nhìn các nàng tiên tắm và anh
đã nghĩ cách chờ l c các nàng tiên đang say sưa nô đùa, anh vội lấy một đôi
cánh dấu vào hang đá. Đến lúc mặt trời sắp lặn, các nàng lắp đôi cánh vào để
bay về trời, chỉ còn một nàng tiên không bay về được vì không tìm ra đôi cánh
của mình, đành phải ở lại với trần gian, với chàng trai chài lưới và hai người
sống với nhau rất hạnh phúc.
Sau một thời gian sống hạnh phúc bên nhau, một hôm, nàng được Ngọc

oàng cho người đến báo rằng nàng phải trở về với Thiên đình, nếu không,
Ngọc Hoàng sẽ không để cho trần gian yên ổn. Tin đã được truyền đi nhưng chờ
mãi vẫn chưa thấy con trở về, Ngọc oàng đã thật sự nổi giận. Ngài cho sấm
chớp, bão giông, làm cho hạ giới đổ nát, điêu tàn. Lo sợ trước cơn thịnh nộ của
vua cha, nàng tâm sự với chồng “Em là tiên, chàng là người trần tục, chúng ta
không thể ở mãi bên nhau được. Em phải trở về tiên giới theo lệnh vua cha, nếu
không chàng và tất cả trần gian sẽ phải chịu nhiều tai ương”. Dù không muốn
chia xa nhưng rồi nàng cũng phải trở về với trời. Chàng đau khổ, nhớ thương vợ
không nguôi, ngày ngày ra ngồi bên tảng đá chờ đợi người vợ của mình trở lại.
Chờ mãi, chờ mãi đến khi sức tàn lực kiệt, chàng hóa thành tảng đá rất đẹp, vẫn
đứng đợi chờ mãi không thôi. Từ đó, trần gian trời yên biển lặng. Để tưởng nhớ
đến mối tình chung thủy của hai người và tạ ơn nàng tiên đã hy sinh hạnh phúc
của mình để mang lại cuộc sống thanh bình, sung t c, người ta đã lập làng, đặt
tên là Vĩnh Yên (sau này đổi thành Mân Quang), xây một am thờ bên tảng đá
gọi là Am Bà.
Chuyện tình Tiên Sa là câu chuyện tình rất đẹp và lãng mạn thể hiện tình
yêu chân thành, mộc mạc của chàng trai chài lưới với tiên nữ trên trời. Tuy rằng,
câu chuyện được sáng tạo theo tâm thức dân gian mang nhiều đường nét hư cấu
huyền ảo, phần nào thỏa mãn trí t m của người dân đối với thiên nhiên xung
uanh mình, song đó cũng chính là khát vọng về hạnh phúc lứa đôi, ước nguyện
về cuộc sống ấm no, bình yên, hạnh phúc của người dân nơi đây.

7


- S t h Miế Ông Chài (Phường
Đà Nẵng)

ân Thái, uận Sơn Trà, thành phố


Sự tích về miếu Ông Chài có từ lâu và tồn tại đến nay trong nhân dân.
Chuyện kể rằng, ngày xưa có một người đàn ông làm nghề chài lưới góa vợ từ
rất lâu, nhưng ông ở vậy để nuôi dưỡng đứa con gái của vợ chồng ông sinh ra.
Dân trong vùng không ai biết biết quê quán, nhà cửa ông ở đâu, ngay cả tên họ
cũng không biết, chỉ thấy hằng ngày ông thường đến bãi Đá đánh cá. Nên người
dân quanh vùng gọi ông là ông Chài.
Cô con gái của ông, ngày càng lớn khôn xinh đẹp và hiếu hạnh. Cuộc đời
của cha con ông Chài tuy sống đạm bạc đơn côi, nhưng rất tôn trọng đạo lý can
thường. Tình phụ tử, lễ giáo và hiếu hạnh luôn được đề cao, gắn bó. Một hôm,
đang ngồi trong lều chờ cha đánh lưới trở về, trời bỗng nổi giông tố sấm sét,
mưa tr t xuống xối xả. Bị mưa ướt gió lạnh, ông Chài vội vàng về lều. Ngồi
trong lều thấy cha ướt lạnh run rẩy, động l ng thương cha, bất chấp mưa to gió
lớn, cô liền vụt chạy ra dìu cha. Trước hai chuyển động ngược chiều, cô con gái
ông Chài từ trên đồi chạy xuống, ông Chài bị trượt ngã chồm đến trước, bất ngờ
tay ông chạm mạnh vào “nhũ hoa” con gái mình và làm s t n t cài, để phô bộ
ngực nõn nà của đứa con gái yêu quý của ông. Khi về nhà ngồi nhìn con mình,
ông Chài vô cùng xấu hổ và day dứt. Ông bèn nói dối với con gái rằng ông lên
đồi có công chuyện. Cô con gái chờ mãi không thấy ông trở lại lều, bèn đi tìm
cha, thì ôi thôi, thấy cha cô đã đập đầu vào gốc cây chết thê thảm. Đau đớn tột
cùng, cô ôm cha vào lòng khóc than khôn xiết.
Sau đó không lâu, người ta không còn thấy cô có mái tóc dài mượt mà,
mà thay vào đó đầu cô trùm kín bởi chiếc mũ vải. Và cũng kể từ đấy, biền biệt
không thấy cô trở lại viếng mộ cha. Cảm động và thương xót cha con ông Chài,
người dân quanh vùng đã lập miếu thờ tại nơi ông mất. Miếu này hiện nay vẫn
c n trên n i Sơn Trà.
Sự tích miếu ông Chài, đề cao những truyền thống tốt đẹp vốn có từ bao
đời của ông cha ta, đó là: tình phụ tử, lễ giáo, hiếu hạnh và sự gắn bó.
b) Nghệ th ật trình diễn dân gian
- Hát bả trạo của ngư dân ven biển (Phường Mân Thái, quận Sơn Trà,
Thành phố Đà Nẵng)

Hát bả trạo là hình thức diễn xướng dân gian xuất phát từ tín ngưỡng thờ
cá ông (Đại Đức Ngư ông) của ngư dân ven biển. “ ả” là nắm chắc, “trạo” là
mái chèo. át “bả trạo” là hát vững tay chèo theo động tác chèo thuyền. Hát bả
trạo c n được gọi bằng nhiều cái tên khác nhau như: hát chèo bả trạo, chèo cầu
ngư, chèo cạn, h rước Ông.
Hình thức diễn xướng này được tổ chức theo tục lệ hàng năm trong lễ hội
Cầu ngư, hoặc trình diễn nhân dịp đưa tang cá Ông. Đây là loại hình nghệ thuật
trình diễn dân gian mang tính nghi lễ của ngư dân ven biển.
8


- Đội hát bả trạo, gồm có:
+ Tổng mũi (tổng thuyền): Đứng trước mũi thuyền, người chỉ đường, hai
tay cầm cặp sanh để gõ chỉ huy đội hát bả trạo từ đầu đến cuối buổi diễn.
+ Tổng khoang (tổng thương): Đứng ở khoang thuyền, khi thuyền neo lại
thì canh gác, tay cầm cần câu và gàu tát nước.
+ Tổng lái (tổng hậu): Đứng cuối đuôi thuyền, hai tay nắm chèo lái để
điều khiển con thuyền đi đ ng hướng.
Trước năm 1975, trang phục của ba ông Tổng rất đơn giản, chỉ là áo dài
đen, uần trắng, chân đi tất. Hiện nay, để buổi biểu diễn trở nên sống động,
trang phục cũng mang nhiều màu sắc hơn. Ông Tổng mũi: trang phục áo dài
màu xanh, cổ tay bóp màu tím, lưng thắt dây màu tím, quần tím, đầu đội mão,
chân quấn xà cạp, đi giày vải. Ông Tổng khoang: mặc áo ngắn màu xanh nước
biển viền cổ trắng xanh, lưng thắt dây màu xanh, quần màu xanh nước biển,
chân quấn xà cạp, đi giày vải, đầu đội nón lá. Ông Tổng lái: đầu đội mão, áo dài
màu tím nhạt, viền áo màu xanh nước biển, lưng thắt dây màu xanh nước biển,
quần dài màu tím, chân quấn xà cạp, mang giày vải. Khuôn mặt của ba ông
Tổng được vẽ như trong hát Tuồng.
+ Con trạo: gồm 12 đến 1 người, tùy theo biên chế của từng địa phương.
Trước năm 1975, con trạo thường là thanh niên còn trẻ, từ 17 đến 20 tuổi, có sức

khỏe, chưa vợ. Hiện nay, con trạo là các em nữ, độ tuổi từ 13 đến 15 tuổi. Con
trạo mặc áo xanh lá cây, đầu đội nón lá, lưng thắt đai xanh, chân mang xà cạp,
tay cầm mái chèo dài 1,2m sơn đỏ, vàng.
Trong buổi biểu diễn, ông Tổng mũi sử dụng cặp sanh điều khiển cả đội.
Theo hiệu lệnh, các con trạo có sự phối hợp nhịp nhàng, các con trạo nghiên
mình tư thế giống như đang chèo thuyền, vừa hát vừa múa mái chèo. Ba ông
Tổng thì xướng theo các làn: thán, lụy, ngâm, bình thơ, nam ai. C n các tay
chèo thì xô theo hiệu lệnh của ông Tổng.
- Dàn nhạc cụ biểu diễn gồm có: trống, chiêng, kèn, đàn c , sênh.
* Hát bả trạo trong lễ hội Cầu ngư, diễn ra theo trình tự sau:
- Trong lễ Nghinh thần, còn gọi là lễ rước thần Nam Hải về tham dự lễ
hội Cầu ngư, sau khi ba vị chủ tế thực hiện xong nghi lễ, đội hát bả trạo theo
hiệu lệnh tiếng sênh của Tổng mũi tiến vào biểu diễn. Nội dung của buổi diễn là
ca ngợi công đức của Ngư ông và nghinh Ông về tham dự lễ hội cùng ngư dân.
Sau đó, đội hát tham gia vào đội hình rước Ông về tham dự lễ Cầu ngư.
- Khi lễ tế chính vừa kết thúc, là chương trình nghi lễ của đội hát bả trạo.
Ông chánh tế đứng lên niệm hương xin phép cho đội hát bả trạo vào trình diện.
Sau khi 3 ông Tổng thắp hương làm lễ, đội hát theo hiệu lệnh bằng tiếng sênh
của Tổng mũi, chạy xoắn ốc ra giữa sân, mái chèo dựng đứng sắp thành 3 hàng
dọc, 3 ông Tổng đứng hàng giữa theo vị trí: Tổng mũi đứng đầu, Tổng khoang
9


đứng giữa, Tổng lái cuối cùng, con trạo đứng hai bên, tạo thành hình chiếc
thuyền giữa biển khơi. Tiếng sanh của Tổng mũi gõ 2 tiếng vang lên, toàn đội
quỳ lạy Ông 3 lạy. Nội dung của buổi biểu diễn có kịch bản rõ ràng, gồm 3
đoạn: Ra khơi, bủa lưới đánh cá; Thuyền gặp bão tố bị tai nạn được Ông cứu
giúp; Kể về công đức của Ông và cầu mong Ông luôn cứu gi p ngư dân bình an.
Nội dung hát bả trạo trong lễ Cầu ngư nhằm ca ngợi công đức của cá Ông
đối với ngư dân hoặc mô tả quá trình lao động vất vả của ngư dân giữa biển

khơi, đồng thời ca ngợi sự giàu có của biển, sự đoàn kết của bạn chèo vươn tới
cuộc sống ấm no đầy đủ.
át bả trạo gắn liền với lễ Cầu ngư cũng như tín ngưỡng thờ cúng Cá Ông
của ngư dân ven biển. Đây cũng là một hình thức thể hiện tín ngưỡng của cư dân
vạn chài đối với đức Ngư Ông, có tác động sâu sắc đến yếu tố an dân trong hành
nghề đi biển và niềm tin trong sự an cư lạc nghiệp của cộng đồng vạn chài.
) Tập q án x hội
- Lễ tang ma ở Sơn Trà (Quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng)
ột lễ tang ma có đầy đủ các nghi lễ chính như: Khâm liệm, thần phục, di
uan, hạ huyệt….Các vùng Thọ uang, Nại iên Đông và n ải Tây chỉ khác
nhau về một số hình thức và uan niệm:
Khi gia đình có người mất thì phải cử người đi xem thầy để chọn giờ tốt,
ngày tốt khâm liệm, động uan, thần phục, di quan và hạ huyệt. em được ngày
giờ rồi báo với chính quyền địa phương. Chính uyền sẽ họp toàn dân làng để
phân công trách nhiệm phục vụ việc tang lễ.
Gia đình nhờ (hoặc thuê) một người chuyên liệm xác để liệm cho người
đã mất. Lúc liệm để 7 hạt gạo 7 hạt muối vào miệng (nếu người mất là đàn ông)
hoặc 9 hạt gạo 9 hạt muối (nếu người mất là đàn bà). Có l c người ta bỏ gần
người chết 50 hoặc 100 ngàn tiền thật coi như là lộ phí đi đường cho người đó.
Từ l c người đó mất đến lúc khâm liệm phải che bàn thờ tổ tiên trong nhà lại.
Sau khi triệu tổ xong mới mở và thắp hương trên bàn thờ. Sau đó, những người
đại diện làng đứng ra tổ chức lễ cúng cáo Thành hoàng làng ở đình.
Từ lúc liệm cho đến khi động uan, người ta thắp dĩa dầu dưới 4 chân
giường (dưới uan). Người chết đầu uay vào trong, chân uay ra ngoài (người
chết bất đắc kì tử thì ngược lại) lúc di quan mới uay đầu đi ra trước với quan
niệm là để người chết nhìn lại nhà và người thân. Người chết khi liệm mặc áo
trắng vải thô, cột hai cẳng chân, bụng (có cả 2 tay) lại với nhau. Bên trong quan
tài để trà, bông gòn hoặc đất ở bên trong. Bên ngoài quan, hai phần đầu đuôi
dùng ba vòng lạt dẻo cột lại và có đóng néo.
L c di uan, đập vỡ một hủ sành hoặc một tràng pháo nổ (xưa) hoặc tạt

một ca nước vôi từ trong nhà (nơi để uan) ra. Người dân quan niệm làm như
vậy để hồn người chết đi theo xác. Di quan có ba lần nghỉ giữa đường (nếu nghỉ
ở địa phận làng khác thì phải cúng tế độ trung, còn nếu nghỉ ở địa phận làng
10


mình thì không cúng). Đến huyệt, đặt quan xuống nghỉ, đ ng giờ thì hạ huyệt.
Ba ngày sau thì mở cửa mã.
Nhạc cổ dùng trong tang lễ có thể là của làng hoặc thuê từ làng khác. Âm
công: do làng sắp đặt.
Người mới chết không được thờ chung với bàn thờ tổ tiên mà thường
được lập một bàn thờ riêng. Đến hết 49 ngày, mới làm lễ rước bát hương lên bàn
thờ tổ tiên. Có nơi tập tục lại uy định sau 100 ngày, thậm chí có những gia đình
lại để sau giỗ đầu mới rước bát hương người mới mất lên bàn thờ tổ tiên.
Hằng ngày, tính từ ngày đã an táng xong, người nhà đều đặn thắp hương,
cơm, canh vào các bữa chính, trước khi gia đình ăn cơm, hoặc những món ăn mà
lúc còn sống người chết thích ăn, mời người chết về cùng hưởng thụ.
Lễ tang ma là sự thể hiện tình cảm của cộng đồng làng xã, của người thân
trong gia đình đối với người mất. Đối với người sống, lễ tang ma có sự gi p đỡ,
giúp sức của cộng đồng người dân sống trong khu vực đó. Đó là tình đoàn kết,
gắn bó, mang tính qua lại.
- Tập t

ư i h i ở Sơn Trà (Quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng)

Dựng vợ gã chồng là một vấn đề trọng đại của cuộc đời mỗi con người.
Chính vì vậy, mọi người ai cũng coi trọng và tuân thủ theo những kinh nghiệm
từ trước đến nay của ông bà đi trước, nhằm cầu mong điều may mắn, niềm vui,
hạnh phúc.
Sau khi bàn bạc kĩ lưỡng, gia đình nhà trai đến chơi nhà gái và xin phép

ngày nào đó gia đình nhà trai sang nói chuyện cưới xin. Đ ng ngày, nhà trai
mang sang 1 chai rượu, 1 dĩa trầu cau bàn bạc chọn ngày, lễ vật như thế nào…
ột số nhà muốn đơn giản hoặc do điều kiện gia đình khó khăn thì có thể gộp
cả đám cưới và đám hỏi vào cùng 1 ngày. Gia đình nhà trai đưa cho cô dâu
tương lai một số tiền nhất định để mua sắm áo uần và nữ trang.
Đến ngày cưới ngoài các công việc phụ như rạp, âm nhạc, mời họ hàng,
bạn bè… thì uan trọng nhất vẫn là lễ xin dâu và rước dâu về nhà chồng. Nhà
trai cử 1 số người đến rước dâu ở nhà gái, số người đi phải chẵn và không uan
niệm 1 cặp phải là 1 nam 1 nữ, mà có thể là 2 nam hoặc 2 nữ. Những người đi
xin dâu là họ hàng thân thiết của ch rể, nhất thiết phải có cha. Nếu cha mất
hoặc bị bệnh tật không đại diện được thì ch hoặc bác hoặc ông nội, ông ngoại
của ch rể thay mặt. Người này dẫn đầu đoàn xin dâu và có trách nhiệm mở lời
xin, đồng thời giới thiệu vị trí những người đi cùng nhà gái rõ. Những người
khác không yêu cầu phải song toàn nhưng nhất thiết không bị tàn tật.
Lễ vật xin dâu gồm 5 khay, trên có phủ vải đỏ, bao gồm: trầu, rượu, bánh,
chả nem, trà. Tất cả phải đủ đôi chứ không được lẻ.
Sau khi giới thiệu 2 bên gia đình, đ ng giờ thì rước dâu. Người dân ở đây
uan niệm cô dâu mang bầu trước khi cưới thì không được đi vào nhà bằng cửa
11


chính mà bằng cửa phụ và không được thắp hương trên bàn thờ tổ tiên. a mẹ
cô dâu sẽ đến nhà trai sau khi đoàn dẫn đã rước dâu về nhà trai.
Sau khi làm lễ c ng bái gia tiên, ch c rượu mọi người, hôn lễ coi như kết
th c. a ngày sau, cô dâu cùng chồng mới cưới về lại mặt ba mẹ, lễ vật mang
theo là trầu, rượu, bánh trái. Trường hợp ở xa thì cô dâu, ch rể được miễn “lại
mặt”.
Đám cưới ngày nay thường diễn ra ở nhà hàng. ọi thứ có sẵn và thủ tục
hết sức đơn giản.. Vì vậy, lớp trẻ ngày nay, ít biết đến các nghi thức cưới hỏi
truyền thống. Đó là do sự phát triển kinh tế kéo theo sự giao lưu văn hóa làm

thay đổi uan niệm của người dân.
- Nghi thức truyền thống ình làng Tân Thái (Làng Tân Thái, phường
ân Thái, uận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng).
Đình Tân Thái thuộc khối Tân n, phường Mân Thái, quận Sơn Trà, là
ngôi đình cổ ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử và là nơi sinh hoạt văn hóa của nhân
dân địa phương. Đình là nơi thờ phụng Thành hoàng cùng các vị tiền hiền và
cũng nơi sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân địa phương.
Hằng năm, vào ngày mồng 1 tháng Chạp là ngày Tảo mộ Tiền nhân, ngày
20 tháng 6 âm lịch dân làng tổ chức lễ cầu an tại đình.
Trước khi tổ chức lễ cầu an, mọi công tác về người, địa điểm, lễ vật, thời
gian… đều được chuẩn bị kĩ lưỡng. Kinh phí do dân làng đóng góp. Lễ cầu an
lớn hay nhỏ tùy vào kinh phí đóng góp hằng năm.
Trước một ngày, tập trung cúng và thắp hương ở đình để mời thành hoàng
bổn xứ về dự. Sau khi mọi công tác chuẩn bị về rạp, người, âm thanh, ban nội
trợ … xong xuôi thì sáng ngày 20, khoảng giờ, lễ tế và cầu an sẽ bắt đầu.
Ông chủ tế (do dân bầu) đứng ra chịu trách nhiệm c ng bái và đọc văn
tế. ài văn tế này do một người cao niên trong làng chuyên việc soạn văn tế
soạn ra. Nội dung của nó là cầu mong sự chứng giám của thần linh, báo cáo tình
hình làng xã và mong một vụ mùa bội thu, sức khỏe dồi dào, xóm làng yên ổn.
Nếu năm nào tổ chức lễ lớn thì sẽ có sự góp mặt của đội ngũ học trò gia lễ. Nhạc
cổ như trống cái, chiêng (chinh), lệnh (thanh la) của làng đã có sẵn và sẽ do
người trong làng đánh. C n các loại nhạc cụ như kèn, trống nhỏ… phải thuê ở
nơi khác đến.
Lễ vật dâng cúng thần bao gồm heo, gà, vịt, hương hoa… Lễ vật do làng
mua sống về và tự làm để không bị ô uế.
Nghi lễ truyền thống đình làng Tân Thái đã trở thành tín ngưỡng văn hoá
ở làng uê, yếu tố tâm linh từ ngàn xưa không thể tách khỏi cộng đồng sinh hoạt
làng xã. Đây là một cách để ông cha ta kể lại cho con cháu nguồn gốc, lịch sử,
cũng như các giá trị văn hóa, xã hội của làng. ơn nữa đây c n là dịp để nhân
12



dân trong làng thể hiện sự đoàn kết, gắn bó, đùm bọc lẫn nhau, cùng nhau phát
huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của cha ông ta để lại.
- Nghi thức truyền thống lăng Âm linh Mân Thái (Làng Tân
phường ân Thái, uận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng).

n,

Lăng Âm linh phường ân Thái được xây dựng năm 19 3 là nơi thờ
những chiến sĩ vô danh đã hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, và những
người chết biển vô danh. Tại đây, hằng năm người dân làng Tân Thái, Cổ Mân
(xưa) và Tân n, Tân Thái, phường ân Thái (ngày nay) đều tổ chức các hoạt
động lễ hội truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa đặc trưng của vùng biển
Sơn Trà như: Lễ cầu an nhằm cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an;
đồng thời cũng là dịp để tưởng nhớ đến những công lao của các anh hùng liệt sĩ,
các bậc tiền bối đã có công xây dựng lăng Âm linh.
Hằng năm, vào ngày 15 tháng 3 âm lịch, dân làng tổ chức lễ cúng tại lăng
âm linh. Kinh phí do nhân dân đóng góp. Lễ cúng lớn hay nhỏ tùy vào kinh phí
đóng góp hằng năm.
Phần nghi lễ gồm:
- Lễ Nghinh thần: Sáng sớm ngày 15/3, những người trong ban tế lễ, đi
nghinh rước các vị thần hoàng bổn xứ về tại lăng. Gồm lễ nghinh tại bãi Bắc và
Nghê, nghinh các sở tại địa phương, nghinh à bá.
- Lễ Vọng và lễ tế chiến sỹ.
- Lễ Chánh tế: Có học trò diễn lễ, có chánh tế và bồi tế, đọc văn tế có hô,
xướng đi nhịp nhàng theo đội hình. Nhạc cổ như trống cái, chiêng (chinh), lệnh
(thanh la) của làng đã có sẵn và sẽ do người trong làng đánh. C n các loại nhạc
cụ như kèn, trống nhỏ… phải thuê ở nơi khác đến. Thời gian cúng tế khoảng 1
tiếng rưỡi. Lễ vật dâng cúng tại lăng bao gồm heo, gà, vịt, hương hoa… Lễ vật

do làng mua sống về và tự làm để không bị ô uế. Ông chủ tế (do dân bầu) đứng
ra chịu trách nhiệm làm lễ và đọc văn tế. ài văn tế này do một người cao niên
trong làng chuyên việc soạn văn tế soạn ra. Nội dung của nó là cầu mong sự
chứng giám của thần linh, báo cáo tình hình làng xã và mong một vụ mùa bội
thu, sức khỏe dồi dào, xóm làng yên ổn và tưởng nhớ đến những công lao của
các anh hùng liệt sĩ, các bậc tiền bối đã có công xây dựng lăng Âm linh.
- Lễ xây chầu – hát lễ (hát Tuồng cổ): Diễn ra trang nghiêm, người được
chọn xây chầu phải là người song toàn, giờ xây chầu cũng phải chọn giờ tốt. Sau
lễ xây chầu là biểu diễn tuồng cổ, hát phúc, lộc, thọ.
- Lễ tạ: Đốt văn tế, sau đó chủ lễ và các lễ sinh cùng ban tế lễ, dân làng
thắp hương và bái.
Nghi lễ truyền thống tổ chức tại lăng âm linh đã trở thành tín ngưỡng văn
hóa, yếu tố tâm linh của cộng đồng làng ngư nghiệp nơi đây.
13


- Nghi thức truyền thống ình làng Cổ Mân (Làng Cổ
ân Thái, uận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng)

ân, phường

Vào thế kỷ 17, khu vực Cổ ân là vùng đất cát bằng phẳng, các bậc tiền
nhân đã dừng chân tại đây định cư và lập nghiệp. Đình làng Cổ ân được xây
dựng bằng phên tre mái lá để có nơi thờ tự những vị thần linh, cầu mong trời đất
cho mưa thuận gió hòa, sản xuất phát triển. Ngôi đình là nơi các họ tộc, nhân
dân trong làng tham gia sinh hoạt. Qua thời gian, ngôi đình làng được xây dựng,
trùng tu lại bằng vật liệu kiên cố: gạch, đá, ngói, vôi, cát, sạn, mật đường. Đây
c n là địa điểm thuận lợi để cán bộ cách mạng hội họp, triển khai xây dựng cơ
sở cách mạng trong những năm chống Pháp và chống Mỹ. Đình làng Cổ Mân là
một trong tám ngôi đình ở khu vực phía đông sông àn thường gọi khu Đông.

Với ước nguyện cầu mong trời đất cho mưa thuận gió hòa, sản xuất phát
triển, hằng năm, vào ngày 25 tháng Chạp âm lịch, tại đình Cổ Mân, dân làng tập
trung tu bổ phần mộ, thắp hương tưởng niệm, tổ chức nghi lễ đón Tết Nguyên
đán, treo cờ, cắm phướn, dựng nêu, chọn người hiền xông đất đầu năm, chuẩn bị
lễ vật, hoa, cây trái, bánh chưng, bánh tét bày cúng trong 3 ngày Tết, tổ chức
văn hóa, vui chơi giải trí, dân làng mến mộ nhất là loại nghệ thuật tuồng, hát bội.
Ngoài ra, đến ngày 16/3 âm lịch làm lễ cầu an, 16/8 làm lễ tế thu, trùng với
lễ c ng cơm mới, đây là những kỳ lệ được tổ chức trang nghiêm tại đình làng,
thể hiện nét đẹp văn hoá truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc.
Những năm có kinh phí, làng còn tổ chức thêm phần hội.
- Nghi thức truyền thống ình làng Mân Q ang (Làng
phường Thọ uang, uận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng)

ân

uang,

Đình làng ân uang hiện thuộc tổ 33, phường Thọ Quang, quận Sơn
Trà, thành phố Đà Nẵng. Tương truyền làng ân uang được khai phá vào nửa
cuối thế kỷ 15, do các cư dân người Việt ở vùng oan, Ái di cư vào, trong đó
những người được coi là có công đầu là các cụ Lê Phước Thọ, Trần Văn ỹ, Võ
Văn Linh, Thái Công ạ, Nguyễn Văn Thành và Đinh Vạn Khang. Cùng với
việc khai phá lập làng thì ngôi đình làng được dựng lên để thờ thần thành hoàng
và nhiều vị thần khác trong tín ngưỡng dân gian của người Việt. Sau này, nhiều
vị tiền hiền, hậu hiền, những người có công với làng cũng được nhân dân địa
phương thờ tại đình làng.
Hằng năm, tại khu di tích đình làng ân uang diễn ra các hoạt động
cúng tế, lễ hội do nhân dân địa phương tổ chức, gồm:
- Cúng tại miếu Táo uân và lăng Nghề cá (tức lăng Ông) vào các ngày
12 tháng 2 và 12 tháng 7 âm lịch.

- Cúng tại miếu Quan Thánh và miếu Thành hoàng vào các ngày 13 tháng
1, 13 tháng 5 và 24 tháng 6 âm lịch.
- Cúng tại miếu Cao Các, miếu Bà và miếu Âm linh vào ngày 25 tháng 1
âm lịch.
14


Đặc biệt vào hai ngày 15, 16 tháng 3 (Âm lịch), nhân dân Mân Quang lại
tề tựu về đình để tổ chức lễ hội đình làng. Trong suốt hai ngày này, các nghi
thức tế lễ và các hoạt động diễn xướng, tr chơi dân gian của người dân địa
phương diễn ra liên tục trong đại điện và trước sân đình. Trước khi tổ chức lễ
hội, dân làng họp trước một tháng để bàn bạc xem xét tổ chức lễ như thế nào,
kinh phí đóng góp bao nhiêu, lễ vật ra sao, ai làm việc gì.
Chiều 15/3, tại sân đình, dân làng đặt bàn án với các lễ vật như cơm,
xôi, gà, vịt, heo, bánh trái, hương đèn, cháo trắng, hạt nổ, vàng bạc… để làm lễ
vọng cúng âm linh.
Ngày 1 3, giờ sáng, dân làng tổ chức lễ chánh tế trong đình với đầy
đủ các nghi thức dâng trà, rượu, hương, bái lạy với sự tham gia của chánh tế, bồi
tế, và đội ngũ học trò gia lễ.
Đây là dịp con dân của làng bày tỏ sự ngưỡng vọng, l ng tri ân đến thánh
thần và các bậc tiền nhân đã phù trợ, gi p đỡ dân làng xây dựng uê hương.
Đồng thời, thông ua đó lễ hội đình làng c n có tác dụng thắt chặt mối quan hệ
tình làng nghĩa xóm, cũng như việc gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống của địa phương.
- Nghi lễ truyền thống ình An Hải (Phường An Hải Tây, quận Sơn Trà,
Thành phố Đà Nẵng)
Theo như lời kể của cụ Lê Đức Ngọ, người có công đầu trong việc khai
phá lập làng n ải là một phụ nữ có tên gọi là à Thân (tên của bà trở thành
địa danh cho một vùng đất sát ven sông àn, về sau gọi chệch thành à Thân.
Ngày nay, tại phường n ải Tây, có một ngôi chợ người dân thường gọi là chợ

à Thân hoặc à Thân). à là một lưu dân từ phía ắc vào lập làng từ thời vua
Lê Thánh Tông lập đạo Thừa tuyên uảng Nam (năm 1 71). Năm 1 30, nhân
dân làng An Hải góp của và trích quỹ ruộng hương hỏa cho xây dựng ngôi đình
mái lợp tại địa điểm như hiện nay. Thời vua Tự Đức thứ 3 (1 77), đình được
trùng tu lần thứ nhất và cách đây hơn
năm (vào năm Giáp Thìn) sửa chữa lần
thứ hai. Đình làng được vua Tự Đức ban tặng 4 chữ lớn tại bức hoành “Thiện
Tục Khả Phong” nghĩa là nếp sống an lành đáng khen.
Tự ngàn xưa, yếu tố tâm linh của người dân Việt Nam không thể tách khỏi
cuộc sống hàng ngày trong mỗi con người. Ngôi đình làng trở thành thiết chế tín
ngưỡng văn hóa ở làng uê. ỗi làng đều dựng một ngôi đình làng để có nơi thờ
c ng, sinh hoạt văn hóa, hội họp. Từ khi xây dựng đình làng, nghi thức lễ cúng
truyền thống đình n ải đã được nhân dân duy trì và gìn giữ đến ngày hôm
nay.
Lễ chính đình n ải được tổ chức vào ngày 10/8 âm lịch, gọi là lễ tế thu
cầu an. àng năm, lễ được tổ chức dưới dạng “trung lễ”, thông lệ 3 năm tổ chức
lễ lớn một lần. Kinh phí chủ yếu do nhân dân đóng góp, chính uyền chỉ hỗ trợ
về mặt an ninh, trật tự.
15


Trước lễ chính 1 ngày, các chư phái tộc trong làng họp lại để thảo luận,
phân công nhiệm vụ. Vào ngày 9/8 âm lịch, nhân dân đã tụ tập tại đình để dọn
dẹp, trang trí chuẩn bị cho lễ chính. Tối ngày 9/8, tổ chức lễ Vọng ngoài sân
đình.
Khoảng 8h ngày 10/8 âm lịch, lễ tế chính thức được diễn ra với các nghi
lễ đ ng theo các nghi thức cổ truyền của dân tộc. Trong lễ chính có nhạc bát âm,
đọc văn tế với nội dung cầu mong mưa thuận gió hòa, nhân dân ấm no, hạnh
phúc. Ban nghi lễ gồm có 1 vị chủ bái, 2 vị bồi bái, 1 vị tư lễ, 1 vị xướng lễ và
12 học trò gia lễ. Trang phục của ban nghi lễ đình làng gồm:

- Chủ tế: mũ đỏ, áo đỏ sau lưng có hình con rồng, quần trắng.
- 02 vị bồi bái: áo lam, quần trắng, mũ hia màu xanh.
- 01 vị tư lễ, 01 vị xướng lễ: áo đen, uần trắng, mũ hia màu đen.
- 12 học trò lễ: áo lam, quần trắng, mũ hia màu xanh.
Đồ c ng thường là gà, thịt, trái cây, rượu, trà.
Ngoài ra, đình làng n ải còn có các ngày lễ:
- Ngày mùng 2/3 âm lịch, ngày giỗ tiền hiền
- Ngày mùng 6/ âm lịch, giỗ hậu hiền, đồng thời kỷ niệm ngày mất danh
nhân Khâm sai thống chế Thoại Ngọc ầu.
Lễ nghi đình làng n ải nhắc nhở mọi người luôn tự hào về uê hương,
đất nước. Đây cũng là dịp để nhân dân trong làng có thể gặp gỡ, giao lưu, giáo
dục con cháu biết gìn giữ và phát huy các giá trị truyền thống.
- Nghi lễ Cầ ngư tr
Thành phố Đà Nẵng)

ền thống (Phường An Hải Tây, quận Sơn Trà,

“Lăng Ông vạn tứ chánh Nam Hải” của An Hải Tây được xây dựng hơn
1 năm. Lăng thờ vị thần Nam Hải cùng với những vị chư thần biển, các vị tiền
bối hậu bối đã sáng lập ra nghề biển tại vùng đất này. Cùng với sự hình thành
lăng Ông, nghi thức lễ cầu ngư đã được nhân dân duy trì và gìn giữ cho đến
ngày nay.
Hàng năm, nghi thức cầu ngư truyền thống được tổ chức vào ngày 20
tháng 02 âm lịch. Lễ được tổ chức dưới dạng “tiểu lễ”, với sự tham gia của các
ngư dân phường An Hải Tây. Điều hành lễ cúng gồm có: 01 vị chủ bái và 02 vị
văn hiến. Trang phục của chủ tế: quần áo gấm đỏ, mũ hia đỏ; 02 vị văn hiến:
quần áo gấm xanh, mũ xanh. Thức c ng thường là hoa uả, heo, gà và trà rượu.
Ngoài ngày lễ chính, trong năm c n có 2 ngày lễ:
- Ngày 25 tháng chạp: lễ thượng cờ
- Ngày 7 tháng giêng: lễ hạ cờ.

16


Lễ cầu ngư là một tập uán có ý nghĩa. Từ bao đời nay, ngư dân vùng n
Hải Tây vẫn giữ và lưu truyền nó với mục đích truyền tải ước vọng tâm linh.
Nhưng hiện nay, với quá trình chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, lực lượng ngư dân
làm biển đã giảm đi rất nhiều. Theo thống kê của phường, số lượng tàu cá kể cả
lớn nhỏ chỉ còn lại khoảng 40 thuyền. Đây chính là nguyên nhân chính làm cho
lễ cầu ngư truyền thống không còn sức sống trong cộng đồng.
- Lễ tang cá Ông của ngư dân i biển (Phường Mân Thái, Thọ Quang,
Nại iên Đông, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng)
Quận Sơn Trà là địa phương ven biển, người dân sinh sống chủ yếu bằng
nghề đánh bắt thủy, hải sản. Cả quận có hơn % dân số trực tiếp sống về nghề
biển. Ngoài ra, số còn lại làm các dịch vụ liên uan đến nghề biển như: cung cấp
lưới, làm các công cụ đánh bắt, buôn bán tôm cá…Ngư dân đánh bắt trong
khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 8 âm lịch và tấp nập nhất là từ tháng 4
đến tháng 6 âm lịch.
Cộng đồng ngư dân uan niệm cá voi như là thần biển rất linh thiêng và
gọi một cách tôn kính là cá Ông, cá Ông Voi hay Ngài Ngư, Đức Ngư Ông.
Theo quan niệm của họ thì Đức Ngư Ông luôn theo sát người dân đi biển, trong
l c bão gió ngoài khơi để cứu vớt người dân. Và họ tin rằng cá Ông (cá voi)
chính là sự hiển linh của thần biển có mặt ở biển khơi và xuất hiện khi có bão tố
để cứu độ dân chài. Vì thế, dân chài quận Sơn Trà rất tôn sùng cá Ông, coi cá
Ông như là ph c thần của dân chài. Khi đi biển gặp cá voi, họ coi đó là điềm
lành báo hiệu ngày đó đi biển đánh bắt sẽ được nhiều. Đang giăng lưới đánh bắt
ở ngoài khơi, nếu gặp cá voi họ thu lưới tránh đường cho ngài đi, với niềm tin và
nghiệm thấy làm vậy hôm đó đánh bắt được nhiều rõ rệt.
Gặp cá Ông lụy (cá voi chết) ngư dân ở đây coi đó là điềm lành, chẳng
những đối với người nhìn thấy đầu tiên, mà c n đối với cả vạn chài, cả làng, cả
xã, không những năm ấy mà còn nhiều năm sau nữa dân chài trong vùng vẫn

được mùa đánh cá. Người dân tìm cách đưa cá Ông lên bờ và tiến hành mai
táng, hay còn gọi là lễ tang cá Ông.
Khi gặp cá Ông bị chết trên biển hay trôi dạt, ngư dân tìm cách dìu thi hài
cá Ông vào bờ. Nếu trường hợp cá Ông uá to, không đưa lên bờ được thì dùng
đăng uây lại, cử người canh giữ cho đến khi thịt rữa hết dưới nước, rửa sạch
hài cốt để mai táng. Người đầu tiên phát hiện được xem như là người được
“Ông” tín nhiệm và vinh dự làm “trưởng nam”, tức là thân chủ thay mặt dân
làng bịt khăn tang bằng vải điều đỏ, chịu tang trong vòng 100 ngày. Theo phong
tục, nếu phụ nữ mà phát hiện cá Ông lụy thì phải nhanh chóng đi thông báo cho
một người đàn ông khác trong làng để người đó đứng ra chịu tang.
Sau khi đưa cá Ông vào bờ, dân chài cắm một lá cờ thần trên bãi biển báo
hiệu cho mọi người biết. Không khí tang lễ không phải ai oán, bi thương như
đám ma của người bình thường mà rất hồ hởi, vui vẻ. Việc tổ chức chôn vào
ngày, giờ nào, ở đâu phải được bàn bạc trước đó khi người “ được Ông” trình
17


vạn tại nhà, có mời chính quyền địa phương và các bạn chài. Lễ mai tang cá
Ông được tiến hành theo trình tự như sau:
- Ngày thứ nhất: Lập tang chủ, dùng vải điều đỏ và rượu trắng lau rửa
sạch sẽ để tiến hành liệm. Những tấm vải đỏ lớn khâm liệm thi thể ngài cẩn thận
trước khi mang chôn. Nhiều người còn dùng giấy bản thấm nước miếng (dãi)
của Ông về phơi khô hoặc lấy giấy vàng mã đắp vào hai mắt của Ngài để thắm
một ít dịch nước mắt, rồi sau đó phơi khô, gấp lại làm tư và cho vào một miếng
vải mới khâu lại thành lá bùa, đeo vào cổ trẻ em để chống lại ma quỷ, bệnh tật.
Ngư dân tiến hành nhập quan, lập bàn thờ, lập bài vị ghi ngày tháng phát hiện cá
Ông lụy trên giấy điều.
- Ngày thứ hai: ngư dân tổ chức cúng tế, đốt nhan trên bàn thờ, người
“trưởng nam” túc trực trong suốt uá trình mai táng… ọi ngư dân ai cũng đến
thắp hương vái lạy cầu an, cầu phúc. Ngay cả các ngư dân, vạn chài ở làng khác

nghe tin nơi nào có cá Ông “lụy” vào, dù xa xôi đến đâu cũng mang hương hoa
đến để cúng tế Ngài.
- Ngày thứ ba: Tổ chức đám tang, hát m a bả trạo bản “Đưa Ngư Ông”.
Nếu Ông lớn thì chôn tại bãi biển, còn Ông nhỏ thì đan rọ bằng tre, dưới rải
vàng bạc, áo giấy, đặt cá Ông vào, phía trên phủ vải điều đỏ đem về chôn tại
lăng Ông (thường là phía sau lăng). Trên đường đi, có đầy đủ cờ xí và chiêng
trống linh đình, bát hương đặt trên bàn thờ cũng được thỉnh về an vị tại lăng
Ông. Huyệt mộ cá Ông được đào rộng hẹp tùy theo kích thức của Ông, có thể
dài tới 20 – 30 mét và rộng chừng 5 mét. Trên mộ đặt một bàn thờ nhỏ bằng gỗ
trên có bày đồ thờ như bát hương, bình hoa, chén…
Sau ba ngày tổ chức đám tang, tiến hành lễ mở cửa mã. Sau đó, ngư dân
tiến hành cúng tuần 7 ngày, 21 ngày, 9 ngày, 1 ngày. Đ ng 1 ngày thì làm
lễ dỡ bỏ tang phục cho vị trưởng nam thân chủ. Đủ ba năm tiến hành lễ cải táng,
ngư dân đào mộ cá Ông lên, rốc thịt lấy xương, dùng nước lạnh, sau đó là rượu
trắng rửa sạch, xếp thứ tự vào và đưa vào để trong khám của lăng. Đến lúc này,
người “được Ông” coi như mãn tang (trong thời gian phục tang, người này
không phải kiêng kị gì cả).
àng năm, vào ngày phát hiện cá Ông lụy, ngư dân đều tổ chức ngày kỵ
Ông.
Nghi thức tang cá Ông vừa bày tỏ lòng biết ơn đối với đức Ngư Ông linh
thiêng, vừa hàm chứa niềm ước vọng của những người làm nghề sông nước,
mong một mùa bội thu tôm, cá. Đây cũng là dịp thể hiện tính gắn kết cộng đồng,
cùng nhau hợp sức chống chọi với thiên nhiên, xây dựng tình làng nghĩa xóm,
gi p đỡ nhau l c khó khăn, hoạn nạn.
- Lễ tống ôn của ngư dân i biển (Phường Mân Thái, Thọ Quang, Nại
iên Đông, uận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng)
18


Đây là một nghi lễ nằm trong diễn trình lễ tế Âm linh của hầu hết các làng

biển Đà Nẵng, c n gọi là lễ “tống cói hạ kỳ” hay “tống ôn đưa khách”. Tùy theo
phong tục của từng địa phương mà lại tổ chức lễ tế Âm linh vào những ngày
khác nhau, cụ thể như: lăng Âm linh ân Thái ngày 15 3 ÂL, lăng Ông Nại
iên Đông ngày 12 7 ÂL.
Lễ tống ôn thường diễn ra ở lăng Ông hoặc lăng Âm linh của địa phương.
Lễ bắt đầu vào lúc sáng sớm, gồm 2 nghi lễ liên hoàn là lễ nhương ôn và lễ tống
ôn.
- Lễ nhương ôn nhằm khao mời ôn hoàng dịch lệ, vong hồn Cô bác và các
“khách”. ên cạnh đó, c n mang ý nghĩa giải hạn cho làng vạn. Các bàn án của
lễ nhương ôn được bài trí từ trong lăng ra đến ngoài hiên, sân. Thường có ba bàn
đặt theo hàng dọc ở gian tả của lăng Âm linh (nhìn từ trong ra ngoài). Trước bàn
nhương ôn đặt bè Long Chu. Vật phẩm dâng c ng ở 3 bàn án khá giống nhau,
gồm: trầu, rượu, hoa uả, kim ngân, thanh y, xôi chè, tôm, cua thịt (cá gọi là gỏi,
gà gọi là chim). Ngoài những thứ đó ra, bàn c ng Cô bác và nhương ôn c n
thêm bông nổ, bánh trái, khoai sắn, cơm canh, rau sống, mắm cái, bánh tráng
cùng rất nhiều giấy vẽ hình nhân thế mạng.
Lễ nhương ôn bắt đầu sau 3 hồi chiêng trống. Vị chủ tế của làng, sau khi
thắp hương c ng các bàn hương án của gian chánh điện, lần lượt đến các bàn án
c ng Thành oàng, Tiền hiền và Hậu hiền, Cô bác Âm linh và bàn nhương ôn.
Lời khấn tại bàn c ng Thành oàng và Cô bác giống nhau, đại thể là cầu xin sự
hộ trì cho làng vạn cả năm làm ăn tấn tài tấn lợi, ghe thuyền ra khơi vào lộng an
toàn. C n đến bàn nhương ôn, vị chủ tế khấn ôn hoàng dịch lệ, những ma ọi,
ma Rợ mời về hưởng lễ, xin đừng uấy làng phá xóm.
Nghi thức c ng nhương ôn hoàn tất, toàn bộ thức c ng của bàn nhương ôn
và các đồ mã của bàn Cô bác được để hết vào các khoang của Long chu tống
tiễn. Long Chu là chiếc bè được làm bằng tre, dán giấy, đặt trên một chiếc bè tre
hoặc bè chuối. Vì là phương tiện chuyên chở ôn hoàng dịch lệ tống ra biển, cũng
là phương tiện tiễn đưa Cô bác và Người khuất mặt về cõi địa phủ nên Long
Chu phải đẹp, phải vững để trôi nhanh ra biển. Kích thước Long Chu dài từ
1,6m – 1,8m, cao và rộng khoảng

đến 80cm. Tiếng chiêng lại vang lên, lễ
tống ôn bắt đầu. Trước khi tống tiễn, Long chu được khai khoang điểm nhãn và
tẩy uế. ưa kia, người làm việc này là thầy pháp, c n ngày nay phổ biến ở các
làng là ông chủ tế của làng thực hiện.
Sau đó, bè Long Chu được 04 thanh niên khỏe mạnh khiêng ra biển.
Trong đoàn c n có đuốc lửa, trống chiêng, cờ xí, và đông đảo bà con trong làng
tham dự. Vào thời điểm tống Long Chu, mọi nhà không mở cửa, không chạy ra
đường. Nếu làm trái, ma uỷ sẽ uay trở lại tìm nơi tr ngụ, uậy phá làng vạn.
Đến biển, đám người khiêng Long Chu chạy ào xuống, trên bờ, chiêng đánh liên
hồi kỳ trận. ọ thực sự an tâm, phấn chấn khi thấy Long Chu trôi nhanh ra biển.
ởi sự kiện này đồng nghĩa với những điềm lành trong năm. Năm nào mà Long
19


Chu không trôi nhanh, bị nghiêng ngả, nhất là bị lật úp xuống biển thì báo hiệu
điều xấu, không may sẽ đến với làng. Lễ tống ôn đến đây coi như là hoàn tất.
ục đích lễ tống ôn là để tống tiễn xua đuổi ôn hoàng dịch lệ, đồng thời
để đặt nguyện vọng của cộng đồng dân biển được các thần linh và các vị đã
khuất phù hộ để có cuộc sống bình an.
- Một số nghi lễ liên q an ến công c và phương tiện i biển (Quận
Sơn Trà, Đà Nẵng)
Quận Sơn Trà là địa phương ven biển, nhân dân chủ yếu mưu sinh bằng
nghề đánh bắt hải sản. Cả quận có hơn % dân số trực tiếp sống về nghề biển.
Ngoài ra, số còn lại làm các dịch vụ như: cung cấp chài lưới, làm các công cụ
đánh bắt, buôn bán tôm cá... Ngư dân đánh bắt trong khoảng thời gian từ tháng 3
đến tháng 8 âm lịch và tấp nập nhất là từ tháng đến tháng 6 âm lịch.
Do cuộc sống phụ thuộc vào biển cả, vì vậy người dân ven biển Đà Nẵng
luôn có ước nguyện làm cho biển cả trở nên hiền hòa hơn, con thuyền và những
vật dụng đánh bắt khác trở nên mạnh mẽ và hữu hiệu trong uá trình tiến ra
biển.

ột số nghi lễ liên uan đến phương tiện, công cụ của nghề biển:
- Lễ phạt mộc: Giống như lễ động thổ khi làm nhà cửa, lễ phạt mộc tiến
hành sau khi chủ thuyền đã coi tuổi, coi ngày, giờ tốt để bắt bắt đầu đóng một
con thuyền mới. Lễ vật cũng như nhiều nghi lễ thờ c ng khác, gồm: Trầu rượu,
hoa uả, vàng mã... đặc biệt trên giấy hàng mã có vẽ các bà Kim, ộc, Thuỷ.
Việc c ng các bà có liên uan đến chất liệu sử dụng để đóng thuyền và môi
trường hoạt động của thuyền. Sau khi thắp hương c ng cáo ba bà, mời cô bác,
chủ thuyền dùng rùi phạt vào gỗ ba lần. Dăm gỗ được giữ lại một ít gói vào vải
điều nhỏ để tống đi khi hạ thuyền.
- Lễ tống mộc đưa dăm: Lễ tẩy uế thuyền trước khi hạ thủy. Lễ c ng gồm
2 mâm lễ vật, một để trên mũi thuyền để c ng bà ộc, một đặt trên bờ để c ng
bồi bãi và cô bác. âm lễ c ng bà ộc nhất thiết phải có một chiếc thuyền nhỏ
làm bằng giấy, đặt trên chiếc bè chuối nhỏ. ốn góc bè cắm bốn cây cờ xéo nhỏ
bằng giấy.
giữa l ng đặt một gói dăm bào (được chủ thuyền cất ở lễ phạt
mộc), bên cạnh là một đĩa trầu cau (một lá trầu và một uả cau), một con cá
nướng đặt trên đĩa, xung uanh là áo mũ c ng cô hồn. Lễ được tiến hành với
nghi thức “khoán bùa” của thầy c ng, sau đó thắp hương rồi vái tứ phương xin
hành lễ. Tiếp theo chủ thuyền buông bè xuống biển.
- Sau cùng là lễ “hành thuyền phóng thủy” tức “đẩy thuyền xuống biển”.
Chủ thuyền cho thuyền chạy ra cửa hoặc chạy cách bờ một uảng đường vài cây
số. Lễ hành thuyền được coi là chuyến đi đầu tiên, mở màn nên gọi là “đi mở
hàng”.
- Lễ nh ng lưới, được tiến hành vào đầu xuân thường là ngày chẵn tháng
Giêng âm lịch. Địa điểm nh ng lưới có thể ngay tại bến hoặc cửa biển. Tại
20


những nơi này, người ta thắp hương khấn vái bà Thủy, ông Ngư, cô bác rồi sau
đó vãi hết vật c ng xuống biển.

- Sau một mùa đánh bắt trên ngư trường, các công cụ và phương tiện đi
biển đem về thường được cất ở trên cao, những nơi khô ráo. Trước khi tiến hành
lấy các công cụ để chuẩn bị cho một mùa đánh bắt mới, ngư dân phải làm lễ
cúng tại nhà để cầu mong một mùa đánh bắt bội thu, sau đó mới được mang các
công cụ, phương tiện đi biển xuống thuyền.
Các nghi lễ liên uan đến công cụ và phương tiện đi biển có ý nghĩa rất
lớn trong đời sống tâm linh của cộng đồng ngư dân, có tác động sâu sắc đến yếu
tố an dân trong hành nghề trên biển và niềm tin sự an cư lạc nghiệp trong cộng
đồng vạn chài.
- Nghi lễ truyền thống ình Nại Hiên (Phường Nại
Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng)

iên Đông, uận

Đình Nại iên được xây dựng bằng mái lá đơn sơ vào năm 1 57. Năm
1945 - 195 , đình là nơi hội tụ của lực lượng vũ trang Khu Đông Đà Nẵng, nơi
giữ hòm thư mật để chuyển tài liệu cách mạng ra các tàu đậu ở vịnh Đà Nẵng.
Năm 19 7, giặc Pháp đốt cháy, phá nát toàn bộ ngôi đình. Năm 195 ngôi đình
được xây dựng lại tranh tre, năm 1957 đình được xây dựng kiên cố bằng gạch
ngói, xi măng. Đến năm 199 , nhân dân đóng góp tiền của, công sức trùng tu lại
đình.
Nghi lễ đình Nại Hiên bắt đầu từ khi có đình làng và vẫn tiếp tục được
nhân dân duy trì và gìn giữ đến ngày hôm nay. Một năm, đình Nại Hiên có 02
ngày cúng chính, gồm có: Lễ cầu an ngày 12/2 ÂL, lễ tế Âm linh ngày 12/7 ÂL.
- Lễ cầu an diễn ra tại đình Nại iên, do điều kiện kinh phí nên chỉ tổ
chức dưới dạng “tiểu lễ”. an tổ chức nghi lễ họp nhân dân trước 2 ngày để
phân công nhiệm vụ, vận động kinh phí. Lễ vật cúng gồm có: gà, trái cây, đặc
biệt có con heo sống chưa ua chế biến (chưa nấu chín), c n được gọi là “uế
mao huyết” (hiện nay chỉ duy nhất nghi lễ truyền thống đình Nại Hiên là còn lễ
vật c ng đặc biệt này). Lễ có đầy đủ các nghi thức truyền thống: dâng rượu,

dâng trà, đọc văn tế. Nội dung bài văn tế ca ngợi công đức của các vị tiền hiền,
hậu hiền đã có công khai khẩn lập nên vùng đất Nại Hiên ngày nay, báo cáo tình
hình làng xã và mong một vụ mùa bội thu, sức khỏe dồi dào, xóm làng yên ổn.
- Lễ tế Âm linh diễn ra tại sở Âm linh, nhằm cầu siêu cho các vong linh
những người chết đường, chết trận, chết không có con cháu thờ tự. Nghi thức lễ
cũng tương tự như lễ cầu an đình làng.
Ban nghi thức lễ nhiệm kỳ 3 năm bầu 01 lần, vị chủ bái phải là người
thuộc 07 họ lớn trong làng (Trương, uỳnh, Lê, Trần, Nguyễn Công, Nguyễn
Văn, ai), gia đình không mắc tang, không tật nguyền, vợ chồng song toàn,
được nhân dân tin tưởng. Trang phục của ban nghi lễ gồm có:
+ Vị chủ bái: áo màu xanh, đội mão, chân đi tất trắng.
21


+ 02 vị tả, hữu phân hiến: áo màu xanh đậm, quần trắng, chân đi tất trắng.
Nhạc cổ như trống cái, chiêng (chinh), lệnh (thanh la) của làng đã có sẵn
và sẽ do người trong làng đánh. C n các loại nhạc cụ như kèn, trống nhỏ.. phải
thuê ở nơi khác đến.
Ngoài ra còn có các ngày giỗ tiền hiền 20/8 ÂL, ngày dựng neo 25/12 ÂL,
hạ neo 07/01 ÂL.
Nghi thức lễ đình Nại Hiên nhằm cầu quốc thái dân an, mưa thuận gió
h a, làm ăn được mùa. Đây là một trong những nghi lễ truyền thống, biểu hiện
đời sống tâm linh tín ngưỡng của cộng đồng cư dân.
- Nghi lễ cầ an ình Mỹ Khê (Phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà, thành
phố Đà Nẵng)
Đình ỹ Khê được xây dựng khoảng từ 300 –
năm, ban đầu đình chỉ
được xây dựng đơn giản bằng tranh tre để làm nơi hội họp, thờ cúng. Trải qua
một thời gian dài bị tàn phá, nhân dân đóng góp tiền của, công sức để trùng tu
đình vào những năm 1913, 2 13. Đình thờ tiền hiền, hậu hiền và 12 tôn tộc cùng

xây dựng nên làng Mỹ Khê. Các tộc họ có công khai phá đất đai lập làng ỹ
Khê gồm có: tộc Đàm (ông Đàm Văn Độn có công khai phá nên vùng đất Mỹ
Khê), và trở thành tiền hiền của làng, về sau c n các tộc Nguyễn, ồ, uỳnh,
Đinh, Trần Lê, Dương, Ngô... là hậu hiền của làng.
Lễ cầu an, cầu ngư đình ỹ Khê được tổ chức vào ngày 24/01 ÂL, tùy
thuộc vào kinh phí đóng góp của người dân mà tổ chức dưới dạng “tiểu lễ”,
“trung lễ”, “đại lễ”. Nghi thức lễ được diễn ra theo trình tự sau:
- Lễ vọng: Khoảng 5h tại sân đình, ban nghi lễ tổ chức lễ Vọng để mời
các vị tiền hiền, hậu hiền về tham dự lễ cùng với người dân.
- Lễ rước văn: h tổ chức rước văn từ lăng à về đình làng để chuẩn bị
cho lễ chính. Tham gia đoàn rước có ban nghi lễ, kiệu rước làm bằng tre được
04 thanh niên trong làng khiêng, ban nhạc cổ.
- Lễ chánh: Sau khi đón tiếp đại biểu và nhân dân về tham dự, lễ tế chính
được bắt đầu khoảng 8h. Ban thực hiện nghi lễ gồm có: 01 vị chủ bái, 02 vị tả
hữu văn hiến, vị xướng lễ. Nếu tổ chức lễ lớn thì có thêm đội học trò gia lễ. Lễ
vật cúng chủ yếu là gà, thịt heo, cá, trái cây… đều do người dân tự chế biến. Lễ
có đầy đủ các nghi thức truyền thống: dâng trà, dâng rượu, đọc văn tế. Nội dung
văn tế là ca ngợi công đức của các vị tiền, hậu hiền, cầu mong một năm mưa
thuận gió h a, nhân dân làm ăn phát đạt.
Đối với làng Mỹ Khê, ban nghi lễ được bầu 5 năm 1 lần, 01 vị chủ bái
được bầu phải là người có chữ tín trong làng, gia đình song toàn, không có tang.
Ngoài ra, đình c n có các ngày lễ truyền thống khác: lễ kỵ yên ngày 16/6
ÂL, tất niên ngày 25/12 ÂL.
22


Đình là nơi nhân dân tổ chức các hoạt động tín ngưỡng của nhân dân Mỹ
Khê. Trong suốt những năm chiến tranh, do điều kiện kinh tế khó khăn, người
dân chỉ thắp hương vào ngày lễ. Sau chiến tranh, nhân dân đã khôi phục lại lễ
cầu an và duy trì, phát triển đến ngày hôm nay.

- Nghi lễ cầ ngư tr
Thành phố Đà Nẵng)

ền thống (Phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà,

Trước đây, làng ỹ Khê vốn là làng chài, người dân chủ yếu sống bằng
nghề đi biển. Lăng Ông được xây dựng hoang sơ bằng đá n i, san hô vào những
năm đầu khai hoang, lập nghiệp. Trong những năm chiến tranh, lăng bị đập phá,
hư hại nặng nề. Vào những năm 9 , trước sự xuống cấp của lăng, được sự hỗ trợ
của Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng, nhân dân làng Mỹ Khê đã huy động
sự đóng góp tiền bạc, sức lực xây dựng lăng Ông hoàn toàn mới dựa trên nền
kiến trúc của lăng cũ.
Lăng Ông vừa có chức năng tín ngưỡng lại vừa là nơi tổ chức lễ cầu ngư
hàng năm. Phần lễ được tiến hành một cách đơn giản nhưng đầy không khí trang
nghiêm thành kính. Nghi lễ nhằm bày tỏ lòng thành kính của ngư dân vùng biển
với cá Ông, cầu mong sự che chở, tốt lành bội thu và cũng như để xua đi mọi
điều xấu.
Trước đây, lễ cầu ngư được tổ chức hàng năm vào ngày 1 5 ÂL. Sau
năm 2
, vùng đất Mỹ Khê được giải tỏa, ngư dân có sự chuyển đổi cơ cấu
ngành nghề, nhân dân làm nghề đánh bắt thủy, hải sản chỉ còn lại khoảng 2 đến
30 hộ. Việc duy trì nghi lễ cầu ngư truyền thống trở nên khó khăn về cả kinh phí
lẫn nhân sự. Trước tình hình đó, ngư dân đã thống nhất thực hiện nghi lễ chung
với lễ cầu an đình ỹ Khê, vào ngày 24/01 ÂL.
Vào sáng sớm ngày 24/01, ban nghi lễ tổ chức lễ tại lăng Ông Mỹ Khê để
mời thần Nam Hải và các vị tiền bối, hậu bối nghề biển về tham dự lễ. Sau nghi
lễ tại lăng Ông, ban nghi lễ về đình làng ỹ Khê để cúng tế, nhằm bày tỏ lòng
thành kính của ngư dân vùng biển với cá Ông, cầu mong sự che chở, tốt lành bội
thu và cũng như để xua đi mọi điều xấu. Lễ vật cúng gồm: trái cây, gà, xôi, thịt
và áo giấy. Sau khi ban nghi lễ cầu ngư thực hiện lễ tế xong, ban nghi lễ đình

làng Mỹ Khê mới tiến vào đình để thực hiện nghi lễ cầu an tại đình.
Ban nghi lễ cầu ngư là những ngư dân c n hành nghề biển, đều là những
người lớn tuổi, có đạo đức, được nhân dân tin tưởng và trọng dụng. Những vị
trong ban nghi lễ sẽ giữ chức vụ đến khi tuổi cao không đảm nhiệm được nữa thì
mới bầu một vị mới lên thay.
- Kiêng kị khi i biển của ngư dân q ận Sơn Trà (Quận Sơn Trà, Đà
Nẵng)
Quận Sơn Trà là địa phương ven biển, người dân sinh sống chủ yếu bằng
nghề đánh bắt thủy, hải sản. Cả quận có hơn % dân số trực tiếp sống về nghề
23


×