Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Thực trạng huy động vốn trong nước phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.34 KB, 38 trang )

Thực trạng huy động vốn trong nước phục vụ cho đầu tư phát triển
kinh tế Việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU
Trong vòng tròn tác động lẫn nhau giữa vỗn, kỹ thuật, và tăng trưởng thì
vốn là yếu tố quan trọng nhất.
Quá trình phát triển nền kinh tết nước ta những năm qua đã có nhiều
chuyển biến và đàt được những thành tựu quan trọng. Tuy vậy,đến nay
nước ta vẫn là một nước nông nghiệp kém phát triển,công nghiệp còn nhỏ
bé.Muốn đạt tiêu dân giàu,nước mạnh,xã hội công bằng văn minh,tất yếu
phỉa đẩy tới bứơc đổi mới CNH-HĐH .Và để hoàn thành nhiệm vụ CNHHĐH cần có những tiền đề,điều kiện,trong đó yếu tố vốn có tầm quan trọng
hàng đầu.Vậy phải làm gì để có lượng vốn cần thiết đó? Trả lời câu hỏi này
nhà nước ta đã ban hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư
nước ngoài.Nhưng trong quá trình thực hiện vẫn còn nhiều tồn tại nhiều
vấn đề mới nảy sinh,gây khó khăn cho việc thu hút vốn.Vậy chúng ta phải
có giải pháp gì nhằm thu hút có hiệu quả vốn đầu tư phục vụ cho phát triển
kinh tế?
Chính sự bức xúc đó đã khiến em lựa chọn và nghiên cứu đề tài “Thực
trạng huy động vốn trong nước phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế Việt
Nam”,mong góp phần tìm ra được những giải pháp đó.
Kết cấu đề tài gồm 3 phần chính :
Phần I: một số vấn đề lí luận chung về đầu tư.
Phần II: thực trạng huy động vốn trong nước phục vụ cho đầu tư phát
triển những năm qua.
Phần III: những giải pháp chủ yếu để huy động vốn trong nước.

1


PHẦN MỘT
CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC
I, KHÁI NIỆM VÀ BẢN CHẤT CỦA ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC



1, Khái niệm về đầu tư trong nước.
Trong thuật ngữ về đầu tư có rất nhiều cách hiểu khác nhau về đầu tư
trong nước, tuy nhiên theo Điều 2,Luật KKĐTTN,1994,thì đầu tư trong
nước được hiểu là việc bỏ vốn vào sản xuất,kinh doanh tại Việt Nam của
các tổ chức,công dân Việt Nam,người Việt Nam định cư ở nước
ngoài,người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt Nam.
Việc bỏ vốn vào sản xuất,kinh doanh được hiểu là việc sử dụng đồng vốn
vào quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo ra tiềm
lực lớn hơn cho sản xuất,kinh doanh,dịch vụ,sinh hoạt xã hội và sinh hoạt
trong mỗi gia đình.
Định nghĩa này nhấn mạnh động cơ đầu tư và phân biệt đầu tư trong
nhước với đầu tư nước ngoài .Trong đó đầu tư nước ngoài có đặc trưng cơ
bản là đồng vốn bỏ vào sản xuất kinh doanh tại Việt Nam là vốn của nhà
đầu tư nước ngoài.ở đây nhà đầu tư nước ngoài có thể là tổ chức kinh tế,cá
nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam và thuộc đối tượng điều chỉnh của
Luật KKĐTNN tại Việt Nam.
2, Bản chất của vốn đầu tư .
Trong lịch sử phát triển kinh tế thế giới,đã có rất nhiều nhà kinh tế học
nghiên cứu về lĩnh vực đuầ tư,trong đó chú trọng nghiên cứu về vấn đề
vốn, đặc biệt là vốn đầu tư trong nước.Nhưng lí thuyết được nhiều người
quan tâm và chấp nhận hơn cả là lí thuyết của J.M Keynes.Theo ông cơ sở
chủ yếu để hình thành vốn đầu tư là từ nguồn tiết kiệm.Ông cho rằng :
2


Σ đầu tư = Σ tiết kiệm

Trong nền kinh tế,hàng năm người ta đều tạo ra một khối lượng giá trị
hàng hoá và dịch vụ cuối cùng gọi là tổng sản phẩm quốc dân GDP .Có rất

nhiều cách để xác định tổng sản phẩm quốc dân GDP tuỳ theo mục đích
khác nhau .Một trong những cách xác định GDP đó là căn cứ vào mục đích
sử dụng của nó .Theo cách này GDP được chia thành hai bộ phận chính
như sau:
- tiết kiệm quốc dân (Sn).
- Tiêu dùng quốc dân(C).
Khi đó công thức xác định sẽ là :
GDP=C+Sn (1)
Tiết kiệm là nguồn tìa chợ cho đầu tư ,theo công thức (1) thì khi tiết kiệm
tăng sẽ làm cho chenh lệch giữa GDP và tiêu dùng C càng lớn.
Sn=GDP- C
Và như vậy đây là điều kiện cho phép tăng nguồn vốn đầu tư .
Cũng căn cứ vào (1) ta có thể khai thác nguồn vốn đầu tư bằng các biệ
pháp kích thích sử dụng tiết kiệm vào mục đích đầu tư.Mức tiết kiệm (Sn)
bằng mức đầu tư (I), có nghĩa là : Sn=I.hệ số cũng như hệ số đầu tư được
tính bằng công thức :

S=

Sn I
=
(2)
Y
Y

trong đó : S: là hệ số tích luỹ(hệ số tiết kiệm)
Y: là tổng sản phẩm quốc dân GDP

3



Sn: là mức tiết kiệm.
I : mức đấu tư .
Nhìn vào (2) ta thấy: hệ số đầu tư tỉ lệ thuận với mức đầu tư,mà múc đầu tư
lại phụ thuộc vào mức tiết kiệm hay mức tích luỹ của nền kinh tế quốc dân.
Từ đó có thể rút ra kết luận: Con đưòng cơ bản, và quan trọng về lâu
dài để phát triển nền kinh tế là phát triển sản xuất và thhực hành tiết kiệm ở
cả trong sản xuất và tiêu dùng.
II,VAI TRÒ CỦA VỐN TRONG NƯỚC ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH PHÁT
TRIỂN KINH TẾ.

1.Các nguồn hình thành vốn đầu tư.
Vốn đầu tư trong nước được hình thành từ các nguồn chủ yếu sau:
- Tiết kiệm của nhà nước (Sg).
- Tiết kiệm của các tổ chức, DNNN (Sc).
- Tiết kiệm của khu vực dân cư (Sh).
a. Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước (NSNN):
Đó là phần còn lại của NSNN sau khi đã trừ đi các khoản chi thường
xuyên của Nhà nước.
Sg= T- G
Trong đó: Sg: Tiết kiệm cùa Nhà nước
T: Tổng thu NSNN
G: các khoản chi thường xuyên của Nhà nước.

4


Nguồn thu chính của NSNN là thuế và phí,ngoài ra còn các khoản thu
khác như bán, cho thuê tài nguyên, tài sản thuộc khu vực Nhà
nứơc….Tổng chi của NSNN gồm: chi mua hàng hoá dịch vụ, chi trả

lương cho cán bộ công nhân viên hành chính sự nghiệp, chi trợ cấp, chi
trả lãi tiền vay và các khoản phải chi khác.
b. Nguồn vốn từ các tổ chức, DNNN:
Đó là nguồn vốn được tạo ra từ nội bộ các tổ chức, DNNN trong quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó bao gồm lợi nhuận để lại DN (lợi
nhuận sau khi đã trừ đi các khoản thuế và các khoản phải nộp khác), và
quỹ khấu khấu hao của DN.
Sc = Dp +Pr
Trong đó: Sc: là tiết kiệm của các DN
Dp: là quỹ khấu hao của DN.
Pr: là lợi nhuận để lại của DN.
Hiện nay, ở Việt Nam nguồn vốn này con được hình thành thông qua hình
thức cổ phần hoá DN.
c. Nguồn vốn từ khu vực dân cư:
Nguồn vốn này được hình thành từ thu nhập sau thuế của dân cư sau
khi đã trư đi các khoản chi thường xuyên.
Sh= DI – C
Trong đó; Sh: là tiết kiệm tư khu vực dân cư.
DI: là thu nhập sau thuế của khu vực dân cư.
C: là các khoản thi chi thường xuyên của khu vực dân cư.
5


Nói cach khác, vốn trong dân chính là một lượng giá trị mới do lao động
của con người sáng tạo ra, tích luỹ để lại: Nó bao gồm tiền tích luỹ, tiền
tiết kiệm của dân và nguồn di chuyển từ nước ngoài vào trong nứoc, do
những người lao động hợp tác ở nước ngoài mang về, việt kiều gửi về cho
thân nhân trong nước,các cán bộ chuyên gia, lưu học sinh ở nước ngoài và
cộng đồng người Việt Nam ở các nước trên thế giới mang về.
2.Vai trò của vốn trong nước.

a. Vai trò của nguồn vốn từ NSNN.
Đối với các nước đang phát triển thì nguồn này có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong hoạt động đầu tư phát trtiển. Hàng năm Nhà nước dành
khoảng 20% nguồn vốn ngân sách cho xây dựng cơ bản, đầu tưvào xây
dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, đầu tư vào những lĩnh vực then chốt,
những lĩnh vực quan trọng, khả năng sinh lời thấp,thời gian thu hồi vốn lâu,
nhằm tạo ra môi trường thuận lợi, kích thích đầu tư các khu vực khác.
Đồng thời góp phần giải quyết việc làm,nâng cao thu nhập và mức sống
cho người dân,góp phần phát triển đông đều giữa các ngành , các vùng.
Ngoài các khoản chi thường xuyên, hàng nămNhà nước còn đầu tư một
lượng vốn lớn, nhằm nâng cao hệ thống giáo dục,y tế,để nâng cao chất
lượng giáo dục,khả năng chăm sóc sức khủe cho người dân.
Nguồn vốn Nhà nước còn đảm bảo cho các DNNN hoạt động được liên
tục và có hiệu quả,để nền kinh tế Nhà nước thực sự giữ vai trò chủ đạo
nhằm ổn định kinh tế vĩ mô,đưa nền kinh tế phát triển theo hướng CNHHĐH.
b.Vai trò của nguồn vốn từ các doanh nghiệp.
Nguồn vốn này có ý nghĩa quan trọng trong việc tái đầu tư, đổi mới
công nghệ, mở rộng sản xuất, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các

6


doanh nghiệp, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế,giải quyết việc làm và
nâng cao mức sống của ngưòi lao động.
Trong khi việc huy động từ nguồn vốn bên ngoài để đầu tư còn gặp
nhiều khó khăn, thì nguồn vốn này có thể đảm bảo cho các doanh nghiệp
hoạt động được liên tục và có hiệu quả. Do vậy nó có vai trò không chỉ
đối với doanh nghiệp mà còn tác động trực tiếp đối với tốc độ tăng trưởng
hàng năm của tổng sản phẩm trong nước.
Hiện nay ở các nước đang phát triển nguồn vốn này chiếm khoảng

30% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.Vì vậy các chính sach kinh tế vĩ mô xem
nguồn vốn này là đội tượng hàng đầu cần tác động vào, tạo đà cho phát
triển kinh tế trong thời gian tiếp theo.
c. Vai trò của nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
Hệ thống ngân hàng với chức năng là trung tâm tiền tệ, tín dụng và
thanh toán của các thành phần kinh tế sẽ là nơi huy động nguồn vốn nhằn
rổitong các thành phần kinh tế.
Ngày nay hệ thống ngân hàng đang có một bước phát triển nhanh chóng,
với cơ chế thông thoáng, phản ứng nhanh nhạy trước những thay đổi của
thị trường và giá cả xẽ là nơi thu hút vốn cho cá thành phần kinh tế,tạo sự
cân đối giữa cung và cầu về vốn khắc phục tình trạng nơi thừa ,nơi thiếu
vốn.
Hiện nay trong cac hình thức huy động vốn thì huy động qua hệ thống
ngân hàng vẫn là hình thức huy động có hiệu quả nhất , mền dẻo và hấp
dẫn hơn cả. Hệ thống này hoạt động không hoàn toàn vì lợi ích của mình
mà còn do lợi ích của nền kinh tế.

7


Thông qua tái phân phói vốn cho xã hội, hệ thống nhân hàng có thể coi là
“bà đỡ” của các doanh nghiệp của nền kinh tế, góp phần thúc đẩy quá trình
tăng trưởng và phát triển kinh tế.
d. Vai trò của nguồn vốn đầu tư từ các tổ chức tư nhân và hộ gia đình.
Nguồn vốn dân cư là bộ phận cấu thành tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội,
là nguồn tài chính to lớn có thể huy động cho đầu tư phát triển.
Nguồn vốn này góp phần phát triển các doanh nghiệp ngoài quốc doanh,
đây là thành phần kinh tế mấy năm gần đây ở nước ta hoạt động rất có hiệu
quả, cps sự đóng góp cao trong tỷ lệ tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho dân cư.

Với phương châm “ Nhà nước và nhân dân cùng làm” nguồn vốn này
cùng với nguồn vốn từ ngân sách phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội,
góp phần nâng cao chất lượng cơ sở vật chất, y tế , giáo dục….
ở nước ta hiện nay nguồn vốn này chiếm tỉ lệ cao trong các yéu tố cấu
thành nội lực, là nguồn vốn tiêu biểu, có hiệu suất cao, có y nghĩa quan
trọng đối với viêvj phát triển kinh tế.
3. Tầm quan trọng của vốn trong nước.
Trong quá trình phát triển kinh tế không một quốc gia nào có thể phủ
nhận tầm quan trọng của các nguồn vốn, đặc biệt là vốn trong nước. Như
Việt Nam chẳng hạn để đạt dược mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ 7 –8%
mỗi năm trong giai đoạn 2001-2005 thì cần lượng vốn hàng năm khoảng
55-60 tỷ USD. Vì vậy, huy động các nguồn vốn vào quá trình đầu tư phát
triển là hết sức cần thiết. Nhung trên thực tế, những năm qua nguồn vốn
huy động từ bên ngoài (FDI,ODA), có xu hướng ngày càng giảm, nếu năm
1995 vốn trong nước chiếm 65,17%,vốn nước ngoài chiếm 34,83% trong
tổng vốn huy động thì đến năm 1999 con số này thay đổi là 71,73% vốn
trong nước, còn vốn nước ngoàichỉ chiếm 20,82%, ước tính năm 2000 vốn
8


trong nước sẽ tăng 72,88%, còn vốn nước ngoài giảm xuống chỉ là 17,97%.
Như vậy có thể thấy huy động vốn từ bên ngoài ngày càng khó khăn hơn.
Mặt khác huy động vốn nước ngoài còn mang theo nhiều hạn chế như:
mang nợ nước ngoài, bị ràng buộc các điều kiện về kinh tế, chính trị,đòi hỏi
một lượng vốn đối ứng….Vì vậy, để nền kinh tế phát triển ổn định và vững
chắa thì thu hút vốn trong nước có ý nghĩa hơn cả, nó giữ một vai trò quyết
định trong chiến lược phát triển kinh tế: Điều này được thể hiện như sau:
Thư nhất: huy động được nguồn vốn trong nước là tiền đề vật chất cho
việc vay vốn nước ngoài, phản ánh sức mạnh của nền kinh tế đang phát
triển, đảm bảo khả năng thanh toán bền vững trong quan hệ tín dụng đố với

các nước. Là động lục thúc đẩy các nước mạnh dạn đầu tư mà không bị mất
vốn.
Thứ hai: huy động vốn trong nứoc bền vững là biện pháp hữu hiệu nhất
cho việc quản lý và điều hoà lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua của đồng
tiền, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát dưới 10% là có khả năng thực hiện được.
Thứ ba: Huy động vốn trong nước có hiệu quả là cơ sở vững chắc để Nhà
nước hoạch định chiến lược kinh tế, và cân đối vốn trong nước với vốn
nứoc ngoài, đảm bảo sự ổn định nền tài chính quốc gia, chủ động trong hợp
tác quốc tế, không bị thúc ép của bên ngoài. Sự tăng trưởng nguồn vốn nội
lực là pháo đài vững chắc chống đỡ những rủi ro của nền kinh tế và khủng
hoảng kinh tế trong nước, như một số nước trong khu vực.
Thứ tư: Huy động vốn bằng lãi suất cao là động lực thúc đẩy người có
tiền tiết kiệm chi tiêu,mua xắm, xây dựng chưa cần thiết, dành tiền gửi vao
Nhà nước để sinh lời, đồng thời giải quyết được tình trạng thiếu vốn đầu tư.
Thư năm: Muốn huy động vốn nhiều phải có lãi suất cao tức là “đầu vào
cao”, dẫn đến “đầu ra cao” đó là nguyên tắc trong kinh doanh tiền tệ. Tuy
nhiên đó là “nổi bật” còn “bề sâu” cũng phải suy ngẫm một cách nghiêm
túc là lãi suất huy động có cao nhung Nhà nước tập trung và tích tụ được
9


vốn, giảm dần vốn di vay nước ngoài, nhân dân tăng thêm thu nhập là cái
gốc để nguồn vốn huy động không ngừng tăng lên làm cho nứoc mạnh, dân
giầu.
Thứ sáu: huy động nguồn vốn trong nước ngày càng nhiều, tỷ lệ vay
nước ngoài giảm đi một cách hợp lý là biện pháp tiết kiệm ngoại tệ cho
Nhà nước, và đưa nguồn vốn trong nước giư vai trò quyết định.

III.CÁC NHÂN TỐ CHÍNH ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ
TRONG NƯỚC


Để phát triển nền kinh tế hiệu quả và bền vững thì vẫn đề thu hút vốn
đầu tư là hết sức cần thiết nhưng để thu hút được đồng vốn có hiệu quả và
chắc chắn thì cần phải biết thu hút vốn phụ thuộc vào các yếu tố nào, tại
sao các yếu tố đó lại ảnh hưởng đến vẫn đề huy động vốn. Sau đây là các
yếu tố ảnh hưởng tới thu hút vốn đầu tư:
1. Sự ổn định về chính trị:
Chính trị ổn định sẽ khuyễn khuyễn khích các nhà đầu tư an tâm bỏ
vốn vào sản xuất kinh doanh. Nó là yếu tố được các nhà đầu tư quan tâm
hàng đầu, thật vậy nếu một quốc gia có nền chính trị bất ổn địng, rễ gây
nhiều rủi ro cho các nhà đầu tư như: chi phí lớn cho sự khủng hoảng về
chính trị tỷ lệ hoàn vốn không chắc chắn, lợi nhuận không đảm bảo, lưu
thông hàng hoá, dịch vụ và nhân lực bị phá vỡ.
2. Hệ thống pháp luật:
Hệ thống pháp luật là thành phần quan trọng của môi trường đầu tư.
Nó ảnh hưởng không nhỏ đến lợi nhuận của nhà đầu tư và quyết định đầu
tư của họ. Chẳng hạn như luật thuế, ưu đãi về thuế,nếu mức thuế đánh vào
hoạt động sản xuất kinh doanh của họ quá cao,thì nhà đầu tư kinh doanh có

10


thể chỉ đủ để trả nợ thuế,nhiều khi mức kinh doanh thu không trang trải đủ
nợ thuế. Vì vậy đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật hợp lý, công bằng
và thông thoáng.
3. Các chính sách kinh tế:
Thực tế cho thấy đồng vốn bao giờ cũng biết tìm đến nơi có điều kiện
sinh lời cao và ổn định. Vì vậy để thu hút có hiệu quả đồng vốn cho đầu
tư,Chính phủ và các nước luôn phải đưa ra cá chính sách kinh tế hợp lý và
hoàn thiện như; các quy định về chuyển giao lợi nhuận, các chính sách

thương mại,các quy định về quyền sở hữu, đểm bảo an toàn và công bằng
cho các nhà đầu tư.
4.Các chỉ tiêu phát triển kinh tế:
Bao gồm: tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, GDP/ đâu nguời… có ảnh hưởng
lớn
Tới quyết định của nhà đầu tư. Thực vậy khi một quốc gia có tỷ lệ tăng
trưởng cao, đều đặn sẽ thúc đẩy quá trình tiêu thụ sản phẩm, chu trình quay
vòng vốn được nhanh chóng và thuận tiện, tỷ lệ lợi nhuận thu được cho chủ
đầu tư.
Bên cạnh các chỉ tiêu phát triển kinh tế, thì cơ sở hạ tầng cũng là yếu tố
quan trọng tác động tới thu hút vốn đầu tư như: sân bay, bến cảng, đường
giao thông hệ thống thông tin liên lạc….là các nhân tố cần thiết cho sản
xuất, đảm bảo sự liên tục của các hoạt động thương mại, dịch vụ và lưu
thông hàng hoá.
Trên đây là những nhan tố chủ yếu ảnh hưởng tới quyết định bỏ vốn của
nhà đầu tư. Ngoài ra còn nhiều yếu tố ảnh hưởng như: vị trí địa lí,tài
nguyên khoáng sản, tài nguyên đất, tài nguyên du lịch, khí hậu….

11


PHẦN II
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TRONG NƯỚC
Ở VIỆT NAM NHỮNG NĂM QUA

Kinh tế Việt Nam từ khi đổi mới đến nay (năm 1986) liên tục tăng
trưởng với tốc độ cao, bình quân mỗi năm thời kỳ 1991 - 1995 tăng 8,1%,
năm 1996 tăng 9,34%, năm 1997 đạt 8,15%, năm 1998 mặc dù bị ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ và thiên tai khắc nghiệt,
nhưng tốc độ tăng trưởng đạt được là 5,8% tuy thấp hơn so với các năm

trước nhưng so với các nước trong khu vực thì thật đáng khích lệ: theo báo
Tài chính số 1 năm 1999 thì tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1998 của
Singapore là 0,5%, Malaixia là: -0,3%, Thái Lan: -0,7%, Inđônêxia: -15%,
Nhật Bản là -0,2%, trong đó chỉ riêng Trung Quốc tốc độ tăng trưởng khả
quan hơn cả là 7,8%. Đến năm 1999 tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam giảm đáng kể chỉ đạt 4,8% (số liệu thống kê kinh tế Việt Nam năm
1999), dự tính kết quả này sẽ là 5,5-6% trong năm 2000 và theo thống kê
chi tiết tình hình chung cả 6 tháng đầu năm 2000, tỷ lệ ước tính đạt được là
6,2%.
12


Đạt được kết quả tăng trưởng cao như vậy là do chúng ta đã đưa ra
nhiều chủ trương chính sách nhằm huy động các nguồn vốn thuộc mọi
thành phần kinh tế bằng các phương thức huy động đa dạng và phong phú,
nhờ đó mà vốn đầu tư xã hội hàng năm đều tăng lên, điều này được thể
hiện qua bảng sau:
BẢNG 2: TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ TOÀN XÃ HỘI
TỪ NĂM 1995 ĐẾN 1999

Đơn vị: Tỷ đồng.

Năm

Trong đó

Vốn
đầu tư

Vốn trong nước


%

Vốn nước ngoài

%

1995

68047,8

46047,8

67,8

22000

32,2

1996

79367,4

56667,4

71,4

22700

28,6


1997

96870,4

66570,4

68,8

30300

31,2

1998

96400

72100

74,8

24300

25,2

1999

103900

85000


81,8

18900

18,2

Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam 1/2000
Qua bảng trên cho thấy: Tổng đầu tư toàn xã hội ngày càng tăng, đây
là điều kiện cần thiết cho tăng trưởng kinh tế. Trong tổng đầu tư toàn xã hội
thì nguồn vốn nước ngoài (FDI) có xu hướng ngày càng giảm năm 1995 là
32,2%, đến năm 1999 chỉ còn 18,2%. Dự đoán trong năm 2000 - 2001 vẫn
tiếp tục giảm. Do đó để nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng cao, thì cần phải
huy động mạnh nguồn vốn trong nước. Vấn đề đặt ra là khai thông nguồn
vốn trong nước như thế nào? Ta cần xem xét cụ thể:

13


I-/

THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC.

a.

Những thành tựu đạt được.
* Về thu NSNN:
Trong những năm qua quy mô ngân sách Nhà nước không ngừng tăng

lên, nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau nhưng chủ yếu huy động từ

thuế và chi phí nhiều hơn 90% tổng thu ngân sách hàng năm. Tỉ lệ động
viên GDP vào NSNN đã tăng: nếu bình quân trong giai đoạn 86-90 là
13,1% năm thì đến giai đoạn 91-95 mức đóng góp này đã tăng lên là
22,5%, trong đó năm tăng cao nhất là năm 1994 là 25%. Nhưng tỷ lệ này
có xu hướng chững lại mấy năm: năm 1996 là 22,2%, năm 1997 là 20,7%,
năm 1998 là 21,5%, đến năm 1999 chỉ đạt 18,3%, và mục tiêu năm 2000 là
18%.
Nguồn thu chính của NSNN là thuế và phí, trong cơ cấu thu NSNN,
nguồn này chiếm tỉ lệ cao và ngày càng tăng. Được thể hiện qua bảng sau:
BẢNG 3: KẾT QUẢ THU THUẾ CHO NSNN SO VỚI NĂM 1990
Năm 1990
%

100

1991

1992

1993

165,

325,7 457

1994

1995

1996


560,5 709,98 843,8

7

1997

1998

902,4 956

1999

2000

1025,5 1115,2

9

Nguồn: Tạp chí Thông tin Tài chính số 14/2000
Với mức thu thuế hàng năm tăng nhanh như vậy, đáp ứng khá tốt các
nhu cầu thu chi thường xuyên cấp bách, tăng khả năng trang trải được cho
nhu cầu chi đầu tư phát triển của NSNN. Về cơ bản thuế vừa thực hiện
chức năng kinh tế, vừa thực hiện chức năng xã hội. Đồng thời dành ra
khoản tiết kiệm cho dự phòng, tăng dự trữ tài chính, đầu tư phát triển và trả
nợ. Theo thống kê của Bộ KH - ĐT nguồn vốn từ ngân sách đóng góp cho
tiết kiệm trong nước diễn biến qua các năm như sau:

14



BẢNG 4:

Đơn vị: Triệu USD
Năm

1995

1996

1997

1998

1999

2000 (ước)

Tiết kiệm trong nước

4088

5486

7033

9046

10968


13450

Từ NSNN

1041

1688

2453

3437

4686

6299

Từ các thành phần khác

3047

3798

4580

5609

6281

7150


Nguồn: Tạp chí quản lý nhà nước. Tháng 7/2000
Như vậy nguồn vốn tiết kiệm trong nước qua các năm tăng nhanh, nếu
năm 1995 chỉ là 4088 tr USD thì đến năm 1999 con số này đã tăng lên là
10968 tr USD (tương đương với tăng 168,2%). Trong đó nguồn vốn từ
NSNN chiếm tỷ lệ cao và tăng nhanh qua các năm. Điều này sẽ hiện ngày
càng rõ nét chính sách động viên của Nhà nước theo hướng khuyến khích
mọi thành phần kinh tế tham gia vào công cuộc phát triển vì lợi ích lâu dài
của nền kinh tế, tăng tích tụ vốn để tái đầu tư cho các doanh nghiệp.
* Về chi NSNN:
Trong thời gian qua, cơ cấu chi cho NSNN đã có sự chuyển biến tích
cực theo ưu tiên cho đầu tư phát triển (ĐTPT); xây dựng các công trình lớn
quan trọng của nền kinh tế, các công trình phúc lợi xã hội, chú trọng chi trả
nợ trong và ngoài nước, thực hiện cam kết trả nợ khi đến hạn, đảm bảo chi
cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế,... từng bước xác định phạm vi NSNN

15


trong từng lĩnh vực. Mặt khác để thực hiện vai trò điều chỉnh vĩ mô, Nhà
nước đã có sự can thiệp mạnh mẽ bằng các biện pháp tài chính như trợ giá
hàng xuất khẩu, hàng chính sách, hỗ trợ các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn
có hiệu quả, tăng dự trữ thu mua nông sản vào những thời điểm cần thiết
nhằm ổn định tình hình kinh tế xã hội.
Chi ĐTPT là một nhiệm vụ quan trọng được quan tâm đầu tư trong
giai đoạn qua. Tỷ lệ chi NSNN cho ĐTPT luôn được đảm bảo, tốc độ tăng
chi ĐTPT cao hơn so với tốc độ tăng của tổng chi NSNN và chi thường
xuyên. Được thể hiện qua bảng sau:
BẢNG 5:

Đơn vị: % so với GDP

Năm

1986-1990

1991-1995

1996

1997

1998

1999

2000

Tổng chi NSNN

21,5

26,3

25,6

24,9

21,9

21,3


21,5

Chi ĐTPT

7,3

6,4

6,0

6,2

5,4

5,4

6,0

Nguồn: Báo Thông tin Tài chính số 14/2000 (tháng 7)
Xét về cơ cấu chi ĐTPT cho thấy bên cạnh việc tăng cường chi cho
xây dựng cơ sở hạ tầng, chi hỗ trợ vốn doanh nghiệp Nhà nước, chi giải
quyết việc làm NSNN còn tập trung vào chi cho xoá đói giảm nghèo phát
triển nông nghiệp nông thôn, vùng núi khó khăn,...

16


BẢNG 6

Đơn vị: %

Năm

1991-1995

1996

1997

1998

1999

2000

Tổng chi ĐTPT

100

100

100

100

100

100

- Chi XDCB


85,5

92,1

89,9

91,2

93,6

94

- Chi hỗ trợ vốn DNNN

6,0

2,4

2,1

2,7

1,0

1,0

- Chi giải quyết việc làm

3,7


1,5

0,5

0,3

0,2

0,2

- Chi 327, 773

2,4

2,8

2,6

2,1

2,0

2,0

Nguồn: Báo Thông tin Tài chính số 14 tháng7/2000
Như vậy trong thời gian qua cơ cấu vốn đầu tư cho phát triển có sự
thay đổi, tăng dần tỷ lệ chi cho đầu tư XDCB, giảm tỷ lệ bao cấp cho
DNNN, giảm tỷ lệ chi cho giải quyết việc làm và chi cho 327, 773 (xoá đói
giảm nghèo, phát triển nông nghiệp nông thôn,...). Đặc biệt năm 1999 thực
hiện các chính sách kinh tế; (kích cầu đầu tư,...) tỷ lệ vốn NSNN dành cho

đầu tư có chiều hướng tăng lên, nhất là chi cho các chương trình mục tiêu,
kể cả chi cho xây dựng kiên cố hoá kênh mương và số vốn khoảng 400 tỷ
đồng. Trong dự toán năm 2000, tổng chi NSNN cho ĐTPT tăng 25,3% so
với năm 1999, nhưng trên thực tế thực hiện vốn đầu tư XDCB của vốn
NSNN tập trung trong 6 tháng đầu năm mới đạt 42,1% kế hoạch năm và
bằng 97% so với cùng kỳ năm trước.
Nhìn chung việc cân đối thu chi cho NSNN những năm qua đã đạt
được nhiều thành công đáng mừng.
Bội chi NSNN được kiềm chế trong tầm kiểm soát và có tác động tích
cực đối với quá trình kích thích tăng trưởng, chống thiểu phát, nâng cao sức
mua và khả năng thanh toán của nền kinh tế. Bội chi NSNN so với GDP
năm 94 là 5,2%, năm 95 là 4,4%, năm 96 là 3,1%, năm 97 là 4,2%, năm 98

17


là 3,6% và năm 99 là 4,9% và dự đoán năm 2000 là 5%. Bù đắp bội chi
bằng vay trong và ngoài nước. Số vay bù đắp bội chi được dành cho ĐTPT.
Điều đáng khích lệ là 8 năm trở lại đây chúng ta không phải phát hành tiền
để bù đắp bội chi NSNN.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thì tình hình thu chi
NSNN còn nhiều điều bất cập cần được xem xét.
b.

Một số tồn tại đáng quan tâm:
Mặc dù đã có nhiều biện pháp, nhiều chính sách về vấn đề nộp thuế,

thu thuế phù hợp và đảm bảo công bằng, song vẫn còn nhiều sơ hở, tạo
điều kiện cho nhiều đối tượng vi phạm luật thuế, chốn thuế, lậu thuế. Thêm
vào đó đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ thu thuế còn chưa nghiêm túc, bòn rút

thuế một cách khéo léo và tinh vi. Mặt khác việc thu thuế từ hàng hoá xuất
nhập khẩu gặp nhiều khó khăn, chủ yếu do nhân tố khách quan là kim
ngạch nhập khẩu chịu thuế đạt thấp hơn dự kiến và Nhà nước điều chỉnh
giảm thuế xuất nhập khẩu đối với một số mặt hàng do giá quốc tế tăng cao.
* Về chi NSNN:
- Mặc dù đã có nhiều chú trọng đầu tư cho vùng sâu, vùng xa, nhưng
số vốn đầu tư cho vùng này quá ít so với yêu cầu cần phát triển kinh tế, nên
chưa tạo được đà thúc đẩy cho sự phát triển.
- Trong chi cho đầu tư XDCB, mới chú trọng xây dựng mới, chưa
quan tâm nhiều đến thiết bị, nên chưa phát huy được hiệu quả đầu tư, nhất
là trong giai đoạn hiện nay trang thiết bị ở một số cơ sở còn quá lạc hậu và
xuống cấp nghiêm trọng.
Thêm vào đó chưa có nhiều dự án chiến lược trong chính sách đầu tư,
việc quy hoạch phát triển đầu tư XDCB chưa được thực hiện có quy mô,
nhiều công trình xây dựng còn chắp vá, do vậy hiệu quả của công trình đôi

18


khi bị giảm sút, công tác tổ chức cũng như thủ tục đầu tư còn rườm rà,
thiếu hiệu quả nên nhiều dự án đầu tư còn dàn trải, phân tán, hiệu quả chưa
cao, gây lãng phí và thất thoát lớn.
Mặc khác chi NSNN cho một số chương trình còn bị trùng lắp, lại có
quá nhiều kênh quản lý với cơ chế khác nhau, nên quá trình thực hiện vừa
trùng lắp, vừa thiếu đồng bộ, mà lại có một bộ phận sâu mọt, tham ô, tham
nhũng, làm cho sự phối hợp của các cơ quan chức năng chưa nhịp nhàng,
thống nhất, gây thất thoát, lãng phí trong việc sử dụng vốn, hiệu quả đầu tư
thấp.
II-/ THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TỪ DNNN


1.

Những mặt đã đạt được.
Doanh nghiệp Việt Nam những năm qua đã đạt được nhiều kết quả

đáng mừng, số lượng, chất lượng các doanh nghiệp ngày càng được nâng
lên. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đã đi sâu vào
mọi khía cạnh của đời sống kinh tế, đáp ứng mọi yêu cầu tiêu dùng của
người dân. Đóng góp vào kết quả này DNNN chiếm một phần quan trọng.
Số lượng các DNNN chiếm chưa tới 20% trong tổng số 35.000 doanh
nghiệp của cả nước (Báo Tài chính tháng 10/2000), con số này không phải
là thấp nhưng về cơ bản các DNNN vẫn nắm giữ hầu hết các nguồn lực
chính của xã hội và giữ vait rò điều tiết vĩ mô trong nền kinh tế. Đạt được
kết quả như vậy là do, nhiều năm qua Nhà nước ta đã thực hiện nhiều cơ
chế chính sách nhằm thay đổi lại cơ chế quản lý, phương thức hoạt động,
lĩnh vực kinh doanh,... Điển hình là chủ trương, chính sách cổ phần hoá
doanh nghiệp đã đạt được nhiều thành quả đáng khích lệ; số lượng các
doanh nghiệp được cổ phần hoá ngày càng tăng, chỉ tính riêng năm 1999 cổ
phần hoá được 250 doanh nghiệp, gấp 7 lần so với 6 năm trước đó (1992 1997) cộng lại. Như vậy cho đến nay đã cổ phần hoá được trên 370 doanh
nghiệp. Điều này góp phần làm tăng số doanh nghiệp hoạt động có hiệu

19


quả, số lượng lao động tăng, thu nhập bình quân của người lao động cũng
được nâng cao. Bên cạnh đó tỷ lệ nộp ngân sách cũng tăng.
Chính sự thay đổi đó đã làm từng bước nâng cao vai trò của nguồn
vốn từ các doanh nghiệp và thúc đẩy việc đầu tư hoạt động có hiệu quả
hơn. Thực tế cho thấy tỷ lệ trong đầu tư từ nguồn vốn này trong mấy năm
vừa qua đã có những bước tiến quan trọng. Vốn tự có của các doanh nghiệp

được huy động vào vốn đầu tư xây dựng toàn xã hội tăng nhanh qua các
năm.
BẢNG 7: VỐN ĐẦU TƯ XÃ HỘI

Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
Vốn Nhà nước
Vốn tự có của DNNN

1995

1996

1997

1998

1999

26047,8

35894,4

46570,4

516000

64000

9408,8


11070,3

13300,0

16100

19000

Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam 6/3/2000
Phần lớn lượng vốn này được dùng để tái đầu tư theo chiều sâu, nhằm
nâng cao trình độ công nghệ, mở rộng sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh,
và tăng hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp. Mặt khác tỷ lệ đóng góp
của DNNN trong GDP cũng tăng nhanh qua các năm và tính tỷ trọng ngày
càng lớn.
BẢNG 8:

Năm

1995

1996

1997

1998

228892

272036


313623

361468

DNNN (tỷ đồng)

91977

108634

126970

144841

Tỷ trọng (%)

40,17

39,93

40,48

40,07

GDP (tỷ đồng)

(Niên giám Thống kê 1999)

20



Vậy, về cơ bản vốn của DNNN những năm qua đã đóng góp một phần
không nhỏ vào tiến trình phát triển nền kinh tế, đáp ứng hầu hết các công
cuộc đầu tư, góp phần giải quyết hàng triệu lao động với thu nhập ổn định.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đã đạt được trong quá trình huy động
vốn từ các doanh nghiệp thì hoạt động này còn tồn tại một số hạn chế sau.
2.

Những vấn đề còn tồn tại:
Tính đến 1/1/2000, số lượng DNNN hiện có là 5.500 doanh nghiệp,

trong đó có 732 doanh nghiệp công ích, 1802 doanh nghiệp TW, 3698
doanh nghiệp địa phương, số doanh nghiệp được cổ phần hoá là 370 doanh
nghiệp. Nhìn chung số lượng doanh nghiệp như vậy là quá nhiều và dàn
trải ở nhiều ngành, lĩnh vực, dẫn đến tình trạng khó quản lý, khó cạnh tranh
trên thị trường. Bên cạnh những doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả còn
khá nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, trông chờ sự trợ cấp của NSNN,
không đủ điều kiện để đổi mới công nghệ, dẫn đến hiệu quả sử dụng vẫn
chưa cao. Hàng năm những doanh nghiệp này chỉ tạo ra một lượng rất thấp
(khoảng 30%) sản phẩm xã hội, và tỷ lệ nộp ngân sách từ các doanh nghiệp
này cũng không cao (17,4% trong tổng số DNNN).
Bên cạnh đó, kết quả cổ phần hoá như vậy là chưa nhiều, còn chiếm tỷ
lệ rất khiêm tốn so với kết quả phân loại doanh nghiệp, chỉ chiếm 6,8%
tổng số DNNN. Mà một trong những mục tiêu cổ phần hoá DNNN là thu
hút vốn ngoài xã hội cần thiết để cơ cấu lại doanh nghiệp. Nhưng trên thực
tế, số doanh nghiệp được cổ phần hoá đều là các doanh nghiệp nhỏ. Tổng
vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp này chỉ chiếm khoảng 0,7%, tức là
không vượt quá 1.000 tỷ đồng: tỷ lệ bình quân cổ phần do Nhà nước và cán
bộ công nhân viên trong doanh nghiệp nắm giữ chiếm 70-80%, từ đó có thể

thấy vốn thu hút ngoài xã hội không được nhiều.
Như vậy, hệ thống DNNN ta hiện nay còn rất nhiều vấn đề đòi hỏi
phải giải quyết và có một hướng đi hợp lý hơn.
21


III-/ THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TỪ CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG.

1.

Một số mặt đã đạt được:
Nguồn vốn tín dụng những năm qua cũng được tăng khá cả về lượng

tuyệt đối và tỷ trọng, phù hợp với việc chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá
tập trung, bao cấp, sang cơ chế thị trường.
BẢNG 9:

Năm

Vốn thực hiện (tỷ đồng)
Vốn Nhà nước

Cơ cấu (%)

Vốn tín dụng

Vốn Nhà nước

Vốn tín dụng


1995

26047,8

3064,0

100

11,76

1996

35894,4

8280,2

100

23,07

1997

46570,4

12700,0

100

27,27


1998

51600

14800

100

28,68

1999

64000

19000

100

29,68

(Theo Thời báo Kinh tế Việt Nam số 1/2000)
Vậy vốn tín dụng được đưa vào vốn đầu tư xây dựng toàn xã hội tăng
nhanh qua các năm cả về số lượng và tỷ trọng. Có được kết quả khả quan
như vậy là do hệ thống ngân hàng đã tự hoàn chỉnh thích ứng với cơ chế
mới bằng các phương thức hoạt động hiện đại, năng động và có hiệu quả.
Biết coi trọng và tận dụng mọi nguồn vốn trong dân, triển khai mọi hình
thức huy động nhằm khuyến khích người có vốn mở tài khoản cá nhân tại
ngân hàng và thanh toán qua ngân hàng. Đã tổ chức cải tiến dịch vụ thanh
toán với tốc độ nhanh, giảm bớt các thủ tục phiền hà và chi phí giảm. Đặc
biệt là quá trình điều chỉnh chính sách tiền tệ năm 1999, thực hiện theo các

giải pháp kích cầu của Chính phủ. Đã 5 lần điều chỉnh giảm thấp lãi suất để
kích cầu, kết quả tính đến hết năm 1999, tổng số dư nguồn vốn huy động

22


của ngân hàng và tổ chức tín dụng ước tính tăng gần 20% so với cuối năm
1998. Tạo khả năng đáp ứng nhu cầu về vốn trong nền kinh tế, các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh linh động hơn trong trường hợp cần vốn phục
vụ cho hoạt động của mình.
Mặc dù đạt được những kết quả như vậy nhưng vấn đề huy động vốn
qua hệ thống ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn.
2.

Những mặt còn tồn tại:
- Nhìn lại chương trình củng cố hệ thống ngân hàng Việt Nam thời

gian qua, có thể thấy đến hết năm 1999, chất lượng và sức mạnh của hệ
thống ngân hàng Việt Nam chưa được nâng lên đáng kể, nợ quá hạn vẫn
cao, chưa giảm so với các năm trước, vẫn ở mức 13% tổng dư nợ, có nhiều
NHTM bị thua lỗ, hoặc lợi tức cổ phiếu thấp, thu nhập thấp. Tình hình tài
chính suy giảm. Đây là diễn biến đáng lo ngại trong việc sử dụng hiệu quả
đồng vốn.
- Do quá trình quản lý và điều hành hoạt động của hệ thống ngân hàng
chưa được đồng bộ, thống nhất, gây nên nhiều khách hàng dư nợ cao,
không có khả năng trả nợ vốn vay đúng hạn, bên cạnh đó có khoảng 6.000 7.000 tỷ đồng vốn vay nằm trong các tài sản liên quan các vụ án hoặc các
ngân hàng đã xiết nợ, nhưng việc phát mại tài sản khó khăn, nên vẫn không
thể thu hồi được.
- Nguồn vốn huy động vào hệ thống ngân hàng còn được phân bổ theo
quyết định của Nhà nước theo yêu cầu của cơ chế chính sách do Nhà nước

quy định làm cho nhiều tổ chức ngân hàng bị động, khó phản ứng kịp thời
trước những biến động xẩy ra trong khi đó việc quản lý còn nhiều sơ hở
gây thất thoát lớn.

23


IV-/ TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN TỪ DÂN CƯ:

1.

Những mặt đã đạt được.
Theo đánh giá của các chuyên gia Bộ KH - ĐT hiện nay nguồn vốn

trong dân còn khoảng trên 100.000 tỷ đồng trong đó: 44% giành cho việc
mua vàng và ngoại tệ, 20% giành cho mua nhà đất và cải thiện điều kiện
sinh hoạt, 17% giành gửi tiết kiệm chủ yếu là tiết kiệm ngắn hạn, 19% để
dành của dân là dùng trực tiếp cho các dự án đầu tư. Điều này cho chúng ta
thấy lượng vốn huy động vào đầu tư của khu vực dân cư còn thấp chỉ đạt
36%, chưa tương xứng với tiềm năng của khu vực này.
Nhận thấy tầm quan trọng của vốn trong dân Nhà nước ta đã ban hành
nhiều văn bản, đưa ra nhiều phương thức nhằm thu hút hiệu quả nguồn vốn
này. Kết quả là những năm trở lại đây lượng vốn huy động từ dân vào đầu
tư xã hội đã có dấu hiệu đáng mừng.
BẢNG 10: VỐN ĐẦU TƯ XÃ HỘI

Đơn vị: Tỷ đồng
Năm

1996


1997

1998

1999

Vốn của dân góp xây dựng

150

200

150

220

165

172

250

400

CSHT
Dân xây dựng nhà ở
Niên giám thống kê 1999
Vốn góp của dân vào tổng vốn đầu tư xã hội tuy không cao, nhưng kết
quả đáng mừng là tỷ lệ này tăng đều qua các năm, nếu năm 1996 tổng vốn

góp của dân là 315 tỷ đồng chiếm 2,5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội thì đến
năm 1999 con số này đã tăng lên là 620 tỷ đồng chiếm 5,9% tổng vốn đầu
tư xã hội.

24


Ngoài tiền tích luỹ của dân chúng ta còn có nguồn tiết kiệm chuyển từ
nước ngoài vào: đó là những người lao động ở nước ngoài mang về, mỗi
năm lượng tiền này khoảng 6.000 - 7.000 tỷ đồng. Các chuyên gia, lưu học
sinh và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài mang về nước: theo thống
kê nguồn này khoảng từ 14.000 - 16.000 tỷ đồng, chiếm trên 60% vốn
trong dân.
Vốn trong dân bên cạnh những khoản tiết kiệm, khoản tiền trữ, họ còn
tham gia vào sản xuất kinh doanh. Số lượng các doanh nghiệp tư nhân tham
gia vào sản xuất tăng nhanh, năm 1991 chỉ có 123 doanh nghiệp với lượng
vốn là 69 tỷ đồng, thì đến năm 1996 đã là 26091 doanh nghiệp với tổng
lượng vốn là 8257 tỷ đồng. Ngoài ra còn xuất hiện các hình thức hợp tác
xã, các hộ kinh doanh cá thể,... với mức đóng góp vào vốn đầu tư toàn xã
hội tănh nhanh qua các năm.
BẢNG 11: VỐN ĐẦU TƯ TOÀN XÃ HỘI

Đơn vị: Tỷ đồng
Năm

1996

1997

1998


1999

Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh

1990

2088

1860

2475

Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh

1142

1055

930

1350

-

180

30

-


758

853

900

1125

Các hợp tác xã sau chuyển đổi
Các hộ cá thể tự đầu tư

Nguồn: Cục Thống kê (niên giám Thống kê năm 1999)
Nguồn vốn của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tăng nhanh
nếu năm 1996 là 1990 tỷ đồng chiếm 15,4% tổng vốn đầu tư xã hội thì đến
năm 1999 con số này tăng lên là 2475 tỷ đồng, chiếm 23,4% trong tổng vốn
đầu tư toàn xã hội. Với các hình thức kinh doanh như vậy đã góp phần
nâng cao mức sống cho người dân, giải quyết việc làm, phát triển kinh tế.
25


×