LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả công bố trong luận văn hồn tồn chính xác, chưa từng cơng bố trong
bất cứ tài liệu nào, nếu sai tơi xin hồn toàn chịu trách nhiệm.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ANTT
ANTQ
CAND
CBCS
CNXH
DBHB
PCTPMBPNVTE
PCTP
TTATXH
XDLL
An ninh trật tự
An ninh Tổ quốc
Công an nhân dân
Cán bộ chiến sĩ
Chủ nghĩa xã hội
Diễn biến hịa bình
Phịng chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em
Phịng chống tội phạm
Trật tự an tồn xã hội
Xây dựng lực lượng
MỤC LỤC
Trong đó tiêu biểu phải kể đến loạt bài phóng sự về: Tệ nạn bn bán phụ nữ và trẻ em qua biên
giới được đăng tải trên Báo Công an nhân dân số ra thứ Năm ngày 27/6/2013 và số ra thứ Bảy
ngày 29/6/2013 với 2 kỳ : Kỳ 1: Ưa lời ngon ngọt, sa bẫy kẻ buôn người và Kỳ cuối: Cuộc chiến còn
cam go. Bài viết đã có những phân tích chi tiết cụ thể những cũng hết sức sâu sắc về vấn đề buôn
bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới ở Hà Giang..............................................................................58
“…Nhưng vẫn cịn đó những câu chuyện mà khi chúng tơi nghe được, đều có chung một cảm xúc
là: Xót xa, thương cảm, chua xót nhiều hơn là phẫn nộ, căm giận đối với những người đã gián tiếp,
tiếp tay cho những đối tượng bn người đứng phía sau để điều khiển, giật dây. Khơng xót xa,
chua xót sao được, khi biết rằng, những người đã trực tiếp, tiếp tay cho những đối tượng xấu
đánh cắp đi cuộc đời của những người phụ nữ nhẹ dạ cả tin, của những em nhỏ khi vừa mới lọt
lịng mẹ lại chính là những người thân, máu mủ, ruột rà................................................................59
Đấy là câu chuyện vào ngày 13-4-2013, tại thôn Tả Ván, xã Tả Ván, huyện Quản Bạ đã xảy ra vụ mua
bán người sang Trung Quốc. Theo đó, đối tượng Cư Thị Chúa, SN 1969, trú tại thơn Tả Ván, đã có
hành vi mua bán chính người em ruột của mình là chị Cư Thị Dợ, SN 1992, trú tại thơn Hịa Sơn, xã
Thuận Hịa, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. Chỉ vì ma lực của đồng tiền cùng những lời dụ dỗ,
những thủ đoạn xảo quyệt của những kẻ bn người đứng phía sau đã khiến cho Cư Thị Chúa mất
đi phần người bên trong mình, để rồi nhẫn tâm đẩy em gái máu mủ, ruột rà của mình vào chốn địa
ngục, chỉ để rồi nhận lấy số tiền là 6.000 Nhân dân tệ (gần 20 triệu VNĐ)”. [Báo Công an nhân dân
số ra thứ Năm ngày 27/6/2013]......................................................................................................59
Khơng những thế, loạt bài viết cịn nêu lên những chiến công, những sự hy sinh thầm lặng của
những người chiến sĩ Cơng an, Bộ đội Biên phịng khơng quản ngại khó khăn, nguy hiểm để bảo vệ
sự bình yên cho nhân dân: “… Những người hùng thầm lặng”….....................................................59
Trong mấy năm trở lại đây, vấn nạn mua bán người qua biên giới tại Hà Giang đã giảm đi một cách
đáng kể. Những vụ án giết người, cướp trẻ đã khơng cịn. Chúng ta khơng thể nào phủ nhận được
những đóng góp lớn lao, khơng biết mệt mỏi của lực lượng Cơng an và Bộ đội Biên phịng tỉnh Hà
Giang. Họ chính là cứu cánh cho bà con dân bản ở những vùng xa xôi, hẻo lánh...........................59
Hầu hết các vụ bắt cóc, mua bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới thường xảy ra ở những xã biên giới,
trình độ dân trí cịn thấp, mật độ dân cư thưa thớt. Mục tiêu mà những kẻ buôn người thường
nhắm tới thường là phụ nữ còn trẻ tuổi hoặc trẻ em, đặc biệt là các bé trai dưới 5 tuổi................60
Trong những vụ mua bán này thường có bàn tay câu kết giữa những đối tượng ẩn mình trong nội
địa và các đối tượng bên kia biên giới, nên cơng tác phịng chống và giải cứu của lực lượng chức
năng gặp rất nhiều khó khăn. Mặt khác, thời điểm mà các đối tượng thường hay ra tay là vào đêm
khuya vắng, khi mọi người đã ngủ say. Nhiều vụ việc, khi đã rồi, người dân mới phát hiện và đến
cấp báo Cơ quan cơng an và Bộ đội biên phịng thì đã quá muộn. Với tinh thần làm việc khẩn
trương, mưu trí, tất cả vì sự bình yên của Tổ quốc vùng biên giới xa xôi, lực lượng Công an và Bộ
đội Biên phòng tỉnh Hà Giang đã tổ chức giải cứu thành công nhiều nạn nhân trong các vụ mua
bán người........................................................................................................................................60
Điển hình mới đây, ngày 9-4, Đồn Biên phịng Cửa khẩu Thanh Thủy đã giải cứu thành công một
phụ nữ Việt Nam bị bắt cóc, bán qua biên giới. Trước đó, đồn biên phịng đã nhận được đơn trình
báo của một gia đình tại xã Quyết Tiến, huyện Quản Bạ về việc con gái của họ là chị Vàng Thị H. đã
bị mất tích cách đó khoảng nửa tháng. Đến ngày 8-4, một người quen báo cho gia đình chị H. rằng,
thấy chị xuất hiện ở bên kia Trung Quốc. Nghĩ rằng con gái mình bị bắt cóc bán qua biên giới, gia
đình chị H. đã khẩn trương tới nhờ sự giúp đỡ của các cán bộ biên phòng. Nhận được tin cấp báo
của người dân, cán bộ Đồn Biên phòng Thanh Thủy đã khẩn trương triển khai lực lượng, điều tra,
xác minh, làm rõ, đồng thời phối hợp với Công an Trung Quốc để tiến hành công tác giải cứu cho
nạn nhân. Đến chiều ngày 9-4, chị Vàng Thị H. đã được lực lượng chức năng hai nước giải cứu
thành cơng và trao trả cho gia đình trong niềm vui mừng khơn siết của những người thân. Ngồi
ra, đầu tháng 6-2013, Công an tỉnh Hà Giang đã triệt phá thành cơng một đường dây mua bán
người ra nước ngồi để hoạt động mại dâm với quy mô lớn. Ngày 10-6, Cơ quan Cảnh sát điều tra
- Công an tỉnh Hà Giang đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với 3 đối tượng: Đặng
Thị Mai Anh (SN 1997), trú tại TP Hà Giang; Nguyễn Quỳnh Hương (SN 1987), sinh viên lớp Đại học
tại chức trường Trung cấp Kinh tế kỹ thuật Hà Giang, trú tại phường Minh Khai, TP Hà Giang và
Nguyễn Thị Toàn (SN 1969), trú tại xã Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên với tội danh Mua bán người,
Mua bán trẻ em và Tổ chức đưa người ra nước ngoài trái phép theo Điều 119, 120 và 275 của Bộ
luật Hình sự.....................................................................................................................................60
Bên cạnh việc cương quyết ngăn chặn, triệt phá những đường dây, vụ việc liên quan đến mua bán
người, bắt giữ các đối tượng xấu, lực lượng Cơng an tỉnh cịn phối hợp với Bộ đội Biên phịng đẩy
mạnh cơng tác tun truyền, vận động về những biện pháp phòng chống, bảo vệ bản thân và gia
đình trước những đối tượng xấu tới tận các thôn bản. Đặc biệt là các xã biên giới cịn nhiều khó
khăn”...............................................................................................................................................61
- Cũng với nội dung về mua bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới, trên Tạp chí Cảnh sát phịng chống
tội phạm số ra ngày 12/2/2014 cũng đã có loạt bài phóng sự về tình trạng những người phụ nữ bỏ
nhà qua biên giới để mơ ước có cuộc sống đổi đời, sung sướng. Nhưng trên thực tế, nhiều người
đã bị lừa bán cho các ổ chứa gái mại dâm, bán làm vợ, bán sức lao động cho các trang trại, nhà
xưởng. Phóng sự mang tên “Hệ lụy phụ nữ bỏ nhà qua biên giới” của tác giả Việt Hoàng, cũng
được chia làm 3 kỳ:.........................................................................................................................61
- Kỳ 2: Những ngôi nhà vắng bàn tay phụ nữ...................................................................................61
- Kỳ cuối: Bài học của người trở về..................................................................................................61
Có thể nói những bài viết về tệ nạn mua bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới như trên một mặt có
tác dụng cảnh tỉnh cho nhân dân về các thủ đoạn lừa đảo của các đối tượng buôn người mặt khác
giúp thông tin một cách đầy đủ đến người dân về các vụ án buôn bán người đã được xét xử, về
các hành vi trái pháp luật. Từ đó nâng cao cảnh giác của người dân đối với loại tội phạm này.......63
- Bên cạnh những loạt phóng sự nhiều kỳ về công tác đấu tranh chống tội phạm mua bán phụ nữ
và trẻ em qua biên giới trên các báo in của lực lượng Công an nhân dân cũng cho đăng tải nhiều
tin bài về các đối tượng, các vụ án cụ thể về buôn bán phụ nữ và trẻ em. Các tin bài thường phân
tích một cách cụ thể, số liệu chi tiết nhằm đưa đến cho bạn đọc những cái nhìn cận cảnh về cơng
tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em..................................................63
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhiều Hội nghị và Hội thảo khoa học ở phạm vi khu vực và quốc tế
trong những năm gần đây đã khẳng định vấn đề mua bán phụ nữ và trẻ em một hình thức “nơ lệ” hiện đại đang gia tăng một cách đáng kể ở nhiều quốc
gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Đây khơng cịn là vấn đề riêng biệt
của mỗi nước mà nó đã mang tính tồn cầu, thu hút sự quan tâm của nhiều
Chính phủ, nhiều tổ chức quốc tế và nhiều tổ chức phi Chính phủ trên thế
giới. Hiện tượng xã hội tiêu cực này liên quan đến nhiều vấn đề trước hết là
vấn đề di dân, vấn đề dịch chuyển lao động trên thị trường quốc tế và trong
mỗi quốc gia theo hướng từ các nước nghèo sang các nước phát triển, từ nông
thôn ra các thành phố và các khu công nghiệp. Hiện tượng này cũng liên quan
đến sự phân công lao động giới khơng bình đẳng. Hầu như ở mọi nơi, phụ nữ
đều khó tìm việc làm hơn so với nam giới, họ thường là nhân công rẻ mạt ở
các khu lao động khơng chính quy, lao động mang tính dịch vụ. Mua bán phụ
nữ và trẻ em thường gắn liền với các hành vi xuất, nhập cảnh trái phép, mại
dâm, lạm dụng tình dục và bóc lột lao động, trong đó mua bán phụ nữ và trẻ
em nhằm mục đích mại dâm chiếm tỷ lệ đáng kể.
Ở Việt Nam, cùng với sự tăng trưởng không ngừng về kinh tế, sự ổn
định về chính trị, an ninh quốc phịng, mức sống của người dân được nâng
cao, các hoạt động xã hội từ thiện được mở rộng và phát triển do sự tác động
tích cực của cơng cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và chính sách mở cửa
thì số tệ nạn xã hội phát sinh, phát triển do tác động tiêu cực của nó trong đó
có tệ nạn mua bán phụ nữ và trẻ em. Nhìn một cách tổng quan có thể nói rằng
hiện tượng này ở Việt Nam chưa phải là căn bệnh trầm kha, chưa phải là điểm
nóng như ở một số nước khác trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, nó
vẫn là vấn đề bức xúc, nhức nhối và đáng qua tâm, lo âu của toàn xã hội.
2
Cho đến nay, chưa có số liệu chính xác về số tội phạm mua bán phụ nữ
và trẻ em ở Việt Nam cũng như những nạn nhân của nó. Tuy nhiên, qua một
số cuộc điều tra xã hội học ở một số vùng trọng điểm, qua công tác xét xử,
qua dư luận quần chúng và các phương tiện thông tin đại chúng mọi người
đều thấy tính phức tạp và mức độ nghiêm trọng của vấn đề. Hiện tượng này
đã và đang diễn ra cả trong và qua biên giới với những hình thức và quy mơ
khác nhau.
Ở trong nước, nạn nhân của hành vi mua bán phụ nữ và trẻ em thường
là những đối tượng mà trước đó được di chuyển từ nông thôn ra thành phố, từ
thành phố vào các tụ điểm làm gái mại dâm, phục vụ trong các nhà hàng,
khách sạn… Ở khu vực biên giới, hành vi mua bán phụ nữ và trẻ em được
diễn ra ở ba tuyên chính: Tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc bao gồm
các tỉnh Lạng Sơn, Lào Cai, Hà Giang và Quảng Ninh; Tuyến biên giới Việt
Nam - Lào bao gồm các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và Khánh Hòa; Tuyến biên
giới Việt Nam - Campuchia bao gồm các tỉnh An Giang, Tây Ninh, Sông Bé
và Kiên Giang. Nạn nhân của các vụ mua bán này phần lớn là những phụ nữ
và trẻ em có hồn cảnh khó khăn, khơng có việc làm hoặc việc làm khơng ổn
định, gia đình trắc trở. Một số khác lại do bị ép buộc bán bởi chính cha mẹ
mình vì… tiền. Bên cạnh đó cũng có một bộ phận bị bạn bè thậm chí người
thâm dụ dỗ, lừa dối đi kiếm sự giàu sang ở những miền đất hứa… Song, điểm
chung nhất rất dễ nhận thấy ở các nạn nhân là trình độ văn hóa thấp, kém hiểu
biết và có ít năng lực làm chủ và tự bảo vệ mình.
Để nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán phụ
nữ và trẻ em trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi không chỉ nâng cao công tác
điều tra, truy tố, xét xử mà còn phải chỉ ra những nguyên nhân và điều kiện
phạm tội của loại tội phạm này, từ đó tìm ra những giải pháp có tính khả thi
nhằm đấu tranh phòng chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em một cách có
hiệu quả.
3
Ở nước ta, từ nhiều năm nay, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm
chỉ đạo cơng tác phịng, chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em, nhiều văn
kiện của Đảng đã nhấn mạnh về hiểm họa của tội phạm này và coi cuộc đấu
tranh phòng, chống mua bán phụ nữ và trẻ em là nhiệm vụ hàng đầu trong
cơng tác bảo vệ an ninh chính trị và giữ gìn trật tự an tồn xã hội. Một trong
những giải pháp cơ bản và chủ yếu của Đảng, Nhà nước ta là tuyên truyền
rộng rãi để toàn dân, trước hết là phụ nữ và trẻ em thấy được hậu quả và sự
nguy hiểm của loại tội phạm này; đồng thời đặc biệt đề cao vai trị của cơng
tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho quần chúng nhân dân.
Trong tuyên truyền, nâng cao nhận thức phòng, chống mua bán phụ nữ
và trẻ em, phương tiện thông tin đại chúng thì báo in giữ một vị trí đặc biệt
quan trọng. Báo chí trong lực lượng Cơng an nhân dân hiện nay bao gồm các
tờ báo in phát hành công khai, điển hình là Báo Cơng an nhân dân, Báo Cơng
an TP Hồ Chí Minh và Tạp chí Cảnh sát phịng chống tội phạm đã dành
những diện tích để thường xuyên đăng tải thông tin về công tác đấu tranh với
loại tội phạm buôn người; mở các chuyên trang, chuyên mục, hàng năm tổ
chức bình chọn và trao giải tác phẩm báo chí viết về cơng tác phịng, chống
tội phạm buôn người.
Nhằm đánh giá đúng kết quả và hiệu quả của cơng tác tun truyền
phịng, chống mua bán phụ nữ và trẻ em, đúc rút kinh nghiệm và đề xuất các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác phịng, chống loại tội phạm này
trên Báo Công an nhân dân, Báo Cơng an TP Hồ Chí Minh và Tạp chí Cảnh
sát phịng chống tội phạm, tơi nhận thấy cần thiết phải nghiên cứu đề tài:
“Tuyên truyền phòng, chống mua bán phụ nữ và trẻ em trên báo in của lực
lượng Cơng an nhân dân”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Ngoài nước
Trong lịch sử, các quốc gia đều xác định các phương tiện truyền thơng
đại chúng có vị trí hết sức quan trọng và sử dụng nó như một công cụ để phá
4
hoại đối phương. Ngoài ra, các đảng phái cũng sử dụng báo chí để phục vụ
cho mục đích chính trị của mình.
Những năm của thập kỷ 80 của thế kỷ XX, Việt Nam với sự hợp tác
toàn diện với các nước XHCN. Trên lĩnh vực đấu tranh chống phá hoại tư
tưởng - văn hóa, các cơ quan an ninh các nước XHCN đã cung cấp cho cơ
quan an ninh Việt Nam một số đề tài, tài liệu đề cập đến vai trị của cơ quan
báo chí trên lĩnh vực phá hoại tư tưởng như “Chiến tranh phá hoại tư tưởng”
của N.M.Cây-de-rôp, “Chủ nghĩa quốc tế XHCN và cuộc đấu tranh tư tưởng”
của O.B. La-ben-sky và A.M.Rư-ba-cốp... Các tác giả này đã phân tích làm rõ
cơ quan truyền thơng là một phương tiện quan trọng trong chiến tranh phá
hoại tư tưởng và các biện pháp trong đấu tranh tư tưởng của các hệ phái; “Bàn
về vấn đề chống DBHB” cua NXB Đại học CAND Trung Quốc đã phân tích
về báo chí của phương Tây trong tuyên truyền phá hoại tư tưởng chống
CNXH vào những năm trước 1991.
Sau khi Đông Âu, Liên Xô sụp đổ, việc trao đổi về hoạt động chống
địch phá hoại tư tưởng bị gián đoạn cho đến nay. Khi Việt Nam gia nhập Tổ
chức Cảnh sát hình sự quốc tế (Interpol) và Aseanapol, việc trao đổi với các
cơ quan báo chí của hai tổ chức này có xu hướng tốt hơn, nhưng do Việt Nam
chưa có cơ chế cung cấp thơng tin báo chí cho các tổ chức an ninh, cảnh sát
các nước, nên khi họ cung cấp cho Việt Nam một số Tạp chí nghiên cứu
nhưng khơng có sự trao đổi trở lại nên sự cung cấp này bị gián đoạn. Vì vậy,
việc tiếp cận với các đề tài liên quan đến báo chí của cơ quan an ninh các
nước bị hạn chế.
2.2. Trong nước
Đề tài: “Hoạt động DBHB của các thế lực thù địch đối với nước ta” do
Trung tướng, PGS Dương Thông làm Chủ nhiệm đã phân tích lịch sử, nguồn
gốc của chiến lược DBHB và đề cập âm mưu, phương thức, thủ đoạn phá hoại
tư tưởng của đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch đối với nước ta. Các tác giả
5
đã khẳng định, Mỹ và các thế lực thù địch sử dụng báo chí là một phương tiện
quan trọng để phá hoại tư tưởng, chống phá cách mạng nước ta.
Đề tài “Báo chí CAND góp phần đấu tranh với các thế lực thù địch
tuyên truyền phá hoại tư tưởng chống Việt Nam” năm 2003 của PGS.TS Hồ
Trọng Ngũ đã đề cập một số giải pháp của báo chí CAND trong hoạt động
đấu tranh với các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta. Ngoài ra,
một số đề tài như: “Hoạt động phá hoại tư tưởng chống Việt Nam qua báo chí
và giải pháp nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh của cơ quan an ninh” và
“Hội thảo quốc tế tại Việt Nam và những vấn đề đặt ra đối với cơng tác an
ninh trong tình hình mới” năm 2003 của TS Nguyễn Văn Ngọc. Cả hai đề tài
trên đã nêu rõ những hoạt động thâm độc của các thế lực thù địch lợi dụng
phương tiện báo chí để chống Việt Nam và đề cập tới những giải pháp của
cơng tác an ninh.
Dự thảo “Luật Phịng, chống tội phạm mua bán người” (được Quốc hội
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 9 thơng qua
ngày 29-3-2011); Ngồi ra cịn có các báo cáo, cơng trình nghiên cứu; Hội
thảo trong nước và quốc tế...
Tuy nhiên, những đề tài nói trên mới chỉ đề cập ở phương diện chung,
chủ yếu nêu những âm mưu, phương thức, thủ đoạn của các thế lực thù địch
sử dụng báo chí chống Việt Nam. Các đề tài chưa đề cập được đối với cơng
tác đấu tranh phịng, chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em trong tình
hình hiện nay thì báo chí nói chung và báo chí của lực lượng Cơng an nhân
dân cần phải hành động như thế nào? Cần có chủ trương, giải pháp gì để đáp
ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh? Đây là vấn đề mới cần nghiên cứu.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu
Từ việc tìm hiểu những cơ sở lý luận về phòng, chống tội phạm và
tuyên truyền đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em;
6
thực trạng báo chí Cơng an nhân dân với vấn đề phòng, chống tội phạm mua
bán phụ nữ và trẻ em trong những năm gần đây; Dự báo, đề xuất các chủ
trương, giải pháp, kiến nghị để thực hiện tốt vai trị của báo chí Cơng an nhân
với vấn đề phòng, chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu trên, cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
Một là, làm rõ các khái niệm liên quan đến vấn đề phòng, chống tội
phạm mua bán phụ nữ và trẻ em; Tuyên truyền phòng, chống tội phạm mua
bán phụ nữ và trẻ em.
Hai là, phân tích thực trạng tuyên truyền của báo in trong lực lượng
Công an nhân dân (cụ thể là các báo: Báo Cơng an nhân dân, Báo Cơng an TP
Hồ Chí Minh và Tạp chí Cảnh sát phịng chống tội phạm).
Ba là, đưa ra những dự báo và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả cơng tác tun truyền phịng, chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ
em của báo in trong lực lượng Công an nhân dân.
4. Đối tượng và phạm vi
4.1. Đối tượng
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên
quan đến vấn đề báo chí Cơng an nhân dân với việc phòng, chống tội phạm
mua bán phụ nữ và trẻ em; Đánh giá những thành tựu và hạn chế từ đó đề
xuất những dự báo và giải pháp nhằm nâng cao vai trị của báo chí Cơng an
nhân dân với vấn đề phòng, chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em.
4.2. Phạm vi
Báo in Công an nhân dân đề cập đến nhiều nội dung của đời sống chính
trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng...; nhưng luận văn chỉ tập trung đề
cập đến vai trò của báo chí Cơng an nhân dân với vấn đề phịng, chống tội
phạm mua bán phụ nữ và trẻ em.
7
* Về thời gian: Luận văn nghiên cứu các loại hình báo chí Cơng an
nhân dân với vấn đề phịng, chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em trong
thời gian từ năm 2012 cho đến nay, từ đó đề xuất những giải pháp trong giai
đoạn tiếp theo đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp sau đây:
- Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng về báo
chí và báo chí Cơng an nhân dân với vấn đề phòng, chống tội phạm.
- Đề tài được thực hiện bằng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu là
phương pháp phân tích và tổng hợp; Phương pháp tổng kết thực tiễn, điều tra
xã hội học; Phương pháp thống kê để khái quát thực trạng hoạt động của báo
chí Cơng an nhân dân với vấn đề đấu tranh phịng, chống tội phạm mua bán
phụ nữ và trẻ em.
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Danh mục tài liệu tham khảo,
đề tài được cấu trúc thành 3 chương, 7 tiết.
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về tuyên truyền phòng, chống tội
phạm mua bán phụ nữ và trẻ em trên báo in của lực lượng Công an nhân dân.
Chương 2. Thực trạng tuyên truyền phòng, chống mua bán phụ nữ và
trẻ em trên báo in của lực lượng Công an nhân dân.
Chương 3. Những giải pháp và kiến nghị nhằm phát huy vai trị của
báo in trong lực lượng Cơng an nhân dân trong tuyên truyền phòng, chống tội
phạm mua bán phụ nữ và trẻ em.
8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TUYÊN TRUYỀN PHÒNG, CHỐNG
TỘI PHẠM MUA BÁN PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM TRÊN BÁO IN CỦA
LỰC LƯỢNG CÔNG AN NHÂN DÂN
1.1. Tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em; Phòng, chống tội phạm mua
bán phụ nữ và trẻ em
1.1.1. Tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em trong pháp luật Việt Nam
Trong thời gian gần đây, hành vi đưa người nhập cư bất hợp pháp, mua
bán phụ nữ và trẻ em Việt Nam qua biên giới đã và đang diễn biến phức tạp để
lại hậu quả rất nặng nề và nghiêm trọng đối với đời sống xã hội, phong tục, tập
quán, đạo đức xã hội, xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người. Đây là
nhân tố tác động trực tiếp đến an ninh quốc gia và trật tự an tồn xã hội.
Từ xa xưa, ơng cha ta đã quan tâm đến vấn đề mua bán phụ nữ và trẻ
em. Bộ luật Hồng Đức (Quốc Triều Hình Luật) do Vua Lê Thánh Tông ban
hành đã quy định trách nhiệm của các quan lại địa phương phải giúp đỡ
những người có hồn cảnh khó khăn, éo le, trong đó có trẻ em tàn tật hoặc
nghèo khổ, mồ côi không nơi nước tựa; trách nhiệm của dân chúng trong việc
chăm sóc trẻ lạc. Bộ luật này đã có nhiều quy định nhằm bảo vệ phụ nữ và trẻ
em như: Trừng trị những hành vi gian dâm với trẻ em gái, mua bán phụ nữ.
Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa ra đời, Đảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm đến vấn đề bảo vệ phụ nữ và trẻ em. Tư tưởng
này đã được khẳng định trong nội dung của Hiến pháp năm 1946: “Quyền bính
trong nước là của tồn dân, khơng phân biệt nịi giống, gái trai, giàu nghèo...” và
“Đàn bà ngang quyền với đàn ông trên mọi phương diện”. [62, 23].
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, những tư
tưởng tiến bộ về giá trị con người của chế độ ta luôn được coi trọng và phát
9
huy. Pháp luật luôn đề cao và bảo vệ quyền lợi phụ nữ và trẻ em, tạo điều
kiện cho phụ nữ và trẻ em phát triển toàn diện tài năng của mình. Hiến pháp
năm 1992 tiếp tục khẳng định: “Mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật”,
“Cơng dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ
nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ” và “Trẻ em được gia đình, Nhà nước và xã
hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục”.
Hiến pháp là cơ sở để xây dựng các văn bản pháp luật quy định về vấn
đề bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em như Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự,
Luật Hơn nhân và Gia đình, Luật Bảo vệ và Chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ
em, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính... Tuy đối tượng và phương pháp
điều chỉnh khác nhau, nhưng các văn bản pháp luật đều đề cập đến vấn đề
bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em, chống các hành vi xâm hại đến phụ
nữ và trẻ em.
Về mặt lý luận, đến nay vẫn chưa có một định nghĩa chính thức, tồn
diện về hành vi mua bán người hay mua bán phụ nữ và trẻ em trong pháp luật
của Việt Nam. Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định hành vi mua bán phụ nữ
và trẻ em là tội phạm hình sự và quy định các mức độ hình phạt nghiêm khắc
đối với người vi phạm các tội này. Cụ thể quy định tại các điều: Điều 119 quy
định về “Tội phạm mua bán phụ nữ”. Điều 120 quy định về “Tội mua bán,
đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em”.
Hai điều luật trên chưa định nghĩa về hành vi mua bán phụ nữ và trẻ
em. Đến nay mới chỉ có một văn bản pháp lý đề cập đến hành vi mua bán trẻ
em. Đó là Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong các phần
Tội phạm của Bộ luật Hình sự. Theo Nghị quyết này thì hành vi “mua bán trẻ
em” được hiểu là mua hoặc bán trẻ em vì mục đích tư lợi, dù là mua bán đứa
10
trẻ từ kẻ bắt trộm hay mua của chính người có con đem bán. Hành vi mua bán
trẻ em khi biết rõ là đứa trẻ đó bị bắt trộm cũng bị xử lý về tội mua bán trẻ
em. Từ đó, có thể hiểu rằng Mua bán phụ nữ và trẻ em được hiểu chung là
hành vi mua bán phụ nữ và trẻ em từ một người hoặc từ một nhóm người
sang một người hay một nhóm người sang một người hay một nhóm người
khác để đổi lấy tiền bạc hay lợi ích vật chất khác.
Theo pháp luật hình sự hiện hành thì quan niệm về mua bán phụ nữ và
trẻ em không bao gồm các hành vi vận chuyển, chứa chấp và tiếp nhận người.
Mà coi đây là những hành vi tiếp sức và tạo điều kiện cho việc mua bán phụ
nữ và trẻ em. Trong trường hợp những đối tượng bị phát hiện liên quan đến
các hành vi nêu trên thì những đối tượng đó có thể bị truy cứu trách nhiệm
hình sự dưới dạng đồng phạm (Điều 20, Bộ luật Hình sự).
Đối với những cá nhân trong tổ chức chuyên đứng ra làm trung gian
môi giới cho phụ nữ lấy chồng là người nước ngoài (bao gồm người có quốc
tịch nước ngồi, người khơng quốc tịch, người Việt Nam ở nước ngoài) nếu
chứng minh được giữa cá nhân đại diện cho tổ chức trung gian và người nước
ngoài có sự mặc cả, thỏa thuận về giá (tiền, vàng, hiện vật khác) mà người
nước ngoài phải trả dưới bất kỳ hình thức nào thì cá nhân đó cũng là đối
tượng điều chỉnh về hành vi phạm tội mua bán phụ nữ quy định tại Điều 119
Bộ luật Hình sự.
Khi xem xét một người thực hiện các hành vi mua bán phụ nữ, trẻ em
quy định tại Điều 119 và Điều 120, Bộ luật Hình sự đồng thời cũng cần xem
xét những hành vi độc lập, đủ yếu tố cấu thành các phạm tội khác có liên quan
như hành vi xuất nhập cảnh trái phép (Điều 274); Tội tổ chức, cưỡng ép
người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép (Điều 275); Tội
hành hạ người khác (Điều 110); Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều
134).
Bộ luật Hình sự nghiêm cấm việc mua bán trẻ em nhưng chưa đề cập
11
đến bản chất hành vi mua bán trẻ em. Hành vi mua bán trẻ em theo như
hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao chỉ tập trung
vào người bán, kết thúc ở người nhận đứa trẻ đó và địi hỏi phải có sự chứng
minh về tư lợi của người phạm tội. Theo pháp luật Việt Nam thì phạm trù trẻ
em là người dưới 16 tuổi, trong khi đó theo Cơng ước quốc tế về quyền trẻ em
thì trẻ em là người dưới 18 tuổi. Như vậy, người từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi
không được coi là trẻ em nhưng họ chưa phải là người thành niên và do vậy,
họ cũng nhận được sự bảo vệ về mặt pháp lý. Đây là vấn đề ta cần được
nghiên cứu để bổ sung vào Bộ luật Hình sự đối với hành vi mua bán người
nói chung và mua bán người chưa thành niên (người dưới 18 tuổi) nói riêng.
Như vậy, đến nay pháp luật Việt Nam chưa có một định nghĩa tồn
diện về khái niệm mua bán phụ nữ và trẻ em nhưng qua một số quy định cụ
thể trong các văn bản của pháp luật và việc áp dụng pháp luật thì khái niệm
mua bán phụ nữ và trẻ em trong pháp luật Việt Nam có nhiều điểm tương
đồng với khái niệm của Nghị định thư về chống buôn người của Liên hợp
quốc. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu về mặt lý luận đối với
hành vi mua bán phụ nữ và buôn bán trẻ em nhằm thể chế thành chế định
trong pháp luật hình sự; đồng thời làm cơ sở để các cơ quan chức năng nghiên
cứu đề xuất với Chính phủ tham gia ký kết và phê chuẩn thực hiện hai Nghị
định thư nêu trên.
1.1.2. Nguyên nhân của hành vi mua bán phụ nữ và trẻ em
1.1.2.1. Nguyên nhân trong lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Sự phát triển của nền kinh tế, thị trường và q trình hội nhập tồn cầu
đã làm cho đất nước ta đã và đang phải đối mặt với những tác động tiêu cực
phát sinh từ quy luật của nền kinh tế thị trường. Đó là sự gian dối trong các
hoạt động sản xuất kinh doanh, sự phân hóa giàu nghèo, tình trạng khơng có
việc làm, thiếu việc làm, thu nhập thấp của một bộ phận dân cư trong xã hội.
12
Những yếu tố đó đã và đang cản trở rất lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước, góp phần tạo thành nguyên nhân của nhiều loại tội phạm nguy
hiểm, trong đó có tội mua bán phụ nữ và trẻ em ở nước ta.
Lợi nhuận từ việc mua bán phụ nữ và trẻ em rất cao, chỉ sau mua bán
vũ khí và ma túy.
Trình độ dân trí và đời sống văn hóa thấp, tệ nạn xã hội tăng; nhất là tệ
nạn mại dâm ở cửa khẩu, các khu vực giáp biên giới; đồng thời cũng do nhu
cầu tìm vợ của người nước ngồi.
Vị trí địa lý của nước ta giáp với các nước láng giềng với hàng nghìn km
đường biên giới, nhiều đường mịn qua lại, nhiều cửa khẩu; trong khi đó lực
lượng tuần tra kiểm sốt cịn mỏng nên việc tuần tra kiểm sốt rất khó khăn.
1.1.2.2. Nguyên nhân trong phổ biến, giáo dục pháp luật.
Hoạt động giáo dục - đào tạo có vai trị quyết định đến sự phát triển
kinh tế - xã hội và nền văn minh của mỗi quốc gia. Những yếu kém, khiếm
khuyết của hoạt động giáo dục và đào tạo có ảnh hưởng nhất định đến tình
hình tội phạm nói chung; tình hình tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em nói
riêng, được thể hiện ở những phương diện sau:
- Những yếu kém của hoạt động giáo dục và đào tạo như việc phổ cập
giáo dục còn ở bậc thấp, chất lượng đào tạo giáo dục đào tạo chưa cao, chưa
coi trọng đúng mức việc đào tạo nghề… dẫn đến tình trạng nhiều người ở độ
tuổi lao động khơng được đào tạo, trình độ tay nghề thấp, người lao động
khơng đáp ứng được cơng việc nên khơng có việc làm hoặc chỉ làm những
việc đơn giản với thu nhập thấp, dẫn đến việc cuộc sống gặp nhiều khó khăn.
Mà kinh tế chính là nguyên nhân thúc đẩy một số người thực hiện việc mua
bán phụ nữ và trẻ em, họ coi đó là một “nghề” để kiếm sống, kiếm tiền.
- Hoạt động tuyên truyền trong cộng đồng, nhất là tuyên truyền pháp
luật và phòng, chống tội mua bán phụ nữ và trẻ em được triển khai còn chậm,
13
chưa sâu rộng, mạnh mẽ; chưa được thực hiện thường xuyên mà chỉ tiến hành
rầm rộ thành các “phong trào”, “chiến dịch”, các cuộc mít-tinh của các cơ
quan, trường học; chiến dịch đi phát tờ rơi, sổ tay, tranh ảnh… trong một thời
gian ngắn mà chưa tạo thành các nội dung sinh hoạt thường xuyên cho các cơ
quan, trường học, các tổ chức xã hội.
- Đội ngũ cán bộ tuyên truyền viên thiếu kỹ năng; phương thức tổ
chức hoạt động tuyên truyền chưa đa dạng; nội dung tuyên truyền chưa được
lồng ghép với các hoạt động văn hóa - nghệ thuật - thể thao; chưa gắn với
sinh hoạt tập thể có đơng người tham gia nên khơng có sức “lan tỏa” của
hoạt động phòng, chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em; tác dụng giáo
dục tinh thần cảnh giác phòng ngừa cũng như điều tra chống tội mua bán
phụ nữ và trẻ em chưa cao.
1.1.2.3. Nguyên nhân từ các hoạt động quản lý có liên quan.
Trong những năm gần đây, hoạt động quản lý Nhà nước trên các lĩnh
vực luôn được Nhà nước quan tâm đặc biệt. Tuy nhiên, hoạt động này có lúc,
có nơi, có lĩnh vực vẫn còn hạn chế. Những yếu kém, hạn chế trong hoạt động
quản lý có thể là nguyên nhân của nhiều loại tội phạm khác nhau, trong đó có
tội mua bán phụ nữ và trẻ em; làm ảnh hưởng nhất định đến tình hình tội
phạm của tội phạm nói chung và tội mua bán phụ nữ và trẻ em nói riêng.
- Hoạt động quản lý xã hội về an ninh trật tự, quản lý dân cư trong
những năm qua còn nhiều hạn chế, yếu kém. Các cấp chính quyền chưa sâu
sát trong lĩnh vực quản lý địa bàn dân cư, chưa tiến hành thường xuyên các
hoạt động kiểm tra, rà soát cũng như nắm chắc sự biến động dân cư trên địa
bàn. Việc quản lý nhân khẩu, hộ khẩu, việc khai báo tạm trú, tạm vắng chưa
được thực hiện một cách thường xuyên, nghiêm túc và chặt chẽ.
- Việc quản lý biên giới, quản lý hoạt động xuất nhập cảnh còn chưa
chặt chẽ.
14
- Sự khó khăn, hạn chế trong việc quản lý người phạm tội sau khi chấp
hành xong hình phạt.
1.1.2.4. Nguyên nhân do pháp luật và thi hành pháp luật.
- Các quy định do pháp luật liên quan đến hoạt động đấu tranh chống
tội mua bán phụ nữ và trẻ em hiện nay còn rất hạn chế, bất cập. Một số quy
định còn chung chung, thiếu cơ chế đảm bảo thực hiện, cịn nhiều thiếu sót
trong lĩnh vực pháp luật như: kết hơn với người nước ngồi, cho nhận con
ni với người nước ngoài, xuất khẩu lao động…
- Các quy định về việc xử lý hành vi mua bán phụ nữ và trẻ em: hình
phạt chưa đủ răn đe, chưa xứng đáng với mức độ nguy hiểm.
- Việc thi hành pháp luật: số lượng vụ án được điều tra, truy tố được
đưa ra xét xử không nhiều. Nguyên nhân là do khơng có sự phối hợp với cơ
quan chức năng, người bị hại chưa tích cực phối hợp với cơ quan điều tra để
tố cáo tội phạm.
- Việc hợp tác quốc tế trong đấu tranh chống tội mua bán phụ nữ và trẻ
em của nước ta còn chậm và chưa sâu rộng.
1.1.2.5. Nguyên nhân từ phía người phạm tội.
Khi đề cập đến nguyên nhân của tội phạm, các nhà tội phạm học nước
ta mới chỉ chú trọng đến các nguyên nhân từ môi trường sống. Tuy nhiên,
chúng ta cần hiểu rằng tội phạm là hiện tượng có tính cá nhân và xã hội; cho
nên chúng ta cần phải nghiên cứu nghiên cứu từ phía người phạm tội.
Nghiên cứu nguyên nhân từ phía người phạm tội sẽ giúp cho người nghiên
cứu thấy được đặc điểm nào là đặc trưng có ảnh hưởng đến việc thực hiện
tội phạm, từ đó dự đốn được tội phạm xảy ra trong tương lai và sẽ đề xuất
được biện pháp phòng ngừa phù hợp, kịp thời. Nguyên nhân từ phía người
phạm tội có các đặc điểm:
- Nhóm dấu hiệu sinh học của người phạm tội có thể ảnh hưởng đến
việc phạm tội như tuổi, giới tính… Ví dụ như tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ
15
em có tỷ lệ nữ giới rất cao (70%) nên cần tập trung mũi nhọn đấu tranh vào
đối tượng này…
- Nhóm các đặc điểm tâm lý của người phạm tội có thể ảnh hưởng, tác
động nhất định đến việc phạm tội như: mua bán phụ nữ và trẻ em do tính hám
lợi, tính ham ăn chơi, lười lao động và học tập hoặc những sở thích cá nhân
khơng lành mạnh…
- Nhóm các đặc điểm về văn hóa và xã hội, nghề nghiệp có ảnh hưởng
đến việc phạm tội như: trình độ nhận thức kém, nghề nghiệp không ổn định…
- Thủ đoạn của tội phạm ngày càng tinh vi, xảo quyệt, khó phát hiện…
Tóm lại, các yếu tố là nguyên nhân ở trên đều trực tiếp hoặc gián tiếp
thúc đẩy làm phát sinh hành vi phạm tội mua bán phụ nữ và trẻ em hoặc tạo
điều kiện cho người phạm tội dễ dàng thực hiện tội mua bán phụ nữ và trẻ em.
Việc nghiên cứu những nguyên nhân và điều kiện này có ý nghĩa quan trọng
trong việc xác định các biện pháp cụ thể để phòng ngừa tội mua bán phụ nữ
và trẻ em ở Việt Nam trong thời gian tới. Trong số các nguyên nhân dẫn tới
hành vi buôn bán phụ nữ và trẻ em thì một trong những ngun nhân quan
trọng nhất đó là do tình trạng tun truyền, phổ biến pháp luật, về các hành vi,
các vụ việc cũng như mức độ nguy hiểm của hành vi chưa đến được với nhiều
người dân đặc biệt là dân cư ở những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó
khăn, đa số lại có trình độ dân trí thấp, do vậy nhận thức của họ về những vấn
đề này rất yếu kém. Chính điều đó làm cho các đối tượng mua bán phụ nữ và
trẻ em dễ dàng thực hiện hành vi của mình. Do đó, một vấn đề cấp bách được
đặt ra là phải đẩy mạnh tuyên truyền về buôn bán phụ nữ và trẻ em thơng qua
các kênh tun truyền, trong đó đặc biệt là báo chí.
1.1.3. Tác hại của nạn mua bán phụ nữ và trẻ em
Khơng thể thống kê tồn bộ về quy mơ và thực trạng của nạn bn
người, nhưng có sự nhất trí chung là nạn bn người có ảnh hưởng gần như
16
mọi quốc gia trên thế giới. Vấn đề này được xem là vấn đề tồn cầu. Nạn
bn người là một mối đe dọa đa chiều. Thứ nhất nạn buôn người có ảnh
hưởng đối với sức khỏe cộng đồng. Theo báo cáo kết quả của những nghiên
cứu trước cho thấy, 38% các nạn nhân được cứu thoát bị nhiễm HIV/AIDS,
cũng như các bệnh lây truyền qua đường tình dục và bệnh lao, những ảnh
hưởng về mặt sức khỏe: những hành động bạo lực dã man làm gãy xương,
mất khả năng nhận thức và hiếp dâm tập thể. Những biến chứng liên quan đến
việc phá thai, các vấn đề về dạ dày, sút cân, chấy rận, sự phiền muộn dẫn đến
muốn tự sát, nghiện rượu và nghiện ma túy, 95% nạn nhân đã bị tấn công
bằng bạo lực hoặc bị cưỡng bức quan hệ tình dục, và hơn 60% nạn nhân, gặp
phải sự mệt mỏi, có các triệu trứng về thần kinh, các vấn đề về dạ dày, đau
lưng, chảy mủ âm đạo, các bệnh truyền nhiễm phụ khoa. Những hậu quả về
mặt sức khỏe ít rõ ràng hơn của tội bn người vì mục đích tình dục là ung
thư cổ tử cung gây nên bởi virus, là loại bệnh phổ biến hơn ở những phụ nữ
phải quan hệ tình dục với nhiều người đàn ông. Chẳng hạn như, hai nghiên
cứu từ Ấn Độ đã cho thấy tỉ lệ nhiễm HIV ở những em gái làm nghề mại dâm
cao hơn so với những phụ nữ làm nghề này (12,5% so với 5,4% và 27,7% so
với 8,4%). Ảnh hưởng tiếp theo của nạn buôn người là những tổn thất về
người và xã hội do buôn người gây ra. Nạn nhân buôn người phải trả một cái
giá khủng khiếp. Tổn thương về tâm lý và thể chất, bệnh tật rồi phát triển lệch
lạc, và thường là những di chứng vĩnh viễn. Hành vi buôn người vi phạm phổ
biến của con người đó là quyền được sống, quyền tự do và quyền được giải
phóng khỏi mọi hình thức nơ lệ. Bn bán trẻ em vi phạm quyền thiêng liêng
của trẻ em được lớn lên trong một môi trường được bảo vệ và quyền không bị
lạm dụng hay bóc lột dưới bất cứ hình thức nào. Bên cạnh đó, nạn bn người
cũng dẫn đến nguy cơ phá vỡ cấu trúc xã hội: Bn người chia lìa trẻ em với
cha mẹ và gia đình. Lợi nhuận từ việc buôn người khiến cho tệ nạn này bén rễ
17
ở một cộng đồng nhất định và cộng đồng này sau đó lại nhiều lần bị khai thác
như một nguồn cung cấp nạn nhân. Nguy cơ trở thành nạn nhân của bọn bn
người khiến cho các nhóm dễ trở thành nạn nhân như phụ nữ trẻ và trẻ em
phải trốn đi, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc học hành và cơ cấu gia
đình họ. Thất học khiến cơ hội phát triển kinh tế trong tương lai của nạn nhân
giảm đi và làm tăng nguy cơ họ bị tiếp tục bị buôn bán. Những nạn nhân trở
về được với cộng đồng thường bị bêu riếu hoặc tẩy chay. Việc hồi phục từ các
chấn thương, nếu có, cũng phải mất cả đời. Mặt khác, nạn buôn người làm gia
tăng tội phạm có tổ chức: Theo Cục Điều tra Liên bang Hoa Kỳ, việc bn
người có doanh thu hàng năm ước tính lên tới 9,5 tỷ USD. Bn người có liên
hệ chặt chẽ với nạn rửa tiền, buôn ma túy, giả mạo giấy tờ và nhập cư trái
phép. Những nơi mà tội phạm có tổ chức phát triển thì Chính phủ và luật pháp
trở nên yếu kém và mất tác dụng. Tiếp đó, nó làm suy yếu nguồn vốn con
người của các quốc gia và kìm hãm sự phát triển, cùng theo đó là tổn hại đến
sức khỏe con người và làm suy yếu quyền lực của Chính phủ. Cuối cùng, nó
cũng thúc đẩy sự hợp tác giữa các quốc gia trong khu vực ngày càng khăng
khít hơn trong việc chống nạn bn người.
1.1.4. Phịng, chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em
Trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước đã đề
ra nhiều chủ trương, đường lối, chính sách nhằm tăng cường cơng tác đảm
bảo an ninh, trật tự và tạo hành lang pháp lý cho các cơ quan bảo vệ pháp luật
trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đồng thời chỉ đạo ban hành
các văn bản pháp luật, các Chương trình quốc gia về phịng, chống tội phạm,
trong đó có cơng tác đấu tranh phòng, chống các hành vi mua bán phụ nữ và
trẻ em qua biên giới Việt Nam.
Trước tình hình tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới diễn
biến phức tập và có xu hướng gia tăng, ngày 7/11/1994, Thủ tướng Chính phủ
18
ban hành Chỉ thị 646/TTg vì tổ chức hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ ở các
Bộ, ngành, địa phương. Chỉ thị 23/CP ngày 18/4/1996 quy định chi tiết và
hướng dẫn thực hiện một số điều của Bộ luật Lao động về những quy định
riêng đối với lao động nữ.
Để thiết lập cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chun trách trong cơng
tác phịng ngừa, ngăn chặn tình trạng mua bán phụ nữ và trẻ em, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 766/TTg ngày 19/09/1997 về phân công trách
nhiệm thực hiện ngăn chặn việc đưa phụ nữ và trẻ em ra nước ngoài trái phép,
trong đó quy định rõ trách nhiệm của các Bộ, ngành có liên quan. Cụ thể là Bộ
Nội vụ (nay là Bộ Công an), Bộ Ngoại giao, Bộ Lao động - Thương binh & Xã
hội, Bộ Tư pháp, Bộ Thương mại, Tổng cục Du lịch, Bộ Kế hoạch & Đầu tư,
Bộ Tài chính, Bộ Văn hóa - Thể thao & Du lịch. Chỉ thị đã nhấn mạnh về cơng
tác phịng, chống tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em ra nước ngồi, đặc biệt với
mục đích hoạt động mại dâm và cưỡng ép lấy chồng nước ngoài; quy định rõ
trách nhiệm của Bộ Cơng an trong đấu tranh phịng, chống tội phạm mua bán
phụ nữ và trẻ em ra nước ngoài với 6 nhiệm vụ chính sau đây:
- Chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành liên quan (Quốc phòng, Ngoại
giao, Lao động - Thương binh & Xã hội, Tư pháp, Giáo dục - Đào tạo, Ủy
ban Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em (nay là Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em)
và Ủy ban nhân dân các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương nắm chắc
tình hình, thống kê đầy đủ các số liệu về phụ nữ, trẻ em Việt Nam đã bị đưa
trái phép ra nước ngồi (kể cả cho mục đích hoạt động mại dâm hoặc bị
cưỡng ép lấy chồng nước ngoài và số trốn ra nước ngoài).
- Xác định những địa bàn trọng điểm, lực lượng Công an các cấp tăng
cường các biện pháp nghiệp vụ phát hiện, ngăn chặn, triệt phá các tổ chức đưa
phụ nữ, trẻ em ra nước ngoài trái phép. Quản lý chặt chẽ nhân khẩu, hộ khẩu
ở xã, phường, thị trấn, phối hợp chặt chẽ với Trung ương Mặt trận Tổ quốc
19
Việt Nam và các đoàn thể nhân dân phát động phong trào quần chúng tham
gia phòng ngừa, đấu tranh với các cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật hoặc
tạo điều kiện cho tệ nạn này phát triển. Cùng với các ngành liên quan và Ủy
ban nhân dân các địa phương kiểm tra, xóa bỏ các cơ sở mơi giới các dịch vụ
kết hôn, kết bạn với người nước ngoài, xử lý nghiêm những vi phạm của các
cơ sở dịch vụ.
- Kiện toàn tổ chức, tăng cường cán bộ chuyên trách để phát hiện kịp
thời, điều chỉnh nhanh chóng, xử lý nghiêm các tổ chức và cá nhân, trọng
điểm là bọn chủ mưu, cầm đầu đưa trái phép phụ nữ và trẻ em ra nước ngoài
hoạt động mại dâm, hoặc cưỡng ép phụ nữ lấy chồng ra nước ngoài.
- Phối hợp với lực lượng Bộ đội biên phòng tăng cường biện pháp kiểm
soát tại các cửa khẩu biên giới, đấu tranh ngăn chặn hiệu quả việc đưa trái
phép phụ nữ, trẻ em qua biên giới.
- Phối hợp với Tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế - INTERPOL và
Cảnh sát các quốc gia láng giềng như Trung Quốc, Campuchia, Lào để phát
hiện, ngăn chặn, triệt phá các đường dây, tổ chức tội phạm buôn bán phụ nữ
và trẻ em.
- Chủ trì phối hợp với các Bộ: Ngoại giao, Tư pháp, Lao động Thương binh & Xã hội xây dựng Đề án ngăn chặn tội phạm mua bán phụ nữ
và trẻ em, đưa trái phép phụ nữ và trẻ em ra nước ngồi và tái hịa nhập cộng
đồng số phụ nữ và trẻ em bị đưa ra nước ngoài nay đã trở về.
- Phối hợp với các đoàn thể nhân dân trong việc vận động, tranh thủ các
tổ chức phi Chính phủ nước ngồi tham gia giải quyết tình hình.
Ngày 23/1/1998, Thủ tưởng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 6/1998/
CT-TTg về việc tăng cường công tác bảo vệ trẻ em, ngăn ngừa và giải quyết
tình trạng trẻ em lang thang, trẻ em bị lạm dụng sức lao động.
20
Đặc biệt trước tình hình và diễn biến hết sức phức tạp của các loại tội
phạm, ngày 31/7/1998 Chính phủ đã ra Nghị quyết 09/1998/NQ về tăng
cường cơng tác phịng, chống tội phạm trong tình hình mới đã đặt ra mục tiêu:
“Từng bước làm giảm các loại tội phạm có sử dụng bạo lực, đặc biệt là các tội
phạm giết người, cướp tài sản, hiếp dâm, chống người thi hành cơng vụ, các
tội phạm xâm hại trẻ em, bắt cóc và mua bán phụ nữ, trẻ em, lôi kéo trẻ em
vào con đường sử dụng và nghiện hút ma túy, tội phạm chưa thành niên và
các loại tội phạm có tổ chức, có sử dụng vũ khí hoặc có tính chất cơn đồ. Kiên
quyết truy bắt bọn tội phạm cịn lẩn trốn, thực hiện triệt để công tác thi hành
án hình sự”.
Để thực hiện mục tiêu trên, Nghị quyết đã có Đề án: “Đấu tranh phịng,
chống các loại tội phạm xâm hại trẻ em, tội phạm trong lứa tuổi vị thành niên.
Tập trung vào việc ngăn chặn, phòng, chống các tội phậm xâm hại trẻ em,
hiếp dâm trẻ em, cưỡng dâm trẻ em, tổ chức mại dâm trẻ em, tổ chức cho trẻ
em dùng chất ma túy. Ngăn chặn, phòng chống tình trạng người chưa thành
niên phạm tội trong nhà trường và ngoài xã hội”.
Nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết 09/1998/NQ, ngày 31/7/1998
Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 138/1998/QĐ-TTg về việc phê
duyệt Chương trình quốc gia phịng, chống tội phạm trong đó có quy định một
trong những nội dung trọng tâm của Chương trình là “Đấu tranh chống các
loại tội phạm có tổ chức…, các tội hiếp dâm trẻ em, bắt cóc và mua bán phụ
nữ và trẻ em”.
Trên tinh thần đó, Đề án 3 của Chương trình đã quy định đối tượng đấu
tranh là tội phạm có tổ chức, tội phạm hình sự nguy hiểm và tội phạm có tính
quốc tế. Trong đó tập trung đấu tranh chống các hoạt động “…Bảo kê các nhà
hàng, vũ trường, khách sạn… tổ chức hoạt động mại dâm; đấu tranh chống tội
phạm hiếp dâm, buôn bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới”.
21
Ngày 31/5/1999, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
134/1999/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chương trình hành động bảo vệ trẻ em
có hồn cảnh đặc biệt giai đoạn 1999-2002.
Nghị định 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 quy định chi tiết thi hành
một số điều chỉnh của Luật Hơn nhân và Gia đình về quan hệ hơn nhân và gia
đình có yếu tố nước ngoài, các văn bản quy định và hướng dẫn về xuất khẩu
lao động, tu nghiệp sinh… đều có các quy định đầy đủ và chặt chẽ về cả hình
thức và nội dung nhằm bảo vệ tốt nhất quyền lợi của phụ nữ và trẻ em.
Ngày 14/7/2004, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
130/2004/QĐ-TTg phê duyệt chương trình hành động phịng, chống bn bán
phụ nữ và trẻ em từ năm 2004 đến năm 2010. Quan điểm chỉ đạo là:
- Phòng, chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em là vấn đề mang tính
xã hội cao phải đặt trong mối quan hệ giữa phòng, chống tội phạm với giải
quyết các vấn đề kinh tế - xã hội, dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự
quản lý thống nhất của chính quyền, huy động sự tham gia của các ngành,
đồn thể và tồn xã hội.
- Lấy phịng ngừa là chính; kết hợp chặt chẽ giữa phịng ngừa với đấu
tranh xử lý tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em và tái hòa nhập cộng đồng cho
nạn nhân phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước và luật pháp quốc tế.
Mục tiêu tổng quát của Chương trình là tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về
nhận thức và hành động trong các cấp các ngành, đồn thể và tồn xã hội về
cơng tác phịng, chống mua bán phụ nữ và trẻ em nhằm phòng ngừa, ngăn
chặn và giảm cơ bản vào năm 2020 tình trạng phụ nữ và trẻ em bị buôn bán.
Về mục tiêu cụ thể từ năm 2004-2006:
- Nâng cao nhận thức, hiểu biết của cộng đồng về thủ đoạn, nguyên
nhân, hậu quả của tệ nạn mua bán phụ nữ và trẻ em; nâng cao ý thức tôn trọng